TIỂU SỬ
DANH TĂNG
VIỆT NAM
THẾ KỶ XX
Thích Đồng Bổn
chủ biên
TẬP I
---o0o---
VI
GIAI ÐOẠN THỐNG NHẤT
PHẬT GIÁO LẦN THỨ 2
HÒA THƯỢNG
THÍCH GIÁC HẠNH
(1880 - 1981)
Hòa thượng họ Nguyễn thế danh
là Ðức Cử, đạo hiệu là Thích Giác Hạnh, sinh ngày 13 tháng 6 năm Canh Thìn
(1880- P.L. 2423) tại làng Ái Tử, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Xuất
thân trong một gia đình trung nông, thân phụ laø cụ ông Nguyễn Ðức Uẩn,
thân mẫu là cụ bà Lê Thị Lộc. Anh em Ngài có chín người gồm bảy trai và
hai gái và chính Ngài đóng vai trưởng tử khi người anh cả mất sớm.
Ngài sinh trưởng trong một gia
đình chịu ảnh hưởng Tam giáo. Thiếu thời, Ngài theo học Nho văn. Khác với
mọi Nho sinh, Ngài luôn ưu tư về cuộc sống xuất tục. Ðã nhiều lần Ngài
trình bày với thân sinh về bản hoài xuất gia học Phật của mình.
Cho đến năm 17 tuổi (1897),
Ngài mới được xuất gia tại Tổ đình Từ Hiếu (Huế). Sau 2 năm tu học với ý
chí kiên định, tính tình hoan hỷ và nhẫn nại, trong tuần lễ Phật Ðản 08-4
năm Kỷ Hợi (1899), Ngài thọ giới Sa Di với Ngài Huệ Nhật và được pháp danh
là Tâm Cảnh và pháp tự là Thiện Quyên.
Ngày 08 tháng 3 năm Canh Tuất
(1909), Ngài thọ Cụ Túc giới tại Ðại giới đàn Phước Lâm - Quảng Nam do Hòa
thượng Vĩnh Gia làm Hòa thượng Ðường đầu. Với chí nguyện tham học cầu ngộ
chân lý giải thoát, nên Ngài tìm đến học đạo tại chùa Tây Thiên. Trải qua
một thời gian dài tu học nghiên cứu, Ngài tinh thông kinh, luật, luận và
nhất là phần giới luật được Ngài nghiêm trì cẩn mật. Với tuệ căn mẫn tiệp,
sở học uyên thâm, nên tên tuổi Ngài không những được biết đến trong chốn
thiền môn mà còn lan truyền ra ngoài hàng tín hữu nữa. Từ năm 1915, Ngài
đã sớm thành bậc Pháp khí của Phật đạo. Lúc bấy giờ tại kinh thành Huế,
ông baø Hiệp Tá Ðại Học Sĩ Nguyễn Ðình Hòe có lập một ngôi am nhỏ hiệu Phổ
Phúc nằm trên đồi Bình An (Nam Giao-Huế) mong muốn mời Ngài làm tọa chủ.
Sau nhiều lần ông bà đến chùa Tây Thiên cung thỉnh, Ngài hoan hỷ nhận làm
truù trì Phổ Phúc Am vào năm Ất Mão (1915) lúc Ngài được 36 tuổi. Về đây,
thấy cách sinh hoạt ở Phổ Phúc Am mang nhiều sắc dị đoan mê tín không phù
hợp với thanh quy thiền môn, Ngài quyết tâm chấn chỉnh. Sau thời gian dài,
Ngaøi mới tạo được nếp sống thanh tịnh của chốn thiền môn.
Nhờ ý chí tiến tu và công hạnh
hoằng hóa Phật đạo, Ngài đã đắc pháp với Hòa thượng Tâm Tịnh, được ban Ðạo
hiệu là Giác Hạnh, vào ngày 14 tháng giêng năm Bính Dần (1926), kế thừa
đời thứ 43 dòng Lâm Tế Thiền Tông. Cùng năm đó, Ngài trùng tu chánh điện
và đổi Am Phổ Phúc thành chùa Vạn Phước (Huế).
Năm 1932, hội An Nam Phật Học
ra đời, Ngài được cung thỉnh làm chứng minh Ðạo sư của hội.
Năm 1933, để tiếp dẫn hậu lai
báo Phật ân đức, Ngài đã dành những ngôi nhà tả hữu của chùa (Vạn Phước)
làm cơ sở vật chất cho trường tiểu học Phật giáo để Tăng Ni có nơi tham
học, do Pháp sư Mật Khế sáng lập vaø chủ giảng.
Năm Nhâm Ngọ (1941), Ngài được
cung thỉnh làm Yết Ma Hòa thượng tại Ðại giới đàn chùa Hưng Khánh tỉnh
Bình Ðịnh do Ngài Chí Bảo làm Ðường đầu Hòa thượng.
Ngài rất quan tâm về việc hoằng
hóa độ sinh, nên Ngài đã từng cố vấn đạo hạnh cho hai tổ chức Phật giáo
đương thời là Giáo Hội Tăng Già Trung Việt và Hội An Nam Phật Học, Ngài
cũng đã chung sức cùng Chư tôn Giáo phẩm Tăng Ni hằng quan tâm đến các
lãnh vực giáo dục, xã hoäi và hóa đạo bằng những phương thức nghi lễ của
thiền môn. Ngài tự nguyện đứng vào trong ban Kinh tài để vận động tài
chánh cho báo Viên Âm. Tờ báo này được duy trì mãi đến ngày báo Liên Hoa
ra đời, nhờ sự đóng góp moät phần của Ngài.
Là người dốc lòng phụng sự đạo
pháp và cũng rất hiếu hạnh, Ngài không quên nơi chôn nhau cắt rốn, nên đã
trở về quê hương năm Mậu Tuất (1958). Cùng với chư vị Trưởng lão ở làng Ái
Tử, Ngài trùng tu chùa chiền, tạo lập trụ sở để tỏ lòng người đạo tử nhớ
nghĩa sanh thành.
Năm 1963, Ngài tham gia công
cuộc vận động, đòi thực thi 05 nguyện vọng của Phật Giáo Việt Nam.
Ðến năm Ất Tỵ (1965), Ngài thấy
tuổi tác đã cao không thể đảm đương Phật sự, nên Ngài trao chức trú trì
cho kế pháp tử trưởng là Hòa thượng Thích Tâm Hướng. Cùng năm này, Ngài
được mời làm Tôn chứng A Xà Lê các giới đàn Từ Hiếu, Báo Quốc và Thiền Tôn
- Huế.
Năm 1967, Ngài vào miền Nam
(Sài Gòn) tiếp nhận chùa Tuệ Quang. Năm 1970, Ngài cho xây lại chùa này,
và năm 1971 Ngài đã chú thành một đại hồng chung, sau đó đổi hiệu chùa là
Vạn Phước vào năm 1973 (Ở số 55 đường Tuệ Tỉnh, quận 11, Sài Gòn).
Năm 1973, Ngài được Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất cung thỉnh làm thành viên Hội Ðồng Trưởng
Lão Viện Tăng Thống. Cũng trong khoảng thời gian này, Ngài chỉ đạo cho Hòa
thượng Tâm Hướng chú đại hồng chung và trùng tu chùa Tịnh Ðộ nằm phía Tây
Bắc cạnh chùa Vạn Phước, đường Lam Sơn- Huế.
Từ đấy, Ngài không quản ngại
mọi khó khăn có khi hành đạo ở miền Trung, lúc du hóa tận phương Nam.
Nhiệm vụ của một trưởng tử Như Lai trong đời Ngài đã viên thành. Thân ngũ
uẩn giả hợp ấy đã đến hồi qui tịch, Ngài đã an nhiên mãn hiện vào giờ Tý
ngày 10 tháng 7 năm Tân Dậu (nhằm ngày 09/8/1981), trường thọ 102 năm,
được 72 hạ lạp. Nhà bia và bảo tháp của Ngài được tôn trí tại khuôn viên
chùa Vạn Phước, đường Lam Sơn-Huế.
Cuộc đời hành hóa của Ngài thể
hiện phương châm : “Lợi sanh vi sự nghiệp, hoằng hóa thị gia vụ” của chư
Tổ mà Ngài đã tâm đắc và thực hành suoát tám mươi lăm năm xuất trần vi
thượng sĩ vậy.
HÒA THƯỢNG
HỘ TÔNG
(1893- 1981)
Hòa thượng Hộ Tông thế danh là
Lê Văn Giảng, sinh năm 1893 tại làng Tân An, quận Tân Châu, tỉnh Châu Ðốc.
Ngài xuất thân trong một gia đình trung lưu trí thức, thân phụ là ông Lê
Văn Như, thân mẫu là bà Ðinh Thị Giêng. Thuở nhỏ Ngài theo học chữ Hán và
chữ Việt tại làng Tân An. Ðến năm 20 tuổi Ngài sang Phnômpênh học chương
trình Pháp vaên tại trường Collège Sisavatt. Ngài thi đậu bằng Diplôme.
Sau đó Ngài về học ngành Thú y tại trường Cao Ðẳng ở Hà Nội, đậu bằng bác
sĩ thú y, và làm việc tại Campuchia.
Mặc dù thành công mỹ mãn trên
đường đời, có địa vị trong xã hội, nhưng men danh lợi không làm say lòng
Ngài. Năm 34 tuổi, Ngài phát tâm bắt đầu từ bỏ thế tục, hướng về nghiên
cứu con đường tu hành, thoát khỏi mùi danh bả lợi. Ngài tìm đọc nhiều kinh
sách khác nhau và thực hành khổ hạnh, tuyệt dục. Cuối cùng Ngài gặp được
đức Phó Vua sãi tại chùa Unalom Phnômpênh Campuchia. Ngài được Ðức Phó Vua
sãi giảng dạy bát chánh đạo và bảo Ngài hãy đến Pháp Bảo Viện đọc quyển
Bát Chánh Ðạo bằng tiếng Pháp. Từ đó Ngài có duyên lành với Phật giáo Nam
Tông tại xứ Chùa Tháp Campuchia. Ngài cùng với ông Nguyễn Văn Hiểu và các
cư sĩ người Việt khác hội họp lúc thì tại Sài Gòn, lúc tại Phnômpênh để
đàm đạo về Phật pháp. Ngài lập một ngôi chùa tại Phnômpênh là chùa Sùng
Phước để hướng dẫn Việt kiều tu học theo Phật giáo Nam Tông. Mọi người gọi
Ngài là A-Cha Giảng với lòng tôn kính. Vào ngày rằm tháng 10 năm Canh Thìn
(1940), Ngài được đức Phó Vua sãi Campuchia truyền giới xuất gia tại chùa
Sùng Phước Phnômpênh.
Cũng trong năm 1940, Ngài về
Việt Nam xây dựng Tổ đình Bửu Quang tại ấp Gò Dưa, xã Tam Bình, huyện Thủ
Ðức, Sài Gòn. Ðây là ngôi chùa đầu tiên của Phật giáo Nam Tông người Việt.
Từ đây nhiều ngôi chùa của Phật giáo Nguyên Thủy được thành lập và Phật
giáo Nguyên Thủy bắt đầu được truyền bá ở Việt Nam.
Năm 1944, Ngài trở lại
Phnômpênh. Tại xứ chùa Tháp, Ngài chu du khắp nơi, Ngài vào rừng để thực
hành thiền định Vipassanà theo hạnh Ðầu Ðà (Dhutanga).
Năm 1949, Ngài trở về Việt Nam
cùng với cư sĩ Nguyễn Văn Hiểu và các thiện tín ban đầu của Phật giáo
Nguyên Thủy lập chùa Kỳ Viên ở Bàn Cờ, quận 3, Sài Gòn. Ở đây Ngài thường
xuyên thuyết pháp về kinh điển Pàli cho cư sĩ tín đồ tu học theo giáo lý
Nguyên Thủy.
Từ lúc thấm nhuần chánh pháp,
Ngài luôn luôn tinh tấn hành đạo và hoaèng pháp lợi sanh.
Năm 1954, Ngài cùng với Hòa
thượng Bửu Chơn đã tham dự hội nghị kết tập Tam Tạng Pàli lần thứ 6 tại
Rangoon - Miến Ðiện. Ngài đã đọc diễn văn trong ngày bế mạc hội nghị.
Ngài đến Ấn Ðộ chiêm bái bốn
Thánh tích trung tâm : Bồ Ðề Ðạo Tràng, Vườn Lộc Uyển, Vườn Lâm Tì Ni và
nơi Phật nhập Niết Bàn. Ngài cũng xuất ngoại sang Thái Lan và Tích Lan để
nghiên cứu Tam Tạng Pàli và thực hành Thiền Tứ Niệm Xứ.
Ngày 18-12-1957 Giaùo Hội Tăng
Già Nguyên Thủy Việt Nam được thành lập. Trong Ban Chưởng Quản lâm thời,
Ngài được bầu làm Phó Tăng Thống đệ nhị. Sau đó, chính thức bầu Ban Chưởng
Quản Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam khóa I, Ngài đươïc suy cử chức
vụ Tăng Thống.
Ngài đã xây dựng nhiều ngôi
chùa, đào tạo nhiều Tăng tài, cho xuất gia nhiều tu nữ, thành lập Phật học
viện, Thiền viện.
Ở Lâm Ðồng, Ngài lập Thiền viện
Tam Bố năm 1963 và Thiền viện Phi Nôm năm 1964.
Ở Thủ Ðức, Sài Gòn, Ngài lập tu
viện Bửu Long và Phật học viện Nguyên Thủy năm 1970, và ở Vũng Tàu, Ngài
lập chùa Bồ Ðề năm 1969 trên Núi Lớn.
Ngài cũng hợp tác với các vị
cao Tăng khác trong Phật giáo Nguyên Thủy để lập các chùa Tam Bảo-Ðà Nẵng
năm 1953, chùa Giác Quang- Chợ Lớn năm 1950, chùa Pháp Quang-Gia Ðịnh năm
1958, chùa Tăng Quang ở Huế năm 1959 v.v...
Ðến năm 1971, Ngài tiếp tục đảm
nhận chức Tăng Thống, nhưng uûy quyền lại cho Hòa thượng Bửu Chơn lúc bấy
giờ là Phó Tăng Thống điều hành, còn Ngài sang Thái Lan để hành thiền và
nghiên cứu Tam Tạng Pàli. Sau đó Ngài trở về Việt Nam tiếp tục hành đạo và
hoằng dương giáo pháp.
Naêm 1980, Nhà nước Việt Nam
cho phép Ngài xuất cảnh sang Pháp chữa bệnh. Ở Pháp hơn một năm vì nỗi nhớ
quê hương, nhớ chư Tăng và các ngôi chùa thân yêu, Ngài xin trở về Việt
Nam, dừng bước tại chùa Bửu Long- Thủ Ðức, nơi đây Ngài trùng tu cảnh Bồ
Ðề Ðạo Tràng. Sau đó, Ngài tổ chức làm phước cúng dường trai Tăng bảy ngày
và cúng dường đến 33 ngôi chùa Phật giáo Nguyên Thủy.
Ngày 26-7 năm Tân Dậu, tức
25/8/1981 trước những giờ phút cuối cùng, Ngài rất minh mẫn còn giảng dạy
Thiền định về đề mục niệm hơi thở cho các đệ tử thân cận. Bài pháp vừa
xong, Ngài an lành viên tịch, với nét mặt trang nghiêm tươi tỉnh như đang
nằm nghỉ ngơi. Lúc ấy là 16 giờ 45 phuùt. Ngài hưởng thọ 89 tuổi đời, 41
tuổi đạo.
Công đức du nhập Phật giáo
Nguyên Thủy vào Việt Nam của Ngài vô cùng to lớn. Ngài là vị Tổ khai sơn
của Phật giáo Nam Tông người Việt. Ngài có nhiều đức tính ưu việt mà các
hàng đệ tử xuất gia và tại gia của Ngài không bao giờ quên được. Ngài là
một người ngay thẳng, bộc trực, nghiêm khắc nhưng bao dung, thích độc cư
thiền định, thực hành hạnh bố thí xả ly. Báo thân ấy đã tan rã, nhưng sự
nghiệp hoằng pháp và tấm gương tu hành tinh chuyên của Ngài còn mãi. Các
kinh sách đã được Ngài phiên dịch và ấn hành:
- Nhật hành của cư sĩ.
- Cư sĩ thực hành.
- Luật Xuất Gia quyển 1, 2.
- Vi Diệu Pháp vấn đáp.
- Nền Tảng Phật Giáo.
- Sơ Thiền Tâm.
- Thanh Tịnh Kinh.
- Quỷ Vương Vấn Ðạo.
- Tứ Diệu Ðế.
- Bát Chánh Ðạo.
- Pháp Trích Yếu.
- Phật Giáo chánh lời Phật
thuyết.
- Phép Chánh Ðịnh.
- Phật Ngôn.
- Thập Ðộ.
- Triết lý về nghiệp v.v...
HÒA THƯỢNG
THÍCH TÂM HOÀN
(1924 - 1981)
Hòa thượng Tâm Hoàn, thế danh
là Nguyễn Hướng, pháp danh Tâm Hoàn, tự Giải Quy, hiệu Huệ Long, thuộc
dòng thiền Lâm Tế đời thứ 43.
Ngài sinh ngày 12 tháng 02 năm
Giáp Tý (1924),tại làng Phú Thành, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, tỉnh Bình
Ðịnh trong một gia đình Nho giáo, thân phụ là ông Nguyễn Phước Trì, thân
mẫu là bà Lê Thị Chiếu. Cả hai ông bà đều là người phước đức nhân hậu, có
lòng kính tín Tam Bảo, thường hay đến lễ bái và nghe giảng tại Tổ đình
Thập Tháp Di Ðà. Thân phụ Ngài là một hương chức trong làng, được mọi
người quý mến.
Gia đình Ngài có tất cả chín
anh chị em, Ngài là người con thứ tám. Người anh cả đã xuất gia tại Tổ
đình Thập Tháp với Tổ Phước Huệ, trú trì chùa Diêu Quang, ấp Nhơn Thọ, xã
Thọ Lộc, huyện An Nhơn, Bình Ðịnh.
Do những thuận duyên sẵn có ấy,
Ngài đã sớm thừa hưởng được phước báu từ gia đình trong cả hai lãnh vực,
đạo pháp và tri thức. Khi lớn lên, những nếp sinh hoạt mang nặng truyền
thống Phật giáo của gia đình, Ngài đều thuần thục. Cũng như hai bậc sanh
thành, Ngài luôn ngưỡng mộ nếp sống đạo phong ung dung thanh thoát của các
bậc Tăng già phạm hạnh.
Năm Ất Hợi (1935) khi Ngài vừa
12 tuổi, thêm một thiện duyên quý báu nữa đưa đến bước ngoặt quan trọng
của đời Ngài là việc Hòa thượng Giác Tánh vốn là thân hữu của thân phụ,
thường hay gặp gỡ trao đổi đạo tình đã tấn dẫn Ngài bước vào con đường tu
Phật. Liền sau đó, được sự chấp thuận của hai đấng sinh thành, Ngài đã đến
Tổ đình Long Khánh, cầu đạo xuất gia với Hòa thượng Chánh Nhơn (húy Trừng
Chấn). Hôm đó là ngày mùng 8 tháng 4.
Năm 1941, Ngài được Hòa thượng
Bổn sư gởi đến học tại Phật học đường Báo Quốc-Huế. Thời gian này, Ngài
được sự tận tình dạy dỗ của chư Tôn đức giáo thọ nổi tiếng, trong đó có
Ngài Ðốc giáo Trí Ðộ và bác sĩ Tâm Minh - Lê Ðình Thám, là hai vị đang nỗ
lực đào tạo Tăng tài cho công cuộc chấn hưng Phật giáo. Cùng khóa được đào
tạo với Ngài tại Phật học đường này có quý Hòa thượng Trí Quang, Thiện
Minh, Huyền Quang, Thiện Siêu, Trí Nghiêm, Trí Thành...
Năm 1944, lúc 20 tuổi Ngài thọ
Cụ Túc giới tại Tổ đình Hưng Khánh, trong giới đàn này Ngài được chọn là
Vĩ Sa di.
Năm 1945, Ngài trở lại quê nhà.
Do điều kiện đất nước đang dồn tâm lực vào việc chống ngoại xâm, Ngài đã
tham gia phong trào Phật giáo Cứu quốc tỉnh Bình Ðịnh với tư cách thành
viên sáng lập.
Từ năm 1945 đến 1954, Ngài liên
tục dấn thân vào công việc cứu nước bên cạnh sự nghiệp hoằng hóa. Do đó
trong 10 năm liên tục này, Ngài từng là Bí thư Phật giáo Cứu Quốc tỉnh, Ủy
viên Ban Chấp hành Mặt trận Việt Minh tỉnh, Ủy viên Ủy ban Kháng chiến
tỉnh, Chính trị viên Thị Ðội Boä Dân Quân Quy Nhơn, Ủy viên Hội Ðồng Nhân
Dân tỉnh Bình Ðịnh (ứng cử đơn vị An Nhơn) và các chức vụ khác. Do những
cống hiến đó, Ngài luôn bị theo dõi và không tránh khỏi tù tội, chịu đủ
mọi tra tấn cực hình như vào năm 1956 Ngài bị giam bằng gông xiềng tại Ty
Công An Tuy Hòa và nhà lao Ngọc Lãn cho đến ngày hiệp định đình chiến
Genève được ký kết.(1)
Năm Giáp Ngọ (1954) sau khi đất
nước bị chia đôi, Ngài được cử giữ chức Phó Hội trưởng Hội Phật học Trung
phần.
Năm Kỷ Hợi (1959), Ngài lại
được bầu vào chức Phó hội trưởng Hội Phật giáo tỉnh Bình Ðịnh.
Năm Quý Mão (1963), cũng như
nhiều chư sơn khác, dưới sự lãnh đạo của Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật
giáo, Ngài đã dấn thân tích cực cùng toàn thể Phật giáo đồ cả nước làm nên
trang sử đẹp nhất ở cương vị của mỗi người con Phật thời bấy giờ.
Năm Giáp Thìn (1964), Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ra đời đáp ứng giai đoạn phát triển mới có
tầm vóc, kỷ cương chặt chẽ. Ngài được Ðại Hội toàn tỉnh suy cử chức Phó
Ðại Diện Giáo Hội tỉnh Bình Ðịnh.
Về mặt đào tạo, Ngài đã từng
đảm nhận những trọng trách như từ năm 1947, 1948 là Giáo thọ caùc Phật học
đường Thập Tháp (An Nhơn), Thiên Ðức (Tuy Phước)... Từ năm 1956 đến năm
1957, Phó Giám đốc Phật học đường Nha Trang. Năm 1960, Phó Ðốc Giáo Phật
học viện Nguyên Thiều. Sau năm 1963, là Phó Giám Viện và Giáo thoï tại hai
Phật học viện Phước Huệ và Tổ đình Thập Tháp. Năm 1968, làm Hóa chủ Ðại
giới đàn Bình Ðịnh tại Tổ đình Long Khánh. Năm 1973, là Chánh chủ khảo Ðại
giới đàn Phước Huệ tại Nha Trang, năm 1976 là Giáo thọ tại Ðại giới đàn
chùa Hưng Long, Bình Ðịnh.
Về mặt truyền pháp độ sinh, đệ
tử của Ngài phần lớn đều được gởi đi tu học và xuất thân từ các Phật học
đường danh tiếng, nhiều vị đã trở thành giảng sư lỗi lạc, đang tiếp tục
con đươøng hoằng hóa của Ngài. Kể cả giới Cư sĩ Phật tử tại gia cũng không
hiếm người lỗi lạc đang tiếp tục tu học ở khắp mọi nơi, nhiều nhất là ở
huyện Hoài Ân- Hoài Nhơn Quy Nhơn và Thành phố Hồ Chí Minh.
Riêng về Tổ đình Long Khánh, do
Tổ Ðức Sơn từ Trung Quốc đến khai sơn vào khoảng năm 1700, là một danh lam
thắng tích và lưu tâm của mọi người. Ngài đã góp phần vào việc trùng tu,
phát triển thành nơi trường lớp đào tạo Tăng Ni và Phật tử tại gia nổi
tiếng. Các Ngài Thiện Hoa, Thiện Hòa và nhiều vị khác đã từng đến học tại
đây trong thời kỳ Tổ Phước Huệ làm chủ giảng.
Cả cuộc đời của Ngài thể hiện
qua nếp sống tam thường bất túc, giản dị, siêng năng, nhu hòa, nhẫn nhục,
lúc nào Ngài cũng nghiêm túc với bản thân, khiêm tốn, nhã nhặn với mọi
người. Ngài rất thương yêu đồ chúng và hết lòng phụng sự Tam Bảo, dân tộc,
mong sao cho đạo mạch miên viễn, đất nước vinh quang. Chính các hạnh
nguyện này của Ngài, là động cơ thúc đẩy Tăng chúng và Phật tử noi gương,
sách tấn nhau trên bước đường tu niệm, giải thoát.
Cơ duyên đã mãn, sau hơn năm
mươi năm sống giữa trần hành đạo, Ngài đã an nhiên thị tịch vào lúc 5 giờ
sáng, ngày mùng 7 tháng 3 năm Tân Dậu (1981) tại Tổ đình Long Khánh, thành
phố Quy Nhơn. Hưởng
thọ 58 tuổi đời, 38 tuổi đạo.
Chú thích :
1) Theo thủ bút của
chính Ngài.
HÒA THƯỢNG
ẨN LÂM
(1898 - 1982)
Hòa thượng tục danh
là Lê Văn Tâm, sinh năm Mậu Tuất (1898) trong một gia đình nông dân tại
huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. Thân phụ Ngài là cụ Lê Văn Cường, thân mẫu
là cụ Ðặng Thị Dưỡng. Gia đình Ngài quy y theo Phật giáo Bắc Tông. Thuở
nhỏ Ngài đã theo gia đình thường xuyên đến các chùa để lễ Phật tụng kinh.
Năm 18 tuổi, duyên
lành đã đến, Ngài xuất gia tại chùa Khánh Quới thuộc phái Lâm Tế (Thiền
tông Trung Quoác). Sau đó Ngài đi hành đạo ở các chùa Long Thành, Huỳnh
Long rồi trở về chùa Phi Lai nơi Ngài đã quy y từ thuở nhỏ.
Năm 30 tuổi (1920),
Ngài sang Campuchia nghiên cứu kinh điển Tam Tạng Pàli. Năm 1940, Ngài gặp
Hòa thượng Thiện Luật (người Việt Nam tu theo hệ phái Nam tông, bấy giờ ở
tỉnh Preyveng- Campuchia) và được thọ giới theo Phật giáo Nam Tông. Năm
1941 Ngài phát nguyện thực hành pháp môn Ðầu Ðà khất thực và độc cư trong
rừng.
Năm 1946, Ngài thọ
giới Tỳ kheo với Ngài Dhammavansa Guna Thera. Vì cảm kích nếp độc cư thiền
định trong rừng nên Thầy tế độ đã ban pháp danh cho Ngài là Ẩn Lâm
(Arannavasi). Ngài luôn tâm niệm người tu phải sống độc cư thiền định,
rưøng núi là môi trường yên tĩnh sẽ giúp cho tâm được thanh tịnh. Ðồng
thời Ngài gìn giữ giới hạnh trang nghiêm trong sạch, lấy giới định tuệ làm
phương châm tu tập. Ngài có đời sống tri túc, thiểu dục của bậc Sa môn
chân chính. Dù ở đâu Ngài cũng trì bình khất thực hàng ngày.
Năm 1954, từ
Campuchia về Sài Gòn, Ngài tu tập tại các chùa Kỳ Viên, Giác Quang, Bửu
Quang.
Năm 1957, Giáo Hội
bổ nhiệm Ngài về trụ trì chùa Tăng Quang (Huế).
Năm 1959, Ngài theo
quyết định của Giáo Hội về điều hành Phật sự tại chùa Tam Bảo (Ðà Nẳng).
Năm 1961, Ngài lại
về trụ trì chùa Thanh Vân, Tây Ninh.
Năm 1962, Giáo Hội
điều động Ngài về trụ trì chùa Phước Hải, Tân Hiệp, Tiền Giang.
Năm 1975, Giáo Hội
Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam điều Ngài về trụ trì chùa Kỳ Viên- Bàn Cờ,
Sài Gòn.
Trên bước đường
hoằng dương chánh pháp, đâu đâu cũng có dấu chân của Ngài, từ miền Nam ra
miền Trung, từ miền Trung xuống miền Tây.
Ngài là một trong
những vị Giáo phẩm cao cấp của Phật giáo Nam Tông được Tăng ni Phật tử hệ
phái tôn kính ngưỡng mộ. Năm 1965, Ngài được tín nhiệm suy cử vào chức Phó
Tăng Thống Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam. Năm 1976, Ngài được chư
Tăng suy cử Ngài vào chức vụ Tăng Thống GHTGNTVN. Trong nhiệm kỳ 1979 -
1982 Ngài làm Cố Vấn GHTGNTVN.
Năm 1981, khi Giáo
Hội Phật Giáo Việt Nam được thành lập, Ngài được Ðại hội suy cử vào chức
vụ Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh.
Tháng 10/1982 sức
khỏe của Ngài bắt đầu suy yếu. Mặc dù bệnh duyên như vậy, nhưng Ngài vẫn
vô cùng sáng suốt khi Tăng chúng Phật tử đến thăm, Ngài thường nhắc nhở
vieäc tu hành. Hình ảnh một vị Hòa thượng cao Tăng luôn luôn chánh niệm,
tỉnh giác trước giờ phút viên tịch đã tác động vào niềm tin của hàng Phật
tử xuất gia cũng như tại gia cư sĩ rất nhiều.
Vào lúc 10 giờ 30
phút sáng 20/12/1982 tức 6/11 năm Nhâm Tuất, Ngài đã an nhiên thị tịch.
Một đại thọ đã không còn, một thuyền từ đã tách bến, để lại niềm thương
tiếc vô bờ nơi các hàng môn đệ hậu sanh.
HÒA THƯỢNG
THÍCH THÁI KHÔNG
(1902 - 1983)
Hòa thượng Thích
Thái Không, thế danh là Hoàng Long Phi, sinh ngày 07-7-1902 (Nhâm Dần) tại
xã An Nhơn, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre. Thân phụ là cụ Hoàng Ðăng Khoa
và thân mẫu là cụ Khống Thị Mai. Ngài là con thứ năm trong gia đình có sáu
anh em.
Xuất thân từ một gia
đình nông dân nghèo, có truyền thống tin đạo. Năm 1917 (Ðinh Tỵ), Ngài
xuất gia đầu Phật nơi Tổ Khánh Hòa tại chùa Tuyên Linh thuộc xã Minh Ðức,
huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre. Tại ngôi chùa này, Ngài đã cần mẫn miệt mài tu
học, rồi được lần lượt thọ Sa Di và Cụ Túc giới.
Năm 1930, phong trào
chấn hưng Phật giáo ở miền Nam phát khởi từ Hòa thượng Khánh Hòa, Bổn sư
của Ngài. Vì thế Ngài được tiếp xúc thường xuyên với Sư Thiện Chiếu, cùng
nhau hợp tác với Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học. Ngài lấy bút hiệu bằng
chính pháp danh của mình, để tham gia viết bài cho tờ báo Từ Bi Âm, góp
phần chuyeån tải những giá trị tinh hoa Phật học cũng như lịch sử Phật
giáo nước nhà, un đúc thêm niềm tin yêu Phật pháp và khêu gợi lòng yêu
nước, tự tôn dân tộc trong mọi tầng lớp độc giả. Nhờ đó, Ngài được xem như
một sứ giaû Như Lai hoằng truyền chánh pháp một cách rất đắc lực trong
khoảng thời gian và hoàn cảnh mà Phật giáo hầu như bị đẩy lùi vào làng quê
cô tịch.
