Phương Tây có câu tục
ngữ "Hoạn nạn làm lớn con người". Phương Đông cũng có
câu danh ngôn tương tự "Ngậm cay đắng trong cay đắng mới làm
con người trên loài Người". Trường hợp của Trần Thái Tông
sao mà ứng với hai câu này đến thế?
Vì muốn đảm bảo sự liên tục của ngôi vua trong một
gia đình phong kiến, Trần Thủ Độ đã ép buộc Trần Thái Tông phải
bỏ Chiêu Hoàng để lấy người chị dâu của mình là Thuận Thiên
công chúa, lúc bấy giờ đang có mang ba tháng. Đứng trước cảnh
trớ trêu đầy ngang trái, muốn chống lại sự áp đặt vô lý của
Trần Thủ Độ, nhưng Trần Thái Tông không thể cưỡng được, vì
Trần Thủ Độ là người rất độc đoán lại có quá nhiều uy
quyền.
Đêm mồng 3 tháng 4 năm 1236, người thanh niên trai trẻ
ấy đã trốn triều đình, bỏ ngôi báu, lên núi Yên Tử, với hy
vọng tìm đến đạo giác ngộ, hầu tự giải thoát mình và báo đáp
thâm ân cha mẹ. Lặn lội chật vật vượt bao núi hiểm hố sâu,
mới đến được chùa Hoa Yên trên đỉnh Yên Tử. Trông thấy Trần
Thái Tông, Quốc sư Trúc Lâm ung dung bảo : "Lão Tăng ở chốn
núi rừng đã lâu, xương cứng, mặt gầy, ăn rau răm, nhai hạt dẻ,
uống nước suối, vui cảnh rừng, lòng nhẹ như mây nổi, cho nên
mới theo gió mà đến đây. Nay bệ hạ bỏ địa vị Nhân chủ, nghĩ
đến cảnh quê mùa rừng núi, chẳng hay muốn tìm vật gì mà lặn
lội đến đây ?" Vua đáp : "Trẫm còn thơ ấu, sớm mất mẹ
cha, chơ vơ đứng trên sĩ dân, không có nơi nương tựa. Lại nghĩ
đến sự nghiệp Đế vương đời trước hưng phế bất thường, cho
nên Trẫm mới vào đây, chỉ cầu thành Phật, chẳng mong gì
khác". Trúc Lâm bảo : "Trong núi vốn không có Phật, Phật
ở ngay trong tâm ta. Nếu tâm thanh tịnh, trí tuệ xuất hiện, thì đó
chính là Phật, khỏi phải cực khổ tìm kiếm ở bên ngoài".
Nghe Quốc sư nói, Trần Thái Tông bàng hoàng xúc
động, biểu lộ sự tán thành.
Trần Thủ Độ hay tin vua rời bỏ kinh thành, bèn dẫn
triều đình và các bô lão tìm kiếm khắp nơi, lần lên Yên Tử,
thấy vua, Trần Thủ Độ thống thiết nói : "Thái Tổ vừa mới
bỏ tôi mà đi, hòn đất trên nấm mồ chưa ráo, lời dặn dò còn
vang vọng bên tai, thế mà bệ hạ lại lánh vào chốn núi rừng để
cầu thỏa chí riêng mình. Tôi thiển nghĩ, bệ hạ vì lo tu thân mà
làm như vậy thì được, nhưng còn quốc gia xã tắc thì sao ? Nếu để
lời khen suông cho đời sau thì sao bằng lấy ngay thân mình làm
người dẫn đường cho thiên hạ ?". Ra sức thuyết phục một hồi
mà Trần Thái Tông vẫn khăng khăng không chịu hồi loan, Trần Thủ
Độ phải làm áp lực mạnh : "Nếu bệ hạ không nghĩ lại, quần
thần chúng tôi cùng thiên hạ sẽ xin cùng chết cả trong ngày hôm
nay, quyết không trở về". Rồi ông tuyên bố : "Vua ở đâu
thì lập triều đình ở đó". Nói xong, liền sai thợ xây cất cung
điện. Thấy tình thế khó xử, Thiền sư Trúc Lâm ân cần cầm tay vua
mà nói : "Phàm làm vua thì phải lấy ý muốn của dân làm ý
muốn của mình, phải lấy tấm lòng thiên hạ làm tấm lòng của mình.
