Hồi
đó là tuần lễ đầu tiên của tháng 8, năm 1965, sau khi học xong khóa hè,
tôi dự bị sẽ đi California từ Nữu Ước bằng xe hơi. Ngày ấy tôi mới 20
tuổi và sang tháng 9 là tôi sẽ vào năm thứ tư Đại học Brooklyn. Tôi muốn
đến thăm một người bạn. Anh ta đang ở San Francisco mùa hè ấy. Tôi cũng
đã thu xếp để đi theo mấy người bạn. Chúng tôi khởi hành từ một quán ăn
nhỏ gần Đại học Brooklyn vào một buổi sáng thứ Hai, và sau khi lái xe cả
ngày trên đường, chúng tôi dừng lại ở Madison, Wisconsin, để ngủ đêm nhờ
nhà một người bạn đồng hành.
Đấy là lần đầu tiên tôi
được đi qua phía Tây của dãy núi Pocono, điều đó làm tôi rất thích thú.
Sau một đêm ngủ khỏe, sáng hôm sau, tôi quyết định đi bộ một lúc. Đó là
một buổi sáng nắng ấm. Tôi thả bước qua những phố vắng để đến một cái hồ
lớn rất đẹp nằm cạnh Đại học Wisconsin. Đi theo đường đất vào phía
trong, tôi tiến vào khuôn viên của trường Đại học. Tôi đang vào trung
tâm khuôn viên thì một sự việc rất đáng ngạc nhiên đã xẩy ra. Ở tầm mắt
bên phải của tôi, cánh cửa ra vào tòa nhà bằng đá bỗng nhiên mở ra và
một người đàn ông trung niên, nét mặt miền Đông Á, mặc áo dài rộng mầu
vàng, bước ra. Theo ngay sau là một người Mỹ cao lớn bước theo bắt kịp
vị đàn ông đó và hai người sánh vai vừa đi vừa nói chuyện.
Ngay lập tức, tôi biết là
tôi đang thấy một nhà sư. Tôi chưa bao giờ gặp một nhà sư nào, và hồi
ấy, ở Hoa Kỳ số nhà sư thực sự có thể đếm trên đầu ngón tay của một bàn
tay. Mấy tháng trước, tôi đã bắt đầu đọc về đạo Phật, và qua cuốn sách “Siddhartha”
của Hermann Hesse, tôi đã biết là các nhà sư đều mặc áo mầu vàng nghệ..
Do đó, tôi nhận ra ngay con người tôi trông thấy là một Tỳ Kheo. Tôi cảm
thấy rất ngạc nhiên và khích động khi thấy vẻ bình thản và tự tại của
con người ấy, đang toát ra một sự thư thái, sự mãn nguyện của nội tâm,
cùng vẻ trang nghiêm mà tôi chưa từng thấy ở một người Tây phương nào.
Người Hoa kỳ đi bên cạnh, dường như một là vị giáo sư, có vẻ như rất
kính trọng và nể nang người đó. Điều đó khiến tôi nghĩ rằng ông ấy
không phải là một ông sư bình thường mà là một người có một vị thế cao.
Chỉ nhìn ông ta đi qua, tôi đã cảm thấy biết bao thích thú và hạnh phúc.
Tôi nghỉ tình cảm của tôi lúc ấy cũng như tình cảm của một thanh niên Bà
La Môn xứ Ấn Độ ngày xưa, khi anh ta ngước lên và lần đầu tiên nhìn
thấy, bước trên một lối đi gần anh ta, một vị đệ tử của con người khổ
hạnh Gautama, người được mọi người gọi là “”Đấng Giác Ngộ”.
Lúc ấy, tôi chỉ đứng cách
họ khoảng 60 thước, tôi muốn đến gần hỏi thăm nhà sư và tham vấn nhiều
câu khác nữa, nhưng tôi nhát quá và cũng không muốn tỏ ra điên khùng mà
làm như vậy. Thế là tôi chỉ trân trân đứng nhìn, mắt chăm chú quan sát
mọi cử chỉ của ông ta suốt bốn năm phút khi hai người bước qua sảnh
đường. Quả thật là tôi đã chết trân ra đấy, như đã vào một nhân sinh
pháp giới khác. Trong tâm tôi sôi lên một niềm ao ước. Tôi nghĩ lúc ấy
nếu có ai đứng sau mà chích tôi bằng một cái kim, tôi sẽ chẳng cảm thấy
gì, bởi vì đầu óc tôi đã để hết cả vào nhà sư đang đi qua. Thế rồi, nhà
sư với vị giáo sư tới một tòa nhà khác, ông giáo sư mở cửa, và hai người
biến mất vào trong đó. Tôi vẫn còn cảm thấy thích thú được gặp nhà sư,
nhưng sự thích thú đó nay đã bị một chút buồn bã chen lấn vào. Lòng nặng
trĩu khi thấy cuộc gặp gỡ đã qua đi, và tôi đã mất cơ hội tìm đến một
nguồn tuệ giác còn tại thế, đến từ Đông phương. Bây giờ tôi chỉ có thể
nghĩ rằng nhà sư tuyệt vời đó đã đi mất, tôi phải đi đưòng tôi và chúng
tôi sẽ không bao giờ gặp nhau nữa.