Khi các hoạt động
của Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học tạm lắng dịu bởi những khó khăn khách
quan, Ngài trở về với Hội Phật Học Lưỡng Xuyên, tiếp tục cống hiến tài sức
làm lợi ích cho sự nghiệp chánh pháp, phụ lực với Tổ Khánh Hòa, Huệ Quang,
Khánh Anh và cư sĩ Trần Quỳnh là chủ bút tạp chí Duy Tâm để đào tạo Tăng
tài cho Phật giáo miền Nam.
Năm 1944, Ngài trở
về trú xứ chùa Tuyên Linh thuộc xã Minh Ðức, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre.
Nơi đây, vì giúp đỡ che giấu nhiều chiến sĩ cách mạng, Ngài bị giặc Pháp
bắt điều tra, đánh đập và giam cầm sáu tháng. Nhờ Tổ Khánh Hòa lãnh ra cho
về chùa Viên Minh ở một thời gian. Sau đó, vì e rằng Ngài tiếp tục hoạt
động móc nối với các chiến sĩ Cách mạng, thực dân Pháp không còn cách nào
khác hơn là quản thúc Ngài tại chùa Viên Giác, thị xã Bến Tre, hòng cách
ly với quần chúng Phật tử và dập tắt lòng yêu nước nơi Ngài. Nhưng Ngài
vẫn giữ lòng kiên định với dân tộc và đạo pháp.
Cuối năm 1941, do
chiến tranh giữa thực dân Pháp với các lực lượng kháng chiến, Hội Lưỡng
Xuyên Phật Học không thể tiếp tục hoạt động vì thiếu nguồn tài trợ. Ngài
chọn con đường kháng chiến chống Pháp, theo Cách mạng ra chiến khu. Năm
1945, Ngaøi được bầu làm Trưởng ban Chấp hành Hội Phật Giáo Cứu Quốc tỉnh
Bến Tre, và là thành viên Mặt Trận Việt Minh tại quận Giồng Miếu.
Từ năm 1947 đến năm
1949, Ngài còn là Trưởng Ban chia cơm xẻ áo cho Vệ Quốc Ðoàn tỉnh Bến Tre.
Năm 1951, Ngài được
điều về công tác tại xã Long Hòa kết hợp với nhiệm vụ xây dựng lại từ đầu
công việc hoằng hóa.
Năm 1960, tại Bến
Tre phát động cuộc Cách mạng Ðồng Khởi, Ngài được đề cử giữ chức Ủy viên
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tỉnh Bến Tre, kiêm chủ tịch
Mặt trận Dân tộc Giải phóng huyện Thạnh Phú.
Năm 1969, Ngài lúc
này trú xứ tại xã An Nhơn, huyện Thạnh Phú, được hội đồng Lưỡng Viện Giáo
Hội Phaät Giáo Việt Nam Thống Nhất đề cử trụ trì chùa Lưỡng Xuyên-Trà Vinh
ngày 11/10/1970 và được suy cử làm Trưởng ban Giáo Dục Tăng Ni và Giám
Luật.
Từ đó cho đến năm
1975, với danh nghĩa Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Ngài hoạt
động công khai và giữ liên lạc thường xuyên với Cách mạng, nhất là với các
cán bộ Tôn giáo kiều vận Trung Nam bộ.
Năm 1975, sau khi
đất nước thống nhất, Ngài được cử vào Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc thị xã Traø
Vinh.
Năm 1976, Ngài được
bầu vào Hội Ðồng Nhân Dân tỉnh Cửu Long, nhiệm kỳ I. Và đến năm 1977, là
Ủy viên Mặt Trận Tổ Quốc tỉnh Cửu Long nhiệm kỳ I, II đồng thời là Ủy viên
Hội Ðồng Nhân Dân thị xã Trà Vinh nhiệm kỳ III.
Năm 1981, Ngài là
thành viên Ban Trù Bị Ðại Hội Phật Giáo Thống Nhất họp tại thủ đô Hà Nội.
Sau khi Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam được hình thành, Ngài được suy cử làm thành viên Hội
đồng Chứng minh Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam nhiệm kỳ I.
Cũng như mọi chúng
sinh chịu sự chi phối của định luật vô thường, Ngài đã xả báo an tường sau
cơn bạo bệnh vào ngày 24 tháng giêng năm Quí Hợi (8.3.1983). Trụ thế 81
năm và 60 năm đạo nghiệp.
Một loøng trung kiên
với dân tộc và đạo pháp, Ngài thể hiện một cách trọn vẹn cả Ðạo lẫn Ðời
trong sự nghiệp và hành động, nối tiếp truyền thống đặc thù của Phật giáo
Việt Nam qua gương Trúc Lâm - Tuệ Trung Thượng Sĩ.
HÒA THƯỢNG
THÍCH TRÍ THỦ
(1909 - 1984)
Hòa thượng họ
Nguyễn, húy Văn Kính, pháp danh Tâm Như, tự Ðạo Giám, pháp hiệu Thích Trí
Thủ. Ngài sinh ngày 19 tháng 9 năm Kỷ Dậu, tức ngày 01-11-1909 trong một
gia đình nho phong thanh bạch, tại làng Trung Kiên, tổng Bích Xa, phủ
Triệu Phong (Nay là xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong) tỉnh Quảng Trị.
Thân phụ là cụ Nguyễn Hưng Nghĩa, thân mẫu là cụ Lê Thị Chiếu. Hai cụ là
người rất kính tín Tam Bảo. Vì vậy, dù là con trai độc nhất trong gia
đình, lúc 14 tuổi Ngài đã được song thân cho vào học kinh kệ ở chùa Hải
Ðức - Huế.
Năm 1926, khi được
17 tuổi, Ngài thực thụ xuất gia thọ giáo với Hòa thượng Viên Thành tại
chùa Tra Am ở Huế. Năm Ngài 20 tuổi (1929), được Bổn sư cho vào thọ giới
Cụ Túc (Tỳ Kheo) tại Ðại giới đàn chùa Từ Vân ở Ðà Nẵng. Tại đại giới đàn
này Ngài trúng tuyển Thủ Sa Di trong số 300 giới tử. Do đó, Boån sư đã ban
cho Ngài pháp hiệu là Thích Trí Thủ, ngụ ý khen tặng chữ THỦ là đứng đầu.
Cũng vừa năm đó, Bổn sư của Ngài là Hòa thượng Viên Thành viên tịch. Ngài
ở lại chùa Tra Am hai năm để thọ tang. Năm 1932, Ngài vào học tại Phật học
đường Trúc Lâm do Hòa thượng Giác Tiên thành lập và mời Hòa thượng Phước
Huệ ở chùa Thập Tháp-Bình Ðịnh ra làm chủ giảng.
Trong thời gian theo
học tại Phật học đường Trúc Lâm, gặp lúc phong trào chấn hưng Phật giáo
khởi phát ở miền Trung, Ngài tích cực tham gia, cùng với các pháp lữ khác
góp phần rất lớn. Ngài đã từng làm giáo thọ, dạy ở trường Phật Học Phổ
Thiên, Ðà Nẵng.
Cuối năm 1934, Ngài
trở ra Huế, cùng các pháp lữ ngày trước tổ chức trường Phật học ở chùa Tây
Thiên, cung thỉnh Tăng Cang Giác Nhiên ở chùa Thuyền Tôn làm giám đốc, Hòa
thượng Phước Huệ ở chùa Thập Tháp-Bình Ðịnh làm đốc giáo. Cùng thời gian
này, Ngài còn làm giảng sư cho Hội Phật Học Thừa Thiên và lớp Trung đẳng
Phật học cũng mở tại chùa Tây Thiên, cùng kiêm nhiệm việc giảng dạy tại
trường Tiểu học Phật học mở tại chùa Báo Quốc - Huế.
Năm 29 tuổi (1938),
sau khi tốt nghiệp trường Phật học Tây Thiên, Ngài được sơn môn cử về trú
trì Tổ đình Ba La Mật. Ngài vẫn tiếp tục công việc giảng dạy và hỗ trợ cho
các trường Phật học. Năm 1939, Ni trường chùa Từ Ðàm được thành lập. Ðây
là cơ sơû và khởi duyên Ni bộ đầu tiên được hình thành trong cả nước. Sơn
môn và hội Phật học giao cho Ngài đặc trách việc đào tạo Ni chúng.
Năm 1942, Ngài được
Giáo Hội Tăng Già Thừa Thiên bổ nhiệm trú trì chùa Báo Quốc. Thời gian này
Ngài tích cực hoạt động cho việc phục hưng Phật Giáo và cùng các Tăng lữ
cấp tiến như Thượng tọa Mật Thể, Thiện Minh, Thiện Siêu đề xướng cải tiến
cách tu học, phổ cập cho phù hợp với thời đại.
Năm 1944, các lớp
Ðại, Trung và Tiểu học của trường Sơn Môn Phật Học được dời về chùa Linh
Quang, Ngài được sơn môn Tăng Già giao phó nhiệm vụ Giám viện kiêm trú trì
chùa.
Cuối năm 1945, chiến
tranh Việt - Pháp lại bùng nổ sau cuộc Cách Mạng Tháng Tám giành độc lập
cho nước nhà, Ngài đã cùng một số vị khác thành lập hội Phật Giáo Cứu Quốc
Trung bộ và Thừa Thiên, và cho người đi khắp các tỉnh thành lập hội Phật
Giáo Cứu Quốc tại tỉnh. Vào năm 1946, chiến sự xảy ra ngay tại thành phố
Huế, nên Sơn Môn Tăng Già Thừa Thiên quyết định dời trường sơn môn Phật
Học về chùa Báo Quốc, Ngài bàn giao nhiệm vụ trú trì chùa Linh Quang lại
cho Hòa thượng Mật Nguyện.
Năm 1947, mặt trận
Huế vỡ, cảnh tang thương, chết chóc diễn ra khắp thành thị đến nông thôn.
Những Tăng tín đồ nào đã thực sự đứng trong hàng ngũ kháng chiến thì rút
ra chiến khu. Những ai còn trong nội thành thì tập hợp nhau tại các chùa
để cầu nguyện cho đất nước sớm thanh bình. Sau đó, các Phật sự được khôi
phục dần dần. Cuối năm đó, Ngài được giao nhiệm vụ mở lại Phật học đường
Trung Việt tại chùa Báo Quốc và tiếp tục làm Giám viện. Chính nơi đây đã
đào tạo được nhiều Tăng tài, lỗi lạc hữu dụng cho các hoạt động Phật sự về
sau. Từ giới đàn đầu tiên tại đây, sau cơn khói lửa, do Ngài làm đàn đầu,
đã phục hồi ý nghĩa “Thất chứng” mà các trường giới thường ít coi trọng.
Năm 1950, sau khi
hội Việt Nam Phật Học thành lập(1) được ba năm, Ngài được đại hội thường
niên bầu làm Hội trưởng thay cho cư sĩ Chơn An -_Lê văn Ðịnh. Từ ngày có
phong trào chấn hưng Phật giáo tại Trung Việt năm 1932, đây là lần đầu
tiên chức Hội trưởng thuộc về Tăng sĩ.
Thống nhất Phật giáo
là nguyện vọng tha thiết nhất trong cuộc đời tu hành của Ngài. Do đó, khi
được giao nhiệm vụ đứng đầu Hội Việt Nam Phật Học, Ngài liền vận động
thống nhất Phật giáo cả nước. Năm 1951, một đại hội gồm 51 đại biểu đại
diện cho 6 tập đoàn Phật giáo, cả ba miền Nam, Trung, Bắc họp tại chùa Từ
Ðàm ngày 06 tháng 5 dương lịch, đã quyết nghị thành lập Tổng Hoäi Phật
Giáo Việt Nam, đáp ứng nguyện vọng tha thiết của hàng Tăng sĩ và cư sĩ đã
từng ước ao thống nhất Phật giáo Việt Nam.
Năm 1952, trong chức
vụ Ủy viên Hoằng pháp của Giáo Hội Tăng Già Trung Việt, Ngài đã đặt viên
đá cho ngôi trường Trung, Tiểu học tư thục Bồ Ðề đầu tiên của hội tại
thành nội Huế. Từ đó về sau các trường Bồ Ðề từ bậc Tiểu học đến bậc Trung
học được lần lượt mở ở các tỉnh hội khắp Trung Việt, lan vào cả Sài gòn.
Năm 1956, Ðại hội kỳ
II của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam họp tại chùa Phước Hòa (Sài gòn), Ngài
được bầu làm Ủy viên Giáo dục. Cũng trong năm này, Phật học viện Nha Trang
được thành lập tại chùa Hải Ðức trên núi Trại Thủy, Ngài được giao nhiệm
vụ Giám viện.
Ðể có thêm tài chính
yểm trợ ẩm thực cho Tăng sinh, Ngài đã cử một số học Tăng vào Sài Gòn học
riêng khoa chế biến nước tương là một món ăn chay rất cần thiết và phổ
bieán trong các chùa và dân gian mà nhu cầu hàng ngày rất lớn. Khi số học
Tăng này trở về, Ngài cho thành lập xưởng chế biến nước tương đóng chai,
lấy hiệu “Lá Bồ Ðề” cung cấp cho thị trường khắp Trung phần và Cao nguyên.
Phật học viện Nha
Trang chỉ đào tạo Tăng sinh đến bậc Trung học, sau đó họ phải vào Sài Gòn
theo học bậc Ðại học. Ðể giúp đỡ số Tăng sinh này có nơi ăn ở đi học mà
vẫn giữ được nếp sinh hoạt thiền môn, năm 1960 Ban Quản Trị ủy cho Ngài
vào Sài Gòn mua một sở đất (nay ở đường Lê Quang Ðịnh) tại xã Hạnh Thông,
quận Gò Vấp, xây dựng tu viện Quảng Hương Già Lam. Nơi đây cũng là trú sở
của Ngài sau năm 1963 cho tới ngày viên tịch.
Năm 1962, Ngài dẫn
đầu phái đoàn Phật Giáo miền Nam tham dự Ðại lễ thế giới Phật lịch 2500-
ngày Ðức Phật nhập Niết Bàn tại thủ đô Vientaine Lào.
Năm 1963, sự kỳ thị
tôn giáo xảy ra dưới chính quyền Ngô Ðình Diệm. Ngài trở về Hueá cùng chư
Tăng lãnh đạo cuộc đấu tranh đòi hỏi tự do tín ngưỡng và bình đẳng tôn
giáo. Ngài bị bắt giam và đưa vào Sài Gòn. Khi trung tâm đầu não của cuộc
đấu tranh chuyển từ Huế vào Sài gòn, Ngài lại tích cực tham gia. Sau khi
chính quyền Ngô Ðình Diệm sụp đổ, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất
ra đời, Ngài được cử vào Ban Dự thảo hiến chương và sau đó được bầu vào
chức Tổng vụ trưởng Tổng vụ Hoằng Pháp, kiêm Tổng vụ Tài chánh. Với trách
vụ này Ngài đã tổ chức được ba cuộc hội nghị hoằng pháp (tại Phật học viện
Nha Trang, chùa Xá Lợi, chùa Ấn Quang), thành lập đoàn giảng sư phân công
tới các địa phương thuyết giảng Phật pháp, và thành lập thêm được Phật học
viện Phổ Ðà ở Ðà Nẵng.
Năm 1964, Ngài làm
Viện trưởng viện Cao Ðẳng Phật học đặt tại chùa Pháp Hội, tiền thân của
Viện Ðại Học Phật giáo Vạn Hạnh, Ngài còn chủ trương xuất bản các tập san
Tin Phật, Baùt Nhã để hỗ trợ cho công tác hoằng pháp.
Năm 1965, Ngài đi
hành hương chiêm bái các danh lam Phật tích ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Ðài
Loan, Hồng Kông, đồng thời để mở rộng sự giao thiệp với các tổ chức Phật
giáo tại các nước này trên đường phụng sự Phật pháp.
Năm 1969, Ngài được
Hội đồng Lưỡng viện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tấn phong pháp
vị Hòa thượng. Cùng năm này, Ngài khai Ðại giới đàn tại Phật học viện Nha
Trang. Năm 1969, Ngài trùng tu Tổ đình Báo Quốc-Huế. Năm 1970 Ngài mở lớp
Trung đẳng II chuyên khoa tại Phật học viện Nha Trang, đến năm 1974 chuyển
thành Viện Cao Ðẳng Phật Học Nha Trang, Hòa thượng Thiện Siêu được thỉnh
cử làm Viện trưởng.
Trong Ðại hội Giáo
Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất kỳ 5 và kỳ 6, Ngài được giao trách nhiệm
hết sức quan trọng và nặng nề là Viện trưởng Viện Hóa Ðạo để thay thế Hòa
thượng Thích Thiện Hoa vừa viên tịch. Ðây là giai đoạn khó khăn nhất của
đất nước cũng như Giáo Hội. Người lãnh đạo lèo lái con thuyền Giáo Hội
phải đủ nghị lực, can trường và sáng suốt mới đi đúng hướng, đúng đạo pháp
được. Ðến năm 1975, Ngài lại phải gánh theâm một trách vụ nặng nề nữa, là
xử lý thường vụ Viện Tăng Thống. Năm 1976, Ngài mở Ðại giới đàn Quảng Ðức
ở chùa Ấn Quang và làm Ðàn chủ.
Ðất nước đã được
thống nhất, Nam Bắc một nhà. Trước thực trạng đó, việc thống nhất Phật
giáo hai miền là cần thiết. Thấy được điều đó, ngày 23-01-1977 trong Ðại
hội kỳ 7 của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Ngài đã đưa ra thông
bạch nêu lên nguyện vọng ấy cụ thể như sau: Ðại hội cần ủy cho Giáo hội
Trung Ương tiếp tục vận động thống nhất Phật Giáo cả nước trong tinh thần
đạo pháp và truyền thống dân tộc.
Năm 1980, Ngài khai
Ðại giới đàn Thiện Hòa tại chùa Ấn Quang và Ngài làm Ðàn chủ. Ðây cũng là
Ðaïi giới đàn cuối cùng của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Và
cũng là giới đàn có số giới tử Tăng Ni đông nhất 1.500 người.
Sau bao gian lao,
vượt qua bao khó khăn trở ngại từ mọi phía, Ngài đã được các hệ phái Phật
giáo đề cử làm Trưởng ban vận động thống nhất Phật giáo. Không lâu sau đó
ngày 07-11-1981 Ðại hội Thống nhất Phật giáo được tổ chức tại chùa Quán Sứ
- Hà Nội, thành lập Giáo Hội toàn quốc với danh xưng “ Giáo Hoäi Phật giáo
Việt Nam”. Ngài được bầu làm Chủ Tịch Hội Ðồng Trị Sự Trung Ương - nhiệm
kỳ I.
Trách nhiệm Phật sự
khó khăn cho nền Thống nhất Phật giáo hoàn thành, đáng lẽ đã đến lúc Ngài
lui về an trú tại chốn già lam thanh tịnh. Nhưng Ngài đã không quản tuổi
già sức yếu, vẫn một lòng phụng sự đạo pháp. Ngài đã dẫn đầu Ðoàn đại biểu
Phật giáo Việt Nam tham dự Ðại hội lần thứ 5 (1979), lần thứ 6 (1982) của
Tổ chức Phật Giáo Châu Á Vì Hòa Bình (ABCP) họp tại Mông Cổ. Năm 1980,
Ngài làm trưởng đoàn đại biểu Tôn Giáo Việt Nam dự hội nghị các nhà Tôn
Giáo Thế Giới vì hòa bình và giải trừ quân bị, chống chiến tranh hạt nhân,
tổ chức tại Nhật Bản. Năm 1981, Ngài làm trưởng đoàn đại biểu Phật giáo
Việt Nam dự hội nghị các nhà hoạt động Tôn Giáo Thế Giới vì hòa bình và sự
sống, chống chiến tranh hạt nhân, tổ chức tại Liên Xô.
Năm 1983, Ngài tham
dự hội nghị các vị đứng đầu Phật giáo 5 nước Châu Á tổ chức tại thủ đô
Veintaine Lào. Cũng năm này, Ngài được cử làm Ủy viên Ðoàn Chủ Tịch Ủy Ban
Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam.
Vào những năm tháng
cuối đời, sau khi đã đem bao tâm lực coáng hiến cho sự chấn hưng Phật
giáo, cho sự phát triển và thống nhất các hệ phái dưới một mái nhà Phật
giáo, cho sự tu hành thăng tiến của lớp hậu sinh, sức khỏe của Ngài có
phần suy giảm nhiều.
Ngày 02 tháng 3 năm
Giaùp Tý, tức ngày 02 tháng 4 năm 1984, sau một cơn suy tim đột ngột, Ngài
đã thâu thần viên tịch tại Bệnh viện Thống Nhất, thọ 76 tuổi đời, 56 tuổi
đạo.
Ngoài những đóng góp
Phật sự từ ngày xuất gia cho đến ngày lãnh các trọng trách trong Giáo hội,
Hòa thượng Thích Trí Thủ còn để lại cho hậu thế nhiều sáng tác, dịch phẩm
có giá trị như:
- Kinh Phổ Hiền.
- Mẹ Hiền Quan Âm.
- Kinh Vô Thường.
- Kinh A Di Ðà (thể
thơ 4 chữ).
- Pháp Môn Tịnh Ðộ.
- Nghi Thức Phật
Ðản.
- Tứ Phần Luật.
- Nghi Thức Truyền
Giới Tại Gia và _ Bồ Tát Thập Thiện.
- Luật Tỳ Kheo.
- Ðể trở thành người
Phật tử.
- Kinh Bất Tăng Bất
Giảm.
- Thường Bất Khinh
Bồ Tát.
- Phát Bồ Ðề Tâm.
- Thử vạch qui chế
đào tạo Tăng tài.
- Nghi thức tụng
niệm hàng ngày của giới_Phật tử.
- Ðiều căn bản cho
giới Phật tử mới _ quy y v.v...
(và một số tác phẩm
văn thơ khác.)
Nói đến Hòa thượng,
là nói đến sự nghiệp thống nhất Phật giáo Việt Nam giữa các hệ phái, từng
giai đoạn lịch sử từ trước 1954 cho đến sau 1975 và cho đến khi hoàn thành
bản nguyện. Ngài là thuyền Bát Nhã đưa Phật giáo Việt Nam bước qua lịch sử
và làm nên lịch sử. Ngài đã đi qua, nhưng lịch sử vẫn còn lại ngàn năm với
công hạnh và hình bóng Ngài trong lòng bao thế hệ kế thừa.
_
Chú thích :
1) Hội Việt Nam Phật
Học vốn là hậu thân của Hội An Nam Phật Học, thành lập năm 1948 đặt trụ sở
tại soá 1B đường Nguyễn Hoàng - Huế.
HÒA THƯỢNG
THÍCH THIỆN TƯỜNG
(1917 - 1984)
Hòa thượng pháp danh
là Thanh Giới, tự Chơn Như, hiệu Thiện Tường, thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông
đời thứ 41. Ngài thế danh Ngô Văn Phải, sinh năm 1917 tại làng Bình Xuân,
tổng Hòa Lạc, tỉnh Gò Công (nay thuộc tỉnh Tiền Giang). Ngài xuất thân
trong một gia đình kính tin Phật đạo. Thân phụ là cụ Ngô Văn Chồn, thân
mẫu là cụ Ðỗ Thị Thơ, Ngài là con thứ hai trong gia đình có 5 anh em. Cô
em út sau này nối chí Ngài, xuất gia hiệu là Tịnh Quang cũng là một trong
hàng Ni chúng lỗi lạc.
Năm lên 9 tuổi, Ngài
sớm mồ côi cha, lại là lao động chính của gia đình. Vốn bản tính chơn chất
hiền hòa và chí hiếu, Ngài chịu khó với ruộng đồng lam lũ phụ giúp mẹ và
dạy bảo các em. Những lúc rảnh việc mùa màng, Ngài thường cùng mẹ lên chùa
lễ Phật nghe kinh, nhân duyên lần kết và hạnh nguyện xuất gia được nung
nấu trong lòng.
Ðến năm 19 tuổi
(Ðinh Sửu - 1937), nhân ngày Phật Ðản, Ngài tới chùa Long Quang, làng Bình
Thạnh làm lễ thế phát quy y với Hòa thượng trụ trì. Trải qua bốn năm tinh
tấn chuyên cần tu học, Ngài vẫn chưa thỏa mãn được việc thâm nhập kinh
tạng của mình, Ngài bèn khăn gói y bát nâu sòng lên Sài Gòn tá túc ở chùa
Linh Sơn công quả và tham học. Nơi đây, hạnh duyên được gặp Hòa thượng Lê
Phước Chí, Ngài cầu pháp thọ học sớm khuya chuyên cần và được truyền trao
nhiều pháp yếu.
Năm 1941, Ngài được
thọ tam đàn Cụ Túc giới tại chùa Xuân Quang ở thị xã Phan Thiết.
Năm 1943, Ngài cùng
sư huynh là Hòa thượng Thích Thới An cùng đi nhiều nơi tham học Phật pháp.
Hễ nghe đâu có bậc cao đức thì Ngài tìm đến xin thụ giáo. Do đó Ngài đã
gặp không ít bậc Thầy lỗi lạc như Hòa thượng Hòa Bình ở chùa Kim Huê, Hòa
thượng Bửu Ðạt ở chùa Linh Sơn - Sa Ðéc...
Năm 1944, Ngài về
làm trú trì chùa Long An ở Sa Ðéc, tại đây diễn ra cuộc hội ngộ đáng nhớ
giữa Ngài, Hòa thượng Thới An, Hòa thượng Khánh Phước với một Tăng khách
đặc biệt là Hòa thượng Hành Trụ, nhân một hôm Hòa thượng dừng bước trên
đường hoằng pháp. Cảm mến đạo hạnh và kiến thức quảng bác của Hòa thượng
Hành Trụ, ba vị đã cung thỉnh Hòa thượng lưu lại chùa Long An để mở Phật
Học Ðường nuôi dạy Tăng chúng tu học, tôn Hòa thượng làm Huynh trưởng kiêm
Hóa chủ ngôi chùa này. Bốn vị đồng phát nguyện kết nghĩa làm Tăng hữu trọn
đời kề vai sát cánh bên nhau trên con đường hoằng dương chánh pháp, tiếp
Tăng độ chúng.
Năm 1946, tiếp nối
phong trào chấn hưng Phật giáo sau khi chiến tranh chống Pháp tạm lắng, cả
bốn vị đều rời miền Tây lên Sài Gòn thành lập ngôi Tam Bảo ở vùng Khánh
Hội đặt tên là chùa Tăng Già để qui tụ Tăng chúng và mở trường đào tạo.
Ðây cũng là Phật hoïc đường đầu tiên ở Sài Gòn.
Năm 1947, nhận thấy
Tăng chúng và Ni chúng về học rất đông, các vị lại lập nên ngôi già lam
thứ hai ở gần đấy là chùa Giác Nguyên để tiếp độ chúng Tăng, còn chùa Tăng
Già để cho Ni chúng thọ học. Về sau, chùa Tăng Già được đổi tên là chùa
Kim Liên.
Năm 1950, cảm mến ân
đức và đạo hạnh của Ngài, Hội Vạn Thọ hiến cúng cho Ngài ngôi chùa Vạn Thọ
ở vùng Tân Ðịnh. Ngài về đấy an trụ và tiếp Tăng độ chúng. Từ đó trải hơn
10 năm sau, Ngài miệt mài với công việc hoằng dương chánh pháp và có công
gầy dựng trùng tu lại các ngôi già lam khác như: Tăng Già, Giác Nguyên,
Vạn Thọ, Thiền Lâm, Giác Minh, Quan Âm, Thiên Phước, Hội Tôn...
Năm 1960, Ngài trở
về làm Hóa chủ Tổ đình Giác Nguyên nhiếp độ tứ chúng thay ba vị huynh đệ
nhận trú xứ khác để hoằng dương Phật pháp.
Năm 1963, Ngài đã
cùng chư Tăng,Ni và quần chúng Phật tử tham gia đấu tranh chống chính
quyền Ngô Ðình Diệm kỳ thị tôn giáo, đòi bình đẳng và tự do tín ngưỡng.
Năm 1964, Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ra đời, từ năm 1973 liên tiếp ba nhiệm kỳ,
Ngài được cử giữ chức Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Tài chánh Kiến thiết.
Năm 1968, Ngài được
cử tham gia phái đoàn Phật giáo Việt Nam đi thăm các nước Phật giáo như
Singapore, Ðài Loan, Hồng Kông và Nhật Bản.
Năm 1969, Ngài làm
Hóa chủ kiêm Giám đốc Phật học viện Tổ đình Giác Nguyên.
Do giới hạnh trang
nghiêm, Ngài được các nơi cung thỉnh làm giới sư ở các giới đàn để truyền
trao giới pháp cho Tăng Ni trong những năm sau như: Giáo Thọ A Xà Lê tại
Ðại giới đàn chùa Ấn Quang năm 1973 và Ðại giới đàn Quảng Ðức năm 1977, Ðệ
nhất Tôn chứng Ðại giới đàn Thiện Hòa tại Ấn Quang năm 1980.
Năm 1981, Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam được thành lập, Ngài được cung thỉnh làm thành viên Hội
đồng Chứng minh Trung Ương.
Những năm sau đó, vì
tuổi già sức yếu, Ngài chỉ an trú nơi Tổ đình Giác Nguyên, chuyên tâm trực
tiếp dạy bảo đồ chúng, khuyến giáo tín đồ. Ngài còn dành thì giờ dịch
kinh, và lấy việc vãng sanh Tịnh độ làm yếu chỉ. Cũng như những bậc Cao
đức khác, biết trước ngày giờ trở về cõi Phật, Ngài khuyên chúng đệ tử cố
gắng tu trì, xả thân vì đạo pháp, noi gương đạo bạn giữa Ngài và ba vị
pháp hữu thực hiện lục hòa đoàn kết trong Tăng giới. Vào ngày 23 tháng 8
năm Giáp Tý, tức 18 tháng 9 năm 1984, Ngài xả nhục thân thâu thần về cõi
Phật, hưởng thọ 68 tuổi đời với 46 năm hành đạo.
Cuộc đời Ngài là một
tấm gương thân giáo với hạnh nguyện chấp tác lao động miệt mài, thể hiện
phương châm : “Nhứt nhựt bất tác, nhứt nhựt bất thực”, Ngài không nề hà
gian khổ trong mọi công tác xây dựng, trùng hưng chùa chiền.
Và còn hơn thế, với
một đức độ khả kính, Ngài tự nghiêm khắc với bản thân bằng hạnh Ðầu Ðà như
Tổ Ca Diếp. Khắp nơi đều khâm phục và kính trọng một bậc cao Tăng thẳng
thắn, trung thực đầy nghị lực hiếm có như Ngài.
HÒA THƯỢNG
TỊNH SỰ
(1913 - 1984)
Hòa thượng Tịnh Sự,
thế danh là Võ Văn Ðang, sinh năm Quí Sửu (1913), trong một gia đình có
truyền thống Nho giáo, tại một vùng quê miền Nam, xã Hòa Long, huyện Lai
Vung, tỉnh Ðồng Tháp. Thân phụ Ngài là cụ Võ Văn Tỏ, thân mẫu là cụ Trần
Thị Thông.
Năm 7 tuổi Ngài đã
học chữ Nho. Rất thông minh, Ngài được người đương thời gọi là “Thần đồng
Lê Quí Ðôn”. Do túc duyên sẵn có từ nhiều đời, đến năm 12 tuổi Ngài xuất
gia và thọ giới Sa Di tại chùa Bửu Hưng (Sa Ðéc). Thấy Ngài quá thông minh
nên Bổn sư đặt pháp danh là Thích Huệ Lực.
