THIỀN
SƯ CƯU-MA-LA-THẬP
(KUMARAJIVA) và PHÁP ĐẠI THỪA
Trần Chung Ngọc
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thường được gọi ngắn
gọn là Kinh Pháp Hoa, là bộ Kinh Đại Thừa quan trọng và nổi tiếng
của Phật Giáo, vì chủ yếu của Kinh khẳng định, qua cái thấy biết
của Đức Phật, sự kiện là mọi người chúng ta, ai cũng có thể
thành Phật, và chủ mãn của Kinh không ngoài cái hoài bão của
Đức Phật khi thành Đạo; bày tỏ cho chúng sinh thấy, nhận và nhập
vào cái thấy, biết của Phật.
Kinh nguyên bản bằng tiếng Phạn. Có ít nhất là ba
bản dịch sang tiếng Trung Hoa, nhưng chỉ có bản dịch của Thiền sư
Kamarajiva (Cưu-Ma-La-Thập) là được truyền tụng rộng rãi. Thượng
tọa Thích Trí Tịnh đã dựa vào bản này để dịch sang tiếng Việt.
Tiểu sử của Thiền sư Kumarajiva rất đặc biệt. Chúng ta có thể rút
tỉa nhiều điều hay trong đó. Cho nên, trước hết tôi xin tóm lược
tiểu sử của Ngài để cống hiến quý độc giả, tưởng không phải
là chuyện vô ích.
Kumarajiva sinh năm 344. Cha là Kumarayana, con một viên
chức cao cấp Ấn Độ. Vì mộ đạo nên Kumarayana từ bỏ đời sống
gia đình tìm thầy học đạo, chẳng bao lâu nổi tiếng và được mọi
người kính trọng. Khi đi tới Kucha, một nước ở vùng Trung Á
khoảng giữa Ấn Độ và Trung Hoa, Vua nước này ra tận biên giới
đón và mời làm Quốc Sư. Vua có người em gái trẻ đẹp tên là
Jiva, tuổi vừa đôi mươi. Từ nhỏ Jiva đã nổi tiếng thông minh.
Lớn lên nàng không để mắt tới chàng trai nào trong nước, nhưng
khi gặp Kumarayana, nàng cảm thấy yêu ngay, và thầm mong ước lấy
Kumarayana. Vua biết ý, ngỏ lời gả Jiva cho Kumarayana. Kumarayana không
từ chối.
Ít lâu sau Jiva thụ thai. Trước đó, Jiva thường tới
chùa trong vùng nghe các cao Tăng thuyết pháp tuy nàng không hiểu mấy.
Nhưng từ khi có mang Kumarajiva tự nhiên nàng thông hiểu Phật Pháp
và trí tuệ mở mang nhanh chóng. Một vị A-La-Hán đương thời nhận
xét : đứa con trong bụng Jiva không phải là một đứa trẻ thường,
mà sẽ là một bậc đại trí, có thể sẽ giống như Xá Lợi Tử,
đệ tử đại trí của Đức Phật. (Trường hợp này tương tự như
trường hợp của bà mẹ Xá Lợi Tử : khi có mang Xá Lợi Tử,
bà luôn luôn thắng trong những cuộc tranh luận Phật Pháp cùng
người anh, mặc dầu trước đó lần nào cũng thua. TCN).
Sanh Kumarajiva được ít lâu, bà Jiva ngỏ ý muốn xuất
gia, nhưng Kamarayana không ưng thuận. Vài năm sau, bà sanh thêm một trai.
Khi Kumarajiva 7 tuổi, và đã từ lâu thấu hiểu những chân lý về
khổ, vô ngã, vô thường và tánh Không của vạn Pháp, bà Jiva
quyết định từ bỏ đời sống gia đình. Kumarayana trước cũng có ý
định đi tu, nhưng từ khi được vợ đẹp, chức cao, nên bỏ ý định
trên. Không những thế, ông còn ngăn cản ý muốn tu hành của vợ.