Quả thực là nghiệp báo đã
vận động một cách kỳ lạ và bất ngờ. Khoảng hơn một năm sau đó, vào tháng
Chín năm 1966, tôi ghi danh vào Đại học Claremont Graduate School tại
tiểu bang California (25 dặm phía đông thành phố Los Angeles), để theo
học môt chương trình tiến sĩ Triết học. Lục cá nguyệt mùa Xuân năm ấy,
có một nhà sư từ Việt Nam đến học Claremont và dọn đến ở ngay tầng dưới
cùng khu nội trú với tôi. Ông vày không có gì là “thư thái và tự tại”
như vị sư tôi gặp ở Wisconsin, mà là một loại “hỷ lạc chi nhân”, hay
chơi đàn banjo, thích nghêu ngao hát nhạc dân ca Việt Nam, hút thuốc lá
Pháp, nấu những món ăn với thịt heo và thịt gà (mặc dù vì là một nhà
sư Đại thừa, đáng lẽ ông ta phải ăn chay) và lại học khoa Chính Trị –
một môn học ông ta hay nói tới một cách bạo dạn có thể làm cho Henry
Kissinger phải phát ngượng. Vì những lẽ đó, cho nên mặc dầu tôi ưa
thích Phật giáo, tôi phải “kính nhi viễn chi” nhà sư nầy. Tuy vậy, một
khi biết ông ta rõ hơn, tôi cũng ưa ông ta và rồi nhận ông ta là người
thầy Phật học đầu tiên của tôi.. Sang đến mùa Hè năm 1967, chúng tôi đã
cùng chia chung một phòng của khu nội trú cho sinh viên Cao học và ít
lâu sau, cùng ra thuê một căn nhà nhỏ ngoài khuôn viên của trường.
Một hôm (có lẽ là vào tháng
11 năm 1967) ông sư bạn tôi bảo tôi là có một vị Thượng tọa từ Việt Nam,
tên là Thích Minh Châu, hiện
đang ở Hoa Kỳ và ngài sẽ đến Los Angeles một ngày gần đây. Ông bạn tôi
nói là Thượng toạ Minh Châu là Viện trưởng Đại học Vạn Hạnh và là một
nhà trí thức vẹn toàn. Thượng Tọa đã có bằng Tiến sĩ từ Đại học Phật
Giáo Nalanda bên Ấn Độ và ngài đang soạn thảo một bộ sách nghiên cứu đối
chiếu hai bộ Trung Bộ Kinh viết bằng Pali và Kinh Trường A Hàm Đại Thừa
viết bằng Hán tự. Ông sư bạn tôi cho biết sẽ đi Los Angeles để đảnh lễ
Thượng tọa Minh Châu và mời tôi cùng đi theo.
Thế là một buổi sáng tươi
đẹp mùa Thu năm ấy, chúng tôi đã đến căn nhà một gia đình Việt Nam mà
Thượng tọa Minh Châu đang tạm trú. Khi Thượng tọa từ phòng riêng đi ra,
tôi thấy đó là một người trung niên mặc áo cà sa vàng, đi đứng bình thản
vững chãi, người toát ra một vẻ tử tế đầy trí huệ. Quả thật ông ta trông
giống như vi sư mà tôi đã gặp hai năm trước đây khi người bước qua khuôn
viên Đại học Wisconsin. Tuy nhiên, tôi không chắc lắm vì không có gì là
chắc lại có thể có hai nhà sư Đông Á trông giống nhau. Tôi đã trông thấy
vị sư ở Wisconsin cách sáu bẩy mươi thước, nên tôi không thấy rõ mặt
lắm. Tôi đành phải chịu khó ngồi chờ để cho chủ nhà và ông sư bạn tôi
nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt xong đã. Khi có cơ hội, tôi mới hỏi
Thượng tọa: ” Thưa đây có phải là lần đầu tiên Ngài sang Hoa Kỳ không?”.