Năm 20 tuổi Ngài thọ
giới Tỳ kheo tại chùa Kim Huê-Sa Ðéc. Ðến năm 25 tuổi Ngài được bổ nhiệm
về trụ trì tại chùa Phước Ðịnh - Chợ Lách. Năm 30 tuổi Ngài trụ trì chùa
Viên Giác-Vĩnh Long. Năm 35 tuổi duyên lành đối với Phật giáo Nam Tông đã
chín mùi, Ngài được du học tại Chùa Tháp Campuchia, thọ giới theo Phật
giáo Nam Tông tại chùa Kùm Pung (Treyloko) ở Trà Pét.
Từ Campuchia Ngài có
thiện duyên du học tại Thái Lan, thọ giới Tỳ kheo tại chùa Pakknam
Bangkok. Ngài được thầy tế độ ban pháp danh là Tịnh Sự (Santakicco) vì
thấy Ngài chuyên tâm hành đạo. Tại xứ Phật giáo Thái Lan này, Ngài đã thực
hành hạnh đầu đà, tu thiền Minh Sát và học A Tỳ Ðàm (Abhidhamma) trong bảy
năm. Rời Thái Lan về Việt Nam, Ngài trở lại trụ trì chùa Viên Giác - Vĩnh
Long. Ngài bắt đầu mở mang truyền bá giáo pháp Nguyên Thủy. Ngài dạy Pháp
học A Tỳ Ðàm Pàli (Abhidhamma) và Pháp hành Tứ Niệm Xứ.
Muốn cho môn học
Abhidhamma được truyền bá rộng rãi nên vào năm 59 tuổi Ngài về trụ trì
chùa Siêu Lý - Sài Gòn. Mở trường chuyên dạy về môn Abhidhamma và dịch các
bộ sách Giáo Khoa Phật Học như Vi Diệu Pháp Sơ Cấp, Trung Cấp và Chánh
Tạng Abhidhamma.
Ngài đã đào tạo
nhiều thế hệ học trò Vi Diệu Pháp. Các thế hệ đệ tử này đã kế thừa sự
nghiệp của Ngài truyền baù môn Abhidhamma khắp nơi. Những thế hệ đệ tử Vi
Diệu Pháp đầu tiên hiện nay còn những vị tiêu biểu như Ðại Ðức Giác Chánh,
cư sĩ Vĩnh Phúc, cư sĩ Trần Quỳnh Hương đã có công đức duy trì và phát
triển môn học Abhidhamma.
Về phương diện đào
tạo Tăng tài, Ngài đã từng làm thầy Tế độ truyền giới xuất gia cho hàng
trăm Sa Di, Tỳ Kheo. Họ đã tiếp nối được sự nghiệp truyền bá giáo pháp của
Ngài một cách tốt đẹp.
Không những chỉ đào
tạo Tăng tài mà Ngài còn xây dựng rất nhiều cơ sở tự viện: chùa Viên Giác
(Vĩnh Long), chùa Long Linh, chùa Giác Phước, chùa Pháp Ðộ, chùa Trúc Lâm,
chùa Siêu Lý, chùa Thiền Quang 1, chùa Thiền Quang 2.
Ðiểm nổi bật nhất
trong sự nghiệp hoằng pháp của Hòa thượng là Ngài đã dịch hoàn thành Tạng
luận Pàli tức Tạng Abhidhamma gồm:
1) Bộ Pháp Tụ
(Dhammasangani).
2) Bộ Phân Tích
(Vibhanga).
3) Bộ Chất Ngữ (Dhà
kàthà).
4) Bộ Nhân Chế Ðịnh
(PuggalaPanntti).
5) Bộ Ngữ Tông
(Kàthà Vatthu).
6) Bộ Song Ðối
(Yamakam).
7) Bộ Phát Trí
(Patthana).
Ðó là phần chánh
tạng Abhidhamma. Sau đây là những dịch phẩm giáo khoa Adhidhamma được
giảng dạy tại các trường Phật Học Thái Lan.
1) Vi Diệu Pháp Sơ
Cấp.
2) Vi Diệu Pháp
Trung Cấp.
3) Vi Diệu Pháp Cao
Cấp.
4) Thanh Tịnh Ðạo.
5) Diệu Pháp Lý Hợp.
Sự nghiệp đạo pháp
của Ngài vô cùng to lớn. Nhất là Ngài đã dành hết đời mình để phiên dịch
trọn Tạng Vi Diệu Pháp (Luận Tạng PàLi). Qua công hạnh này, Ngài là một
ngôi sao mà càng nhìn chúng ta càng thấy sáng hơn.
Ðêm mùng 6 tháng 5
năm Giáp Tý, Ngài thọ bệnh. Nửa đêm hôm ấy Ngài cho gọi Chư Tăng để ban di
huấn và gởi lời sám hối đến Tăng chúng gần xa. Rồi Ngài an trú chánh niệm
và viên tịch lúc 6 giờ 15' sáng ngày 7 tháng 5 năm Giáp Tý (tức
05-06-1984), hưởng thọ 72 tuổi, hành đạo 52 năm.
Trước khi viên tịch
Ngài đã giảng về sự khổ, rồi mỉm cười tắt hơi thở cuối cùng. Ngài ra đi
nhưng sự nghiệp đạo pháp của Ngài vẫn còn ở lại với hậu tấn ngưỡng cầu
giải thoát khổ đau, để hằng an vui tự tại nơi Niết Bàn tịch tịnh.
HÒA THƯỢNG
THÍCH PHÁP TRÀNG
(1898 - 1984)
Hòa thượng Thích
Pháp Tràng, thế danh Ðồng Ngọc Tự, sinh năm Mậu Tuất (1898) tại thôn Tân
Long (nay là xã Tân Bình, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang). Song thân là cụ
Ðồng Văn Tỉnh và bà Ngô Thị Nơi. Gia đình Nho học, kính tín Phật đạo. Ngài
là người con thứ tám trong gia đình, người anh thứ hai xuất gia trước
Ngài.
Năm lên 7 tuổi, Ngài
đã được cha cho học chữ Hán. Năm lên 13 tuổi, do sức học tiến nhanh, tiếp
thu văn nghĩa thư kinh tốt nên Ngài được cha cho ra trường làng học chữ
Quốc ngữ.
Năm Mậu Ngọ (1918),
vừa tuổi 20, Ngài từ chối việc lập gia đình, kiên quyết xin cha mẹ cho
xuất gia và tìm đến chùa Khánh Quới (cùng thôn Tân Long) xin thế độ. Ðược
Hòa thượng Khánh Quới giới thiệu đến chùa Thiên Thai (Bà Rịa) đảnh lễ cầu
pháp với Hòa thượng Huệ Ðăng, được Hòa thượng đặt Pháp danh Trừng Tự, hiệu
Pháp Tràng, nối đời thứ 42 dòng Lâm Tế. Nhờ sự dạy dỗ của Hòa thượng Thiên
Thai, không bao lâu Ngài đã thông hiểu các kinh tạng và thiền luật.
Năm Mậu Thìn (1928),
chúc thọ giới đàn được mở tại chùa Phước Long (nay là Hội Xuân, Cai Lậy)
Ngài được mời tham dự với cương vị Giáo Thọ. Lúc bấy giờ Phật tử xã Mỹ
Phước Tây đem cúng chùa Khánh Long vào Tổ đình Thiên Thai, Hòa thượng
Thiên Thai nhận thấy Ngài đã đủ cơ duyên nên cử làm trụ trì chùa này. Nhờ
vào tài đức của Ngài, các hàng Phật tử đaõ đến quy y và lễ bái rất đông.
Năm Ất Hợi (1935),
Ngài tham dự giới đàn tại chùa Tiên Long (Biên Hòa) được cử làm Yết Ma A
Xà Lê.
Năm Ðinh Sửu (1937),
Ngài an cư tại Tổ đình Long Hòa (Bà Rịa) do Hòa thượng Thiên Thai đứng ra
tổ chức, Ngài được cử giữ chức Chánh Chúng.
Năm Mậu Dần (1938),
Ngài được Hòa thượng Thiên Thai ủy nhiệm đứng ra tổ chức giới đàn. Công
việc viên mãn tốt đẹp, Ngài được tấn phong Thượng Tọa (năm Ngài được 41
tuổi).
Từ đây, uy tín và
đức độ của Ngài đã lan tỏa khắp nơi, bắt nhịp với cao trào cách mạng ở
miền Nam, nên cán bộ cách mạng thường lui tới viếng thăm, đàm đạo để tranh
thủ sự ủng hộ, và Ngài đã nhiệt tình cộng tác. Cuoái tháng 11 năm 1940
(Canh Thìn) cuộc khởi nghĩa Nam kỳ bùng nổ, Ngài là một trong những người
đầu tiên có công lớn. Tuy vậy, khi tình hình bình ổn, các cuộc truy lùng,
bắt bớ của thực dân thêm dữ dội, những người cầm đầu cuộc khởi nghĩa ấy
lớp bị bắt, lớp bị lưu đày ra Côn Ðảo. Riêng Ngài nhờ Phật tử thân tín
giúp đỡ, nhanh chóng đưa Ngài sang chùa Phước Long, xã Tân Hợi, huyện Long
Mỹ, tỉnh Cần Thơ để ẩn tu. Mãi đến sau năm 1945 Ngài mới trở về quê cũ và
tìm đến chùa Liên Từ nơi người anh ruột của Ngài là Thầy Minh Tâm đang ở
tu. Ngài về đây là có mục đích liên lạc lại với các cơ sở cách mạng.
Năm Ðinh Hợi (1947),
Hòa thượng Minh Nguyệt đã về chùa Lieân Từ, cùng Ngài thành lập Hội Phật
Giáo Cứu Quốc huyện Cái Bè. Sau đó, Ngài được cử vào Ban Chấp Hành huyện,
rồi Ban Chấp Hành cấp tỉnh, và Ủy viên Kiểm soát Ban Chấp Hành Phật Giáo
Cứu quốc Nam bộ. Ngài đã đi đến hầu hết các nơi trong tỉnh vận động Tăng
Ni Phật tử, quyên tiền ủng hộ kháng chiến và chế tạo vũ khí.
Năm Mậu Tý (1948),
Ngài công tác ở Ban Chấp Hành Phật Giáo Cứu Quốc; Ủy viên Mặt Trận Liên
Việt tỉnh Mỹ Tho.
Những năm 1949-1950,
khi phong trào Phật Giáo Cứu Quốc bị giải tán, Ngài được cử vào làm đại
biểu Phật giáo trong Mặt Trận Liên Việt.
Ngày 10.10.1952,
trong chuyến công tác từ Mỹ Tho về Cai Lậy, Ngài bị bắt cùng với tiền
quyên góp ủng hộ kháng chiến và không ít tài liệu quan trọng. Ngài bị giam
ở khám số 7 (ở Mỹ Tho) và bị tra tấn trước khi đày lên Lộc Ninh. Ðến năm
Quý Tỵ (1953) Ngài mới được tự do, trở về tiếp tục công tác trong Mặt Trận
Lieân Việt Mỹ Tho.
Sau Hiệp định Genève
1954, Ngài nhận nhiệm vụ ở lại tại chỗ để đấu tranh đòi thi hành Hiệp
định, và đòi quyền dân chủ dân sinh, cùng tham gia Ban Chấp Hành Phật Giáo
Lục Hòa tỉnh Ðịnh Tường.
Năm 1956, Ngài đứng
ra vận động tổ chức ngày lễ Phật Ðản tại thành phố Mỹ Tho rất trọng thể.
Ngài thuyết phục chính quyền Sài Gòn cho vào nhà lao thăm các tù chính
trị, cung cấp thuốc men, thức ăn... Nhờ đó những cán bộ bị giam giữ đeàu
nắm được tình hình bên ngoài. Hình thức này tồn tại được hai năm thì bị
cấm hẳn. Ngài chuyển hướng khác, đầu tiên là vận động giúp đỡ đồng bào bị
nạn trong chiến dịch của chính quyền Ngô Ðình Diệm truy quét quân Bình
Xuyeân của tướng Bảy Viển ở vùng cầu chữ Y, Xóm Củi - Sài Gòn Chợ Lớn.
Cuối năm 1957, Ngài
đã thoát được đợt truy bắt của chính quyền Sài Gòn vào chùa Bửu Long,
Trung Lương - Mỹ Tho (lúc này Ngài trụ trì nơi đây). Ngài liền lánh sang
Bến Tre, đến chùa Bửu Long ở xã Phú Ðức, do một Phật tử dâng cúng Ngài.
Ngày 15.01.1960, Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam ra đời, Ngài được bầu làm Ủy viên Mặt
trận tỉnh Mỹ Tho.
Cuối năm 1964, Trung
ương Maët trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam mời Ngài tháp tùng đoàn đại
biểu dự Ðại hội Nhân dân Ðông Dương tổ chức tại Campuchia từ ngày 1 đến 9
tháng 3.1965. Ðoàn gồm 27 thành viên, do ông Huỳnh Tấn Phát dẫn đầu. Sau
hội nghị, Ngài còn được mời tham quan Angkor và các nơi khác ở Campuchia.
Sau khi về nước, Ngài được dự lớp Dân Vận Mặt Trận tại Văn phòng Trung
ương. Hai tháng sau khi mãn khóa, Ngài về công tác ở Mặt trận Liên khu 8.
Nhờ đó, Ngaøi có dịp lui tới các vùng An Giang, Kiên Giang, Bến Tre, Mỹ
Tho, Gò Công. Trong một chuyến công tác, Ngài bị máy bay oanh kích bị
thương ở vai phải,
Năm 1969, Ngài cùng
Hòa thượng Thiện Hào được ủy nhiệm hướng dẫn phái đoàn Phật giáo sang
viếng tang Tăng Hoàng Campuchia.
Năm 1970, Trung ương
Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam cử Ngài tham gia phái đoàn dự Hội
nghị Cao cấp Nhân dân Ðông Dương, được tổ chức ở Campuchia. Sau đó, Ngài
về ngụ tại chùa Long Khánh (xã Long Thành, tỉnh Vĩnh Long) do Hòa thượng
Pháp Vân đang trụ trì.
Năm 1972, Ngài
chuyển địa bàn hoạt động lên Sài Gòn Chợ Lớn. Trên đường về Sài Gòn, ngày
27.6 Ngài bị bắt tại Phú Lâm, nhưng do không tìm được gì khác hơn nên sau
đó Ngài được trả tự do.
Năm 1973, Ngài được
cử đến gặp Ni Sư Huỳnh Liên ở Tịnh xá Ngọc Phương (đường Lê Quang Ðịnh -
Gò Vấp) để truyền đạt, bàn bạc các chỉ thị hoạt động của Tăng Ni tổ chức
biểu tình chống chế độ Sài Gòn.
Năm 1975, Ngài trở
lại Tiền Giang để thay mặt Quân Khu 8 kêu gọi Tăng Ni Phật tử đoàn kết và
dốc tâm sức xây dựng đất nước trong hoàn cảnh mới của nước nhà thống nhất.
Năm 1978, lúc này đã
80 tuổi, Ngài được mời về trụ trì chùa Phật Ấn tại thành phố Mỹ Tho.
Năm 1981, Ngài tham
dự Ðại hội Ðại biểu Thống nhất Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội và được suy
cử làm thành viên Hội Ðồng Chứng Minh Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt
Nam.
Ngày 17.3.1984, Ngài
trở lại thăm quê hương (Cai Lậy - Tiền Giang) lần sau cùng. Tối đêm ấy,
đang ngồi tham dự một ván cờ tướng, Ngài đột ngột qua đời. Hưởng thọ 86
tuổi, 45 năm tham gia cách mạng và 66 năm sống trong Ðạo pháp.
Kim quan Ngài được
đưa về chùa Vĩnh Tràng và Bảo tháp được xây dựng trong khuôn viên chùa
này.
Ngài đã được Nhà
nước tặng thưởng các huân huy chương:
- Huân chương Kháng
chiến hạng nhất.
- Huân chương chống
Mỹ hạng nhất.
- Bằng khen của Mặt
trận Tổ quốc tỉnh Tiền Giang.
HÒA THƯỢNG
THÍCH THANH TRÍ
(1919 - 1984)
Hòa thượng thế danh
là Hồ Văn Liêu, húy Tâm Huệ, pháp hiệu Thích Thanh Trí, thuộc dòng Lâm Tế
đời thứ 43. Ngài sinh ngày mồng 1 tháng 10 năm Kỷ Mùi (21-11-1919) tại
làng Phước Yên, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Ðiền (nay là Hương Ðiền), tỉnh
Thừa Thiên. Là con trai độc nhất trong một gia đình có năm anh chị em.
Thân phụ là cụ ông Hồ Văn Sừng. Thân mẫu là cụ bà Tô Thị Thục.
Xuất thân trong một
gia đình nề nếp, thấm nhuần đạo Phật, hằng ngày thường lui tới ngôi Sắc tứ
Quảng Phước Tự trong làng, nên Ngài sớm có ý nguyện xuất gia học đạo. Năm
12 tuổi, Ngài đã xin phép song thân vào Huế, tìm đến chùa Từ Hóa, đảnh lễ
Ðại lão Hòa thượng Trừng Diên, xin xuất gia và được Hòa thượng hứa khả. Từ
đó Ngài chăm lo học tập kinh luận, tìm hiểu Phaät pháp. Ðến năm 1936, Ngài
đúng 18 tuổi, được thọ giới Sa Di tại giới đàn chùa Ðại Bi tỉnh Thanh Hóa,
do Ðại lão Hòa thượng Thích Huệ Minh trú trì chùa Từ Hiếu làm Ðàn đầu Hòa
thượng.
Tuy còn là Sa Di,
nhưng với tư chất thông minh, đạo hạnh gương mẫu, nên năm 1940 (22 tuổi),
Ngài được Phủ Tôn Nhơn hoàng tộc xin Giáo hội cho trú trì chùa Diệu Hỷ
thành phố Huế. Hai năm sau, Ngài lại được Giáo hội và Tổ đình Báo Quốc mời
làm Tri sự của Tổ đình. Năm 1948, lúc 30 tuổi, Ngài thọ Cụ Túc giới tại
Ðại giới đàn Báo Quốc do Hòa thượng Thích Tịnh Khiết làm đàn đầu. Sau đó
Ngài được Giáo hội lần lượt giao nhiều trách nhiệm quan trọng.
Năm 1953, Ngài là Ủy
viên Tài chánh của Giáo hội Tăng già Trung Việt. Cũng trong năm này, Ngài
đã cùng Giáo hội sáng lập trường tiểu học Hàm Long với mục đích mở mang về
thế học cho chúng điệu để có được trình độ kiến thức phổ thông góp phần
xứng đáng cho sự nghiệp của Giáo hội. Ðến năm 1957 trường này đã mở lên
đến bậc trung học.
Năm 1959, Ngài đứng
ra hưng công đại trùng tu Tổ đình Báo Quốc bằng vật liệu nặng nhưng vẫn
giữ được nét cổ kính của lối kiến trúc Á Ðông.
Năm 1963 gặp lúc
pháp nạn, Ngài đã cùng chư tôn giáo phẩm, Tăng Ni, Phật tử đứng lên tranh
đấu đòi hỏi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo, cùng bị bắt đêm
20-8-1963 khi chính quyền Ngô Ðình Diệm tấn công chiếm chùa.
Năm 1964 Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập, Ngài được mời làm Ðặc ủy Tài
chánh Kiến thiết của Tỉnh Giáo Hội Thừa Thiên và Thành phố Huế. Hai năm
sau, Ngài được cử làm Chánh Ðại Diện Tỉnh Giáo Hội kiêm Giám tự Phật học
viện Báo Quốc - Huế.
Tết Mậu Thân 1968,
Tổ đình Báo Quốc không may bị bom đạn tàn phá nặng nề, Ngài lại một lần
nữa đứng ra kêu gọi sự tùy hỷ đóng góp của tín đồ để đại trùng tu Tổ đình.
Ðầu xuân 1970, tại
buổi họp của Tổ đình, theo thư đề nghị của Hòa thượng Trí Thủ, Ngài được
mời đảm nhiệm trú trì Phật học viện Báo Quốc thay Hòa thượng đang bận Phật
sự của Viện Hóa Ðạo tại Sài Gòn. Nhưng Ngài vẫn từ chối, chỉ giữ chức Giám
tự như cũ, thay mặt Hòa thượng Trí Thủ đảm đương Phật sự của Tổ đình và
cùng với Ban quản trị Phật học viện Báo Quốc chăm lo việc giáo dưỡng Tăng
sinh.
Tháng 8 năm 1972,
Ngài được Giáo Hội mời giữ trọng trách Chánh Ðại Diện lần nữa của tỉnh
Thừa Thiên và Thành phố Huế, thay thế Hòa thượng Thích Mật Nguyện mới viên
tịch. Với tình cảm yêu quê hương làng xóm, năm 1974 Ngài đã cùng dân làng
Phước Yên, nơi chào đời của Ngài, trùng tu ngôi Sắc tứ Quảng Phước Cổ Tự
mà thuở thiếu thời Ngài hằng lui tới lễ Phật, nghe kinh.
Năm 1977,Ngài được
mời làm Tôn chứng của Ðại giới đàn tổ chức tại chùa Ấn Quang,Sài Gòn, và
làm đàn chủ của giới đàn tổ chức tại chùa Báo Quốc-Huế. Cũng năm này, Ngài
chính thức là Ủy viên của Hội đồng Giáo Phẩm Trung ương Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam Thống Nhất.
Ngày 25-5-1979,Ngài
được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Bình Trị Thiên mời vào phái đoàn đi thăm
tỉnh kết nghĩa Savannakhet của nước Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào.
Ðầu xuân Canh Thân
(1980) trước nhu cầu của lịch sử, Ngài được mời vào Ban vận động Thống
nhất Phật giáo toàn quốc. Trong Ðaïi hội Thống nhất Phật Giáo 1981, Ngài
được cử làm Ủy viên Hội đồng Trị sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Tháng tư
năm Nhâm Tuất (1982), trong đại hội thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
tỉnh Bình Trị Thiên, Ngài được baàu giữ chức Trưởng Ban Trị Sự tỉnh kiêm
Chánh Ðại Diện Giáo Hội thành phố Huế. Năm 1983 Ngài lại được bầu vào Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh.
Ngài không những chỉ
lo tu trì, mà còn chỉ đạo tổ chức tự túc về kinh tế cho Tăng Ni như thành
lập các Tổ hợp chế biến vị trai Lá Bồ Ðề, các Tổ hợp nông nghiệp, các Tổ
hợp đan thêu, các Tổ hợp tiểu thủ công nghiệp khác. Nhờ đó mà Tăng Ni có
điều kiện làm ra của cải vật chất, đóng góp lợi ích chung cho xã hội và
cải thiện sinh hoạt nơi tự viện.
Suốt cuộc đời Ngài
đã dành tâm lực và trí tuệ cộng sự chặt chẽ với Hòa thượng Thích Trí Thủ
trong việc phụng sự Phật pháp, đào tạo Tăng sinh không mệt mỏi. Khi được
tin Hòa thượng Thích Trí Thủ viên tịch, Ngài đã vào Sài Gòn và nhận làm
chấp lệnh cho Tang lễ.
Ðám tang cố Hòa
thượng Thích Trí Thủ vừa xong, chỉ mười ngày sau Ngài cũng viên tịch tại
Tu viện Quảng Hương Già Lam Sài Gòn vào lúc 13 giờ 30' ngày 13 tháng 3 năm
Giáp Tý (13-4-1984), hưởng thọ 66 tuổi đời, 40 tuổi hạ. Kim quan của Ngài
được đưa về Huế nhập tháp tại chùa Báo Quốc.
HÒA THƯỢNG
THÍCH HÀNH TRỤ
(1904 - 1984)
Hòa thượng pháp danh
Thị An, pháp tự Hành Trụ, pháp hiệu Phước Bình, thuộc dòng Lâm Tế Chúc
Thánh đời thứ 42. Ngài thế danh là Lê An, sinh năm 1904 trong một gia đình
trung nông tại làng Phương Lưu, huyện Ðồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Thân phụ là
cụ Lê Uyển, thân mẫu là bà Nguyễn Thị Sử. Ông Bà có bốn người con, cả ba
người con trai đều xuất gia đầu Phật.
Ngài xuất gia năm 12
tuổi ở chùa làng, đến năm 19 tuổi, được Hòa thượng Giải Tường chùa Phước
Sơn thế độ làm đệ tử và tu học tại đây. Năm 22 tuổi Ngài thọ Cụ Túc giới
và giữ chức thư ký trong chùa.
Với phong cách đĩnh
đạc và say mê học hỏi, Ngài đã trau giồi kinh luật nội điển cùng Quốc văn
ở hầu hết các trường hạ, khóa học được tổ chức bấy giờ ở khắp các đạo
tràng chùa Thiên Phước - Thủ Ðức năm 1934; đạo tràng Tổ đình Bát Nhã - Phú
Yên năm 1935...
Gặp lúc phong trào
chấn hưng Phật giáo đang phát triển, Ngài vào Nam tham học ở Thích Học
Ðường Lưỡng Xuyên do các Hòa thượng Khánh Hòa, Khánh Anh, Huệ Quang lãnh
đạo.
Năm 1936, Ngài được
tiến cử làm Giáo Thọ sau khóa trường Hương do Hội Lưỡng Xuyên Phật Học tổ
chức tại chùa Long Phước-Vĩnh Long. Sau đó, Ngài được cử ra Huế học tại
Phật học đường chùa Tường Vân, rồi đến chùa Tây Thiên với học Tăng cả ba
miền tham dự, do Quốc Sư Phước Huệ làm pháp chủ giảng dạy.
Năm 1940, vì bệnh
trầm trọng, Ngài phải trở vào Nam điều trị, và ở lại giảng dạy tại Ni
trường chùa Kim Sơn - Phú Nhuận.
Năm 1942, Ngài được
Tổ Khánh Hòa bổ về Sóc Trăng làm Giáo Thọ giảng dạy ở chùa Hiệp Châu, chi
hội Kế Sách của Hội Lưỡng Xuyên Phật Học và chùa Viên Giác tại Vĩnh Long.
Năm 1945, Ngài được
Hòa thượng Vạn An đưa về làm Giáo thọ giảng dạy tại chùa Hội Phước, Nha
Mân tỉnh Sa Ðéc. Trong thời gian ấy, Ngài làm Ðệ nhất Yết ma Ðại giới đàn
chùa An Phước, Châu Ðốc. Sau đó, Ngài về chùa Long An ở Sa Ðéc, tại đây đã
kết nghĩa pháp đạo huynh đệ cùng ba vị Khánh Phước, Thới An, Thiện Tường,
và mở Phật học đường. Chư Tăng khắp lục tỉnh hội tụ về tu học rất đông.
Xuất thân từ đây có các Hòa thượng Từ Nhơn, Hòa thượng Huệ Hưng...
Năm 1946, Ngài với
ba vị sư đệ kết nghĩa lên Sài Gòn hợp nhau lập chùa Tăng Già, hiện nay là
chùa Kim Liên, để tiếp độ chúng Tăng tựu về tu học. Ðây là Phật học đường
đầu tiên ở đất Sài Gòn trong phong trào chấn hưng Phật giáo, mở đường cho
các Phật học viện sau này phát triển.
Năm 1947, Ngài lại
cùng ba vị sư đệ dựng nên ngôi già lam thứ hai là chùa Giác Nguyên để
chuyển chư Tăng về đây tu học, chùa Tăng Già biến thành trường Phật học
dành cho Ni chúng. Hai đạo tràng này ngày thêm vang tiếng và Tăng Ni khắp
nơi về học rất đông, góp phần lớn trong công cuộc chấn hưng Phật giáo tại
đất Sài Gòn bấy giờ. Ngài đảm nhiệm Giám đốc Phật học đường Giác Nguyên và
Hóa chủ Phật học Ni trường Tăng Già.
Năm 1948, Ngài mở
Ðại giới đàn tại Phật học đường Giác Nguyên để truyền trao giới pháp cho
Tăng Ni thọ trì tu học. Sau Ngaøi được đề cử làm Trưởng ban Nghi Lễ của
Giáo Hội Tăng Già Nam Việt vào năm 1951, làm Chứng minh Ðạo sư Hội Phật
Học Nam Việt tại chùa Xá Lợi Sài Gòn cho đến cuối đời (1956 - 1984), và
làm Trưởng đoàn Phật giáo Việt Nam tham dự Hội nghị Phật giáo Thế giới kỳ
4 tại Nam Vang năm 1957.
Năm 1963, Ngài khai
mở Phật học đường Chánh Giác tại chùa Chánh Giác-Gia Ðịnh do Ngài làm Giám
đốc kiêm trụ trì. Sau đó Ngài về trụ trì thêm chùa Ðông Hưng ơû Thủ Thiêm
và chọn nơi này làm chốn tĩnh tu nhập thất vào những mùa An Cư Kiết Hạ.
Năm 1967 - 1969,
Ngài làm Giới Sư các Ðại giới đàn Hải Ðức ở Phật học viện Hải Ðức-Nha
Trang và Quảng Ðức ở Phật học viện Huệ Nghiêm-Sài gòn.
Năm 1971, Ngài được
suy cử làm Phó Chủ Tịch Hội Ðồng Giám Luật Viện Tăng Thống Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Năm 1975 - 1977 -
1980, liên tiếp Ngài làm Ðàn đầu Hòa thượng các Ðại giới đàn tại chùa Ấn
Quang do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất mở ra để truyền trao giới
pháp cho giới tử toàn quốc.
Từ năm 1977-1981,
Ngài kiêm chức Tổng vụ trưởng Tổng Vụ Tăng Sự của Giáo Hội Phật Giáo Việt
Nam Thống Nhất.
Năm 1981, Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam được thành lập, Ngài được cung thỉnh vào làm thành viên
Hội Ðồng Chứng Minh Trung Ương.
Nhận thấy thời gian
đồng hành với lão bệnh, phát sinh nơi thân tứ đại, từ năm 1976 trở đi,
Ngài phát nguyện nhập thất an tịnh cho đến khi về cõi Phật. Vào ngày 29
tháng 10 năm Giáp Tý (1984), huyễn thân Ngài nhẹ nhàng chuyển hóa. Ngài
trụ thế 80 năm, được 59 hạ lạp, để lại trong tâm tưởng đàn hậu tấn niềm
tri ân vô hạn bởi một sự nghiệp vô cùng.
Ngài có công đức lớn
trong nhiệm vụ giáo dục đào tạo nhiều thế hệ Tăng tài, và truyền thừa
chính pháp qua việc phiên dịch, ấn hành nhiều kinh luật phổ biến với các
tác phẩm để lại:
- Sa Di luật giải.
- Qui Sơn cảnh sách.
- Tứ phần giới bổn Như Thích.
- Phạm Võng Bồ Tát giới.
- Kinh A Di Ðà sớ sao.
- Kinh Vị Tằng Hữu Thuyết Nhân
Duyên.
- Kinh Hiền Nhân.
- Kinh trừ khủng tai hoạn.
- Tỳ Kheo giới kinh.
- Khuyến phát Bồ Ðề tâm văn.
- Long Thơ Tịnh Ðộ.
- Sơ Ðẳng Phật học giáo khoa
thư.
- Nghi thức Lễ Sám.
- Kinh Thi Ca La Việt.
- Sự tích Phật giáng thế.
Hòa thượng là vị Sư Biểu của
hàng Cao Tăng đạo cao đức trọng, uy kính trong Tăng Già. Coâng hạnh của
Ngài mãi còn được sự ngưỡng vọng trong lòng Tăng Ni, Phật tử Việt Nam.