Nay thiên hạ muốn đón bệ hạ về, bệ hạ không về sao được ? Tuy
nhiên, việc nghiên cứu nội điển xin bệ hạ đừng lúc nào
quên".
Với bản lãnh của một Thiền sư tiêu dao ngoại vật,
có "đôi mắt nhìn thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả
nghìn đời", Quốc sư đã vạch cho Thái Tông một phương châm
hành động đạo đời dung hợp. Vua lại là người có ý chí khác
thường, đã biến đau thương thành hành động. Ông đã hoàn thành
xuất sắc cả hai trách nhiệm nặng nề cùng lúc ngay giữa lòng trần
gian đau khổ này.
Quả là :
"Vai mình mang một quê hương,
Còn mang nặng cả nỗi buồn tử sinh".
(Hoài Khanh)
- ĐỐI VỚI ĐỜI
- Người con chí hiếu
Về phương diện luân lý gia đình, Trần Thái
Tông tỏ ra là một người con chí hiếu. Trong bài tựa Thiền Tông
Chỉ Nam, vua viết : "Năm Trẫm vừa 16 tuổi, Thái hậu đã chán
cõi đời, Trẫm nằm rơm gối đất, khóc ra máu mắt, đau như cắt
lòng, ngoài nỗi ưu phiền không nghĩ gì khác. Thế rồi cách vài năm
sau, Thái Tổ hoàng đế lại bỏ ngôi trời; nỗi nhớ mẹ chưa nguôi,
tình thương cha càng nặng; ngổn ngang đau xót khó nỗi khuây lòng.
Trẫm nghĩ : Cha mẹ vỗ về nuôi nấng con không thiếu điều gì, con dù
thịt nát xương tan cũng không đủ đền ơn trong muôn một". Nhắc
đến ơn sâu cha mẹ, kể lại nỗi xót thương đau đớn vô hạn, trong
lúc tang phục, bằng những lời trang trọng thống thiết, chứng tỏ
Thái Tông là người con chí hiếu, đáng làm mẫu mực cho mọi
người con hiếu noi theo. Tình đời hễ ai xúc phạm làm trái ý ta thì
thường phản kháng chống lại, đó là lẽ thường tình. Vậy mà
Trần Thủ Độ đã dựng lên tấn bi kịch cho vua, nhưng vua vẫn kính
phục không hề oán hận.
Dẫu rằng Trần Thủ Độ hành động như thế là để
bảo vệ ngôi báu cho dòng họ, và vì sự an nguy cho đất nước,
chứ không phải vì tham vọng riêng tư. Nhưng phải là một con người
có tấm lòng hiếu kính đầy nhân hậu như Trần Thái Tông mới có
thể xử sự vẹn toàn như vậy.
- Người em thuận thảo
Ngoài ra, vua cũng xứng đáng được đời ca
ngợi như là một người em thuận thảo. Trần Liễu vì bất bình việc
Trần Thủ Độ ép ông nhường người yêu của mình cho Trần Thái
Tông, đã cất quân làm loạn ngoài sông Cái. Sau biết thế không
chống nổi, Trần Liễu đích thân đến trước thuyền vua xin hàng, anh
em ôm nhau mà khóc. Trần Thủ Độ nghe tin, đến thẳng thuyền vua, tuốt
gươm lên quát :"Giết thằng giặc Liễu". Vua vội vàng đẩy
Trần Liễu vào trong thuyền rồi nói với Trần Thủ Độ : "Phụng
Kiều Vương đến xin hàng đấy", vừa nói vừa lấy mình che chở
cho Liễu. Trần Thủ Độ giận lắm, vứt gươm xuống sông nói :
"Tao chỉ là con chó săn thôi, nào biết anh em mày lúc nào hòa
lúc nào nghịch !". Vua đứng ra hòa giải, khuyên Trần Liễu bãi
binh, rồi ban cho đất An Phụ, An Dưỡng, An Sinh, An Bang và phong hiệu là
An Sinh Vương (Việt Sử Thông Giám Cương Mục Chính Biên VI, 17).