Bà Jiva bèn lập nguyện : nếu không được đi tu thì chết, và bà
bắt đầu tuyệt thực. Mới đầu, Kumarayana không để ý, nhưng khi
thấy vợ quá yếu sau 6 ngày nhịn ăn, ông hứa : "muốn xuất gia
cũng được, nhưng hãy ăn để phục hồi sức khỏe đã". Sợ
chồng lại đổi ý, bà Jiva nói : "Hãy mời Pháp Sư đến xuống
tóc cho bà trước". Không biết làm sao, Kumarayana đành phải mời
vị Phương trượng của Chùa mà Jiva thường tới nghe thuyết pháp
đến thế phát cho bà. Toại nguyện rồi, bà Jiva chuyên tâm tu học
Phật Pháp với tấm lòng chân thành, chẳng bao lâu sau đắc quả
A-La-Hán. Vì là em Vua nên bà được nhiều người cúng dường đầy
đủ mọi vật. Không muốn sống trong tiện nghi vật chất, thành tâm
trau dồi Phật Pháp, bà dắt Kumarajiva lang thang hành đạo, dù chồng
bà không đồng ý. Bà thường dẫn con đến chùa nghe Pháp và lễ
Phật. Tuy mới 7 tuổi, Kumarajiva thấy mọi người thắp hương lễ Phật
cũng thắp hương lễ Phật. Năm Kumarajiva 9 tuổi, bà Jiva đưa con đến
học đạo với một Pháp Sư theo Tiểu Thừa (Phật Giáo Nguyên Thủy)
nổi tiếng tên là Bandhudatta. Kumarajiva học rất chăm, buổi sáng học
và chép Kinh, buổi chiều tụng lại theo trí nhớ những Kinh chép buổi
sáng.
Năm Kumarajiva 12 tuổi, hai mẹ con trở về Kucha. Khi qua
miền núi phía Bắc Kusan, một vị A-La-Hán xem tướng Kumarajiva và nói :
"Hãy săn sóc chàng Sa-Di này cẩn thận; nếu tới 35 tuổi mà
hắn không phá giới thì hắn sẽ hoằng dương Chánh Pháp, cứu độ
vô số chúng sinh như Tứ Tổ Upagupta bên Ấn Độ". Trên đường
về, hai mẹ con ngừng ở Kashgar, trong một ngôi Chùa. Tại đây,
Kumarajiva được Phương trượng giảng Pháp và ngộ được ý Vạn
Pháp Qui Nhất, mọi sự vật đều do sự biến hiện của Tâm. Kumarajiva
ở lại Kashgar để học về luận A-Tỳ-Đạt-Ma, và cũng chính tại
đây Kumarajiva được tiếp xúc với Giáo Pháp Đại Thừa và nhận
thức được rằng : Tuy Tiểu Thừa tuyệt diệu nhưng Đại Thừa lại
là cái tuyệt diệu trong các tuyệt diệu.
Vua xứ Kucha phái sứ giả đến triệu hồi hai mẹ con
bà Jiva trở về Kucha. Năm 20 tuổi, Kumarajiva chính thức làm lễ xuất
gia trong cung Vua và học đạo với Vimalaksha, một vị cao Tăng nổi tiếng
về hạnh giữa giới luật, từ Kashmir tới. Trước khi đi Ấn Độ
để được ấn chứng đắc quả A-La-Hán bậc ba (Bất hồi). Bà Jiva
thấy con có duyên với Trung Hoa nên nói : "Giáo Pháp Phương
Đẳng (nối Tiểu Thừa với Đại Thừa) rất thâm thúy, cần được
truyền bá rộng rãi ở Trung Hoa. Con có khả năng làm việc đó,
nhưng cá nhân con sẽ không được gì. Con nghĩ sao ?" Kumarajiva trả
lời : "Hạnh nguyện của Bồ Tát là quên mình, lợi người. Nếu
con có thể truyền đạo giác ngộ chúng sanh thì dù phải nhảy vào
vạc dầu con cũng không ngại".