HÒA THƯỢNG
GIỚI NGHIÊM
(1921 - 1984 )
Hòa Thượng Giới Nghiêm thế danh
là Nguyễn Ðình Trấn, sinh ngày 5 tháng 5 năm 1921, tại làng Gia Lê Thượng,
xã Thủy Phương, huyện Hương Phú, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Ngài xuất thân
trong một gia đình gồm ba anh em, có tinh thần yêu nước và có truyền thống
đạo đức lâu đời. Ông nội là bậc xuất gia, cha là Hòa thượng Quang Diệu,
chú cũng xuất gia, bác là Hòa thượng Phước Duyên.
Năm 9 tuổi (1930), Ngài xuất
gia tại chùa Bãng Lãng - Huế thuộc hệ phái Bắc truyền. Sau đó Ngài được
thọ giới Sa Di.
Ðến năm 19 tuổi (1940 - Canh
Thìn), Ngài thọ giới Tỳ Kheo tại Ðại giới đàn chùa Phổ Ðà - Ðà Nẳng.
Trong thời gian này, Phật giáo
Nam Tông bắt đầu du nhập vào Việt Nam. Nhờ vậy Ngài có dịp nghiên cứu giáo
lý Nguyên Thủy.
Năm 1944, Ngài được sang du học
tại Phnômpênh- Campuchia. Năm 1947 Hòa Thượng Niếp Tích truyền giới Tỳ
Kheo theo truyền thống Nam Tông - Theràvada cho Ngài. Ngài được học đạo
với Ðức vua sãi Campuchia, Hòa Thượng Chuon Nath.
Sau đó Ngài sang du học ở Thái
Lan và Miến Ðiện. Tại Miến Ðiện, Ngài được học thiền tứ niệm xứ với Ngài
thiền sư Mahàsi Sayàdaw.
Sau hơn mười năm du học nước
ngoài, Ngài trở về Việt Nam để hoằng khai Phật Giáo Nguyên Thủy.
Năm 1957, Ngài cùng caùc vị
Trưởng lão Hòa thượng Hộ Tông, Bửu Chơn, Thiện Luật, Tối Thắng, Giác
Quang, Kim Quang, pháp sư Thông Kham vận động thành lập Giáo Hội Tăng Già
Nguyên Thủy Việt Nam.
Khi Giáo Hội Tăng Già Nguyên
Thủy Việt Nam chính thức thành lập, Ngài được đề cử giữ chức vụ Phó Tổng
thư ký, nhưng vì Ngài có khuynh hướng cách mạng nên chính quyền Ngô Ðình
Diệm không duyệt cho Ngài giữ chức vụ trong Giáo Hội. Khi chính quyền Ngô
Ðình Diệm sụp đổ, Ngài được bầu làm Tăng Thống trong bốn nhiệm kỳ từ năm
1964-1971.
Năm 1963 trong phong trào đấu
tranh chống kỳ thị tôn giáo của chế độ Ngô Ðình Diệm, Ngài bị bắt tại Sơn
Trà. Năm 1966, Ngài tham gia đấu tranh chống chế độ lao tù tại các nhà
giam Mỹ-Ngụy - Ðà Nẵng và Gành Ráng - Qui Nhơn.
Năm 1975, Ngài tham gia Ban
Liên lạc Phật giáo Yêu nước Thành phố HCM và giữ chức vụ Phó Chủ Tịch.
Năm 1979, Ngài được tái cử chức
Tăng Thống Giáo Hội Tăng Giaø Nguyên Thủy Việt Nam. Cũng trong năm 1979,
Ngài được thỉnh tham gia giáo đoàn chư Tăng Phật Giáo Nguyên Thủy Việt Nam
đi Campuchia để làm thầy tế độ cho các sư sãi đã bị Khmer đỏ bắt hoàn tục.
Từ đó Phật Giáo Campuchia đã được phục hồi vững mạnh và thắt chặt tình
đoàn kết Việt Nam-Campuchia.
Năm 1980, Ban vận động thống
nhất Phật Giáo Việt Nam được thành lập, Ngài tham gia vào Ban vận động với
tư cách Phó Trưởng ban.
Năm 1981, Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam ra đời, Ngài được thỉnh vào Hội đồng Chứng minh và được đề cử làm
Phó Chủ Tịch Hội Ðồng Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
Trong cuộc đời hoằng hóa hành
đạo, Ngài đã tham dự nhiều hội nghị quốc tế về Phật giáo, đặc biệt là tham
dự hội nghị kết tập Tam Tạng lần thứ 6 tại Rangoon - Miến Ðiện.
- Về sự nghiệp giáo dục đào tạo
Tăng lữ, Ngài đã mở một Phật học viện sơ cấp tại chùa Tam Bảo - Ðà Nẵng và
một Phật học viện Trung đẳng tại chùa Phật Bảo tại quận Tân Bình - Sàigon,
nơi Ngài làm viện chủ và tiến sĩ Thiện Giới làm Giám Ðốc. Phật học viện
đào tạo nhiều Tăng tài cho hệ phái Nam Tông.
Sau khi học thiền tứ niệm xứ ở
Miến Ðiện, trở về nước, Ngài mở trung tâm thiền tứ niệm xứ tại Tam Bảo Tự
núi Lớn-Vũng Tàu, đào tạo nhiều hành giả thiền sinh thâu đạt kết quả pháp
hành tốt đẹp. Sau 1975, Ngài tiếp tục mở nhiều khóa thiền tại chùa Phật
Bảo nơi Ngài trụ trì.
- Về sự nghiệp sáng tác dịch
thuật, Ngài đã dịch và cho in các tác phẩm sau đây:
1/. Thiền Tứ Niệm Xứ.
2/. Mi Tiên vấn đáp 1,2,3.
3/. Lịch sử Phật Tổ Gotama.
4/. Giải về kiếp.
5/. Dạ Xoa hỏi Phật.
6/. Ðế Thích vấn đạo.
7/. Pháp số giảng giải.
8/. Luật tạng Pàli.
Ngoài ra, còn một số kinh Ngài
đang dịch dở dang, hoặc còn trong bản thảo hiện lưu giữ tại chùa Phật Bảo.
- Về sự nghiệp xây dựng chùa
chiền, từ miền Nam ra miền Trung, lên Cao Nguyên, ở đâu cũng có dấu chân
Ngài bước đến để hoằng khai đạo mầu.
Ngài đã kiến lập các tự viện
như chùa Ðịnh Quang (Ở làng Giạ Lê), Tăng Quang (Huế), Tam Bảo (Ðà Nẵng),
Nam Quang (Hội An), Tăng Bảo (Quảng Ngãi), Bửu Sơn, Pháp Quân (Ðà Lạt),
Pháp Bảo (Mỹ Tho), Bình Long (Phan Thiết), Phước Sơn (Ðồng Nai), Tam Bảo
Thiền Viện (Bà Rịa - Vũng Tàu) và Phật Bảo Thành phố Hồ Chí Minh).
Hòa Thượng Giới Nghiêm có số đồ
chúng xuất gia đông đảo nhất trong Phật Giáo Nam Tông Việt Nam, một số
hiện còn đang du học nước ngoài.
Hiện nay, những đệ tử trưởng
thành của Ngài là Hòa Thượng Hộ Nhẫn ở Huế, Hòa thượng Pháp Tri, Thượng
Tọa Viên Minh, Tâm Hỷ, Hộ Chơn v.v...
Năm 1984, Ngài lâm trọng bệnh,
sức khỏe kém dần và không hồi phục lại được. Ngài đã thâu thần thị tịch
lúc 10 giờ 10 phút ngày 13 tháng 7 năm Giáp Tý tức 09/8/1984 tại chùa Phật
Bảo, hưởng thọ 63 tuổi, với hơn 50 năm dốc lòng hoằng đạo.
Hằng năm, vào mùa Vu Lan Báo
Hiếu (13/7 Â.L) toàn thể tăng tín đồ Phật Giáo Nam Tông và Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam làm lễ tưởng niệm Hòa thượng, một thiền sư, một bậc Thầy từ
hòa khả kính, đức độ cao thâm, một vị giáo phẩm tôn túc của Phật Giáo Việt
Nam.
HÒA THƯỢNG
THÍCH PHÚC HỘ
(1904 - 1985)
Hòa thượng Thích Phúc Hộ, thế
danh là Huỳnh Văn Nghĩa, sinh ngày 24 tháng 7 năm Giáp Thìn (1904) đời vua
Thành Thái năm thứ 16 tại làng Triều Sơn, xã Xuân Thọ, huyện Ðồng Xuân,
tỉnh Phú Yên. Song thân của Ngài là cụ ông Huỳnh Trung và cụ bà Trần Thị
Nho.
Năm Mậu Tý (1912), Ngài được
song thân cho lên chùa Từ Giác trong địa phương, học chữ Nho với Ðại sư
Thiện Hạnh. Lúc này Ngài mới lên 9 tuổi. Sau sáu năm miệt mài đèn sách với
sự dạy dỗ ân cần của vị thầy đầu tiên kiêm thông y lý, Ngài dần dần quen
thuộc, quyến luyến với cảnh chùa am, cộng với túc duyên nhiều đời thôi
thúc, Ngài quyết chí xuất gia học đạo.
Năm Bính Tý (1917),Ngài vừa 14
tuổi được song thân ưng thuận và đưa tới chùa Sắc Tứ Phước Sơn (Ðồng Tròn)
thuộc xã Xuân Sơn cùng huyện, xuất gia với Hòa thượng trú trì hiệu Thiền
Phương, thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh đời thứ 41. Ngài được Hòa thượng ban
cho pháp danh là Thị Chí, tự Hành Thiện. Tại đây, suốt năm năm, vừa tu học
vừa chấp lao phục dịch, hầu cận bên thầy, Ngài đã làm tròn phận sự của một
người sơ tâm hành đạo.
Năm Nhâm Tuất (1922), chùa Linh
Sơn (Hòn Chồng) thuộc thôn Ngân Sơn, xã An Thạch, huyện Tuy An, trong tỉnh
mở Ðại giới đàn, Ngài được Bổn sư cho đến đó thọ Cụ Túc giới. Ðại giới đàn
này do Hòa thượng Hoằng Hóa làm Ðàn đầu. Bấy giờ Ngài mới 19 tuổi, là Thủ
Sa Di, lại thiết tha cầu giới, và có oai nghi tế hạnh, nên được Hòa thượng
Ðàn đầu cảm mến, cho đặc cách tấn đàn thọ giới. Nhân đó Ngài cũng được Bổn
sư ban cho pháp hiệu Thích Phúc Hộ.
Sau khi thọ lãnh giới pháp
xong, Ngài trở về chùa cũ hầu hạ Bổn sư, tinh tấn tu học, ròng rã hơn mười
năm. Năm Nhâm Thân (1932), Ngài đươïc Bổn sư cho ra Huế tham học với Hòa
thượng Giác Viên ở chùa Hồng Khê. Một năm sau (1933), được tin Bổn sư lâm
trọng bệnh, Ngài vội vã quay về lo hầu hạ chăm sóc. Tháng 6 năm đó, Ngài
được hội đồng chư sơn bản tỉnh Phú Yên cử làm trú trì chùa Sắc Tứ Từ
Quang, thường gọi chùa Ðá Trắng, thuộc thôn Cầu Lương, xã An Dân, huyện
Tuy An, trên đèo Vườn Xoài.
Ngôi chùa này là một Tổ đình
danh thắng, do tổ Pháp Chuyên Thiền Sư, thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 36 khai
sáng vào năm Ðinh Tỵ (1797), đời vua Nguyễn Quang Toản niên hiệu Cảnh
Thịnh nhà Tây Sơn. Tuy Ngài nhận làm trú trì, song Hòa thượng trưởng lão
Pháp Ngữ đương vị trú trì hãy còn khỏe mạnh, nên Ngài chỉ phụ tá. Do đó
Ngài có nhiều thời gian đi đây đi đó để hoằng dương chánh pháp. Mãi tới
năm Ất Dậu (1945),Hòa thượng Pháp Ngữ viên tịch, Ngài mới chính thức trú
trì chùa Từ Quang.
Mùa hạ năm Giáp Tuất (1934),
lúc Ngài 30 tuổi, chư sơn tỉnh Khánh Hòa thỉnh Ngài vào giữ chức Giáo thọ
giới đàn tại chùa Thiên Bảo, huyện Ninh Hòa. Với tinh thần cầu học lúc nào
cũng tha thiết, mùa Ðông năm ấy Ngài lại xin Bổn sư cho ra Bình Ðịnh tham
học với Hòa thươïng Phước Huệ tại chùa Sắc Tứ Thập Tháp Di Ðà. Ðến năm
Ðinh Sửu (1937), Ngài nhận lời mời của Hòa thượng Huệ Ðạo ở Phan Rang, vào
giảng dạy Phật pháp cho Tăng sinh tại Phật học đường gia giáo chùa Tây
Thiên thuộc tỉnh Ninh Thuận.
Năm Mậu Dần (1938), Ngài trở về
Phú Yên, hợp tác với Chư sơn, mở Phật học đường tại chùa Bảo Lâm, thôn
Liên Trì, nay thuộc xã Bình Kiến, thị xã Tuy Hòa. Ngài kiêm luôn chức Giáo
thọ.
Năm Tân Tỵ (1941), Ngài nhaän
lời mời của Tổng Trị Sự Hội Việt Nam Phật Học Huế, ra làm giáo học lớp Sơ
Ðẳng Phật Học Ðường chùa Báo Quốc do Hòa thượng Thích Trí Thủ làm giám
đốc. Năm 1942, Ngài trở về Phú Yên, giúp việc cho Hội Phật Học tỉnh nhà,
thường xuyên giảng dạy giáo lý cho Tăng tín đồ Phật tử. Ðặc biệt ở Phú Yên
có lệ hàng năm, sau lễ Vu Lan rằm tháng bảy âm lịch, điệu chúng các chùa
thường tập trung về một Tổ đình để tu học đôi ba tháng rồi trở veà chùa
mình. Những lớp ấy được Ngài làm giáo thọ giảng dạy. Qua đó Ngài phát hiện
những nhân tố tích cực trong việc tu học, lẫn trí năng đạo hạnh của một số
Tăng sĩ để giới thiệu ra tham học ở Huế. Các vị này sau trở thành trụ cột
cho phong trào chấn hưng Phật giáo tại các tỉnh miền Nam Trung Việt, như
các Hòa thượng Hành Trụ, Trí Nghiêm, Phước Trí, Vĩnh Lưu, Trí Thành v.v...
Năm Ất Dậu (1945), khi Ngài trở
lại trú trì chùa Từ Quang, Ban Trị Sự Hội Phật Học tỉnh Phú Yên cung thỉnh
Ngài giữ chức Chánh Hội Trưởng Hội Phật Học tỉnh.
Năm Ðinh Hợi (1947), nhờ uy tín
sẵn có, Ngài đã kêu gọi hàng Phật tử hằng sản hằng tâm tại địa phương, kẻ
công người của, trùng tu lại chùa Từ Quang được khang trang.
Từ năm Kỷ Sửu (1949) đến năm
Giáp Ngọ (1954), liên tiếp năm năm liền, Ngài vẫn giữ chức Chánh Hội
Trưởng Hội Phật Học tỉnh Phú Yên, lèo lái con thuyền chánh pháp vượt qua
bao khó khaên của thời cuộc, giữ vững niềm tin cho Tăng tín đồ Phật tử.
Trong thời gian này, vào năm Nhâm Thìn (1952) chư sơn tỉnh Bình Ðịnh mở
Ðại giới đàn tại chùa Thiên Bình, cung thỉnh Ngài làm Yết Ma A Xà Lê của
giới đàn này.
Từ năm Kỷ Hợi (1959) đến năm
Quý Mẹo (1963), mặc dầu chính quyền độc tài gia đình trị Ngô Ðình Diệm ra
sức đàn áp, phong trào Phật giáo ở Phú Yên vẫn không ngừng được củng cố và
phát triển. Hai tổ chức Giáo Hội Tăng Già vaø Hội Phật Học Phú Yên qui tụ
Tăng Ni và Phật tử về một mối, đồng cung thỉnh Ngài giữ chức Hội Trưởng
cùng một lúc để lèo lái con thuyền chánh pháp qua cơn sóng gió. Thời gian
này, Ngài kêu gọi toàn thể tín đồ trong tỉnh phát tâm đóng góp xây dựng
ngôi trường Bồ Ðề - Tuy Hòa, từ bậc Tiểu học đến Trung học để giáo dục con
em Phật tử và đồng bào không đủ điều kiện vào học trường công. Ðồng thời
một Cô nhi viện Phật giáo cũng được xây dựng tại thị xã để nuôi dưỡng trẻ
mồ côi, giao cho chư Ni phụ trách.
Trong pháp nạn năm 1963, Ngài
là cây đại thụ chống đỡ ngôi nhà Phật giáo trước phong ba bão táp, và che
chở cho hàng Tăng Ni, Phật tử toàn tỉnh giưõ vững niềm tin. Nhờ uy tín của
Ngài mà các chùa chỉ bị bao vây phía ngoài, chứ bạo quyền không dám xâm
phạm vào trong. Việc thờ cúng và kinh kệ vẫn được duy trì như thường lệ.
Năm Giáp Thìn (1964), tại Ðại
hội Ðại biểu Phật giáo các tỉnh toàn miền Nam họp nơi chùa Xá Lợi (Sài
Gòn), Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập với hai viện
Tăng Thống và Hóa Ðạo ở Trung Ương, và các Ban đại diện, các tỉnh. Một lần
nữa, Tăng tín đồ Phật giáo tỉnh Phú Yên lại cung thỉnh Ngài nắm giữ chức
vụ Chánh đại diện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Phú Yên liên
tiếp trong ba nhiệm kỳ từ năm 1964 đến năm 1970. Trong thời gian này, Ngài
cùng Tăng tín đồ trong tỉnh trùng tu lại ngôi tổ đình Bửu Tịnh, nơi đặt
trụ sở của Tỉnh Giáo Hội, và là một di tích lịch sử do Tổ Liễu Quán khai
sáng, tạo nơi đây trở thành một cảnh già lam thanh tú ở trung tâm thị xã
Tuy Hòa.
Tháng 6 năm Mậu Thân (1968),
Ðại giới đàn Phước Huệ được tổ chức tại Phật Học Viện Nha Trang do Hòa
thượng Trí Thủ làm đàn chủ. Ngài được Hòa thượng Tăng Thống Thích Tịnh
Khiết mời thay Hòa thượng làm Ðàn đầu truyền giới pháp cho các giới tử.
Ðến tháng 9 cùng năm, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Bình
Ðịnh lại mời Ngài làm Ðàn đầu Hòa thượng tại Ðại giới đàn tổ chức tại chùa
Long Khánh ở Qui Nhơn.
Năm Tân Hợi (1971), Ngài được
cung thỉnh vào Hội Ðồng Trưởng Lão Viện Tăng Thống Giáo Hội Phật Việt Nam
Thống Nhất kiêm luôn chức Giám luật viện này. Những năm kế tiếp, Ngài còn
được Hòa thượng Thích Trí Thủ cùng Ban Giám đốc Phật Học Viện Trung Phần
tại Nha Trang cung thỉnh làm y chỉ sư trong các mùa an cư của chư Tăng.
Tháng 9 năm Quý Sửu (1973) Hòa thượng đàn chủ Thích Trí Thủ lại cung thỉnh
Ngài làm Ðàn đầu Hòa thượng Ðại giới đàn Phước Huệ tại Phật học viện Nha
Trang.
Ngày 07-11-1981, Ðại hội đại
biểu toàn quốc Phật Giáo lần đầu tiên sau ngày đất nước được thống nhất
họp tại chùa Quán Sứ- Hà Nội, đã cung thỉnh Ngài là một thành viên trong
Hội đồng Chứng minh Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
Tháng 8 năm 1982, Ðại hội đại
biểu Phật Giáo tỉnh Phú Khánh (lúc đó hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa còn
hợp nhất) cũng cung thỉnh Ngài làm Chứng Minh Sư cho tỉnh hội.
Vào những năm tháng cuối đời,
như biết trước việc ra đi theo luật vô thường, Ngài đã thuận lời thỉnh cầu
của Tăng tín đồ về an trú tại chùa Bửu Tịnh để tiện việc tiếp xúc tông
môn. Và đây cũng là nơi dừng chân cuối cùng trong cuộc đời hoằng hóa độ
sinh của Ngài. Ngày 11 tháng giêng năm Ất Sửu (31-01-1985) vào lúc 7 giờ
sáng, Ngài đã xả bỏ xác phàm về nơi an lạc, hưởng thọ 82 tuổi đời, 63 tuổi
đạo.
Hòa thượng Thích Phúc Hộ là tấm
gương tiêu biểu cho giới đức đạo hạnh để hàng Phật tử xuất gia cũng như
tại gia học tập. Lúc nào Ngài cũng ân cần sách tấn Tăng Ni và Phật tử tu
học. Bất luận sang hèn, giàu nghèo, mỗi khi có dịp tiếp xúc thăm viếng,
Ngài luôn khuyến hóa tinh thần tu niệm cầu giải thoát, giác ngộ. Với người
xuất gia Ngài thường dạy: “Làm sao cho đạo pháp trường tồn, ngày một rạng
rỡ. Các thầy là Tăng Bảo, là ruộng phước của tín đồ”. Với hàng Phật tử tại
gia, Ngài dạy: “Phải tùy theo hoàn cảnh mà giữ gìn, công cứ pháp môn Tịnh
Ðộ để cầu vãng sanh Cực lạc”...
Ngài luôn sống bình dị, lúc nào
cũng nghiêm khắc với bản thân, khiêm tốn với mọi người. Ai đã gặp Ngài một
lần cũng đều sinh lòng kính ngưỡng.
HÒA THƯỢNG
THÍCH THẾ LONG
(1909 - 1985)
Hòa thượng họ Phạm, pháp danh
Thế Long, sinh năm Kỷ Dậu (1909) tại xã Hải Anh, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam
Hà, trong một gia đình Nho phong thanh bạch có truyền thống thâm tín Phật
pháp. Ngài là người con út nhưng cũng là người con trai duy nhất của cụ
Phạm Văn Ngoan tức Ngôn và cụ bà Trần Thị Thanh, pháp danh Diệu Thái. Sau
khi sinh ra Ngài, cụ bà đồng ý để cụ ông xuất gia. Cụ Phạm Vaên Ngoan xuất
gia ở chùa Nội, thị trấn Cổ Lễ với pháp danh Thích Thanh Cát và cả hai
người chị gái của Ngài cũng xuất gia.
Năm 1915, nhân chuyến về thăm
nhà, sư cụ Thanh Cát đã khuyên gia đình cho Ngài xuất gia. Ngài được yeát
kiến Sư tổ Quang Tuyên (1) lúc đó đang trụ trì chùa Thủy Nhai, xã Xuân
Thủy, huyện Xuân Thủy - Nam Hà. Ngài xuất gia thế phát tại đây, sau đó
được sang chùa Thượng Phúc tham học.
Năm 1929, Ngài được Tam sư Thất
chứng trao truyền Cụ Túc giới, nối pháp đời thứ 46 dòng Tào Ðộng, sơn môn
Phú Ninh - Nam Ðịnh. Sau đó, Ngài được đến tham học tại Tổ đình Liên Phái
- Hà Nội.
Năm 1934, Tổ Quang Tuyên viên
tịch, Ngài trở về Cổ Lễ chịu tang và tiếp tục công việc kiến tạo chùa Cổ
Lễ mà nghiệp sư đang làm. Ngài thỉnh Sư tổ Thạch Cầu về chùa Cổ Lễ làm
thầy y chỉ, hoàn thành cây Cửu Phẩm, đúc được Ðại Hồng Chung nặng 9 tấn,
tạo dựng nhà hội quán và hoàn thành các công trình kiến trúc hai bên của
tòa chính điện. Ngoài ra, Ngài cũng tái tạo chùa Thủy Nhai, Thượng Phúc
v.v... Hàng năm, Ngài tổ chức lễ hội mừng đản sinh Thiền sư Không Lộ từ
ngày 11 đến ngày 14 tháng 9 âm lịch, có hàng vạn lượt người đến tham dự
cầu nguyện, chiêm bái.
Sau khi chùa Cổ Lễ được tôn tạo
hoàn chỉnh, Ngài thỉnh các bậc tôn túc Hòa thượng và Tăng Ni về kết túc an
cư trong 3 tháng hạ. Cứ duy trì đều đặn như vậy trong suốt hơn nửa thế kỷ.
Năm nào chùa Cổ Lễ cũng là trường hạ của Tăng Ni phía Nam tỉnh Nam Hà.
Ngài tận tâm trông nom cúng dường mọi vật dụng cần thiết để chư Tăng Ni an
tâm tu học, với cương vị là trụ trì, rồi đường chủ, chủ giảng trong các
khóa hạ. Có năm chư Tăng an cư gần 150 vị. Chùa Cổ Lễ cũng là nơi tổ chức
nhiều giới đàn của Phật giáo tỉnh Nam Hà. Ngài được mời làm Hòa thượng Ðàn
đầu, Hòa thượng A Xà Lê ở các giới đàn chùa Cổ Lễ và giới đàn Thánh Ân
(chùa Cả - Nam Ðịnh)...
Về mặt Phật sự, Ngài là một
trong những bậc giáo phẩm cao cấp của Phật giáo Việt Nam và của Phật giáo
tỉnh Nam Hà.
- Trong suốt thời kỳ 1958 -
1981, Hội Phật Giáo Thống Nhất Việt Nam (miền Bắc) hoạt động, Ngài được cử
giữ chức vụ Phó hội trưởng, Hội trưởng Phật giáo tỉnh Nam Hà.
- Tháng 10 năm 1964, Ðại hội kỳ
III Trung ương Hội Phật Giáo Thống Nhất Việt Nam, Ngài được suy cử vào Ban
trị sự Trung ương.
- Năm 1971, tại Ðại hội kỳ IV
Trung ương Hội Phật Giáo Thống Nhất Việt Nam, Ngài được suy cử chức Phó
Hội trưởng kiêm Tổng thư ký Ban trị sự Trung ương.
Năm 1973, Ngài cùng Ban trị sự
Trung ương thành lập trường “Tu học Phật pháp Trung ương” tại chùa Quán
Sứ. Trải qua hai khóa đào tạo, đến năm 1981 trường trực thuộc hệ thống
Giáo dục của Trung ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam và đổi tên “Trường Cao
Cấp Phật Học Việt Nam cơ sở I”.
- Sau naêm 1975, Ngài cùng quý
Hòa thượng miền Trung, miền Nam thành lập Ban vận động Thống nhất Phật
giáo.
- Tháng 11 năm 1981,Ðại hội đại
biểu thống nhất Phật giáo Việt Nam lập nên “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam”,
Ngài được thỉnh vào “Hội đồng Chứng minh” và là Phó chủ tịch Thường trực
Hội Ðồng Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
Về mặt tham gia công tác xã
hội, quan niệm “Phật pháp bất ly thế gian pháp” nên việc đạo việc đời Ngài
đều xả thân phụng sự.
- Năm 1945, Ngài là Phó Chủ
tịch Tỉnh bộ Việt Minh tỉnh Nam Ðịnh.
- Năm 1947, là Phó chủ tịch
Phật giáo cứu quốc Nam Ðịnh.
- Năm 1951, là Phó chủ tịch Mặt
trận Liên Việt tỉnh Nam Ðịnh, Ủy viên mặt trận Liên Việt toàn quốc.
- Từ năm 1976 - 1980, là Phó
chủ tịch Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc tỉnh Hà Nam Ninh và là đại biểu Hội Ðồng
Nhân Dân Tỉnh.
- Ngài được nhân dân tín nhiệm
bầu làm Ðại biểu Quốc hội khóa VII và được Quốc hội cử giữ chức Phó chủ
tịch Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
- Ngài còn là thành viên tích
cực của Hội “Phật Giáo Châu Á Vì Hòa Bình” (ABCP) trong nhiều khóa, và là
Phó chủ tịch của hội. Ngài đã tham gia nhiều tổ chức Phật giáo quốc tế tại
hầu hết các nước Châu Á, Ðông Âu, tham dự các hội nghị Phật giáo thế giới
và đã được Nhà nước tặng Huân chương Ðộc Lập hạng hai, Huân chương kháng
chiến hạng ba...
- Ngày 23-3-1985, Ngài viên
tịch tại Tổ đình Cổ Lễ, hưởng thọ 76 tuổi. Lễ tang được tổ chức trọng thể
với nghi thức lễ tang Nhà nước. Hòa thượng Pháp chủ Thích Ðức Nhuận đã ban
Tháp hiệu của Ngài là An Lạc tháp, và tên hiệu Tế Mỹ. Cuộc đời haønh đạo
của Ngài trải qua 56 mùa hạ.
Chú thích :
(1) Sư tổ Quang
Tuyên là bác tại gia của Ngài.
HÒA THƯỢNG
THÍCH MINH NGUYỆT
(1907 - 1985)
Hòa thượng Thích
Minh Nguyệt, thế danh là Lý Duy Kim, sinh ngày 19.12.1907, trong một gia
đình trung nông, tại xã Tân An, tỉnh Thủ Dầu Một (nay là Sông Bé).
Năm Kỷ Mùi (1919),
khi vừa đúng 13 tuổi, Ngài đến chùa Thiên Thai (tỉnh Bà Rịa) xin xuất gia,
tu học với Tổ Huệ Ðăng, vốn là một Tăng sĩ tài ba, một nhà Nho uyên thâm
có tinh thần yêu nước.
Trong thời gian tu
học tại đây, ngoài những thời khóa, Ngài được gần gũi, hầu cận bên Tổ Huệ
Ðăng. Do đó Ngài đã có được những cảm nghĩ ban đầu về tinh thần dân tộc
khi được dự nghe những buổi tọa đàm giữa Tổ Huệ Ðăng và cụ Nguyễn Sinh Sắc
(thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh). Ý thức cách mạng nảy nở trong lòng và
Ngài luôn luôn trăn trở về điều ấy.
Năm Mậu Dần (1938),
ý chí nâng cao tri kiến bằng cách đem đạo Phật vào cuộc đời và tinh thần
yêu nước thôi thúc, Ngài xin phép Bổn sư để vân du tham học khắp nơi, vừa
mở mang trí tuệ, vừa thâm nhập thực tại hoàn cảnh đất nước ở nhiều khía
cạnh. Bước chân Ngài đã nhiều lần đến chùa Phật Bổn (Cần Thơ), Bửu Long
(Mỹ Tho), Long An (Sài gòn), Vĩnh Tràng (Tiền Giang), Ô Môi (Vĩnh Long),
Thiên An v.v... Ðó là những cuộc thuyết giảng, những bước chân giáo hóa
chúng sanh, để lại trong lòng Tăng Ni Phật tử mọi nơi hình ảnh tốt đẹp về
hạnh nguyện của Ngài.
Năm Canh Thìn
(1940), cùng với cao trào chấn hưng Phật giáo, cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ đã
nổ ra. Trách nhiệm đạo - đời, Ngài vẫn hàng ngày nhắc nhở mình phải chu
toàn. Trong bối cảnh phong trào chấn hưng Phật giáo, khi suy lúc thịnh, do
nhiều yếu tố thời cuộc chi phối, đặc biệt là bàn tay phá rối từ phía thực
dân và những người theo thực dân và trước nạn đồng bào bị áp bức bóc lột,
tàn sát, lòng yêu nước của Ngài càng được nung nấu thêm. Ðến khi hay tin
Hòa thượng Trí Thiền (chùa Tam Bảo, Rạch Giá) bị bắt và lưu đày Côn Ðảo,
Ngài đã chuyển lòng yêu nước của mình thành hành động tích cực.