Ông ta trả lời: “Thưa không, tôi đã ở đây vài năm về trước”. Chỉ chờ
đợi có thế, tôi hỏi tiếp: “Thưa có phải là Ngài đã ở trong khuôn viên
Đại học Wisconsin vào tháng Tám năm 1965 không?”. Và ông ta trả lời:
“Đúng vậy, hôm ấy tôi đến thăm một người bạn tôi là giáo sư Richard
Robinson. Hôm đó , ông Robinson vừa bắt đầu một chương trình nghiên cứu
Phật Học tại đấy”. Tôi kể lại hôm ấy tôi đã thấy Ngài từ xa đi qua Khuôn
viên Đại học. Ông ta cười nhẹ và nói: ” Thế thì đây không phải là lần
đầu tiên chúng ta gặp nhau”.
Nhiều năm sau, khi Thượng
Tọa Minh Châu trở lại Hoa Kỳ, (chắc khoảng năm 1969) người ở lại vài
ngày tại nhà trọ của chúng tôi ở Claremont. Tuy nhiên, khi tôi chuẩn bị
sang Á Châu để thọ bồ tát giới và học Phật Pháp, Thượng Tọa đã có nhiều
lời khuyên bảo hữu ích và cho tôi một thư mở giới thiệu đến các bậc tôn
túc của giáo hội Phật giáo bên Á Châu.. Tôi giữ kỹ bức thư đó và tôi vẫn
còn có thư đó khi tôi đến Kandy. Tưuợng tọa đã đề nghị với tôi là khi
đến Sri Lanka, tôi hãy thọ giáo với Ngài Nyanaponika MahaThera. Tôi đã
đi tu ở đó bẩy năm nhưng vẫn chưa học được đầy đủ. Trong năm đầu, tôi
thảng hoặc viết thư cho Thượng tọa Minh Châu dể tham vấn và người bao
giờ cũng trả lời tôi rất sớm và đầy đủ.
Năm 1975, khi Việt Nam rơi
vào tay Cộng Sản, tôi không còn liên lạc với người nữa, nhưng khi tôi
chuẩn bị cuộc nói Pháp nầy, nhớ lại những cuộc gặp gỡ trước đây một cách
sâu sắc, tôi thấy tôi phải tìm cách hỏi xem người ra sao. Nhờ mạng lưới
Internet, qua một người Việt Nam ở bên Úc Châu, tôi được biết là Thượng
tọa vẫn còn ở thành phố Hồ Chí Minh, nhưng nay thì rất yếu và bị bệnh
Parkinson. Người chắc đã phải gần 90 tuổi. Tôi viết cho người một lá
thư, và gửi điện thư (e-mail) đến người Việt Nam bên Úc, nhờ ông ta
chuyển thư ấy đến người bạn ông ta, cũng là một tu sĩ Phật giáo, từng là
đệ tử của Thượng tọa Minh Châu.
Trong vài chục năm vừa qua,
trước khi mắc căn bệnh tàn hại, Thượng tọa Thích Minh Châu đã dịch bốn
bộ Kinh A Hàm từ tiếng Pali sang tiếng Việt. Tôi chỉ biết được điều đó
mới gần đây thôi. Bây giờ đây là một chuyện kỳ thú và lạ lùng đã xẩy ra
làm mọi người phải thắc mắc. Vào cái ngày đầu tháng Tám năm 1965 ấy, có
một chàng sinh viên Hoa Kỳ mới 20 tuổi, một anh chàngngày nào đó sẽ trở
nên người đồng dịch giả Trung Bộ Kinh, dịch giả Tương Ưng Bộ Kinh, và
(hy vọng) một ngày nào đó sẽ dịch cả Tăng Chi Bộ Kinh, đã vì một sự
tình cờ, được gặp một vị sư Việt Nam, lớn hơn anh ta lối ba chục năm,
cũng đang dịch bốn cuốn kinh đó sang tiếng Việt.. Anh chàng sinh viên
Hoa Kỳ ngày đó chẳng liên quan gì đến Phật học mà chỉ mới bắt đầu đọc ít
sách về Phật giáo mà thôi. Anh ta không có ý định gặp vị sư, mà thực ra
cũng đâu có giáp mặt nhau đâu.. Nhìn dưới khía cạnh nhân quả khách quan,
thì cuộc gặp gỡ chỉ là một sự trùng hợp. Chàng sinh viên Hoa Kỳ chỉ ngẫu
nhiên đi vào một thành phố anh tình cờ đến, nhìn thấy vị Thượng tọa từ
xa, để rồi ra đi không biết vị đó là ai. Vị sư cũng không nhìn thấy
chàng thanh niên Hoa Kỳ này.