Kumarajiva ở Kucha hai năm, chú tâm học hành các Kinh
Đại Thừa. Vua xứ Kucha, nguyên là bác của Kumarajiva, cho làm một
cái ngai sư tử bằng vàng để Kumarajiva ngồi thuyết pháp. Nhưng
Kumarajiva lại cố ý muốn rời Kucha, vì muốn truyền Pháp Đại Thừa
cho thầy cũ của mình là Bandhudatta. Điều này làm Vua phật ý vì cho
rằng Kumarajiva không đáp lại sự đãi ngộ của Vua. Tình cờ,
Bandhudatta đến biên giới xứ Kucha. Vua và Kumarajiva ra tận nơi đón.
Vua hỏi : "Vì duyên cớ gì mà Ngài từ nơi xa xôi tới đây
?" Bandhudatta đáp : "Trước hết, bần tăng nghe tin đệ tử
của bần tăng đã đại giác; thứ đến, bần Tăng nghe tin bệ hạ
tích cực hoằng dương Đạo Pháp nên bần Tăng muốn được yết
kiến".
Kumarajiva rất vui mừng được gặp thầy cũ, bèn
thuyết Pháp Đại Thừa cho thầy nghe. Nghe xong, Bandhudatta hỏi : "So
với Tiểu Thừa thì Đại Thừa có lợi ích đặc biệt gì ?"
Kumarajiva đáp : "Đại Thừa chủ trương vạn Pháp đều Không,
Tiểu Thừa còn chấp vào danh tướng". Bandhudatta bác : "Đại
Thừa nói về Không, nhưng Không chỉ là Không, Không có gì cả. Nếu
mọi vật đều Không thì học cái Không để làm gì ?". Kumarajiva
giảng : "Trong cái Không có cái Có, trong Chân Không có Diệu
Hữu, trong Diệu Hữu có Chân Không. Đại Thừa là Giáo Pháp rốt
ráo, không như Tiểu Thừa bó buộc trong khuôn khổ danh tự vì vậy
mà không dẫn tới giải thoát hoàn toàn". Bandhudatta nói : "Ta
có một thí dụ về cái Không của Đại Thừa : Một người điên
yêu cầu người thợ dệt, dệt cho một tấm lụa. Người điên chê
tấm lụa thứ nhất không được tinh xảo, chê tấm lụa thứ hai vẫn
còn thô, và tiếp tục chê đến khi người thợ dệt chịu không
nổi, đến với tay không, dang hai tay và nói : "Đây là tấm lụa
tinh xảo nhất". Người điên nói : "Nhưng chẳng có gì trong
đó cả". Thợ dệt nói : "Tấm lụa này tinh xảo đến chính
tôi là thợ dệt khéo mà cũng không nhìn thấy nó". Người
điên hài lòng và hậu đãi người thợ dệt. Nhiều thợ dệt khác
bắt chước lừa người điên lấy tiền. Giáo Pháp Đại Thừa cũng
vậy : Ngươi nói trong cái Không có cái Có, nhưng chẳng ai thấy cái
Có đó ở đâu cả". Kamarajiva đáp : "Không phải vậy, không
phải vậy". Và tiếp tục giảng về cái Không và Diệu Hữu trong
Chân Không, hơn một tháng sau mới thuyết phục được Bandhudatta. Sau
cùng Bandhudatta nói : "Ta muốn lễ ngươi làm thầy". Kamarajiva
đáp : "Ngài làm thế sao được. Đệ tử đã lễ thầy làm
thầy rồi, sao thầy có thể lễ đệ tử làm thầy được".
Bandhudatta nói : "Vấn đề đó không đáng để ý". Ta là
thầy Tiểu Thừa của ngươi, ngươi là thầy Đại Thừa của ta. Như
vậy cả hai đều có Tiểu Thừa và Đại Thừa để theo". Kamarajiva
bèn nhận Bandhudatta làm đệ tử.
Danh tiếng Kamarajiva càng ngày càng nổi. Năm 384 Ngài
được mời tới Trung Hoa, ở tại miền Bắc nước này hoằng dương
đạo Pháp. Năm 402 Vua mời Ngài về kinh đô Tràng An và phong chức
Quốc Sư. Ngày ngày, hàng ngàn tăng ni tới nghe Ngài thuyết Pháp.