Năm Ất Dậu (1945),
Cách Mạng Tháng Tám thành công, cũng là lúc bề dày hoạt động của Ngài đã
đủ chứng minh cho lòng yêu nước nồng nàn ấy. Ngài hoạt động khi chìm khi
nổi, ẩn hiện khắp mọi nơi với bí danh Tam Không. Liên tục sau đó Ngài được
mọi người tín nhiệm bầu vào các chức vụ như Hội trưởng Hội Phật Giáo Cứu
Quốc Nam bộ, Hội trưởng Hội Phật Giáo Cứu Quốc tỉnh Mỹ Tho, Hội trưởng Hội
Phật Giáo Cứu Quốc khu Sài gòn - Gia Ðịnh, Ủy viên Mặt trận tỉnh Mỹ Tho,
Ủy viên khu Sài Gòn - Gia Ðịnh và kỳ bộ Việt Minh Nam bộ.
Là một công dân yêu
nước nồng nàn, đồng thời là một Tăng sĩ vốn đã được trang bị tinh thần bi,
trí, dũng của chốn thiền môn nên hoạt động chống thực dân và phát triển
Hội Phật Giáo Cứu Quốc đều được Ngài tiến hành song song ở từng địa bàn,
nhất là chùa Ô Môi (Ðồng Tháp Mười) nơi đặt trụ sở của Hội Phật Giáo Cứu
Quốc Nam Bộ. Bất chaáp mọi gian nguy, Ngài đã đi khắp nơi vận động và đấu
tranh ngay trong vùng thực dân kiểm soát. Và trong nội thành Sài Gòn cũng
không thiếu dấu chân Ngài.
Năm Giáp Ngọ (1954)
sau Hiệp định Genève, Ngài ở lại miền Nam hoạt động cùng các vị khác. Ngài
vận động được rất nhiều tự viện làm cơ sở giúp đỡ che giấu cán bộ hoạt
động cách mạng ngay trong vùng bị kiểm soát. Lúc này Ngài là vị tiêu biểu
cho lực lượng Tăng sĩ hoạt động yêu nước, vì thế chính quyền Ngô Ðình Diệm
chú ý và theo dõi rất gắt gao từng bước đi của Ngài. Một mặt, chúng ra sức
dùng mọi thủ đoạn hòng mua chuộc, lôi kéo Ngài, thậm chí tạo cơ hội cho
Ngài lãnh đạo một tổ chức Phật giáo hữu danh vô thực, có sự bảo hộ, tài
trợ từ phía chính quyền... Nhưng Ngài đã khéo léo từ khước, vẫn tiếp tục
con đường cách mạng đã đi. Trong thời gian hoạt động bí mật, Ngài từng chủ
trương xuất bản nguyệt san Tinh Tấn (1947) và tập san Tổ Quốc (1956).
Năm Canh Tý (1960)
ngày 6-4, một cơ sở bị lộ. Tất cả cán bộ cốt cán bị bắt, trong đó có Ngài.
Nhân cơ hội này chính quyền không ngớt rêu rao về tội danh “phản nghịch”
của Ngài, hòng làm lung lạc những người yêu nước khác. Và để tăng thêm sức
mạnh cho mục đích đó, Ngài bị đày ra Côn Ðảo với mức án 20 năm tù khổ sai.
Năm Giáp Dần (1974),
sau khi Hiệp định Paris được ký kết, Ngài được trao trả về vùng giải phóng
Lộc Ninh. Như vậy Ngài đã bị lưu đày khổ sai nơi Côn Ðảo hơn 15 năm.
Khi được tự do, Ngài
liên lạc với các vị giáo phẩm lãnh đạo khác trong các tỉnh phía Nam, để
chuẩn bị cho lực lượng Phật giáo tham gia nổi dậy cùng các muõi tiến công
của Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Năm Ất Mão (1975),
miền Nam hoàn toàn giải phóng, Ngài gặp lại các vị lãnh đạo Phật giáo sau
bao nhiêu năm xa cách. Bằng khả năng và uy tín của mình trước tình hình
mới của đất nước, Ngài đảm đương các chức vụ Phó chủ tịch Ủy Ban Mặt Trận
Thành phố Hồ Chí Minh, Ủy viên đoàn chủ tịch Ủy ban Trung Ương Mặt trận Tổ
Quốc Việt Nam. Ngoài ra Ngài còn làm Chủ tịch Ủy ban Liên lạc Phật giáo
Yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh, với nhiệm vụ liên lạc Tăng Ni Phật tử đoàn
kết, xây dựng tổ quốc trong giai đoạn mới.
Ðể hậu thuẫn cho mục
đích này, Ngài lãnh chức Chủ nhiệm Báo Giác Ngộ, tờ báo Phật giáo đầu tiên
tại các tỉnh phía Nam sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất. Và để thắt
chặt thêm tình hữu nghị, Ngài đã cùng Hòa thượng Trí Thủ, Hòa thượng Minh
Châu... tham dự Hội nghị Tôn giáo Thế giới được tổ chức tại Mátx-Cơ-Va -
Liên Xô, tham quan Phật giáo Liên Xô ở vùng Bu-ri-át, Hội nghị Tổ chức
Phật tử Châu Á vì Hòa Bình tại Mông Cổ. Trong dịp này Ngài được tặng nhiều
huân chương hữu nghị.
Ban trù bị Ðại hội
Thống Nhất Phật Giáo Việt Nam được thành lập, Ngài là Phó Ban vận động
kiêm Trưởng ban Thông tin. Năm Tân Dậu (1981), tại Ðại hội Ðại biểu Phật
giáo toàn quốc tổ chức ở Hà Nội, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam ra đời với
tầm vóc đại thể xuyên suốt, có hiến chương chặt cheõ. Ngài được suy cử
ngôi vị Phó Pháp Chủ thường trực Hội Ðồng Chứng Minh Trung Ương.
Thời gian tiếp theo
sau đó, Ngài về an trú và làm việc tại chùa Long Hoa (quận 10, Thành phố
Hồ Chí Minh). Tại đây, ngày 28 tháng chạp năm Giáp Tý (18/1/1985) Ngài đã
viên tịch, thọ 77 tuổi đời, và 57 năm hành đạo.
Kim quan Ngài được
đưa về nhập tháp nơi chùa Tổ Thiên Thai (tỉnh Bà Rịa) theo phó chúc “Uống
nước nhớ nguồn, lá rụng về cội”.
Xét về ý nghĩa, tuy
là Tam Không, song thực thế là Minh Nguyệt, vẫn hằng chiếu sáng. Như thế,
tại cõi Ta bà này Ngài đã để lại trong lòng mọi người sự nhập thế của một
Tăng sĩ giàu lòng yêu nước.
HÒA THƯỢNG
THÍCH TRÍ HƯNG
(1908 - 1986)
Hòa thượng pháp hiệu
là Trí Hưng, pháp tự Ðạo Long, thế danh là Nguyễn Tăng. Sinh ngày mồng 8
tháng 7 năm Mậu Thân (1908) tại làng Thạch Trụ, xã Ðức Mỹ, quận Mộ Ðức,
tỉnh Quảng Ngãi.
Ngài sinh trưởng
trong một gia đình nhiều đời làm quan triều đình và kính tin Phật pháp.
Thân phụ Ngài là quan Ðại thần Cần Chánh Ðại học sĩ, thân mẫu là cụ bà
Nguyễn Thị Ðịnh. Song thân của Ngài bình sinh rất ngưỡng mộ đức độ vị Ðệ
tứ Toå sư Tổ đình Thiên Ấn - Quảng Ngãi, thường hay đến hỏi pháp, nghe
giảng, do đó Tổ Giác Tánh đã phú chúc cho hai người sau này có người con
xuất gia học đạo. Với một gia đình tin hiểu Phật pháp thì lời phú chúc đó
mang đến rất nhiều niềm hoan hỷ. Vì vậy sau khi sinh, thân mẫu đã bồng
Ngài đến xin quy y với Tổ Hoằng Phúc (Ðệ Ngũ Tổ Sư Tổ đình Thiên Ấn -
Quảng Ngãi) được Tổ đặt cho Ngài pháp danh Chơn Miên.
Lúc trẻ Ngài được
theo học trường Quốc học Khải Ðịnh và trường nhà Dòng Pellerin ở Huế đến
hết bậc Trung học. Trong thời gian này, Ngài vẫn thường xuyên theo cha mẹ
đến chùa lễ Phật và nghe pháp. Tuy nhiên, do sinh trưởng trong gia đình
quý tộc và chịu nhiều ảnh hưởng bởi nghi thức triều đình, nên năm Ðinh Mão
(1927) Ngài buộc phải lập gia đình khi vừa 19 tuổi.
Năm Canh Ngọ (1930)
lúc 22 tuổi, Ngài nhất quyết cắt ái ly gia, chọn đồi núi Ðá Ðen thuộc thôn
Cổ Lủy, tỉnh Quảng Ngãi, lập một thảo am lấy hiệu là Thạch Liêm, để làm
nơi tu dưỡng và nghiên cứu giáo lý. Trong vòng hai năm tự tu học tại đây,
Ngài được sự hỗ trợ, chỉ giáo thường xuyên của Hòa thượng Diệu Nguyên.
Năm Quý Dậu (1933)
Ngài thọ Sa Di giới với Hòa thượng Hoằng Thạc, trụ trì chùa Sắc Tứ Thạch
Sơn, được Hòa thượng phú pháp tự là Ðạo Long. Từ đấy Ngài ở chùa này hành
đạo cho đến năm Giáp Tuất (1934) thì thọ Tam đàn Cụ túc giới, cũng tại
giơùi đàn chùa Thạch Sơn. Năm Ất Hợi (1935), Bổn sư Hoằng Thạc xét thấy
đức hạnh và tài năng của Ngài khả dĩ làm nhiều lợi ích cho Phật pháp ngày
mai nên phú pháp hiệu Trí Hưng và truyền y bát. Liền sau đó, Ngài được Hòa
thượng cùng toàn thể sơn môn cử đảm đương chức vụ Giám viện chùa Sắc Tứ
Thạch Sơn. Trong thời gian điều hành, Ngài đã cho sửa sang lại trượng thất
và giảng đường, nhờ vậy ngôi Tổ đình Sắc Tứ Thạch Sơn càng thêm trang
nghiêm, tráng lệ.
Năm Mậu Dần (1938),
Chư tôn Hòa thượng hiệp cùng chư sơn thuộc sáu phủ huyện trong tỉnh cung
thỉnh Ngài giữ chức Kiểm Tăng tỉnh Quảng Ngãi.
Năm Kỷ Mẹo (1939),
Ngài được chính thức cử giữ chức trụ trì chùa Sắc Tứ Thạch Sơn thay Hòa
thượng Hoằng Thạc đã già yếu. Chính vì nhiệm vụ này nên Ngài không thể
tiếp tục đảm nhận chức Kiểm Tăng và định thoái thác, nhưng Chư sơn tỉnh
Quảng Ngãi và Tăng Cang Diệu Quang nhận thấy Ngài có đưùc độ và khả năng,
ân cần mời Ngài đảm đương Kiểm Tăng Sơn môn lần thứ hai. Lần này Ngài đã
lập bản Tăng ước, chỉnh đốn hàng ngũ Tăng Ni và tiến hành làm lý lịch Tăng
tịch. Bên cạnh đó, Ngài còn đề xuất với chính phuû xin xác nhận các danh
lam cổ tự trong tỉnh. Hơn 500 Tăng Ni cùng hàng vạn tín đồ của hơn 100
ngôi chùa trong tỉnh đã hỗ trợ Ngài một cách triệt để. Ngài cũng đã từng
làm Chứng minh, Chủ hương, Hóa chủ rất nhiều trường haï từ Trung vào Nam.
Ngoài ra, Ngài còn tìm mọi cách hỗ trợ, giúp đỡ Chư sơn trong tỉnh trùng
tu, kiến tạo hoặc chứng minh nhiều ngôi chùa, Tổ đình. Tổ Phước Huệ (chùa
Thập Tháp Bình Ðịnh) cảm mến công đức ấy, đã tặng Ngài bức hoành với 4 chữ
“Giác Hoàng Tứ Nhơn”.
Năm Mậu Dần (1938),
Hội An Nam Phật Học tỉnh Quảng Ngãi được thành lập do Bác Sĩ Lê Ðình Thám
và Bác Sĩ Hoàng Mộng Lương chủ xúy ở Huế và Quảng Ngãi, Ngài cùng Ðại lão
Hòa thượng Hoằng Thạc và Tăng Cang Diệu Quang được cung thỉnh làm Chứng
minh Ðạo sư kiêm cố vấn đạo hạnh cho Tỉnh hội. Ngài đã kêu gọi khắp nơi
ủng hộ cho hội trong bước mở đầu nhưng quan trọng trong lịch sử Phật Giáo
nước nhà. Năm này, Ngài hợp cùng Tăng Cang Diệu Quang trùng tu chánh điện
Tổ đình Thiên Ấn. Cũng năm này, chùa Phước Sơn huyện Bồng Sơn, tỉnh Bình
Ðịnh khai đại giới đàn thỉnh Ngài làm Ðệ thất Tôn chứng.
Năm Kỷ Mão (1939),
chùa Từ Lâm do Ngài kiến tạo được triều đình sắc tứ biểu ngạch và Ngài
được sắc chỉ chuẩn phong Tăng Cang.
Năm Giáp Thân
(1944), Ngài chứng minh Giới đàn tại chùa Thiên Phước, quận Mộ Ðức, tỉnh
Quảng Ngãi, do Ngài Yết ma Khánh Hạ tổ chức. Những năm kế tiếp, Ngài đảm
nhận chức Kế Tổ Thiên Ấn. Chùa Thiên Ðức ở Gò Bồi (Bình Ðịnh) khai Ðại
giới đàn, cung thỉnh Ngài chứng đàn. Rồi chùa Thiên Ấn bị bão lụt tàn phá,
Ngài đứng ra đảm trách trùng tu lại.
Năm Ðinh Hợi (1947),
khi vừa đặt chân đến Huế để an dưỡng, ngày 12-4 Ngài được Sơn môn tỉnh
Thừa Thiên mời giữ chức Tổng Thư Ký Hội đồng Trị sự Sơn môn, tiếp theo đó
là chức Tòng Lâm Thuyền Chủ của tổ chức Chư Sơn Thuyền Lữ, trụ sở đóng tại
chùa Ngự Chế Diệu Ðế. Ðến ngày 2-7, Ngài lại được cung thỉnh trụ trì Tổ
đình Huệ Lâm. Từ đó, Ngài vẫn nguyên chức Tòng Lâm Thuyền Chủ kiêm Hội
trưởng Sơn môn Tăng Già Trung Việt.
Năm Nhâm Thìn
(1952),đáp lời mời của Phật giáo miền Bắc, ngày 5-3 Ngài ra thăm Hà Nội.
Ngài đã đến viếng Tổ Vĩnh Tường tại chùa Thần Quang Ngũ Xã, Tổ Thuyền gia
Pháp chủ Mật Ứng tại chùa Hòa Giai, Sư cụ chùa Bà Ðá và chiêm bái các danh
lam thắng tích của miền Bắc.
Tháng 3/1955 Chư sơn
Quảng Ngãi cung thỉnh Ngài trở lại tỉnh nhà và trùng tu Tổ đình Thiên Ấn.
Ngài chứng minh thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tỉnh Quảng Ngãi để
hợp pháp hóa việc hoằng đạo và tiến hành đại hội thành lập Phật Giáo Cổ
Sơn Môn sau này. Dần dà Ngài tạo nhiều cơ sở như Tổ đình Bác Ái ở Kontum,
kêu gọi những người có cảm tình với Sơn môn ủng hộ. Khi duyên hạnh tròn
đầy, kể từ ngày có Ðại hội Lục Hòa Tăng Sài Gòn ngày 01-10-1957, từ sự ủy
nhiệm đặc trách Trung Nguyên và Cao Nguyên Trung phần, được tư thế hợp
pháp và sự chấp thuận của tỉnh đường Quảng Ngãi, Ngài triệu tập đại hội
tại chùa Sắc Tứ Từ Lâm ngày 29-4-1958 để thay đổi danh hiệu hội và bầu Ban
quản trị Tỉnh Giáo hội Phật giáo Cổ Sơn Môn, và Ngài được cử chức Tăng
trưởng Tỉnh hội. Sau đó hàng trăm chi hội, tỉnh hội ở miền Trung được
thành lập và thu nạp raát nhiều tín đồ.
Ngày 11-4-1960 (Canh
Tý), Ngài tổ chức khánh thành trùng tu chùa Sắc Tứ Từ Lâm rất trọng thể.
Năm Tân Sửu (1961), Ngài khai trường hạ tại đây do Ngài làm chứng minh và
hóa chủ. Ðến ngày 6-7-1961, Ngài lại khai giới đàn 3 ngày đêm cũng tại
chùa Sắc Tứ Từ Lâm. Tại giới đàn này Ngài được tấn phong Hòa Thượng (53
tuổi, 27 hạ lạp). Do đó, đây là lần đầu tiên Ngài thí giới theo nguyện
vọng của Tăng tín đồ khắp nơi. Giới đàn này được nhiều vị danh Tăng toàn
quốc tham dự chứng minh cũng như giảng dạy.
Ngày 6-6 năm Nhâm
Dần (1962), toàn thể Chư sơn tỉnh Quảng Ngãi cùng môn đệ của Ngài khởi
công xây cất ngôi bửu tháp bên cạnh chùa Sắc Tứ Từ Ân lấy tên là Linh Sơn
Bửu Tháp để lưu niệm và tỏ lòng tôn kính công đức vô biên của Ngài. Sau đó
Ngài vào Sài Gòn để cùng Chư tôn đức khác vận động thành lập Trung ương
Giáo hội Phật giáo Cổ Sơn Môn Việt Nam. Ðại hoäi thành lập được tiến hành
ngày 12-6-1963 tại Tổ đình Giác Lâm, Phú Thọ Hòa-Gia Ðịnh. Trong Ðại hội
này, Ngài được cử giữ chức Phó Tăng Thống Quản Tăng Trung ương GHPGCSMVN,
Hòa thượng Huệ Tâm là Tăng Thống, Hòa thượng Huệ Minh là Tăng thống Hành
chính. Thời gian tiếp theo, Ngài cùng các cấp lãnh đạo Giáo Hội đi xuống
các tỉnh miền Tây phát triển cơ sở hạ tầng. Sau đó Ngài trở về Quảng Ngãi,
rồi vào Tổ đình Linh Sơn Trường Thọ Tự, núi Tà Cú tỉnh Bình Tuy chứng minh
công việc xây cất tượng đức Bổn Sư nhập diệt (dài 59 thước). Ngày 8 tháng
2 năm Giáp Thìn (1964) nhân Ðại Hội Chu Niên, Văn phòng Trung Ương Giáo
Hội Cổ Sơn Môn chia ra làm hai Viện: Viện Ðạo Thống và Viện Hành Ðạo, Ngài
được cử làm Phó Ðạo Thống (thuộc Viện Ðạo Thống).
Ngày 13 tháng 2 năm
Ất Tỵ (1965), Ngài được mời trụ trì chùa Thiền Lâm số 570/2 đường Lục
Tỉnh, Phú Lâm, Chợ Lớn.
Ngày 26 tháng 9 năm
1966, Ðaïi hội đại biểu Phật giáo toàn quốc quyết nghị sát nhập 2 Viện
Tăng Thống và Hành Ðạo thành một viện duy nhất là Viện Tăng Thống. Ngài
được cử giữ chức Phó Tăng Thống kiêm hành chánh và điều hành Giáo Hội. Từ
chức vụ này, Ngài tiếp kiến nhiều vị danh Tăng nước ngoài như Ðại Ðức
Narada Maha Théra (Tích lan), Thượng Tọa Yoshioka (Phật giáo Tăng Già Nhật
Bản), Ngài Hội trưởng Phật Giáo Nam Hàn...
Ngày 15 tháng 2 năm
Bính Thìn (1976), Ngài khai mở trường Hương tại chùa Thiền Lâm, quy tụ hơn
100 giới tử từ các tỉnh hội.
Tuổi già sức yếu sau
hơn 50 năm hành đạo, hoằng pháp lợi sanh rộng khắp Trung, Nam, ngày 14
tháng 9 năm Bính Dần nhằm 17-10-1986 Ngài đã viên tịch tại chùa Thiền Lâm,
thọ thế 79 năm, được 57 tuổi hạ .
HÒA THƯỢNG
THÍCH VĨNH ÐẠT
(1911 - 1987)
Hòa thượng họ Nguyễn
húy Hồng Hạnh, hiệu Vĩnh Ðạt, thuộc dòng Lâm Tế thứ 40, sinh năm Tân Hợi
(1911) tại xã Mỹ Nhơn, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, trong một gia đình làm
nghề nông sùng mộ đạo Phật.
Năm lên 9 tuổi, Ngài
được song thân cho phép xuất gia, thí phát với Hòa thượng Khánh Thông ở
chùa Bửu Sơn, xã Tân Thủy, huyện Ba Tri. Bổn sư cho Ngài thọ giới Sa Di
vào ngày mồng một tháng 7 năm Tân Dậu (1921). Bấy giờ trong chùa Tăng
chúng tu học khá đông, nên Ngài được Bổn sư cho lui tới hầu cận học đạo
với Hòa thượng Khánh Hòa là đồng môn huynh đệ của Bổn sư ở chùa Tiên Linh
tỉnh Bến Tre và Hòa thượng Từ Phong ở chùa Giác Hải, Chợ Lớn.
Năm 20 tuổi (Tân Mùi
- 1931), Ngài được thọ Cụ Túc giới, rồi đi tham học các nơi. Bấy giờ bắt
đầu có phong trào chấn hưng Phật giáo ở Nam kỳ do Hòa thượng Khánh Hòa chủ
xướng. Nhiều Phật học đường được tổ chức khắp nơi để đào tạo Tăng tài,
quan trọng nhất là Phật học đường Lưỡng Xuyên. Ðến đâu Ngài cũng một lòng
khiêm cung học hoûi và gìn giữ tốt nếp sống thanh qui tự viện, nên được
mọi người mến thương, nhắc nhở.
Năm 24 tuổi (1925),
Ngài được Bổn sư truyền pháp, ban cho bài kệ như sau:
Hồng huy kế chánh
tông
Hạnh hòa phước huệ
thông
Vĩnh truyền Tăng tục
đạo
Ðạt ngộ liễu chơn
không.
Sau đó Ngài được bổ
xứ về làm trú trì chùa Bửu Linh ở xứ Cái Mít thuộc xã Thạnh Phú Ðông,
huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Tiếp đến Cách Mạng Tháng Tám thành công
rồi Nam bộ kháng chiến. Ngài cùng toàn dân chống giặc cứu nước. Trong thời
gian này Ngài tham gia công tác cho Mặt trận Việt Minh và là Ủy viên Ban
Chấp hành Hội Phật giáo Cứu quốc tỉnh Bến Tre.
Trong quá trình
hoằng dương chánh pháp, hóa đoä chúng sinh, Ngài đã từng trú trì nhiều
chùa, như chùa Long Phước tại thị xã Vĩnh Long, chùa Vạn Ðức nơi đặt Phật
học đường Sóc Trăng. Ngài cũng đến giảng dạy tại khóa an cư kiết hạ tại
chùa Tam Bảo - Hà Tiên.
Năm 1962, sau khi dự
khóa tu nghiệp trụ trì “Như Lai Sứ Giả” tổ chức tại chùa Pháp Hội (Sài
Gòn), Ngài được chư Tôn đức Giáo Hội Tăng Già Nam Việt bổ nhiệm về trú trì
Phước Hưng Cổ Tự tại thị xã Sa Ðéc.
Trong chức vụ trú
trì, Ngài bắt tay vào việc chỉnh đốn lại quy luật thiền môn cho phù hợp
với đường lối Giáo hội đương thời, kiến thiết và sửa sang lại chánh điện,
cổng rào, Ðông Tây lang, kiến tạo lại các tháp của chư vị trú trì tiền
bối, xây thành tượng đài Quán Âm lộ thiên. Ngài còn cho xây Phật học đường
chùa Bửu Quang và tháp thờ Xá lợi Phật trong khuôn viên chùa, xây Tăng xá,
Pháp Bảo đường để tàng trữ kinh sách, làm cơ sở cho Phật học viện trong
tương lai. Công trình này rất qui mô, nên thực hiện trong nhiều năm cho
đến cuối đời Ngài vẫn chưa hoàn mãn. Mặc dù chưa hoàn chỉnh hết, nhưng
trên đại thể phong cảnh rất đẹp, làm tăng thêm pháp hỉ cho người.
Năm 1964, Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập, Tăng Ni và Phật tử tỉnh Sa
Ðéc cung thỉnh Ngài vào ngôi vị Chánh đại diện Tỉnh Giáo Hội.
Sau ngày nước nhà
thống nhất, năm 1982 Tỉnh hội Phật giáo Ðồng Tháp được thành lập, Ngài lại
hoan hỉ lãnh trọng trách Trưởng Ban Trị Sự Tỉnh Hội, khai mở và chứng minh
các đàn giới, các khóa an cư kiết hạ trong tỉnh cho đến ngày viên tịch.
Năm 1987, huyễn thân
tứ đại đến hồi suy yếu. Dù pháp thể bất an, Ngaøi vẫn thản nhiên giữ chánh
niệm. Vào đêm rằm tháng 9 năm Ðinh Mão, sau khi tắm gội sạch sẽ, Ngài cho
gọi môn đồ đến dặn dò các Phật sự và chuyển giao công việc còn lại. Thấy
môn đồ buồn khóc trước lúc vĩnh ly, Ngài bèn nhắc lời Cổ Ðức rằng:
Sanh tùng hà xứ khứ
Tử tùng hà xứ lai
Tri đắc lai xứ khứ
Phương danh học đạo
nhơn.
Ðọc xong Ngài an
nhiên từ biệt đại chúng. Lúc đó là giờ Hợi. Ngài trụ thế 76 năm, giới lạp
56 hạ, pháp lạp 52 thu.
HÒA THƯỢNG
THÍCH GIÁC TÁNH
(1911 - 1987)
Hòa thượng thế danh
là Võ Phi Long, pháp danh Nguyên Lưu, pháp tự Chí Ý, pháp hiệu Giác Tánh.
Thuộc đời thứ 44 dòng thiền Lâm Tế, phaùi Liễu Quán.
Ngài sinh ngày 2
tháng 3 năm Tân Hợi (1911), tại làng Vĩnh Lộc, xã Bình Hòa, quận Bình Khê
(Tây Sơn), tỉnh Bình Ðịnh trong một gia đình nhiều đời có truyền thống
Phật giáo. Thân phụ Ngài là cụ Võ văn Trí và thÂn mẫu là cụ Hà Thị Tước.
Khi Ngài vừa tám tuổi thì thân phụ qua đời.
Năm Quí Hợi (1923),
do túc duyên từ nhiều đời, thân mẫu chấp thuận và trực tiếp đưa Ngài đến
chùa Hưng Long, thuộc thôn Dương Lăng, xã Nhơn An, quận An Nhơn, tỉnh Bình
Ðịnh, cầu xin xuất gia với Hòa thượng Huệ Chiếu. Năm ấy Ngài được mười ba
tuổi.
Năm Ðinh Mão 1927,
khi vừa đúng tuổi mười bảy, Ngài được thọ giới Sa Di tại trường Hương chùa
Long Khánh (Quy Nhơn), do Hòa thượng Chánh Nhơn làm đàn đầu.
Năm Tân Mùi (1931),
20 tuổi Ngài thọ Tỳ Kheo Bồ Tát giới tại Ðại giới đàn Gia Khánh tỉnh Bình
Ðịnh, do Hòa thượng Huyền Ngộ làm đàn đầu.
Năm 1934, 23 tuổi
Ngài đến chùa Thiên Ấn (Quảng Ngãi) tham học với Hòa thượng Diệu Trang,
Tăng cang Tổ đình Thiên Ấn.
Năm 1935, 24 tuổi
Ngài về Tổ đình Thập Tháp (Bình Ðịnh) tham học với Quốc sư Phước Huệ.
Năm 1936, 25 tuổi
khi Quốc sư Phước Huệ được triều đình cung thỉnh ra giảng pháp nơi hoàng
cung và cho Tăng Ni ở Huế, Ngài được theo Quốc sư trực tiếp tham học để bổ
sung kiến thức Phật học.
Trong thời gian lưu
trú ở Huế, Ngài học tại Phật học đường chùa Tây Thiên do Quốc sư Phước Huệ
giảng dạy. Các Pháp hữu đồng học cùng Ngài lúc bấy giờ gồm các vị: Mật
Nguyện, Hành Trụ, Thiện Hoa, Thiện Hòa, Huyền Tân, Bình Chánh, Trí
Nghiêm... Sau khi ra trường Ngài là một trong những cổ động viên của Ðoàn
Thanh Niên Tăng Lữ taïi Phật học đường Báo Quốc (Huế).
Năm 1942, Ngài được
Ðà Thành Phật Học Hội cung thỉnh làm giảng sư ở Phật học đường chùa Phổ
Hiền, Ðà Nẵng.
Năm 1943, Ngài trở
về chùa Hưng Long (Bình Ðịnh) thành lập Phật học đường để giaûng dạy cho
Tăng Ni tại tỉnh và một bộ phận chúng Tăng của Phật học đường Phổ Hiền đưa
vào. Cũng thời gian này, Ðoàn Thanh Niên Tăng Lữ Huế được Ngài đổi thành
Ðoàn Thanh niên Tăng sĩ Bình Ðịnh.
Năm 1945, nhiều biến
động lịch sử xảy ra trên thế giới lẫn ở Việt Nam. Hoạt động của Phật học
đường cũng bị ảnh hưởng nên phải đình chỉ tất cả. Một số Tăng sinh trở về
trú xứ hoặc tham gia trực tiếp vào các hoạt động xã hội khác. Các bậc cao
minh túc trí lãnh đạo Phật giáo Bình Ðịnh nhận định rằng không thể để tình
trạng đó kéo dài, làm ảnh hưởng đến việc đào tạo những thế hệ kế thừa
hoằng truyền chánh pháp. Do đó, đối với tình hình đất nước, việc trước
maét là thành lập HỘI PHẬT GIÁO CỨU QUỐC do các Ngài Tâm Hoàn, Bình Chánh,
Huyền Quang, Kế Châu và Ngài khởi xướng hoạt động, góp phần đấu tranh
giành độc lập dân tộc, đồng thời quy tụ và củng cố lại nội bộ Tăng Già.
Kết quả đa số quần chúng Phật tử và các giới đồng thanh ủng hộ tham gia.
Do những việc làm tích cực đó nên Ngài được bầu vào Hội đồng Nhân dân xã
Nhơn An và huyện An Nhơn trong những năm 1945-1952. Và cũng trong giai
đoạn này, Ngài cùng các Hòa thượng kể trên sáng lập Chúng Lục Hòa Phật
Giáo Liên khu 5.
Năm 1946, Ngài cùng
các Hòa thượng sáng lập đã tổ chức Hội nghị để đổi tên Hội Phật Giáo Cứu
Quốc thành Phật giáo Việt Nam. Ngài đươïc giữ chức Kinh Tài của Phật giáo
Việt Nam tỉnh Bình Ðịnh.
Từ năm 1948 đến
1958, trong thập niên này, Ngài lần lượt đảm nhận các chức vụ Phó Giám đốc
các Phật học đường Thiên Ðức, Nhạn Sơn và Thập Tháp.
Năm 1952, Ngài cùng
các Hòa thượng trong tỉnh đứng ra tổ chức Trường Kỳ ở chùa Thiên Bình
(Bình Ðịnh) để truyền trao giới pháp cho chúng Tăng.