Việc làm của Trần Thủ Độ suýt chút nữa đưa đến
hậu quả cốt nhục tương tàn, nếu không có được một người
đức độ hòa kính bao dung như Trần Thái Tông hóa giải. Rõ ràng
Trần Thái Tông đã biểu hiện bản chất của một con người đôn
hậu, thuận thảo đáng làm tấm gương sáng trong mối giao tình cốt
nhục đệ huynh.
- Vị vua anh minh
Tháng 10 mùa Đông năm 1241, người Tống sang cướp
phá biên giới, vua sai tướng Phạm Kính Ân đem quân đánh tan quân
giặc. Nhân đó, muốn biết tình hình quân địch, vua cải trang thân
hành dẫn quân tiến sâu vào tận châu Khâm, châu Liêm, ban đầu
người châu ấy bỏ chạy, sau họ mới biết, liền giăng xích sắt
giữa dòng sông để ngăn đường thủy. Vua bèn sai quân nhổ vài
chiếc cọc sắt đem về (Việt Sử Thông Giám Cương Mục Chính Biên VI,
21). Sử còn chép : Tháng 12 năm Đinh Tị 1257, quân Mông Cổ xâm phạm
địa phận sông Thao, vua tự làm tướng đem quân chống cự (Sđd).
Những dẫn chứng trên cho thấy Trần Thái Tông ngồi
trên ngôi báu không phải để hưởng phú quý, đắm mình trong thanh
sắc hoan lạc. Trái lại, lúc nào vua cũng ý thức trách nhiệm của
một vị nguyên thủ quốc gia. Khi đất nước cần, vua đích thân chiến
đấu, can đảm xông pha giữa làn tên mũi đạn, đối mặt với quân
thù, chứng tỏ bản lĩnh của một vị vua dũng cảm sáng suốt.
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép : "Một hôm Trần
Thái Tông ban cho quân hầu cận ăn xoài, Hoàng Cự Đà không
được ăn. Đến khi quân Nguyên đến bến Đông, Cự Đà ngồi
thuyền nhẹ trốn đi. Đến Hoàng Giang, gặp Hoàng Thái tử đi thuyền
ngược chiều, Cự Đà tránh sang bờ sông bên kia. Quân lính hỏi :
Quân Nguyên ở đâu ?". Cự Đà đáp : "Không biết, hãy
hỏi bọn được ăn xoài ấy !". Sau khi phá được giặc, Thái
tử xin trừng phạt Cự Đà để răn những kẻ làm tôi bất trung.
Thái Tông nói : "Tội của Cự Đà đáng giết cả họ, nhưng
đời xưa có việc Dương Châm không được ăn thịt dê đã làm cho
quân nước Tống bị thua trận. Thế nên, trường hợp của Cự Đà
ngày nay là lỗi của ta, vậy hãy tha cái chết, cho đánh giặc để
chuộc lại lỗi lầm". (Đại Việt Sử Ký Toàn Thư).
Trường hợp bề tôi phạm tội đã không trừng phạt
mà còn tự nhận lỗi về phần mình, nếu không có đức độ khoan
dung của một vị vua anh minh thì làm sao được như thế !
II. ĐỐI VỚI ĐẠO
- Tinh cần
Dù ngồi trên ngôi báu, công việc triều chính
bận rộn trăm bề, nhưng vua lúc nào cũng thao thức học hỏi để tìm
con đường giải thoát theo lời ân cần dặn dò của Thiền sư Viên
Chứng. Chính vua đã mô tả sự tinh tấn học đạo của mình trong bài
tựa Thiền Tông Chỉ Nam "Trong vòng mười năm, mỗi khi việc
nước rảnh rỗi, Trẫm lại hội họp các bậc kỳ đức để tham
Thiền học đạo. Các kinh điển của đại giáo thì không kinh nào là
không nghiên cứu đến".
Không những vua lợi dụng lúc rảnh để nỗ lực học
Phật mà ngay trong lúc bận trăm công nghìn việc, vua cũng tranh thủ
thì giờ để học cả ngoại điển "Tuy một ngày trăm việc, cũng
nhân lúc rảnh rang, chăm công việc, tiếc thì giờ, học càng thêm
tiến. Một chữ đinh lo chưa biết đến, đêm canh hai còn gắng tìm xem,
đã duyệt sách Nho lại xem kinh Phật".