Trong hơn 10 năm ở Tràng An, Ngài dịch 72 tác phẩm Phật Giáo từ
tiếng Phạn sang tiếng Trung Hoa. Năm 413, Ngài tịch, thọ 69 tuổi.
Trên đây là sơ lược tiểu sử Kamarajiva, vị cao Tăng
có công dịch rất nhiều Kinh điển Phật Giáo sang tiếng Trung Hoa, nhờ
đó mà Việt Nam chúng ta cũng gián tiếp được hưởng cái gia tài
quý báu trên. Đọc tiểu sử Ngài, chúng ta có thể rút tỉa vài
điều như sau :
Như được viết trong Kinh 42 Chương : "Rất khó bố
thí khi nghèo, rất khó học Đạo khi giàu". Cha của Kamarajiva
trước đã có ý định xuất gia tu hành, nhưng khi được vợ đẹp,
chức cao, bèn quên hết cả. Điều này cho thấy, không phải ai cũng
có thể tu hành. Chỉ những người có căn trí đặc biệt mới có
thể theo được con đường "tri hành hợp nhất". Biết mà
không thực hành được cũng không biết vì tất cả chỉ là cái
biết vay mượn. Những ai tự cho mình biết nhiều về Phật Giáo hãy
tự đặt cho mình một câu hỏi : "Trả lại cái biết của ta cho
sách vở, tai nghe, mắt thấy, ta còn lại cái gì ?". Ngoài ra, nếu
hàng cư sĩ chúng ta có thấy vị tu sĩ nào phá giới vì không cưỡng
được những sự cám dỗ vật chất ở ngoài đời thì cũng đừng
nên khó chịu vì đó là thế gian thường tình. Nhưng điều này không
có nghĩa là chúng ta chấp nhận và dung dưỡng những tác phong trái
ngược với tiêu chuẩn tu hành của các tu sĩ trong Phật Giáo. Chúng
ta đều biết, trong Phật Giáo vấn đề tác phong đạo đức, giới
hạnh của các tu sĩ đứng hàng đầu. Vai trò hộ Pháp của giới cư
sĩ bao gồm nhiều phương diện đặc biệt là giúp phương tiện vật
chất để các bậc tu hành yên tâm tu hành Chánh Quả. Nhưng nếu bậc
tu hành nào lại chìm đắm trong những cám dỗ vật chất thì bổn
phận của hàng cư sĩ là phải khuyến cáo và tìm biện pháp chấm
dứt sự chìm đắm ấy. Không ai có thể chê cười những người
vì lý do này hay lý do khác, hoàn tục sống một cuộc đời bình
thường. Nhưng không ai có thể chấp nhận và dung dưỡng những
người tu hành mà tác phong và đạo đức tôn giáo trái ngược
với giới hạnh của đoàn thể Tăng Già. Kinh Pháp Cú, câu 9, nói
rõ rằng : "Mặc áo cà sa mà không rời bỏ những điều uế
trược (tham dục), không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn
hơn".
Jiva quả là một bà mẹ tuyệt vời, có ảnh hưởng
không ít trên thành quả của Kamarajiva. Bà tu tập với tấm lòng
chân thành và cương quyết, những điều kiện tất yếu để đạt
được kết quả trong vấn đề tu tập. Đây chính là cái cũng trong
Phật Giáo.
Kamarajiva tuy thông minh nhưng cũng học Phật rất chăm.
Điều này cho thấy trí thông minh cùng với sự chăm chỉ sẽ đưa
tới thành công trong bất cứ lãnh vực nào, không chỉ giới hạn
trong việc học Phật.
Tứ Tổ Upagupta tu tập trong một hang đá, nhưng người
đến học Đạo rất đông. Mỗi khi độ được một người, Ngài lại
bẻ một que tre để trong hang. Về sau hang có đầy những que tre chứng
tỏ Ngài đã độ được vô số người. Điều này chứng tỏ
những ngôi Chùa nguy nga tráng lệ không hẳn là điều kiện tất yếu
để truyền bá Đạo Pháp hoặc độ chúng sanh.