Năm 1954, Ngài được
công cử ra Huế liên lạc với Phật giáo Trung phần. Sau khi trở về, Ngài
cùng chư tôn túc thực hiện sứ mạng cải tổ hai tổ chức Phật giáo hoạt động
song song với nhau đó là thành lập Giáo Hội Tăng Già và Tổng Hội Phật
Giáo.
Năm 1956, Ngài đảm
nhận chức vụ Phó Trưởng ban Kiến thiết trùng tu Tổ đình Thập Tháp, Bình
Ðịnh.
Năm 1958, Ngài cùng
Hòa thượng Tâm Hoàn trùng tu ngôi Tổ đình Long Khánh, Qui Nhơn. Cũng trong
năm này Ngài được Hòa thượng Thích Trí Thủ Giám đốc Phật học viện Trung
phần (Hải Ðức, Nha Trang) thỉnh cử vào hàng chức sự truyền giới.
Năm 1959, Ngài trùng
tu Tổ đình Hưng Long và làm trưởng Ban Quản trị Tu Viện Nguyên Thiều.
Năm 1961, Giáo Hội
Tăng Già Trung phần công cử Ngài làm Phó Ban Trị sự, đồng thời mở Ðại giới
đàn tại chùa Linh Quang và cung thỉnh Ngài vào hàng Thập sư truyền giới.
Năm 1963, Ngài được
suy cử làm Tổng Thư ký cho hai tổ chức Giáo Hội Tăng Già và Tổng Hội Phật
Giáo để lãnh đạo cuộc đấu tranh đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo
của Tăng tín đồ Phật Giáo tỉnh Bình Ðịnh.
Năm 1964, Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập, Ngài được Viện Hóa Ðạo công
cử làm Chánh đại diện miền Liễu Quán và là thành viên của Hội đồng Giáo
Phẩm Trung Ương Viện Tăng Thống. Cùng năm này, Ngài cùng chư huynh đệ
trùng tu lại ngôi Tổ Ðình Thiên Ðức.
Năm 1968, miền Liễu
Quán tổ chức Ðại giới đàn Hải Ðức tại Nha Trang, cung thỉnh Ngài vào hàng
Thập sư truyền giới và Ðại giới đàn chùa Long Khánh Quy Nhơn đã cung thỉnh
Ngài làm Giáo thọ A Xà Lê.
Năm 1969, Giáo Hội
cải tổ và hệ thống hóa tổ chức hành chánh các Phật học viện toàn quốc,
Ngài lần lượt được suy cử các chức vụ như: Cố vấn, Giám luật, Giáo thọ
trưởng... ở nhiều Phật học viện nhất là ở hai Phật học viện Nguyên Thiều
và Phước Huệ.
Năm 1971, miền Vạn
Hạnh tổ chức Ðại giới đàn Vĩnh Gia tại Phật học viện Phổ Ðà, Ðà Nẵng, Ngài
được cung thỉnh vào hàng Thập sư truyền giới.
Năm 1973, miền Liễu
Quán tổ chức Ðại giới đàn Phước Huệ tại Phật học viện Trung phần Nha
Trang, Ngài được cung thỉnh làm Yết Ma A Xà Lê truyền giới.
Ngài luôn xem nhiệm
vụ nhieáp hóa đồ chúng bằng “Trực tâm thị đạo tràng”. Vì vậy những đóng
góp tích cực của Ngài cho đạo pháp và dân tộc là tiếng nói chung cho Tăng
Ni Phật tử noi theo. Sau năm 1975, Ngài được mời giữ chức vụ Phó Chủ tịch
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Nghĩa Bình.
Năm 1979, Ngài được
mời vào Ban vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam do Hòa thượng Trí Thủ
làm Trưởng ban.
Năm 1981, tại Ðại
hội Ðại biểu Thống nhất Phật giáo toàn quốc họp tại Hà Nội, Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam được thành lập, Ngài được suy cử vào Hội đồng Chứng minh
Trung ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
Năm 1986, Ngài đã
góp phần vận động thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tỉnh Nghĩa Bình
khóa 1. Và Cố vấn cho Ban Trị sự Phật giáo tỉnh trong khóa 2.
Từ năm 1982 đến
1985, tại Tổ đình Long Khánh (Quy Nhơn), Ngài liên tục được cung thỉnh làm
Thiền chủ trong các mùa An cư kiết hạ.
Ngày 17 tháng 11 năm
Bính Dần (1986), Ngài bắt đầu nhuốm bệnh và đã nhận thấy trước cơ duyên
viên mãn. Theo nguyện vọng của Ngài và Sơn môn, Ngài được đưa về chùa
Thiên Ðức ngày 30.01.1987 để tịnh dưỡng. Trong thời gian này Ngài đã ân
cần dạy bảo Taêng chúng, Phật tử những điều thiết yếu để có thể sống hữu
ích cho đạo, cho đời.
Bốn giờ sáng, ngày
mùng 4 tháng giêng năm Ðinh Mão (1.2.1987) tại chùa Thiên Ðức - Bình Ðịnh,
Ngài đã an nhiên thị tịch, hưởng thọ 77 tuổi đời, 57 hạ lạp, sau bao năm
sống vì hạnh nguyện độ sanh.
HÒA THƯỢNG
NGỘ CHÂN TỬ
(1901 - 1988)
Hòa thượng Ngộ Chân
Tử thế danh là Trần Rinh, sinh ngày mùng 3 tháng 3 năm Tân Sửu (1901), tại
tỉnh Thái Bình trong một gia đình Nho học. Thân phụ là cụ Trần Quán, thân
mẫu là cụ Trần Thị Phược. Ngài là anh cả trong số năm anh em (3 trai 2
gái).
Sớm hấp thụ và thâm
hiểu Nho học từ thời niên thiếu, khi trưởng thành Ngài chuyển sang nghiên
cứu Phật học theo sự hướng dẫn của Sư tổ Quang Huy. Nhờ túc căn sẵn có,
lại thêm siêng năng nghiên cứu; nên Ngài quyết tâm hướng về đạo giải thoát
để tìm cầu chân lý. Sau một thời gian tầm sư học đạo Ngài đã gặp được Tôn
sư Hư Không Tử thường du hóa tha phương, hành đạo theo hạnh Ðộc giác và
chuyên giảng kinh hóa độ quần mê. Với lời giảng thanh thoát và dung mạo uy
nghiêm, biểu thị một bậc chân tu thoát tục, Tôn sư đã mau chóng cảm hóa
Ngài. Vào ngày mùng 8 tháng 2 năm Kỷ Mùi, Ngài được Tôn sư trao truyền qui
giới với pháp danh Ngộ Chân Tử. Sau đó Ngài đã đắc pháp với cụ Tổ chùa Bà
Ðá - Hà Nội.(1)
Năm Kỷ Mùi (1919),
trên bước vân trình theo thầy học đạo, Ngài đã được nhân duyên chiêm bái
nhiều nơi cổ tích danh lam. Khi qua Yên Tử, lúc đến Côn Sơn, rồi Non Nước,
Tam Ðảo, Tản Viên, Hương Tích, chùa Thầy đều là những thắng địa cho việc
tọa thiền tu tập.
Năm 1927, Ngài xin
phép Thầy trở về trùng tu chùa làng tại Cao Mại, Kiến Xương, tỉnh Thái
Bình và thỉnh Tôn sư đến giảng kinh. Cao đức của Tôn sư và nhiệt tâm của
Ngài đã chuyển hóa gia đình qui hướng Phật đạo, đồng tâm xaû tục, phát
nguyện trai giới tu hành, đem hết tài sản ruộng vườn hiến cúng Tam Bảo để
mở mang Phật sự.
Từ năm 1929 đến năm
1932, Ngài đến trùng tu các chùa Quan Âm tỉnh Kiến An, chùa làng Úc Gián
huyện Kiến Thụy, chùa Vaên Ðẩu huyện An Lão, chùa Kiên Bái, chùa Côn Sơn,
chùa Ðỗ Xá huyện Chí Linh, Hải Dương, chùa Phù Cốc, chùa Khánh Vân phủ
Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
Năm 1935, Ngài mua
đất tại Kiến An và sáng lập chùa Hoằng Pháp độ chúng tu hành, hoằng truyền
giáo pháp.
Năm 1938, để thực
hiện hạnh nguyện bố thí và từ bi, Ngài đã thành lập Viện Dục Anh, tại tỉnh
Kiến An, thu nhận các trẻ em nghèo khổ, mất cha mất mẹ, thiếu tình thương
về nuôi dạy cho ăn hoïc thành tài. Ngoài ra, Ngài còn mở thêm tiểu thủ
công nghiệp để giúp đỡ những người nghèo khó có phương tiện sinh sống.
Việc làm này đã được chính quyền đương thời và chư Tôn thiền đức hết sức
tán thán và ủng hộ, vì đã thể hiện được tinh thần cứu khổ ban vui của đạo
Phật.
Năm 1945 (Ất Dậu),
chiến tranh Pháp - Nhật xảy ra trên quê hương, nạn đói tràn lan miền Bắc,
thây chết đầy đường, tiếng khóc than như xé ruột. Ðứng trước thảm cảnh
tang thương của đồng bào, Ngài đã vận động các cơ quan từ thiện và những
nhà hảo tâm tiếp sức với chùa, tổ chức cứu tế xã hội giúp đỡ cơm áo thuốc
men cho những người đói, bệnh. Hằng ngày, Ngài cùng với bổn đạo kéo xe đi
nhặt các tử thi xấu số không người thừa nhận về mai táng.
Năm 1953, Ngài mua
hai mẫu đất tại tỉnh Hải Phòng, mở Tùng Lâm tu viện nay là chùa Phổ Chiếu
và lập thêm Viện Dưỡng Lão giúp đỡ người già yếu có nơi an dưỡng, tu niệm.
Năm 1955, với mục
đích hoằng dương Phật pháp đến khắp mọi miền, Ngài đã hành đạo đến miền
Nam qua các nơi như Gò Công, Cai Lậy, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần
Thơ, Châu Ðốc.
Năm 1957, nhận thấy
Gia Ðịnh là nơi thuận duyên trong việc hành đạo, Ngài liền mua sáu mẫu đất
tại xã Tân Hiệp, huyện Hốc Môn, sáng lập chùa Hoằng Pháp, mở ra Ðạo Tràng
Thiền Học, tổ chức in kinh sách ấn tống mong giáo lý Phật đà được phổ biến
sâu rộng đến mọi tầng lớp nhân dân.
Năm 1965, trước cảnh
màn trời chiếu đất, nhà tan cửa nát của đồng bào do chiến tranh tàn phá
tại Ðồng Xoài, Thuận Lợi, Ngài đã đón nhận 60 gia đình gồm 361 nhân khẩu
về chùa nuôi ăn trong 8 tháng. Sau đó, xây cất khu định cư gồm 55 căn nhà
vách tường mái tôn cấp cho đồng bào với đầy đủ các đồ dùng cần thiết trong
gia đình.
Năm 1968, Ngài tiếp
nhận và trùng tu Niệm Phật Ðường Thiện Phước tại số 192/11 đươøng Nguyễn
Trãi quận 5 thành phố Hồ Chí Minh làm nơi giảng kinh thuyết pháp, phổ biến
kinh sách.
Cũng năm 1968 chiến
tranh vẫn tiếp diễn tàn khốc trên quê hương đất nước, những trẻ thơ mất
cha lạc mẹ bơ vơ không nơi nương tựa hoặc nghèo đói thất học ngày càng
nhiều. Một lần nữa, Ngài lại thành lập Viện Dục Anh tại xã Tân Hiệp huyện
Hốc Môn, tiếp nhận cô nhi và bần nhi từ 6 đến 8 tuổi, khoảng 355 em, nuôi
dạy miễn phí, rèn luyện đức trí thể dục để trở thành người hữu dụng cho
đất nước trong tương lai.
Năm 1974, mặc dù
tuổi đã cao, nhưng với hạnh nguyện từ bi vô lượng, Ngài đã mua 45 mẫu đất
tại ấp Phú Ðức, xã Tân Tạo, huyện Bình Chánh dự định thực hiện một chương
trình xây dựng làng cô nhi Việt Nam với đầy đủ phương tiện cho các em sinh
hoạt và một đền thờ Quốc Tổ Hùng Vương để nhắc con cháu nhớ đến công cuộc
mở nước và dựng nước của các Vua Hùng oanh liệt thuở trước . Công việc
đang được tiến hành xây dựng thì đến tháng 4-1975 đất nước thống nhất,
Ngài đã hiến số đất đó cho Ban quản trị khu Kinh tế mới sử dụng, hiện nay
là nông trường Lê Minh Xuân.
Từ sau giải phóng,
Ngài vẫn tiếp tục những công tác từ thiện xã hội cho đất nước. Mặc dù tuổi
cao sức yếu và với kinh tế eo hẹp, Ngài vẫn đóng góp hằng tháng vào trường
Cao cấp Phật học và trong cuộc hỏa hoạn ở chợ nhỏ phường 24 quận 1 đường
Nguyễn Cảnh Chân, Ngài đã cứu trợ ba đợt cho 32 hộ tại đó.
Với tâm nguyện hoằng
pháp để giác ngộ chúng sinh, mặc dù bận rộn rất nhiều công tác Phật sự và
từ thiện xã hội, Ngài vẫn không quên truyền bá chánh pháp. Một số kinh
sách do Ngài biên soạn, đã được in ấn như:
1. Kinh Nhựt Tụng
(soạn riêng cho chùa tụng đọc).
2. Nghi luật tu trì
thiết yếu.
3. Qui giới hành
trì.
4. Sự tích nhân quả
báo ứng.
5. Tuyên dương diệu
pháp.
6. Ðạo giải thoát.
7. Tuyên dương chính
pháp.
8. Trên đường hành
đạo.
9. Khóa niệm tùy
thân.
10. Lược sử Phật Tổ.
Năm 1986 tuổi đã
cao, biết mình sắp xa rời Ðạo tràng, môn chúng, Ngài nhắn nhủ cặn kẽ với
môn đồ: “Hãy để tôi về, đừng nuối tiếc gì nữa”. Ngài đã thị tịch lúc 13
giờ 30 phút ngày 16 tháng 10 năm Mậu Thìn tức ngày 26/11/88 tại chùa Hoằng
Pháp. Ngài trụ thế 88 năm và được 65 tuổi đạo.
Chú thích :
(1) Hòa thượng Ngộ
Chân Tử ban đầu hành đạo theo Tam Giáo, nên Ngài tu hạnh biệt truyền,
không theo hệ thống giới pháp của Phật giáo chính thống.
HÒA THƯỢNG
THÍCH BÌNH MINH
(1924 - 1988)
Hòa thượng Thích
Bình Minh, pháp danh Quảng Tuấn, thế danh Nguyễn Bình Minh, sinh ngày 20
tháng 10 năm Giáp Tý (10-11-1924) tại xã Hương Cát, huyện Trực Ninh, tỉnh
Nam Ðịnh. Thân phụ là cụ Nguyễn Văn Chữ và thân mẫu là cụ Nguyễn Thị Ninh.
Ngài là con út trong gia đình có bốn trai hai gái, nên được học hành chu
đáo cả Nho lẫn Tây học.
Gia đình Ngài đều là
những Phật tử thuần thành. Trung tuần tháng 6 năm Mậu Dần (1938), Ngài
được song thân cho phép xuất gia và được Sư cụ Thanh Tiên, trụ trì chùa
Tuân Lục, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Ðịnh nhận làm đệ tử và truyền thụ tam
quy ngũ giới.
Cuối năm 1938, Ngài
được truyền thụ Sa Di giới và tu học ở chùa Tuân Lục được hơn một năm.
Cuối năm 1939, khi Sư cụ Thanh Tiên vào trụ trì tại chùa Lễ (An Lạc) thị
xã Vinh, tỉnh Nghệ An, Ngài được theo Bổn sư.
Ngài tu học tại đó
đến giữa năm 1944 thì ra chùa Quán Sứ, được Hòa thượng Trí Hải quan tâm
đưa sang chùa Bồ Ðề (huyện Gia Lâm) theo học Tổ Tuệ Tạng (tức Tổ Cồn) và
sau đó lại trở về chùa Quán Sứ học Duy Thức học do Cư sĩ Nguyễn Hữu Kha
(Thiều Chửu) giảng.
Vào đầu năm 1945,
Ngài được cử đi trụ trì chùa làng Phú Nghĩa Hạ, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An.
Mới được nửa năm thì Cách Mạng Tháng Tám thành công, Ngài trở lại chùa
Quán Sứ và sau đó Ngài về chùa Cồn (Nam Ðịnh) theo Tổ Tuệ Tạng để tu học.
Từ cuối năm 1945 đến
giữa năm 1954, Ngài y chỉ hẳn vào Tổ Tuệ Tạng để tu học và đã theo hầu Tổ
trú chân đó đây nhiều cảnh chùa như Quần Phương Trung, Nam Anh, Cát Chữ,
Nội, Sở, Vọng Cung, Quán Sứ v.v...
Vào trung tuần tháng
3 năm Mậu Tý (1948), Tổ Tuệ Tạng tổ chức giới đàn để truyền thụ Tỳ kheo
giới cho Ngài và các bạn đồng tu có giới hạnh.
Từ năm 1951 đến
1954, Tổ cho Ngài ra ở chùa Quán Sứ để học Trung cấp ngoại điển. Sau Hiệp
định Genève, Ngài vào Nam để tham cứu thêm nội điển nơi các bậc Tôn đức
Phật giáo đàng trong. Ðầu tiên, Ngài tạm trú tại chùa Ấn Quang, nơi có
Phật học đường Nam Việt đang mở do Hòa thượng Thiện Hòa làm Giám đốc cũng
là đồng hữu tu học môn Luật tạng với Ngài tại chùa Cồn.
Ðầu năm 1955, Giáo
Hội Tăng Già Bắc Vieät tại miền Nam ra đời, chùa Giác Minh được thành lập,
Ngài về chùa Giác Minh giữ chức Giảng viên kiêm Thủ quỹ. Sau đó Ngài về
chùa Giác Hoa ở Gia Ðịnh để học thêm ngoại ngữ và nghiên cứu nội điển.
Cũng trong năm này, Ngài cùng một số vị Tăng hữu sang Campuchia tham quan
các ngôi chùa nổi tiếng và tìm hiểu về Phật giáo Nguyên Thủy.
Năm 1957, Ngài được
cử giữ chức Tổng thư ký Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt, tiếp theo Ngài làm Ủy
viên Hoằng pháp, rồi cố vấn giáo lý và Chánh Duy Na chùa Giác Minh cho đến
năm 1960.
Năm Tân Sửu (1961),
Ngài khai sơn cảnh chùa riêng do Ngài tự tạo để tìm sự yên tĩnh tư duy về
giáo lý và giảng dạy Tăng tín đồ. Ðó là chùa Hòa Bình ở đường Lê Văn
Duyệt, quận 10 Sài Gòn. Tại nơi đây chính thức bắt đầu sự nghiệp hoằng hóa
của Ngài. Tăng tín đồ khắp nơi quy ngưỡng về học Giáo lý và Luật tạng rất
đông và đều đặn.
Năm 1964, Ngài được
bầu làm Ðặc Ủy Tăng Sự Miền Vĩnh Nghiêm, và giữ chức vụ ấy đến ngày thống
nhất đất nước (1975). Trong thời gian này, Ngài cùng Hòa thượng Thích
Thanh Kiểm hướng dẫn một đoàn Phật tử Việt Nam tham quan chiêm bái thắng
tích các cảnh chùa ở Nhật Bản, Ðài Loan, Hồng Kông (năm 1967). Rồi cùng
các Hòa thượng trong đoàn Phật giáo Việt Nam đi thăm viếng Phật giáo các
nước Lào, Thái Lan, Ðài Loan, Hồng Kông (1969). Trong những năm này, Ngài
được mời làm Giáo sư giảng dạy tại Phật học viện Việt Nam Quốc Tự.
Năm 1972, Ngài được
Giáo Hội cử đi dự Ðại hội Phật Giáo Liên Hữu Thế Giới lần thứ 10 tại Tích
Lan (Colombo) cùng với các Hòa thượng Thanh Kiểm, Ðộ Lượng, Kim Sang. Sau
đó Ngài được cơ duyên thăm viếng các ngôi chùa nổi tiếng tại Kandy,
Anuradhapura, Mihintale.
Cuối năm 1972 đến
năm 1973, Ngài được mời làm Tổng vụ Trưởng Tổng Vụ Phật học Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam Thống Nhất, sau đó laøm Ðặc Ủy Phật học miền Vĩnh Nghiêm cho
đến ngày thống nhất đất nước, và tiếp tục giữ chức Ủy Viên Quản Trị chùa
Vĩnh Nghiêm suốt những năm về sau.
Năm 1983-1984, Ngài
dạy luật tại Phật học viện Thiện Hòa chùa Ấn Quang, và phụ trách môn Kinh
Luật tại các trường hạ Vĩnh Nghiêm, Giác Ngộ và các Phật học Ni trường
cùng giảng giáo lý phổ thông cho Phật tử tại chùa Hòa Bình. Ðặc biệt, qua
các lớp chuyên khoa Luật học tại chùa Hòa Bình, Ngài đã tạo được một thế
hệ kế thừa vững chắc về căn bản giáo điển cần thiết để thi hành nhiệm vụ
Sứ Giả Như Lai.
Ngoài việc giảng
dạy, Ngài còn biên soạn các giáo trình, phiên dịch các kinh điển phổ cập
và công trình cuối cùng là phiên dịch bộ luật Yết Ma Chỉ Nam ra tiếng
Việt, giúp cho Tăng Ni có điều kiện hành sự tác pháp Thiền môn đúng luật.
Bên cạnh đó, Ngài tổ chức việc tác pháp tụng giới đều đặn tại giới tràng
chùa Hòa Bình cho Tăng sinh các nơi về đây thực tập, và là giới tràng tụng
Bồ Tát giới cho cư sĩ Phật tử.
Nhưng hữu thân tức
hữu bệnh, một bệnh nan y đã khiến Ngài ra đi về cõi Phật vào ngày 15 tháng
11 năm Mậu Thìn (23-12-1988) tại chùa Hòa Bình trong sự luyến tiếc của
Tăng Ni Phật tử. Ngài trụ thế được 64 năm với 40 hạ lạp.
Hòa thượng đã biên
soạn và phiên dịch các tác phẩm :
- Phật Giáo giáo
khoa (biên soạn).
- Kinh 42 Chương
(dịch).
- Kinh Di Giáo
(dịch).
- Kinh lễ 6 phương
(dịch).
- Nghi thức phổ
thông (biên soạn).
- Yết Ma Chỉ Nam (dịch).
HÒA THƯỢNG
THÍCH PHƯỚC QUANG
(1908 - 1988)
Hòa thượng Thích Phước Quang
thế danh Tiêu Mao, sinh ngày 28-4 Mậu Thân (1908) tại làng Tân Hội, huyện
Vạn Linh, tỉnh Quảng Ðông, Trung Quốc. Xuất thân trong một gia đình nông
dân, thân phụ là cụ Tiêu Minh, thân mẫu là cụ Ấu Quý. Ngài tham gia phong
trào Tam Dân do Tôn Dật Tiên lãnh đạo. Năm 1927, bị Tưởng Giới Thạch khủng
bố, cả gia đình chạy sang Việt Nam, vào Chợ Lớn, xuống Ðịnh Tường làm công
cho tiệm giải khát tại thành phố Mỹ Tho để kiếm sống.
Nhờ ảnh hưởng truyền thống cách
mạng của gia đình nên khi sang Việt Nam, Ngài dễ dàng hội nhập vào xã hội
của giai cấp lao động nghèo để giúp đỡ người cô thế, chống áp bức bất công
nên được đồng bào người Hoa cũng như người Việt thương mến quý trọng.
Thuở thiếu thời Ngài là một võ
sư nổi tiếng từ Sài Gòn đến Lục Tỉnh. Do đó các quan lại cầm quyền cùng
hương chức hội tề chuyên áp bức nhân dân đều nể sợ Ngài, anh em tựu nghĩa
về dưới trướng rất đông. Ngài tập họp được một nhóm anh em công nhân người
Hoa quan hệ với thợ thuyền hãng xưởng ở Mỹ Tho hòa nhập vào cao trào Cách
Mạng tại địa phương.
Năm 1936-1939, Ngài hướng dẫn
công nhân lao động thành phố Mỹ Tho tham gia phong trào Mặt trận bình dân
Nam Kỳ, dự mít-tinh, đấu tranh đình công bãi thị đòi dân sinh, dân chủ.
Sau đó Ngài được cách mạng huy động cùng với Hà Tôn Hiến, võ sĩ Tộ chuyên
trách huấn luyện anh em võ trang, tự vệ đỏ.
Ðêm 22 tháng 11 năm 1940, nhận
lệnh khởi nghĩa, Ngài hướng dẫn toán nghĩa quân người Hoa trong thành phố
Mỹ Tho cùng nhân dân toàn tỉnh nổi dậy cướp chánh quyền. Nhưng do cuộc
khởi nghĩa Nam Kỳ bị lộ, giặc Pháp đã đề phòng, việc cướp chánh quyền bị
thất bại, chuùng ra tay đàn áp, Ngài và anh em phải lẩn trốn và hoạt động
bí mật.
Tháng 8 năm 1945, Ngài cùng
nghĩa quân một lần nữa cướp chính quyền. Cách Mạng Tháng Tám thành công,
Ngài được cử làm Hội trưởng Hội Hoa kiều Liên Hữu, là tiền thân của Hoa
Kiều giải phóng Liên hiệp Hội tỉnh Mỹ Tho cho đến năm 1954.
Tháng 7 năm 1954, hòa bình lập
lại, Ngài tiếp tục lãnh đạo người Hoa tham gia các cuộc mít-tinh biểu tình
đòi thi hành hiệp định Genève. Ngài bị chính quyền nhà Ngô ba lần vây bắt,
nhờ mưu trí và tài võ nghệ cao cường nên cả ba lần Ngài đều trốn thoát.
Năm 1954, Ngài lên Sài Gòn gắn
với phong trào hòa bình hoạt động cùng ông Ký Ðăng, khi cơ sở bị phát
hiện, Ký Ðăng bị bắt, Ngài trốn thoát được và bước qua bước ngoặt mới:
Ngài xuất gia đầu Phật, bỏ lại sau lưng quá khứ hào hùng ấy mà đi vào lãnh
vực tịch tịnh từ bi.
Năm 1960, Ngài xuất gia tại
chùa Giác Nguyên ở Khánh Hội, được Hòa thượng Thiện Tường thâu nhận làm đệ
tử, đặt pháp danh là Phước Quang, húy là Trừng Minh. Tại đây Ngài Phước
Quang chăm lo tu học và chấp lao phục dịch thiền môn dưới sự dìu dắt của
Hòa thượng Bổn sư.
Năm 1961, chùa khai giới đàn,
Ngài được thọ giới Sa Di. Do là người Hoa, nên Hòa thượng Bổn sư cho phép
tu học hành đạo theo Hoa Tông mang tính đặc thù của người Hoa, vốn là để
Ngài gần gũi kết duyên với Hoa Tông mà cảm hóa tín đoà người Hoa truyền
thừa đạo mạch. Nhờ sự kiên trì tu học, Ngài ngày càng có uy tín trong giới
Phật giáo người Hoa, cuối năm 1961, Ngài kiến lập Từ Ðức Tịnh Xá làm trú
xứ và làm nơi qui tụ Phật tử người Hoa về đây lễ bái tu học.
Năm 1962, Ngài thọ Tỳ kheo giới
tại Giới đàn chùa Tứ Diện tỉnh Trà Vinh. Từ đây, trên đường hành đạo, Ngài
đã có điều kiện tập hợp tín đồ, quy tụ quần chúng thành lập các Hội quán,
các tổ chức hợp pháp như:
. Hội Từ Thiện - Quan Âm cứu
trợ.
. Ðại Từ Liên Xã.
. Nhóm chống bắt lính v.v...
Năm 1970, chư Tôn người Hoa tại
Việt Nam trù bị thành lập Giáo Hội Phật Giáo Hoa Tông Việt Nam. Ngài được
mời làm thành viên Ban trù bị. Ðến năm 1972, tại Ðại hội Ðại biểu lần thứ
nhất Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Ngài được bầu làm Tổng vụ
Trưởng Tài chánh Ban chấp hành Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thống Nhất, và cũng tại Ðại hội này, Ngài được suy tôn làm Hòa thượng.
Năm 1973, Ngài xây dựng thêm
ngôi chùa Từ Ðức mới, với qui mô lớn hơn nhằm mở rộng cơ sở, qui tụ quần
chúng làm Phật sự. Ngoài việc tu học phụng sự đạo pháp, Ngài còn lãnh đạo
tín đồ người Hoa cùng với Phật giáo toàn quốc tham gia đấu tranh đòi hòa
bình chống áp bức theo xu thế chung bấy giờ; và còn vận động tài chánh vật
chất chuyển ra vùng cách mạng, giúp cho cán bộ hoạt động nội thành ăn ở
hoäi họp rất bí mật và an toàn.
Năm 1975, với lực lượng và uy
tín lớn sẵn có, Ngài huy động các tầng lớp người Hoa tham gia cuộc cách
mạng lịch sử thống nhất nước nhà. Cách mạng thành công, Ngài được Phật
giáo Hoa Tông Vieät Nam bầu làm Chủ tịch Ban chấp hành Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam Thống Nhất trong kỳ Ðại hội bất thường. Ðến tháng 8-1975, Ngài
lại được đề cử làm Ủy viên đoàn Chủ tịch kiêm Thủ quỹ Ban Liên Lạc Phật
Giáo Yêu Nước Thaønh Phố.
Tháng 3 năm 1976, Ngài được cử
làm Ủy viên Ban kiểm tra bầu cử Quốc hội thống nhất. Từ năm 1976 đến 1987,
Ngài là Ðại biểu Hội đồng Nhân dân Quận 5 các khóa 1, 2, 3; là Ủy viên Ủy
ban Mặt trận Thành phố và quận 5 suốt 3 nhiệm kỳ. Và là Trưởng Ban Liên
Lạc Phật giáo Yêu nước quận 5, sau là Chánh Ðại diện Phật giáo quận 5.
Năm 1978, Ngài hướng dẫn 148 hộ
tư sản chuyển sang sản xuất tại Tân Lập, Tiền Giang. Tại đây Ngài đã kiến
tạo một cơ sở Từ Ðức 3.
Tháng 11, năm 1981, tại Hội
nghị thống nhất Phật giáo toàn quốc ở chùa Quán Sứ, Hà Nội, Ngài được suy
cử làm thành viên Hội đồng Chứng Minh.
Năm 1982, tại Ðại hội thành lập
Thành Hội Phật Giáo Thành phố Hồ Chí Minh, Ngài được cử làm Ủy viên Ban
Trị Sự, đặc trách hệ Hoa Tông.
Ngoài ra, trong quá trình hành
đạo của mình, Ngài đã xây dựng được các cơ sở đến nay vẫn còn phát huy tác
dụng lợi ích cho xã hội là:
. Trường Chính Nghĩa (Mỹ Tho).
. Trường Chánh Giác (Thủ Dầu
Một).
. Tang nghi quán Quảng Ðông
(quận 5).
Tuổi già sức yếu, định luật vô
thường rồi cũng đến với bất cứ một ai. Tuy đảm trách nhiều chức vụ Phật sự
trong lúc ngã bệnh, Ngài vẫn chỉ đạo công tác cho đến khi không thể trở
dậy được nữa. Ngài đã làm di chúc, sáng suốt ủy thác sự nghiệp lại cho
Giáo Hội và Môn đồ, cầu thỉnh Chư Tôn đức về chùa Từ Ðức để gặp mặt lần
cuối cùng và làm lễ cúng dường rộng rãi.