Sức tinh chuyên của Thái Tông thật đáng làm một
tấm gương sáng. Nhờ vậy vua đã có được một sở học khá uẩn
súc, không những am tường tam giáo mà những kiến thức chính trị,
xã hội, đương thời vua cũng đều quán triệt.
- Cảnh tỉnh
Bằng sự chăm chỉ học hỏi không biết mỏi
mệt, vua đã thâm nhập lý vô thường của Phật giáo nên đã tự
mình cảnh tỉnh và cảnh tỉnh mọi người : "Mệnh tựa ngọn đèn
trước gió, thân như bọt nước đầu ghềnh".
Cuộc đời mỏng manh như vậy mà người ta vẫn đắm
chìm trong thanh sắc, không biết tỉnh ngộ : "Luôn khổ, mù mù mịt
mịt nào biết nào hay, lẩn quẩn loanh quanh chẳng tỉnh chẳng ngộ. Hết
thảy đều buông lung tâm ý chẳng ai nắm mũi lôi về".
Vì không tỉnh ngộ mà chúng sinh bị sinh tử triền miên
: "Thông minh tài trí, tránh sao hạn lớn đến nơi, dũng lực oai
hùng, khó trốn vô thường ập tới. Thiếp thuận, vợ trinh, trở
thành niềm đau đứt ruột, anh nhường em kính vội nên ly biệt suốt
đời".
Vậy hãy sớm thức tỉnh quay về ngôi nhà vĩnh cửu :
"Cửa đệ nhất phải mau bước tới, nẻo Tam đồ chớ có lần
đi, kíp quay đầu nhận lấy quê nhà, mở mắt tuệ chớ cam mộng
hảo".
Thế mà biết bao kẻ :
"Lang thang làm khách phong trần mãi,
Ngày vắng xa quê vạn dặm trường".
Thử hỏi trong chúng ta đã mấy ai tìm được cõi
quê hương đích thực của mình !
Những ai có một tấm lòng tinh thành tha thiết muốn
tìm hiểu sự thật cuộc đời, hy vọng đạt được một chút thanh
thản vĩnh hằng cho tâm hồn mình, chắc chắn sẽ nhận thấy những
lời cảnh tỉnh trên đây của Trần Thái Tông mang đầy tính chất
thuyết phục.
- Cổ vũ
Không phải chỉ cảnh tỉnh mà thôi, Trần Thái
Tông còn có tài cổ vũ rất khéo, khiến cho người ta phấn khởi
nỗ lực hành đạo : "Những ai có mắt tinh đời, hãy sớm hồi
tâm xem lại, cất mình vượt khỏi hang sống chết, dang tay xé toạc
lưới ái ân. Chẳng nề trai gái, ai cũng nên tu, bất luận trí ngu
đều có phần cả".
Thế thì phần của mỗi người là cái gì ? Đó là
tính giác của chúng sinh : "Nào biết Bồ-đề giác tánh, ai nấy
viên thành; hay đâu Bát-nhã thiện căn, người người đầy
đủ".
Tuy tánh giác mỗi người sẵn có, nhưng từ vô thủy
đến nay bị mây vô minh vọng tưởng che mờ, khi nào màn vô minh ấy
tan biến, thì đỉnh núi Bồ-đề sẽ sừng sững hiện ra :
"Ai hay mây cuốn trời quang tạnh,
Hiện rõ chân trời dáng núi cao".
Cấu nhiễm phiền não một khi đã quét sạch thì
giác tính Bồ-đề trở nên thanh tịnh, chừng ấy sẽ tùy cơ ứng
biến, phát sinh những diệu dụng khôn lường : "Đạp đổ ma quân
cung điện, mở toang ngoại đạo tâm can, biến trái đất làm vàng
ròng cho quốc gia, khuấy sông dài thành sữa ngọt đãi trời
người. Chuyển pháp luân thường trực trong lỗ mũi, hóa bảo tháp
hiện thực dưới lông mi
khi gặp vũ trường liền diễn xuất,
lúc thấy chỗ tốt lại nghỉ ngơi".