Hiển nhiên người xưa coi cái Ta rất nhẹ, và sự
hiểu biết của các bậc cao Tăng là sự hiểu biết chân thực.
Người xưa coi Đạo làm thầy, gặp Đạo cao hơn là có thể cúi lạy
làm thầy và không hề quan tâm đến chức tước, địa vị. Nếu
không, Bandhudatta không bao giờ lại tôn để tử làm thầy Đại
Thừa của mình.
Đọc tiểu sử Kamarajiva, có môt điểm cần phải triển
khai. Nếu không, vấn đề không được rõ ràng. Tôi chắc rằng, sẽ
có nhiều người thắc mắc : "Kamarajiva giảng thuyết những gì mà
mãi hơn một tháng sau mới thuyết phục thầy cũ là Bandhudatta theo
Đại Thừa ?". Tôi phải nói ngay là tôi không đủ khả năng
để giải đáp thỏa đáng thắc mắc này, vì đọc tiểu sử của Tam
Tạng Pháp Sư Kamarajiva tôi chỉ biết tổng quát như trên chứ không
biết thêm chi tiết nào khác. Tuy nhiên, ít ra, chúng ta cũng có thể
biết chắc được rằng, Kamarajiva đã thuyết giảng những Kinh Đại
Thừa và chủ đề giảng thuyết của Kamarajiva cho Bandhudatta là CHÂN
KHÔNG DIỆU HỮU, nền tảng của tất cả tư tưởng Đại Thừa. Theo
ý tôi, thời gian hơn một tháng không phải mới có thể lãnh hội
được tinh yếu của tư tưởng Chân Không Diệu Hữu trong một thời
gian ngắn như thế. Sau đây, tôi xin mạo muội khai triển chủ đề này
để chúng ta cùng nhau học hỏi một giáo thuyết có thể nói là cao
siêu, khúc mắc nhất của Phật Giáo.
Tư tưởng Chân Không Diệu Hữu bắt nguồn từ Kinh
Bát Nhã, bộ Kinh tối cổ và căn bản của Đại Thừa, và sau đó,
các Kinh, Luận như Hoa Nghiêm, Thủ Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Duy Ma Cật,
Đại Thừa Khởi Tín v.v... đều dần dần khai triển phương diện Diệu
Hữu trong Chân Không.
Muốn tìm hiểu quan niệm Chân Không Diệu Hữu trước
hết chúng ta cần hiểu thế nào là Chân Không trong Phật Giáo, rồi
từ đó tiến đến việc tìm hiểu cái Có trong cái Không là thuật
ngữ Phật Giáo gọi là Diệu Hữu trong Chân Không. Quan niệm trên
có thể tóm tắt như sau :
"Hành giả phải tu tập để có được trí tuệ
Bát Nhã, nghĩa là trí tuệ đưa tới sự nhận thức sâu sắc về
thực tướng của mọi sự sự vật vật. Thực tướng của mọi sự
vật chính là tính Không, và sự thấu suốt tính Không này (do học
Đạo) sẽ tạo thành một sức sinh hoạt, hoạt động tự do, không bị
ngăn ngại (để hành Đạo)".
Đây là lập trường Chân Không Diệu Hữu của Kinh
Bát Nhã.
Tìm hiểu quan niệm về Chân Không hay tính Không trong
Phật Giáo, chúng ta vấp phải một trở ngại. Đó là : Thấy được
Tính Không của mọi sự vật thì tương đương với thấy được Phật
Tánh. Nhưng Phật Tánh thì chỉ có thể thực chứng chứ không thể
nghĩ bàn, do đó, người ta không thể định nghĩ Tính Không, bởi vì
làm như thế là đặt Tính Không vào một giới hạn, trong khi thực
thể của Không siêu việt mọi ngôn ngữ, giới hạn. Tuy nhiên thể
định nghĩa được Tính Không, nhưng các vị cao Tăng đắc Đạo (đã
thực chứng được Tính Không của mọi sự vật), vì muốn dẫn dắt
chúng sanh trên con đường giải thoát (chuyển cái Không thành cái
Có kỳ diệu), đã bắt buộc phải dùng ngôn ngữ tư thông thường
để mô tả phần nào Tính Không. Trong phương diện mô tả này, tuy
không thể khẳng định thế nào là Không, nhưng chúng ta có thể
khẳng định những gì không phải là Không.