Ngài nhẹ nhàng thị tịch vào lúc
11 giờ ngày 20 tháng 8 Mậu Thìn, tức ngày 30-9-1988 tại chùa Từ Ðức quận
5. Trụ thế 81 năm, hành đạo 30 năm.
Hòa thượng Thích Phước Quang có
công lao to lớn trong hoạt động cách mạng xuyên suốt hai thời kỳ chống
Pháp và Mỹ. Là một bậc tu hành tiêu biểu giàu lòng yêu nước, đóng góp tích
cực cho sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc và công cuộc thống nhất Phật
giáo Việt Nam.
HÒA THƯỢNG
THÍCH THANH CHÂN
(1905 - 1989)
Hòa Thượng pháp danh Thích
Thanh Chân, hiệu Nhẫn Nhục, thế danh là Nguyễn Thanh Chân. Sinh ngày 4
tháng 10 năm Ất Tỵ (1905), tại thôn Quỳnh Trân, xã Nam Cầu Hạ (nay là xã
Nam Hạ ), huyện Duy Tiên, tỉnh Nam Hà.
Ngài sinh ra trong một gia đình
Nho học thuần đức, ngay từ thuở thiếu thời, đã được giáo đục đúng mực,
sống hòa ái với mọi người, có chí tiến thủ và lúc nào cũng toû ra hiếu
thuận với song thân. Người Thầy đầu tiên chính là anh cả của ngài, đã trực
tiếp kèm Ngài học hành suốt quảng đời niên thiếu.
Năm Kỷ Mùi (1919) khi tròn 15
tuổi, Ngài được song thân dẫn đến xin thọ pháp xuất gia học đạo với Hòa
Thượng Thanh Tích, Giám tự Hương Sơn lúc đó. Vốn sẵn trí thông minh lại
làu thông Nho điển, nên Ngài đã nhanh chóng được Thầy nhận làm đệ tử
truyền trao giáo pháp.
Năm 17 tuổi (Tân Dậu-1921) sau
thời gian chấp tác hành đạo, Ngài được Bổn Sư cho thọ Sa Di giới. Từ đây
Ngài được phép đi tham học khắp nơi với tâm niệm muốn trực tiếp thâm nhập
tạng bản Phật pháp mà chìa khóa ban đầu là vốn Nho học, do đó Ngài tiếp
tục tìm đến cụ Tú ở Bát Tràng để nâng cao thêm kiến thức Nho học, tiếp nữa
đến cụ Cử Ðồng Bào.... Ðể rồi sau khi thấy trình độ tương đối, Ngài mạnh
dạn tìm đến Thiền Viện Phúc Khánh (Bằng Sở) để học Phật, lúc này do Hòa
thươïng Phan Trung Thứ (Thanh Cát ) trực tiếp giảng dạy.
Năm 21 tuổi (Ất Sửu -1925) Ngài
thọ Tỳ Kheo giới. Sau khi được thọ giới, Ngài càng ra sức trau dồi kiến
thức Phật học, không ngừng nỗ lực phấn đấu để tự vươn lên trong điều kiện
khiếm khuyết về vật chất lẫn phương tiện lưu truyền kinh tạng. Không lâu
sau đó Ngài được cử nhận chức trụ trì chùa Quỳnh Chân tại quê nhà.
Năm Giáp Tuất (1934) khi đã 30
tuổi, Ngài trở lại Hương Tích tiếp tục tinh nghiên giáo lý và để được gần
gũi Bổn sư thọ giáo thêm những điều chưa hiểu. Thời gian này chính là giai
đoạn thử thách cực kỳ lao nhọc. Cũng như Tăng chúng khác, ngoài những thời
khóa tu học, Ngài phải lao động chaáp tác để có lương thực sinh sống hoặc
phải san bằng cây cỏ, tạo mở lối đi, tránh bớt vẻ hoang vu nơi cô tịch xa
xôi.
Khi Bổn sư viên tịch, Tăng
chúng đồng thanh đề cử ngài làm Giám viện động Hương Tích. Với nhiệm vụ
nặng nề này Ngài càng tỏ ra nghiêm túc để làm gương độ chúng, nhưng không
tạo ra khoảng cách trong đồng môn và Tăng chúng các thế hệ sau. Các lớp
Phật pháp căn bản được Ngài mở ra theo quy trình nhất định để Tăng chúng
có dịp hiểu sâu thêm tinh hoa Phật Ðà và nhận rõ mục đích cao đẹp của việc
xuất gia. Ðó cũng là ước nguyện lâu dài của Ngài đối với tiền đồ Phật giáo
khi hội đủ nhân duyên kết hợp.
Nhưng ước nguyện cao đẹp ấy chỉ
mới bắt đầu kiến tạo nền móng chưa được bao lâu thì liên tục từ những năm
1947 cho đến 1950, quân Pháp chọn nơi này làm vị thế chiến lược, nên đã ra
sức đánh phá ác liệt. Vì thế Phật tử chung quanh nhất là Tăng chúng, phải
rời khỏi nơi này. Ròng rã những tháng ngày kế tiếp chỉ còn Ngài là người
duy nhất ở lại với chùa Tổ trông nom coi sóc để mọi người tản cư. Hành
động cũng có nghĩa rằng Ngài là điểm tựa để các tổ chức kháng chiến bám
truï. Tấm lòng yêu nước nồng nàn của Ngài đã được thể hiện mãnh liệt trong
thời gian, hoàn cảnh đó.
Năm Bính Thân (1956), khi tình
hình vãn hồi mọi hoạt động của Hương Sơn trở lại khung cảnh ban đầu, Ngài
đã được chính thức cưû giữ chức trụ trì thắng cảnh này cho đến ngày viên
tịch.
Ngoài việc nghiêm hành giới
luật và dù trong bất kỳ giai đoạn nào Ngài cũng là thành viên tích cực của
Giáo Hội Phật Giáo, không bao giờ xao lãng nhiệm vụ của người tu sĩ yêu
nước. Từ sau Cách Mạng Tháng Tám cho đến suốt cả thời gian kháng chiến,
Ngài từng là Ủy viên Mặt trận Việt Minh các cấp, Ủy viên Mặt trận Liên
Việt Liên khu 3. Sau năm 1956, Ngài cũng liên tục giữ chức Phó Chủ Tịch Ủy
Ban Mặt Trận Tổ Quốc tỉnh Hà Ðông, Hà Tây, Hà Sơn Bình và tham gia Hội
đồng Nhân dân tỉnh 6 khóa.
Bên cạnh đó, Ngài còn là một
trong nhiều vị sáng lập hội Phật Giáo Cứu Quốc với cương vị Ủy viên thường
trực và chủ bút tờ báo Diệu Âm, tiếng nói Phật Giáo yêu nước thời đó.
Ngài còn tích cực vận động và
tìm sự ủng hộ từ mọi phía nhất là với các vị Tôn đức miền Bắc lúc đó, nhằm
thành lập một tổ chức Phật Giáo Thống Nhất. Năm 1956, Ngài đã hợp cùng chư
vị khác trong Tăng đoàn đến gặp Chủ Tịch Hồ Chí Minh để xin phép thành lập
Hội Phật Giáo Thống Nhất Việt Nam.
Năm Mậu Tuất (1958), Hội Phật
Giáo Thống Nhất Việt Nam được thành lập, Ngài được tham gia vào Ban Trị Sự
Trung Ương và Ban Chứng Minh Ðạo Sư, đồng thời trực tiếp làm Chi Hội
Trưởng các tỉnh Hà Ðông, Hà Tây, Hà Sơn Bình. Từ đó Ngài đã yên tâm tu
dưỡng và hoằng hóa trên cương vị lãnh đạo của một tổ chức Phật Giáo Thống
Nhất ở Miền Bắc. Dù vậy trong hoàn cảnh đất nước còn bị chia cắt, tấm lòng
vị Tăng già thiết tha với đạo vẫn hoài vọng thiết tha.
Năm Ất Mão (1975), thời điểm
thống nhất đất nước sau hơn hai mươi năm chia cắt. Ước mơ thống nhất Phật
Giáo lúc này càng trở nên thiết thực bội phần, nhất là theo định luật vô
thường tuổi đời Ngài đã không còn cơ duyên tồn tại lâu hơn. Do đó Ngài
cùng Hòa Thượng Trí Ðộ và một vài vị lãnh đạo Miền Bắc lo xúc tiến công
việc. Các Ngài liền tìm gặp lại chư vị trong Nam sau bao năm dài ngăn
cách. Tấm lòng đó đã bắt nhịp đúng với tâm tư nguyện vọng của những vị
trong Nam. Thuận duyên lớn nhất đã đem đeán kết quả thống nhất Phật Giáo
nhanh chóng chính là nhờ nhiệt tình của Hòa Thượng Thích Trí Thủ. Các Ngài
đã gặp nhau và đã cùng nhau thành lập Ban vận động thống nhất Phật giáo
Việt Nam.
Năm 1981 (Tân Dậu), ngay tại
Ðại hội đầu tiên của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, Ngài được suy cử Phó Chủ
Tịch Hội Ðồng Trị Sự Trung Ương và giữ nguyên chức vụ này cho đến khi viên
tịch.
Năm Mậu Thìn (1988), sau bao
năm dài lao nhọc tâm não lẫn thể lực, căn bệnh cũ tái phát trầm trọng,
Ngài phải vào bệnh viện Hữu Nghị Việt - Xô để điều trị.
Năm Kỷ Tỵ (1989) sau hơn một
năm trị bệnh, Ngài đã thị tịch ngày 17 tháng 02, nhằm ngày 12 tháng 01
â.l, hưởng thọ 85 tuổi đời, 70 tuổi đạo.
HÒA THƯỢNG
THÍCH HUỆ
HƯNG
( 1917 - 1990 )
Hòa thượng Thích Huệ
Hưng, húy Ngộ Trí thuộc dòng thiền Lâm Tế đời thứ 39, là đệ tử Sư tổ Vạn
An (Sa Ðéc ).
Ngài thế danh là
Nguyễn Thanh Chẩm, sanh năm Ðinh Tỵ (1917) tại làng Mỹ Tho, quận Cao Lãnh,
tỉnh Ðồng Tháp. Thân phụ là cụ Nguyễn Minh Biện, pháp danh Minh Chiếu,
thân mẫu là cụ Trần Thị Mậu pháp danh Diệu Thiệt. Năm 62 tuổi, cụ bà xuất
gia thọ giới Sa Di Ni.
Là con trưởng trong
gia đình gồm bảy anh em, Ngài dìu dắt các bào đệ bước vào lộ trình giải
thoát như :
1/ Thượng tọa Thích
Huệ Viên, trụ trì chùa Sơn Bửu (Vũng Tàu ).
2/ Thượng tọa Thích
Minh Cảnh, trụ trì tu viện Huệ Quang.
3/ Ni Sư Thích Nữ Như
Trí (đã viên tịch năm 1978).
4/ Ni Sư Thích Nữ Như
Diệu, trụ trì tu viện Diệu Ðức, Quận Bình Thạnh.
Vốn sanh trong gia
đình trung lưu phúc hậu, nhiều đời kính tín Tam Bảo, sâu trồng ruộng phước
Tăng già, Ngài sớm nhận thưùc cảnh trần gian ảo mộng, cuộc đời giả huyễn
vô thường. Ngài đến núi Sập để tìm nơi tu dưỡng, hằng ngày lo niệm Phật
tụng kinh. Cơ duyên hội đủ, Ngài được Tổ Vạn An (Sa Ðéc) cho thế phát năm
1938, lúc ấy Ngài vừa tròn 21 tuổi.
Năm 1942, Tổ Vạn An
khai đàn trao giới, Ngài chính thức thọ Sa Di. Vốn thông minh sẵn có và
lòng khát ngưỡng Ðại Thừa, ngày đêm Ngài tinh tấn tu hành, lo phụng trì
chánh giới.
Năm 1943, Tổ Vạn An
biết Ngài là bậc pháp khí Ðại Thừa, xứng đáng ngôi Long Tượng của Phật
pháp bèn quyết định cho thọ Tỳ Kheo Bồ Tát Giới tại chùa Viên Giác ở Vĩnh
Long. Sau đó ở lại chùa này học kinh luật trong mười tháng rồi qua chùa
Phước Duyên ở Mỹ Tho tu học cho đến năm 1945, Ngài vào học tại Phật Học
Ðường Lưỡng Xuyên - Trà Vinh được 6 tháng. Vì tình hình chiến sự trong
nước, Ngài phải trở về học với Hòa thượng Hành Trụ tại chùa Long An - Sa
Ðéc.
Cuối mùa đông 1947,
Ngài cầu học với Hòa Thượng Thích Trí Tịnh tại Phật Học Ðường Liên Hải -
Sàigon.
Năm 1951, Ngài dưỡng
bệnh tại chùa Giác Nguyên - Khánh Hội, đồng thời dạy kinh pháp cho Tăng
chúng. Cũng tại chùa Giác Nguyên này, Ngài phiên dịch kinh Duy Ma Cật và
Kim Cang Giảng Lục.
Năm 1954, với hoài
bão “ Hoằng pháp là nhà, lợi sanh là sự nghiệp”, Ngài đã phụ giúp Hòa
Thượng Thích Thiện Hòa, viện chủ chùa Ấn Quang giảng các bộ kinh Ðại Thừa.
Năm 1955, Ngài làm
Phó Liên trường Hội Cực Lạc Liên Hữu do Hòa thượng Thích Trí Tịnh làm
Chánh Liên trường.
Năm 1956, Ngài sang
Nam Vang dạy khóa hạ tại chùa Chuẩn Ðề, khi trở về Ngài được mời làm trụ
trì chùa Kim Huê - Sa Ðéc.
Năm 1957, Giáo Hội
Tăng Già Nam Việt mở khóa huấn luyện trụ trì “Như Lai Sứ Giả” tại chùa
Pháp Hội do Hòa Thượng Thích Thiện Hòa làm Trưởng ban và mời Ngài đảm
nhiệm Phó trưởng ban kiêm Thư ký.
Năm 1958, Ngài giảng
dạy tại Phật Học Ðường Phước Hòa - Trà Vinh.
Năm 1960, Ngài mời
Thượng tọa Huệ Phát giữ chức vụ trụ trì chùa Kim Huê để Ngài yên tâm nhập
thất thiền định.
Năm 1962, Ngài xây
dựng Thiền viện Tập Thành ở Bà Chiểu và làm giới sư Ðại giới đàn Phật Học
Ðường Nam Việt chùa Ấn Quang.
Năm 1964, ngài được
mời làm giới sư tại Ðại giới đàn Việt Nam Quốc Tự.
Từ năm 1966 đến 1969
Ngài làm giáo sư tại Phật Học Viện Cao Ðẳng Huệ Nghiêm và giảng kinh Vieân
Giác tại chùa Tuyền Lâm.
Năm 1970, Ngài khai
sơn Tu Viện Huệ Quang rồi thường trụ và hành đạo tại đây. Ngài được mời
làm giới sư tại các giới đàn: Huệ Quang - Mỹ Tho (năm 1972), Phước Huệ -
Nha Trang (năm 1973), Quảng Ðưùc - Long Xuyên (năm 1974) và được mời làm
thành viên Hội đồng Giáo phẩm Trung ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống
Nhất cùng được suy cử làm Tổng lý Hội đồng Quản trị Tổ đình Ấn Quang.
Từ năm 1976 đến 1980,
hai Ðại giới đàn Quảng Ðức và Thiện Hòa được mở ra tại chùa Ấn Quang, Ngài
được cung thỉnh làm Yết Ma A Xà Lê.
Năm 1982, Thành Hội
Phật Giáo Thành phố Hồ Chí Minh nhiệm kỳ I đề cử ngài giữ chức vụ Phó Ban
Trị Sự Thành hội kiêm Ủy Viên Giáo Dục Tăng Ni.
Năm 1984, Ngài là
giới sư Ðại giới đàn do Thành Hội Phật Giáo Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức
tại chùa Ấn Quang. Ðồng thời Ngài được mời giảng dạy tại các trường hạ do
Thành Hội tổ chức cùng giưõ chức Hiệu Phó kiêm giảng viên trường Cao Cấp
Phật Học Việt Nam cơ sở 2.
Năm 1987, Ðại Hội
Phật Giáo nhiệm kỳ II, Ngài được tái cử chức vụ Phó Ban Trị Sự Thành Hội.
Mùa an cư năm này, Ngài làm thiền chủ trường hạ do Thành Hội tổ chức tại
Tổ đình Vĩnh Nghiêm. Tháng 10/1987, Ngài đi dự Ðại Hội Phật Giáo toàn quốc
kỳ II tại Hà Nội. Ngài được tấn phong Hòa thượng và được đề cử làm Trưởng
ban Tăng sự Trung ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
Năm 1988, Ngài làm
Yết Ma A Xà Lê tại Ðại giới đàn do Thành Hội Phật Giáo tổ chức lần thứ II
tại chùa Ấn Quang.
Năm 1989, Viện Nghiên
Cứu Phật Học Việt Nam được thành lập, Ngài được cử làm Trưởng ban Phật
giáo chuyên môn.
Cuộc đời hành hóa của
Ngài rất bình dị, chơn tu thật học, nghiêm trì giới luật, xiển dương Phật
pháp bằng con đường giáo dục. Ngài là một luật sư giáo thọ của Tăng Ni,
Phật Tử trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
Trong sự nghiệp tham
thiền và giảng dạy, Hòa Thượng đã phiên dịch:
- Kinh Duy Ma Cật.
- Kim Cang Giảng Lục.
- Lược Sử Ðức Lục Tổ.
- Pháp môn tu chứng
Lăng Nghiêm Ðại Ðịnh.
Chưa xuất bản:
- Kinh Phật thuyết
Ðương Lai Biến.
- Kinh Phật thuyết
diệt tận.
- Tập Tri Kiến Giải
Thoát.
Ðang soạn dịch:
- Kinh Phạm Võng Hiệp
Chú.
Theo năm tháng trôi
qua, bốn đại tùy duyên thuyên giảm, Ngài ngọa bịnh tại thiền sàng. Chẳng
bao lâu Hòa thượng thu thần viên tịch vào ngày 28 tháng Giêng năm Canh Ngọ
(1990). Ngài trụ thế được 74 năm, với 46 hạ lạp. Bảo tháp Ngài được xây
dựng tại Ðại Tòng Lâm - Bà Rịa để cùng đứng chung với các vị tiền bối đã
kiến tạo nên cơ sở Tổ đình Ấn Quang.
HÒA THƯỢNG
THÍCH BỬU
LAI
(1901 - 1990)
Hòa thượng pháp danh
Thích Bửu Lai, pháp hiệu Giác Hòa. Thế danh Lê Văn Tồn, sinh năm 1901 (Tân
Sửu) tại Sa Ðéc, tỉnh Ðồng Tháp.
Ngài sinh trong một
gia đình trung lưu, phúc hậu, thấm nhuần Nho giáo đồng thời hết lòng kính
tin Tam Bảo. Cụ thân sinh là ông Lê Văn Hưởng và thân mẫu là bà Lê Thị
Thiềm. Gia đình có bốn chị em (3 nữ 1 nam), Ngài là người con thứ ba và cả
thảy boán người đều xuất gia tu học. Hai chị là Tỳ kheo Ni Diệu Chánh,
Diệu Lý trụ trì chùa Long Ðức - Sa Ðéc (đã viên tịch). Người em gái còn
lại là Tỳ kheo Ni Diệu Ngọc, trụ trì chùa Long An, Xóm Củi - Sa Ðéc, tỉnh
Ðồng Tháp.
Vừa lên 6 tuổi, Ngài
được song thân cho vào trường tư thục học chữ Nho và quốc ngữ. Năm lên 7
tuổi được vào trường công học tiếp những chương trình phổ thông cần thiết
thời bấy giờ. Bản tánh hiền hậu sống chan hòa và tư chất thông minh đã bộc
lộ, nên Ngài được thầy giáo và bạn bè quý mến.
Năm 15 tuổi, Ngài thọ
tam quy ngũ giới tại chùa Long Hòa với Hòa thượng Thích Thiện An, ở xã
Ngãi Sơn, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh. Năm 18 tuổi (1919), cha mẹ Ngài đều
qua đời, để lại mấy chị em phải tự đùm bọc lấy nhau. Không lâu sau đó,
nhận thấy các chị mình cơ cực vì sinh kế, nên Ngài đành bỏ dở việc học với
nhiều nuối tiếc, hầu phụ giúp các chị trong sinh hoạt haèng ngày. Khi vừa
mãn tang mẹ ba năm, nhớ lời trối trăn của mẹ là phải lấy vợ để nối dõi
tông đường. Hơn nữa Ngài là con trai duy nhất, lại luôn hiếu thảo, Ngài
quyết định lập gia đình đúng vào năm 20 tuổi.
Năm 1922, Ngài thi
vào ngành Thư ký Bưu Ðiện Ðông Dương và được cử làm việc tại Sài gòn. Sống
giữa nơi phồn hoa đô hội đầy cám dỗ đời thường, nhưng đây chính là nơi có
đầy đủ kinh sách để Ngài tham cứu về Phật giáo. Năm 23 tuổi, nhơø được đọc
2 quyển “Tây Quy Trực Chỉ” của tác giả Trần Phong Sắc và quyển “Lão Nhơn
Ðắc Ngộ” của tác giả Mạch Quốc Thoại, Ngài phát tâm, dành ra nhiều thời
gian để nghiên cứu và tu pháp môn Tịnh độ. Từ đó, Ngài thực haønh ba thời
khóa tu tập mỗi ngày: đầu hôm lạy sám hối tiêu nghiệp và 12 câu nguyện Di
Ðà, giữa đêm ngồi niệm Phật công cứ, sáng trì chú Lăng Nghiêm. Ðó là duyên
khởi đầy tích cực cho hành trình giải thoát của Ngài.
Năm 23 tuổi, Ngài
được đổi về tỉnh nhà, làm Trưởng ty Bưu điện và Ngân khố. Ðược gần gũi gia
đình nên việc tu trì tại gia và nghiên cứu Phật học càng có cơ duyên thuận
lợi. Ngài chủ xướng thành lập Tỉnh Hội Phật Học Sa Ðeùc, rồi xây cất chùa
Hội Quán. Ở cương vị Hội trưởng, Ngài đã làm được rất nhiều điều hữu ích
cho đạo pháp tại bản tỉnh trong năm năm liền (1924-1929).
Sau 32 năm lăn lộn
giữa trường đời, suy gẫm và rút ra được những giá trị đích thực của chân
lý vĩnh hằng, Ngài quyết định xin về hưu sớm. Sau hai tháng sắp xếp việc
gia đình, Ngài bắt đầu bước vào nẻo đạo bằng cả thân và tâm.
Ngày rằm tháng 11 năm
Ất Mùi (1955), Ngài xuất gia học đạo tại Tổ đình Ấn Quang (đã 54 tuổi).
Biết mình xuất gia muộn nên Ngài dốc lòng tinh tấn, đồng thời nhờ vào ân
đức của chư Tổ Khánh Anh, Tổ Huệ Quang, các bậc Tôn túc như Hòa thượng
Viện Trưởng Thích Thiện Hoa, Hòa thượng Giám đốc Phật học đường Nam Việt
Thích Thiện Hòa... đã trợ duyên cho Ngài an vui tu học. Do đó một năm sau
Ngài đã được thọ Sa Di giới, và được Chư tôn túc đặc cách cho thọ Tỳ Kheo
và Bồ Tát giới. Sau đó Ngài xin phép Tổ Khánh Anh chứng minh lời nguyện
kiết thất để tĩnh niệm đồng thời nghiên cứu hai bộ kinh Di Ðà Sớ Sao và
Quy Nguyên Trực Chỉ.
Năm 1957, Ngài được
tham dự khóa huấn luyện trụ trì tại chùa Pháp Hội (quận 10, Sài gòn). Sau
khi mãn khóa, Ngài được Giáo Hội bổ nhiệm trụ trì chùa Phước Hòa, tỉnh Trà
Vinh, nơi này cũng là Phật Học Viện đào tạo Tăng tài cho Phật giáo.
Năm 1958, Ngài trở
lên Sài gòn tham dự khóa Như Lai Sứ Giả để hoằng truyền chánh pháp theo
triệu tập của Giáo hội. Ðoàn Như Lai Sứ Giả sau khi bế giảng đã thành lập
một lực lượng nòng cốt gồm chư Thượng tọa Trường Lạc, Trí Châu, Nhựt Long,
Quang Minh, Thiện An, Hiển Pháp, Pháp Siêu... và được chia thành hai đoàn.
Ngài làm trưởng đoàn 1, có trách nhiệm đi diễn giảng các tỉnh từ miền Ðông
như Biên Hòa, Vũng Tàu, Long Ðiền, Ðà Lạt đến các tỉnh miền Tây như An
Giang, Châu Ðốc, Vĩnh Bình, Bến Tre, Mỹ Tho, Sa Ðéc, Vĩnh Long...
Năm 1959, Giáo Hội
Tăng Già Nam Việt cử Ngài giữ chức vụ Tổng Thư ký, kiêm Thủ quỹ Giáo Hội.
Ðây là chức vụ quan trọng và là bước ngoặt đầu tiên để Ngài bắt đầu những
trách nhiệm mới.
Năm 1962, Ngài được
mời vào Ban Giám đốc Phật Học Ðường Nam Việt - chùa Ấn Quang, với chức vụ
Giám Viện.
Năm 1963, trong thời
kỳ Pháp nạn, Ngài cũng như các vị Tôn đức khác đấu tranh đòi sự bình đẳng
tôn giáo. Trong đợt khủng bố tấn công vào các chùa ngày 30.5.1963, Ngài đã
bị bắt giam tại trại Nguyễn văn Phú, Bình Ðông - Chợ Lớn cùng với các vị
Hòa thượng khác. Sau khi được thả ra, sức khỏe đã sa sút, Ngài phải về an
dưỡng tại Niệm Phật Ðường Quảng Ðức - Cần Thơ.
Năm 1964, Ngài được
Giáo Hội bố trí công việc phù hợp sức khỏe là Giáo sư Phật Học Viện Phước
Hòa kiêm trụ trì. Ðây là lần thứ hai Ngài trở lại chùa cũ. Không lâu sau
đó, khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập, Ngài lại
được cung thỉnh trở lại Sài Gòn để nhận nhiệm vụ Phó Tổng Vụ Trưởng Tổng
Vụ Tài Chánh.
Năm 1966, do yêu cầu
Phật sự, Ngài được cử đảm nhiệm chức vụ Chánh đại diện miền Huệ Quang (gồm
các tỉnh Sa Ðéc, Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre, Mỹ Tho, Gò Công). Văn phòng
được đặt tại chùa Kim Liên - Mỹ Tho.
Thượng tuần tháng
11.1969, Ngài có dịp cùng Chư Tôn đức khác đi thăm các nước Ðại thừa Phật
giáo như Nhật Bản, Ðài Loan, Hồng Kông.
Năm 1971, Ngài cùng
hai Thượng tọa Thiền Tâm và Bửu Huệ lên Ðại Ninh - Lâm Ðồng xây dựng Hương
Nghiêm Tịnh Viện, mở các khóa tu tập Tịnh độ cho Tăng Ni sinh chuyên tu.
Trong bốn năm với vai trò “Liên Hạnh”, Ngài đaõ đạt được nhiều kết quả như
sở nguyện. Năm 1974, sau căn bệnh đột ngột, sức khỏe Ngài sa sút nhiều. Do
đó, khi rời Bệnh viện Ðà Lạt, Ngài phải lui về an dưỡng tại Niệm Phật
Ðường Quảng Ðức. Mọi việc ở Hương Nghiêm Tịnh Viện đều ký thác cho Hòa
thượng Thiền Tâm đảm nhiệm.
Sau năm 1975, Ngài
được tín nhiệm mời làm Cố vấn cho Ban Liên lạc Phật giáo Yêu nước Thành
phố Cần Thơ và được mời làm Ủy viên danh dự Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh
Hậu Giang và Thành phố Cần Thơ.
Năm 1978 đến 1984,
Ngài được bầu vào Chủ tịch đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Cần
Thơ với chức vụ Phó Chủ Tịch, liên tiếp trong 3 nhiệm kỳ liền.
Năm 1983, Ban Trị Sự
Phật Giáo tỉnh Hậu Giang và Ban Ðại Diện Phật Giáo Thành phố Cần Thơ thành
lập, Ngài được suy cử ngôi vị Chứng minh Ban Trị sự và kiêm Ủy viên Hoằng
pháp Giáo Hội tỉnh.
Năm 1989, Trường Cơ
bản Phật học tỉnh Hậu Giang khai giảng, Ngài giữ chức vụ Hiệu trưởng kiêm
giáo thọ các môn luật tạng và kinh tạng. Ngày 28.11.1988 Ngài được Giáo
Hội Phật Giáo Việt Nam tấn phong Hòa thượng và giữ chức chứng minh Ban Trị
Sự Tỉnh Hội Phật Giáo tỉnh Hậu Giang.
Ngày 8.12.1990 Ngài
được Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tặng huy chương “Vì sự
nghiệp Ðại đoàn kết dân tộc” nhân kỷ niệm 60 năm thành lập.
Ngài cũng đã từng
được cung thỉnh làm giới sư trong nhiều giới đàn như: Giới đàn chùa Phổ
Minh, Giới đàn chùa Kim Liên (Mỹ Tho), Giới đàn chùa Khánh Quang (Cần Thơ)
v.v...
Ngài có năng khiếu về
thơ văn, đã từng lấy bút hiệu Thượng Ðức trong Tao Ðàn Tây Ðô thời kỳ chưa
xuất gia. Do đó khi làm công tác hoằng hóa, diễn giảng sau này, để kết
thúc và cô đọng tinh ý bài giảng, Ngài thường hay dùng thơ để kết luận.
Năm 1990, Ngài đã 90
tuổi, sức lực có hao mòn theo thời gian nhưng trí tuệ vẫn minh mẫn. Trong
những ngày tháng cuối đời này, Ngài đã dạy bảo rất nhiều điều hữu ích, vẫn
duy trì nếp sống đều đặn thường ngày và không hề xao lãng công tác Phật
sự.
Những ngày đầu hạ của
năm cuối cùng này, Ngài còn đến chùa Khánh Quang làm Thiền chủ cho Khóa hạ
tại đây do Ban Trị sự tỉnh tổ chức. Ngài còn kiêm luôn công việc giảng
huấn. Buổi chiều hôm ấy Ngài lại đến chùa Bảo An để chứng minh lễ tác pháp
của chư Ni. Khi về, Ngài đã lâm bệnh trầm trọng, nhưng tối đến, Ngài vẫn
gắng gượng ngồi đọc cho thư ký riêng ghi chép tham luận chuẩn bị cho một
cuộc hội thảo chống mê tín, dị đoan sắp đến. Ðó là những cố gắng cuối cùng
của đời Ngài.
Ngày 24.10 năm Canh
Ngọ (10.12.1990) Ngài viên tịch, sau 90 năm trụ thế, được 34 hạ lạp để lại
nhiều lợi ích cho Ðạo pháp - Dân tộc của một bậc truyền thừa dòng Lâm Tế,
đời thứ 40.
Về phương diện trước
tác, phiên dịch, Ngài đã để lại những tác phẩm như:
- Khuyến phát Bồ Ðề
tâm văn (dịch).
- Các bài văn giác
thế.
- Thiền môn trường
hàng luật (duyệt xét, giảo_chính).
- Ý nghĩa nghi thức
tụng niệm (sưu tập).
- Sưu tập giảng luận
giáo lý (39 bài).