Cái gì đã làm tôi quyết
định đi tảo bộ sáng hôm đó, rồi rẽ khỏi đường quanh hồ mà đi vào khuôn
viên đại học, đúng chỗ đó và lại đúng lúc đó?. Có thực đó chỉ là một sự
tình cờ, một chuỗi những quyết định ngẫu nhiên? Nếu đã nêu lên những câu
hỏi đó thì hãy hỏi thêm: Có một cái vòng duyên khởi nào nối kết chuyến
đi California của tôi với chguyến đi Wisconsin của nhà sư đúng lúc ấy
không? Nếu tôi nhớ không lầm thì chúng tôi đã định khởi hành hai ngày
trước, nhưng vì có một chút kẹt vào lúc cuối nên chúng tôi phải dời
chuyến đi đến sáng thứ Hai ấy. Nếu chúng tôi đã đi đúng ngày giờ như đã
tính thì buổi hội ngộ với nhà sư chắc đã không xẩy ra.
Khi tôi rời trường Đại học,
yên chí rằng mình sẽ không bao giờ gặp lại nhà sư ấy nữa, tôi không bao
giờ ngjhĩ trong thâm tâm làm gì để gặp lại con người ấy. Tuy nhiên, tôi
đã lấy một chuỗi những quyết định, trong thâm tâm không cố ý, đi đến
việc gặp lại nhà sư lần nữa mà lần này, hai người chúng tôi đã là con
Phật. Tôi đã chọn học Cao học tại một Đại học mà tại đó tôi đã gặp và
trở thành bạn hữu với một nhà sư Việt Nam khác, tuy rằng tôi khi vào đó
học tôi không biết vị sư ấy cũng học trường nầy (đúng hơn, không biết cả
có sư sãi Việt Nam nữa). Và qua người bạn này, tôi được gặp lại vị sư
tôi đã gặp hai năm trước, một vị sư có một phong thái đã làm tôi rất chú
ý mặc dầu tôi không biết là hai nhà sư này lại quen biết nhau. Dù tôi
biết là Hòa thượng Thích Minh Châu đã viết một cuốn sách nghiên cứu đối
chiếu hai bộ Trung Bộ Kinh viết bằng Pali và Kinh A Hàm Đại Thừa viết
bằng Hán tự, nhưng hẳn nhiều năm sau, khi tôi bắt đầu dịch những kinh
viết bằng Pali (sang tiếng Anh), tôi vẫn chưa biết là Thượng tọa đã dịch
sang tiếng Việt rồi. Và cả hai bản dịch của chúng tôi, sang tiếng mẹ đẻ
chúng tôi, gần như giống hệt nhau. Phải chăng điều đó đã được tiên liệu
bởi cuộc gặp gỡ ở Đại học Wisconsin, nơi mà tôi chưa bao giờ trở lại sau
cuộc gặp gỡ và có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ quay lại nữa trong đời?
Tiểu sử Tỳ Kheo
Boddhi
Tỳ kheo Boddhi, người Hoa
Kỳ, tên thực là Jeffrey Block, sinh năm 1944, tốt
nghiệp Cử Nhân Triết học đại học Brooklyn (Nữu Yước). Năm 1972 ông lãnh
bằng Tiến Sĩ Triết học đại học Cao Học Claremont. Năm 1967, trong khi
còn là sinh viên Cao học, ông đã làm Sa di trong một truyền hống Đại
Thừa Việt Nam. Đến năm 1972, sau khi tốt nghiệp, ông sang Tích Lan thọ
giáo Sa Di với Ngài Ananda
Maitreya, và chính thức gia
nhập giòng Phật giáo Nguyên Thủy tại đó.
Năm 1984, nối tiếp Ngài
Nyanaponika Thera, ông được bổ nhiệm làm tổng biên tập Anh ngữ tờ
Buddhist Publication Society (BPS, Sri Lanka), để rồi trở thành Chủ
tịch tờ đó năm 1988.
Năm 2000, trong đại lễ
Vesak đầu tiên tại trụ sở Liên Hiệp Quốc, Tỳ kheo Boddhi đã đọc một bài
diễn văn quan trọng.
Đến năm 2002, sau khi không
còn làm cho BPS nữa, ông trở về Hoa Kỳ. Hiện ông giậy Phật học tại Tu
Viện Bồ Đề, ở Lafayette, New Jersey, và Tu Viện Trang Nghiêm (Chuan
Yen) (Camel, New York) và làm Chủ Tịch tổ chức Yin Shun (Ấn Thuận)
Foundation
Nguồn:
http://daovien.wordpress.com/2009/01/20/l%E1%BA%A7n-d%E1%BA%A7u-tien-toi-g%E1%BA%B7p-m%E1%BB%99t-nha-s%C6%B0/