"Không" trong Phật Giáo không có nghĩa là
không có thực, thí dụ như lông rùa, sừng thỏ.
"Không" cũng không phải là "không
vắng" hay hủy diệt, nghĩa là trống rỗng hay trước có bây giờ
không còn nữa, thí dụ như : trong phòng này trước có nhiều đồ
đạc bây giờ trống trơn, không có gì, hay ông A, bà B, trước sống
nay chết đi rồi, không còn nữa.
Vậy thì Phật Giáo muốn nói gì khi bảo mọi sự vật
là "Không" ?. Tôi xin đưa ra đây vài lối giải thích nhưng
sẽ không đi vào lý luận chi tiết để giải thích những lời giải
thích ấy.
Vì mọi sự vật luôn luôn thay đổi, ngay cả trong
khoảng thời gian ngắn nhất mà chúng ta có thể tưởng tượng
được, nên chúng là Không. Ở đây, Không đồng nghĩa với quan
niệm "Vô Thường" trong Phật Giáo Nguyên Thủy.
Vì mọi sự vật đều do duyên sinh nên chúng là
Không. Không ở đây có nghĩa là không có tự tính, nghĩa là tính
tự túc, tự tồn tại, độc lập, không tùy thuộc vào bất cứ
cái gì khác. Không có tự tính trong Kinh Bát Nhã chỉ là sự mở
rộng của thuyết "Vô Ngã" trong Phật Giáo Nguyên Thủy.
Vì thế giới Ta Bà chỉ là tổng thể của Cộng Nghiệp
và là dự phóng của Tâm, chịu theo luật biến hiện nên mọi sự
vật là Không. Đây là luận cứ của Duy Thức Tông theo đó mọi
vật chỉ hiện hữu đối với những sinh vật sống trong cùng một
cảnh giới, danh từ khoa học gọi là có cùng tần số giao cảm (do
cộng nghiệp).
Những lời giải thích trên chỉ cho chúng ta một ý
niệm khái quát về tại sao mọi sự vật là Không chứ không cho
chúng ta biết cái Không là gì. Cho nên chúng ta không thể chấp vào
cái Không này mà coi Không như là một cái gì đó, bằng cách nào
đó, xuất hiện ở đâu đó. Nói một cách khác, chúng ta phải phủ
nhận ngay cả chính cái Không này, vì nếu chúng ta nhận rằng có cái
Không, chúng ta đã tự mâu thuẫn với chính những điều giải thích
trên về tính Không. Chính cái Không của Không này mới tương
đương với chân lý chung cùng của mọi sự sự vật vật. Đây
chính là quan niệm Chân Không Tuyệt Đối, sự siêu việt rốt ráo,
vượt khỏi mọi Pháp và mọi ý niệm mà Phật Giáo thường cho là
: không thể nói ra hay không thể nghĩ bàn (bất khả thuyết hay bất
khả tư nghị : Kinh Duy Ma).
Một câu hỏi được đặt ra là : nếu Không không
thể nghĩ bàn thì cái Có ở đâu ra mà gọi là Diệu Hữu ? Đây
có lẽ là điểm khó hiểu và khúc mắc nhất trong thuyết Chân Không
Diệu Hữu của Phật Giáo. Bởi lẽ, theo nguyên tắc, hành giả phải
thực chứng được cái Có gọi là Diệu Hữu. Tuy nhienâ, chúng ta
cũng có nhiều cách lý luận để trình bày quan niệm Diệu Hữu trong
Chân Không.
Lý luận theo khoa học, chúng ta có thể nói rằng :
Diệu Hữu ở ngay trong Chân Không và chưa bao giờ rời các Không.