Nhờ nỗ lực tu học, Trần Thái Tông đã gặt hái
được những thành quả đáng khích lệ. Và chính nhờ sức hoạt
dụng của thành tựu ấy mà ông vừa cai trị, vừa hành đạo, vừa
làm thơ, viết sách v.v
mọi việc đều viên dung tốt đẹp. Chúng
ta đọc đến những lời cổ vũ nồng nhiệt của vua, như được tiếp
thêm nguồn sức mạnh, chắp thêm cánh bay cao.
- Lời văn đầy hình ảnh thi ca
Trần Thái Tông có sức học Phật sâu sắc, lại kiêm
thông thế học; vua rất sở trường về lối văn biền ngẫu, những
lời cảnh tỉnh và cổ vũ của vua mang đầy màu sắc và hình ảnh thi
ca, có sức thu hút lạ lùng :
"Một trời sáng đẹp, thôn thôn liễu biếc hoa
hồng,
Muôn dặm phong quang, xứ xứ oanh ca bướm lượn".
"Cuồn cuộn sự đời bao xiết kể,
Non đoài ác lặn nước về Đông".
Muôn vật sinh diệt thay đổi không ngừng, nhưng vẫn
hàm tàng thể tánh vĩnh cửu bên trong :
"Hoa vàng rực rỡ, không đâu không là tâm
Bát-nhã
Trúc biếc xanh xanh, hết thảy đều là lý chân
như".
Chân lý ấy hiện hữu bàng bạc khắp cỏ cây
sông núi :
"Ngàn sông có nước, ngàn sông trăng chiếu,
Muôn dặm không mây, muôn dặm trời xanh".
Ý tứ đã thâm trầm mà lời thơ lại óng mướt,
đọc lên nghe phảng phất một hương thơm kỳ diệu, chúng ta có thể
thưởng thức thêm hai câu thơ trong bài Niệm tụng kệ :
"Bóng trúc quét thềm bụi chẳng động,
Vầng trăng qua biển nước không xao".
Nghĩa lý dầu sâu sắc đến đâu mà lời văn khô
khan thì cũng khó thâm nhập được lòng người; thế nên vua
thường dùng những hình ảnh sinh động để chuyên chở các nghĩa
lý sâu xa khó diễn tả :
"Thắp đuốc tuệ trên đường mê tăm tối,
Dong thuyền từ nơi bể khổ trầm luân".
Những khổ vui của cuộc đời, vua đã từng nếm trải
bằng kinh nghiệm bản thân, nên khi phô diễn lời lẽ rất thống
thiết, tựa hồ "máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm
trên tờ giấy".
Vua đúng là mẫu người Ôn, Lương, Cung, Kiệm, Hiếu,
Kính, Nhân, Từ đã hoàn thành xuất sắc cả hai trách nhiệm đời
và đạo một cách viên dung, ngay trong lòng nhân thế.
Trần Thái Tông đã hấp thụ tinh hoa giáo lý đức
Phật bằng chính hơi thở của hơi thở Việt Nam, trái tim của trái tim
Việt Nam, tâm hồn của tâm hồn Việt Nam; nói chung là bằng cả con
người của con người Việt Nam. Nhờ thâm nhập tinh thần vô ngã vị
tha của đạo Phật, vua chấp nhận hy sinh tình yêu để nhận Thuận
Thiên làm vợ, đặt quyền lợi quốc gia dân tộc lên trên quyền
lợi cá nhân, lấy ý muốn của dân làm ý muốn của mìn. Vua lại
thấm nhuần ý nghĩa "Hận thù không thể tiêu diệt được hận
thù mà chỉ có tình thương mới tiêu diệt được hận thù",
nên đã bao dung Trần Liễu, khoan hồng Hoàng Cự Đà, cảm thông với
Trần Thủ Độ.
Trần Thái Tông không những là một cây đuốc sáng
của Thiền học Việt Nam, mà còn là một trong những vị vua khai sáng
một triều đại có sự nghiệp chính trị và võ bị hiển hách nhất
trong lịch sử nước ta.