Thật vậy, hai phủ định liên tiếp cho ra một xác định : Vì chính cái
Không cũng là Không nên Không Không trở thành Có.
Theo triết lý về Nhị Đế của Bồ Tát Long Thọ thì :
Chính vì Không mà mọi sự vật (Vạn Pháp) có thể thành lập
được. Điều này có nghĩa là : Vì mọi vật là Không nên chúng
mới có thể hiện hữu. Bởi lẽ, nếu chúng không phải là Không,
nghĩa là có tự tính, tính cố định, độc lập v.v... thì không thể
có bất cứ sự thay đổi nào, không có gì có thể sinh ra, không
có gì có thể tiến bộ, mọi cố gắng sẽ trở nên vô ích. Do đó,
quan niệm Chân Không của Bát Nhã là kết quả của sự quán chiếu
Đệ Nhất Nghĩa Đế (Chân Đế) và được coi là chân lý chung cùng.
Nhưng chính cái Không cùng là Không rồi, vậy thì trở lại cái thế
giới giả danh (Tục Đế) để diệu hữu hóa nó, nghĩa là nắm giữ
được Chân Đế nhưng không quên sự hiện hữu của Tục Đế. Và
đây chính là Trung Đạo.
Những lý luận triết lý như trên thường là trừu
tượng, khó hiểu. Để bạn đọc có một khái niệm về một khía
cạnh nào đó của Chân Không Diệu Hữu tôi xin lược kê vào sắc
thái của Chân Không Diệu Hữu :
Chân Không là tất cả mọi sự sự vật vật đều
không có tự tính, Diệu Hữu là sự tồn tại của Vạn Pháp dù
vạn Pháp đó không có tự tính.
Chân Không là kết luận của vọng tâm duyên sinh quan.
Diệu Hữu là cảnh giới đã diệt trừ vọng tâm, làm sáng tỏ
thể tướng của tịnh tâm.
Chân Không là : Trên cầu đạo Bồ Đề (Kinh Pháp Hoa :
Thường Bất Khinh Bồ Tát, Dược Vương Bồ Tát), Diệu Hữu là :
Dưới hóa độ chúng sanh (Kinh Pháp Hoa : Quán Thế Âm Bồ Tát).
Kinh Duy Cật : Tìm Đạo Giác Ngộ (Chân Không) ngay trong
phiền não (Diệu Hữu).
Đạo Bồ Tát chủ yếu lấy sinh hoạt tại gia (Diệu
Hữu) làm cơ sở tu hạnh Bồ Đề (Chân Không).
Lục Độ Ba La Mật là phương tiện đi tới Trí Tuệ
Bát Nhã (Chân Không), và là yếu tố không thể thiếu để tạo
thành thế giới (Diệu Hữu).
Bát Nhã xây dựng trên cơ sở Tâm Vô Sở Đắc
(Chân Không) để hoàn thành các việc đạo đức xã hội (Diệu
Hữu).
Tôi đã viết khá nhiều về Chân Không Diệu Hữu mà
thực ra là không viết gì cả. Bởi vì, cốt lủy của tư tưởng
Chân Không Diệu Hữu trong Phật Giáo không phải là những lý luận
vẩn vơ thuần trí thức. Then chốt của vấn đề là những quan niệm,
triết lý hay chủ thuyết mà là những đề tài Thiền Quán, có mục
đích giải thoát con người khỏi sự chấp về một ngã thể giải
tưởng, nguồn gốc của những tham muốn đưa tới sự khổ đau và
hoang mang. Chỉ khi nào chúng ta nhận thức được đời sống thật là
diệu dụng tuy bản thể của nó là Không chúng ta mới có thể tự
do hành động theo những chiều hướng phục vụ chúng sanh, tôi cho
rằng đây chính là mục đích hoạt động của Giao Điểm. Mong rằng
mọi hoạt động của Phật tử chúng ta đều hướng theo mục đích
này nhắm tới sự hỗ trợ cho niềm tin là : sau cùng mọi người
trên thế gian này đều sống trong cảnh an lạc và hạnh phúc./.