HÒA THƯỢNG
THÍCH TÂM
NGUYỆN
(1917 - 1990)
Hòa thượng pháp danh
Tâm Nguyện, thế danh là Phạm Văn Quý, sinh ngày 23 tháng chạp năm Bính
Thìn (16-1-1917) tại xã Bình Nghĩa, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Ngài là
con thứ ba trong một gia đình Nho giáo. Thân phụ là cụ đồ Phạm Ðình Giá,
thân mẫu là cụ bà Trần Thị Ấm.
Gia đình tuy theo Nho
học nhưng lại có đạo tâm hướng về Phật giáo. Lúc nhỏ Ngài được cha mẹ cho
đi chùa lễ Phật, nghe giảng kinh pháp, Ngài sớm nhận ra thân người là giả
tạm, năm uẩn đều không. Do đó, Ngài có ý xuất gia đầu Phật.
Năm 17 tuổi (1934),
được song thân chấp thuận, Ngài đến chùa Bảo Khám thôn Tế Xuyên, xã Ðức
Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, đảnh lễ cầu Tổ đệ tứ là Hòa thượng Thích
Doãn Hài, xin được xuất gia học đạo. Ngài được Tổ thu nạp làm đệ tử và cho
thế phát quy y.
Năm 18 tuổi (1935),
Ngài được Bổn sư trao truyền thập giới tại chùa Bảo Khaùm (Tế Xuyên) và
được ban pháp danh Tâm Nguyện. Bấy giờ phong trào chấn hưng Phật giáo nở
rộ trên miền Bắc. Hội Bắc Kỳ Phật Giáo được thành lập. Báo Ðuốc Tuệ, cơ
quan truyền bá đạo Phật của hội được xuất bản. Hai Phật học đường được hội
mở tại chùa Quán Sứ ở Hà Nội và chùa Bồ Ðề ở Gia Lâm. Ngài được Bổn sư cho
lên Hà Nội theo học tại các Phật học đường này. Ngài luôn tỏ ra là một học
Tăng đạo hạnh, tinh tấn tu hành.
Năm 22 tuoåi (1939),
sau ba năm tu học tinh cần, Ngài được đăng đàn thọ Tỳ Kheo giới tại Ðại
giới đàn ở chùa Quán Sứ, trụ sở của Hội Bắc Kỳ Phật Giáo do Tổ Trung Hậu
là Hòa thượng Chân Như làm Ðàn đầu Hòa thượng. Hòa thượng Trung Hậu bấy
giờ là Giám đốc Phật học đường Bằng Sở ở Hà Nội, còn Hòa thượng Trung Thứ
là Ðốc giáo và Hòa thượng Tuệ Tạng là Phó đốc giáo kiêm giáo sư luật học.
Ðến năm 1940 Hòa thượng Trung Thứ viên tịch, qua năm sau, 1941, đến lượt
Hòa thượng Trung Hậu. Do đó, Hòa thượng Tuệ Tạng phải đảm trách luôn cả
chức Giám đốc lẫn Ðốc giáo để điều hành Phật học đường Bằng Sở. Từ đó,
Ngài theo Hòa thượng Tuệ Tạng để tu học và đã trở nên một trong những học
trò xuất sắc của Tổ.
Năm 1943, Ngài được
Tổ Thiện Bản trú trì chùa Cao Ðà chỉ định làm đương gia. Từ năm 1946 đến
năm 1950, tuy Ngài theo học tại Phật học đường Quán Sứ, nhưng vẫn phụng
mệnh Tổ Cao Ðà làm trú trì trực tiếp chùa Thượng Nông và Lý Nhân.
Năm 1954, sau hiệp
định Genève, Hòa thượng Tuệ Tạng rời chùa Quán Sứ cùng đệ tử lui về chùa
Vọng Cung ở xã Quần Phương tỉnh Nam Ðịnh. Trong số đệ tử theo Tổ về đây có
Ngài. Ngày 10-5-1959, Hòa thượng Tuệ Tạng viên tịch tại đây. Trước khi trở
về cõi Phật, Hòa thượng Tuệ Tạng đã ủy thác cho Ngài cùng với Hòa thượng
Thích Tâm Thông cùng trú trì chùa Vọng Cung. Từ đó Ngài cùng các Tăng hữu
tiếp tục sự nghiệp hoằng hóa lợi sanh, mà chư Tổ đã dày công xây đắp. Ngài
mở trường dạy Tăng Ni hậu tiến tu học và truyền giảng Phật pháp cho thập
phương tín hữu.
Trong thời gian làm
trú trì chùa Vọng Cung, Ngài vẫn dành thì giờ cùng với Tăng Ni sơn môn Tế
Xuyên trông nom Tổ đình, đồng thời giữ chức thủ tọa chùa Bồ Ðề ở Gia Lâm.
Năm 1983, Ngài cùng
Tăng Ni tín đồ xây dựng lại chùa Vọng Cung được khang trang, tạo nơi đây
thành một chốn già lam ở thành Nam.
Ngoài việc phụng sự
đạo pháp, Ngài còn đóng góp công sức vào các công tác từ thiện xã hội. Từ
năm 1981 đến năm 1984, Ngài là Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và Ðại biểu
Hội đồng Nhân Dân phường Trần Hưng Ðạo. Năm 1984, Ngài là Ủy viên Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc và Ðại biểu Hội đồng Nhân dân Thành phố Nam Ðịnh khóa 9.
Ngày 13-8-1990 vào
lúc 17 giờ, Ngài đã an nhiên thị tịch, hưởng thọ 74 tuổi đời, 51 hạ lạp.
Suốt cuộc đời từ lúc thiếu thời cho đến giờ phút cuối, Ngài luôn luôn tâm
nguyện: “Hoằng pháp vi gia vụ, độ sinh vi sự nghiệp” mà chư Tổ đã căn dặn.
Ngài thường lãnh nhiệm vụ giảng sư trong các khóa hạ và chủ hạ nhieàu năm
tại trường hạ chùa Cả ở Nam Ðịnh. Ngài còn được mời làm Ðàn đầu Hòa
thượng, Yết Ma, Giáo Thọ tại nhiều giới đàn tại địa phương. Tầng lớp Tăng
Ni trung, hạ, tọa tại tỉnh Nam Hà hiện nay, hầu hết là học đồ, giới tử do
chính Ngài dạy bảo. Cuộc đời của Ngài là tấm gương sáng cho hàng Phật tử
xuất gia cũng như tại gia noi theo trên bước đường tu học vậy.
HÒA THƯỢNG
THÍCH BỬU
HUỆ
(1914 - 1991)
Hòa thượng thế danh
là Nguyễn Văn Ba, pháp danh Tâm Ba tự Nhựt Quang, pháp hiệu Bửu Huệ thuộc
đời thứ 41 dòng Lâm Tế (chữ Nhựt), đời thứ 43 thuộc phái Thiên Thai (chữ
Tâm), sinh năm Giáp Dần (1914) tại xã Tân Hương, huyện Bến Tranh, tỉnh
Ðịnh Tường, nay là tỉnh Tiền Giang. Thân phụ là cụ Ðặng Văn Cử, thân mẫu
là cụ bà Nguyễn Thị Thu. Ngài theo họ mẹ và là con thứ trong gia đình có
hai anh em.
Năm lên 7, Ngài được
theo học trường Pháp - Việt đến hết baäc Tiểu học. Vốn thuộc gia đình giàu
lòng kính tin Tam Bảo, Ngài thường theo mẹ đi chùa lễ Phật ở nhiều nơi, và
quy y Tam Bảo tại chùa Thiên Thai - Bà Rịa, được Hòa thượng Huệ Ðăng ban
pháp danh là Tâm Ba. Lớn lên, Ngài thươøng tới chùa lễ Phật nghe pháp, cảm
nhận được lẽ vô thường tan hợp, sinh tử chia ly, và có ý muốn tìm học đạo
giải thoát.
Năm 1938 (Mậu Dần),
Ngài tìm đến thọ giáo với Hòa thượng Pháp Long thuộc dòng Lâm Tế, trú trì
chuøa Thiên Phước tại Tân Hương. Ngài được Bổn sư chỉ dạy kinh Phật và cho
đọc các tạp chí Phật học như Từ Bi Âm, Duy Tâm, Viên Âm, Ðuốc Tuệ v.v...
Nhờ đó hạt giống bồ đề nơi Ngài ngày càng tăng trưởng.
Năm 1944 (Giáp Thân)
lúc 30 tuổi, Ngài chính thức xuất gia tại chùa Thiên Phước. Tám tháng sau,
ở chùa Long Quang tỉnh Vĩnh Long mở giới đàn, Ngài được Bổn sư cho đến thọ
giới Sa Di.
Năm 1946, hai Hòa
thượng Trí Tịnh và Thiện Hoa mở Phật học đường tại chùa Phật Quang, vùng
rạch Bang Chang quận Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long. Ngài tới theo lớp Sơ đẳng
Phật học 2 năm.
Bấy giờ chiến tranh
Pháp - Việt xảy ra khắp thôn quê.
Chùa Phật Quang nằm
trong vùng mất an ninh. Hòa thượng Trí Tịnh phải lên Sài Gòn mở Phật học
đường Liên Hải đặt tại chùa Vạn Phước xã Bình Trị Ðông, cách Chợ Lớn 5 Km.
Ngài cùng một số huynh đệ đã mãn lớp Sơ đẳng Phật học tại chùa Phật Quang,
cùng lên đây theo học.
Năm Ngài 35 tuổi
(1949), Phật học đường Liên Hải mở Ðại giới đàn, Ngài được Ban Giám đốc
cho đăng đàn thọ Cụ Túc giới.
Cùng thời gian, Phật
học đường Mai Sơn được thành lập, đặt tại chùa Sùng Ðức - Chợ Lớn, do
Thượng Tọa Huyền Dung chủ giảng. Sau mùa an cư 1949, Hòa thượng Trí Hữu
cắm đất lập chùa Ứng Quang ở đường Lorgeril (nay là đường Sư Vạn Hạnh) và
thành lập ở đây một Phật học đường. Năm 1950, do sự giúp sức vận động của
các Hòa thượng Nhật Liên và Thiện Hòa, ba Phật học đường trên đây nhập
chung lại và gọi là Phật Học Ðường Nam Việt, đặt tại chùa Ứng Quang, sau
đổi tên là Ấn Quang. Ngài và các Tăng sinh ba trường trở thành Tăng sinh
Phật Học Ðường Nam Việt.
Lúc này, ngoài số
học Tăng cũ, còn có nhiều học Tăng từ các tỉnh và Phnôm - Pênh đến học,
tổng số đến 100 vị. Ngài tiếp tục là học Tăng của trường. Năm 1951 Ngài
hoàn tất chương trình Trung cấp Phật học. Ðến năm 1954 Ngài hoàn tất
chương trình Cao đẳng Phật học với các vị đồng khóa như Ngài: Huệ Hưng,
Thiền Tâm, Tắc Phước, Bửu Ðạt, Tịnh Ðức, Tịnh Chơn v.v...
Trong thời gian theo
học lớp Cao đẳng, Ngài là học Tăng cao tuổi nhất, được Ban giám đốc cho
tham gia việc điều hành sinh hoạt của đại chúng với chức vụ Tri Sự. Ngoài
ra, Ngài còn cùng các Tăng hữu tham gia công tác giảng dạy cho lớp Sơ
đẳng, phụ trách môn văn. Sau khi tốt nghiệp ra trường, Ngài cùng Hòa
thượng Thiền Tâm xin Ban Giám đốc cho về quê ẩn tu tịnh nghiệp trong một
thời gian dài đúng với sở nguyện và hứa sẽ trở lại gánh vác Phật sự để đền
ơn Tam Bảo.
Suốt thời gian 10
năm, Ngài ở yên trong tịnh thất Nam Tuyền- Long An, cắt đứt với cảnh đời
bận rộn, bế môn từ khách, chuyên tâm tụng kinh sám hối, trì chú, tĩnh tọa
tham thiền theo đúng thời khắc biểu đã ấn định, không thay đổi.
Sau Pháp nạn 1963,
Phật giáo trở lại sinh hoạt bình thường, và chuẩn bị cho một sự hợp nhất
sau quá trình đấu tranh chống lại sự đàn áp tôn giáo. Năm 1964, Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập. Nhiều công tác Phật sự mới
được đặt ra. Nhu caàu đào tạo những vị Như Lai Sứ Giả tài đức lại càng cấp
thiết. Chùa Ấn Quang trở thành văn phòng Viện Hóa Ðạo. Hòa thượng Thích
Thiện Hoa là Trưởng ban Hoằng pháp, quyết định dời Phật học viện vào An
Dưỡng Ðịa (Phú Lâm). Nơi đây yên tĩnh, tiện cho việc tu học của Tăng sinh.
Cơ duyên phục vụ đạo
pháp của Ngài đã đến. Trong phiên họp ngày 4-2-1964 tại chùa Ấn Quang, Hòa
thượng Thiện Hòa và Hòa thượng Thiện Hoa nhất trí cử Ngài Thanh Từ đến
tịnh thất Nam Tuyền xã Tân Hương mời Ngài, và đi Bến Tre mời Ngài Thiền
Tâm, đồng xả thất lên Sài Gòn chung lo Phật sự.
Ban Giám đốc Phật
Học Ðường Ấn Quang giao trách nhiệm cho quý Ngài thành lập trường Trung
đẳng Phật học Chuyên khoa đặt tại chùa Huệ Nghiêm với gần 40 học Tăng.
Ngài được cử làm Giám Viện, Hòa thượng Thiền Tâm làm Giáo thọ. Hòa thượng
Thanh Từ làm Quản viện. Ðồng thời Ni trường Dược Sư ở Gia Ðịnh cũng được
khai giảng, đặt dưới sự lãnh đạo kiêm nhiệm của ba vị.
Trong phiên họp ngày
4-5-1965 tại chùa Ấn Quang giữa Ban Giám đốc với Tổng vụ Tăng sự và Phật
Học vụ, trường Trung Ðẳng Phật học Chuyên khoa được đổi thành Phật Học
Viện Huệ Nghiêm, nhận thêm khoảng 300 Tăng sinh vào tu học, gồm các trình
độ từ Ðệ thất (lớp 6) đến Ðệ nhất (lớp 12) theo chương trình phổ thông.
Ngài vẫn giữ chức Giám viện.
Ðến năm 1968, Phật
học viện gặp khó khăn về tài chánh, phải phân tán Tăng sinh tới các Phật
học viện Hải Ðức ở Nha Trang, Liễu Quán ở Phan Rang, Bảo Tịnh ở Phú Yên,
Nguyên Thiều ở Bình Ðịnh. Phật học viện Huệ Nghiêm chỉ duy trì một lớp
Trung đẳng Chuyên khoa khóa II. Cũng naêm ấy, thể theo lời mời của Tổng Vụ
Trưởng Tổng Vụ Văn Hóa Giáo Dục, Ngài đảm nhiệm luôn chức vụ phụ tá Vụ
trưởng Phật học vụ, đặc trách chỉ đạo các Phật học viện Bắc Tông tại các
tỉnh miền Nam.
Năm 1970 Ðại hội Văn
hóa Giáo dục kỳ IV họp tại Ðà Lạt, Giáo Hội quyết định thành lập một Viện
Cao Ðẳng Phật Học đặt tại chùa Huệ Nghiêm suy cử Hòa thượng Trí Tịnh làm
Viện trưởng, Ngài làm Phó Viện trưởng. Ngài cũng trực tiếp tham gia giảng
dạy bộ môn Luận cho Tăng Ni sinh ở hai trường Huệ Nghiêm và Dược Sư.
Cuối năm 1974, Hòa
thượng Thiện Hòa đau yếu phải vào bệnh viện, bèn làm giấy ủy quyền cho
Ngài trọn quyền quản lý các cơ sở trực thuộc Tổ đình AÁn Quang như hãng vị
trai Lá Bồ Ðề, cô nhi viện Diệu Quang. Ngài lại được Hội đồng Quản trị
chùa Ấn Quang cử làm Phó đổng lý. Ngoài ra Ngài còn được cử làm Trưởng ban
Quản trị để duy trì cơ sở Huệ Nghiêm cho đến ngày viên tịch.
Về công đức khai đàn
truyền giới, năm 1965, Ngài làm Trưởng ban tổ chức và Giáo thọ giới đàn Sa
Di tổ chức tại chùa Huệ Nghiêm. Năm 1966 Ngài lại làm Trưởng Ban tổ chức
Ðại giới đàn Tỳ Kheo, Bồ Tát miền Quảng Ðưùc cũng tổ chức tại chùa Huệ
Nghiêm. Năm 1968 Ngài được cung thỉnh làm Giáo thọ tại Ðại giới đàn Hải
Ðức ở Nha Trang. Năm 1969 Ngài lại được cử làm Trưởng Ban tổ chức Ðại giới
đàn Tỳ Kheo, Bồ Tát lần thứ 2 tại chùa Huệ Nghiêm.
Sau ngày 30-4-1975
hoạt động của Phật giáo chuyển qua hoàn cảnh mới. Ngài hướng dẫn chư Tăng
nhập thất tĩnh tu tại bản viện theo phương pháp và kinh nghiệm mà Ngài đã
thực hành trong 10 năm (1954-1964).
Trong những năm
chiến tranh, Ngài phải lánh cư nhiều nơi, nhiễm phải bệnh sốt rét. Lúc về
già, bệnh tái phát khá nặng. Ngài bàn giao việc quản trị viện cho các đệ
tử, chỉ làm cố vấn. Vào lúc 2 giờ ngày 27 tháng 10 Tân Mùi (02-12-1991),
Ngài viên tịch tại chùa Huệ Nghiêm, hưởng thọ 78 tuổi đời và 42 hạ lạp.
HÒA THƯỢNG
THÍCH
HƯNG TỪ
(1911 - 1991)
Hòa thượng Thích
Hưng Từ, thế danh Bùi Vạn Anh, sinh ngày mùng 1 tháng 8 năm Tân Hợi (1911)
tại làng Bình Hòa, xã An Dân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Ngài sinh trong
một gia đình có truyền thống đạo Phật. Thân phụ là cụ Bùi Thế Vĩ, pháp
danh Như Chơn, thân mẫu là cụ bà Võ Thị Biểu, pháp danh Thị Bửu. Từ nhỏ
Ngài được song thân giáo dục trong tinh thần từ bi và chan chứa đức hỷ xả
của Phật, nên Ngài sớm mộ cửa Thiền.
Duyên lành đã đến,
ngày mùng 8 tháng 2 năm Mậu Ngọ (1918), khi vừa 8 tuổi, Ngài được song
thân cho phép xuất gia đầu sư với Hòa thượng Thích Hòa Phước trụ trì chùa
Thiên Long, được Bổn sư ban cho pháp danh Thị Lạc, thuộc đời 42 dòng Lâm
Tế Chánh Tông, chi phái Nguyên Thiều.
Nhờ túc duyên, Ngài
rất thông minh đĩnh đạc, dù còn nhỏ, từ hai thời công phu, bốn quyển luật
Tỳ Ni cho đến các bộ kinh Ðịa Tạng, Thủy Sám, Ngài đều thuộc lòng. Ngoài
sự dạy dỗ của Bổn sư, Ngài còn được tham học giáo điển với các vị cao
Tăng, như Hòa thượng Tưø Pháp chùa Thiên Tôn.
Năm 1931 (20 tuổi),
Ngài thọ Tam đàn Cụ túc tại Ðại giới đàn chùa Linh Sơn, do Ðại lão Hòa
thượng Thích Hoằng Hóa làm đàn đầu thí giới, và được phú pháp hiệu Hưng
Từ. Sau khi thụ giới Cụ Túc xong, Ngài tiếp tục học khoa Du già Mật tông
với Hòa thượng Linh Quang và được Hòa thượng truyền trao pháp ấn.
Năm 23 tuổi (1934),
Ngài được chư Tôn túc trong hội Ðịa Tạng Phổ lúc bấy giờ, giới thiệu và
gởi học Tam Tạng giáo điển tại Phật học đường Tây Thiên Huế ba năm (1934 -
1937). Nhờ tâm cầu học vững bền, chẳng những Ngài uyên thâm kinh điển mà
còn thấu triệt lẽ tánh diệu dụng của khoa Du già Chẩn tế.
Sau khi tham học với
các bậc cao Tăng ở Huế và Phú Yên xong, nhằm lúc phong trào chấn hưng Phật
giáo đang dấy lên mạnh mẽ trên khắp ba miền đất nước, Ngài nhận thấy đây
là một cơ duyên thuận lợi để phục hưng chánh pháp.
Năm 1937, Ngài vận
động Tăng tín đồ mở các Tăng học đường tại các chùa Cổ Lâm, Liên Trì (Tuy
An), Thiên Từ (Ninh Hòa) để đào tạo Tăng tài. Ðặc biệt tại chùa Cổ Lâm có
nhiều vị đến nghe giảng kinh Pháp Hoa như: Hòa thượng Quảng Ðức, Ngài Vĩnh
Thọ, Nhơn Thị, Nhơn Duệ... do Ngài làm chủ giảng.
Năm 1939, vì ảnh
hưởng chiến tranh nên các Tăng học đường này tạm thời đóng cửa, nhưng Ngài
luôn tìm mọi cách tổ chức các lớp tu học, giảng kinh luật dưới hình thức
an cư kiết hạ, mở Ðại giới đàn ở các tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận,
Bình Tuy để đào tạo các bậc cao Tăng hữu ích cho đạo sau này như các Hòa
thượng Ấn Tâm, Viên Quang, Ðồng Huy... và giảng dạy khoa Du già Chẩn tế
cho chư Tăng ở các tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận...
Ngoài việc giảng
dạy, đào tạo Tăng Ni, Ngài còn đem hết sức mình khai sơn và trùng tu rất
nhiều ngôi chùa để có nơi tu học cho Tăng Ni và sớm hôm lễ bái của Phật tử
gần xa như: chùa Thiên Long ở Phú Yên (1938); Tổ đình Minh Sơn (1957);
Linh Ðài và Thiên Tứ ở Ninh Hòa (1959). Ðồng thời khai sơn Linh Sơn Tự ở
Lạc Tánh, ở Tánh Linh (1961) và chùa Pháp Hội ở Hàm Tân - Bình Thuận
(1967).
Trong suốt cuộc đời
tu học và hành đạo, Ngài không từ nan bất cứ một nhiệm vụ nào khi được chư
Tăng và Giáo hội giao phó cũng như Phật tử cần đến. Ðối với dân tộc, Ngài
luôn đem hết sức mình góp phần vào công cuộc bảo vệ quê hương.
Năm 1945, trong thời
kỳ kháng chiến chống Pháp, Ngài được Tăng tín đồ đề cử làm Chủ tịch Hội
Phật giáo Cứu quốc tỉnh Phú Yên.
Năm 1955, Ngài đảm
nhận Trị sự trưởng Giáo hội Tăng già tỉnh Khánh Hòa liên tiếp hai nhiệm
kỳ.
Naêm 1963-1964, Ngài
lãnh đạo phong trào đấu tranh bảo vệ Phật giáo và dân tộc tỉnh Bình Tuy
(Hàm Tân).
Năm 1964-1978, Ngài
được Hội đồng Viện Hóa Ðạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất suy tôn
vào Hội đồng Trưởng lão Viện Tăng Thống.
Từ năm 1982 cho đến
ngày viên tịch, Ngài được suy tôn Cố vấn Chứng minh kiêm Ủy viên Tăng sự
Ban Trị Sự Tỉnh Hội Phật Giáo Thuận Hải (cũ) và Bình Thuận sau này.
Ngài đã dịch bộ kinh
Thập Lục Quán, và trươùc tác quyển lịch sử Tổ Hữu Ðức (Tổ Linh Sơn Trường
Thọ núi Tà Cú) và chư hậu Tổ.
Cuộc đời tu hành và
hóa đạo của Ngài là tấm gương hy sinh tận tụy, không từ nan bất cứ một
việc gì dù nhỏ, đem hết sức mình để giáo dục, đào tạo Tăng Ni tiếp dẫn hậu
lai hoằng truyền chánh pháp.
Dù tuổi già sức yếu,
nhưng Ngài vẫn tinh tấn tu hành không một phút giây trễ nải, và phục vụ
chúng sinh đến giây phút cuối cùng. Ngày mùng 2 tháng 8 năm Tân Mùi
(1991), Hòa thượng an nhiên thị tịch, hưởng thọ 80 tuổi, với 60 pháp lạp.
Bảo tháp của Ngài tọa lạc trong khuôn viên chùa Pháp Hội, huyện Hàm Tân,
tỉnh Bình Thuận.
HÒA THƯỢNG
THÍCH
THIỆN CHƠN
(1914 - 1992)
Hòa thượng pháp danh
Kiểu Lợi, pháp hiệu Ngộ Chơn, pháp tự Thiện Chơn, thế danh Trần Thanh,
sinh năm Giáp Dần (1914), tại xã Tân Thạch, huyện Châu Thành, tỉnh Bến
Tre. Ngài là trưởng nam trong một gia đình trung nông Nho giáo, nhưng lại
qui ngưỡng Phật giáo. Thân phụ là ông Trần Văn Tri, pháp danh Kiểu Sanh,
thân mẫu là bà Nguyễn Thị Giận, pháp danh Quảng Thời. Khi Ngài lên 10 tuổi
thì thân phụ xuất gia, về sau người em trai của Ngài cũng xuất gia và trú
trì chùa Phước Duyên ở xã Tân Thạch.
Khi lên 7 tuổi, Ngài
được đi học quốc ngữ ở trường làng. Về nhà, lại được thân phụ dạy thêm chữ
Nho nên Ngài sớm có vốn Nho học. Lớn lên, Ngài có ý muốn xuất gia, nhiều
lần bày tỏ cùng thân mẫu, nhưng đều bị can ngăn, Ngài vẫn không nhụt chí.
Mãi đến năm Giáp Tuất (1934), lúc đó Ngài tròn 20 tuổi, mới được toại
nguyện.
Ngài tìm đến chùa
Vạn An ở Sa Ðéc, xin quy y thọ giới với Hòa thượng Liễu Ngọc. Nhờ sẵn có
vốn Hán học, lại thêm chí tâm tu học, Ngài sớm thông hiểu kinh tạng và
được thọ giới Cụ túc.
Năm 1937, sau khi đã
học xong khóa Tiểu học Phật giáo tại chùa Vạn An - Sa Ðeùc, do chi hội của
Hội Lưỡng Xuyên Phật Học tổ chức. Ngài được Bổn sư cho ra Huế theo học
trường Trung học Phật giáo tại chùa Báo Quốc trong hai năm, Ngài luôn tỏ
ra là một học Tăng xuất sắc.
Năm 1939, Ngài trở
về Nam giữa lúc người Pháp ra sức đàn áp các phong trào yêu nước, nhiều
người bị bắt bớ, tra tấn và tù đày, sinh hoạt các chùa chiền cũng bị ảnh
hưởng lớn. Ngài được Bổn sư cho về chùa Hội Phước ở Nha Mân. Trong thời
gian này, Ngài cùng tham cứu kinh điển với các Hòa thượng Bửu Chung, Hòa
thượng Phước Ân, Hòa thượng Long An...
Năm 1940, với bản
tính hiền hòa, lịch thiệp và tinh thông Phật pháp, Ngài được Tổ Vạn An
phong chức Pháp sư và làm Ðốc giáo Phật học viện Vạn An - Sa Ðéc, hướng
dẫn Tăng Ni tu học hơn 100 vị.
Năm 1942, Ngài được
cử làm Pháp sư giảng dạy trường Hương ở chùa Thiên Phước, Tân Hương, Long
An.
Năm 1943, Ngài liên
tiếp dạy trường Hương chùa Tân Thaïnh ở huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, rồi
đến chùa Linh Phong ở Tân Hiệp.
Năm 1944, Ngài trở
về quê nhà xây dựng nên ngôi chùa Vạn Phước.
Năm 1945, Ngài mở
Phật học đường Bảo An ở Quới Sơn, với số lượng Tăng Ni tới học có đến 200
vị.
Năm 1948, Ngài lại
mở trường gia giáo tại chùa Tôn Thạnh, Long An trong ba năm.
Năm 1957, Hòa thượng
Thích Hành Trụ mở Phật học đường Tăng Già và Giác Nguyên ở Khánh Hội Sài
Gòn, mời Ngài đảm trách chức vụ Pháp sư, hướng dẫn Tăng Ni tu học trong
bốn năm.
Năm 1963, Ngài tham
gia cùng Tăng Ni, Phật Tử trong phong trào đấu tranh chống kỳ thị tôn giáo
của chính quyền Ngô Ðình Diệm. Sau đó, Ngài về đảm trách Phật sự và dạy
bảo Tăng chúng tại chùa Hội Long ở thị xã Long An.
Năm 1965, Ngài về
trú trì chùa Phước Duyên. Tại đây, Ngài dừng chân tịnh dưỡng, tiếp tục
phiên dịch kinh sách và trước tác cho đến khi Ngài viên tịch vào ngày 15
tháng 6 năm 1992 tức rằm tháng 5 năm Nhâm Thân, hưởng thọ 78 tuổi đời, 58
tuổi đạo.
Trong cuộc đời hoằng
pháp, Ngài đã dành tâm lực và thì giờ cho công tác phiên dịch. Các tác
phẩm để lại như sau:
- Luật Tứ Phần hiệp
chú.
- Luật Tứ Phần Tỳ
Kheo Ni lược ký.
- Tỳ Ni Hương Nhũ
- Kinh Vạn Phật.
... và nhiều bộ
khác.
Hòa thượng là một
Pháp sư danh tiếng ở khắp miền Lục tỉnh Nam bộ, góp phần đem pháp âm
chuyển hóa nhân gian và giáo dục thế hệ kế thừa sự nghiệp sứ giả Như Lai.
HÒA THƯỢNG
THÍCH
HOẰNG ÐỨC
(1888 - 1992)
Hòa thượng Thích
Hoằng Ðức, thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh năm Mậu Tý (1888), tại làng Nhơn
Thạnh Trung, thị xã Tân An, tỉnh Long An, húy Nhật Phú, pháp tự Như Thuận,
pháp hiệu Hoằng Ðức.
Thân thụ Ngài là ông
Nguyễn Văn Ân, thân mẫu là bà Nguyễn Thị Thành. Gia đình thuộc tầng lớp
trung lưu, phúc hậu và đạo đức.
Vốn xuất thân từ một
gia đình như vậy nên Ngài được hấp thụ nhơn lành từ phụ thân, sớm được học
chữ Hán và đặc biệt là nghề y học Ðông phương. Cộng vào đó, khi song thân
giác ngộ Phật pháp thì Ngài lại được truyền đạt những tinh hoa của một tôn
giaùo lớn của nhân loại. Hằng ngày học hành và phụ giúp cha làm nghề
thuốc, lúc nào Ngài cũng tỏ ra hiếu thuận triệt để. Khi đến tuổi lập gia
đình, vâng lời song thân Ngài đã kết hôn với người cùng bản sở.
Năm Tân Dậu (1921),
sau thời gian chung sống và đã có ba người con (2 gái, 1 trai) thì người
vợ qua đời. Cảm nhận được lẽ vô thường, nên Ngài thấy rõ việc cần phải làm
trước mắt là sống và tiếp tục nuôi con với nghề thuốc gia truyền do thân
phụ để lại, đồng thời phụng dưỡng người mẹ già một cách rất chu toàn. Vì
sinh kế gia đình, Ngài phải ngược xuôi sông nước khắp các tỉnh đồng bằng
sông Cửu Long, sống đời thanh bần trường chay và thực hiện những thời khóa
tu niệm tự vạch riêng cho mình.
Năm Ất Hợi (1935),
lúc này Ngài đã 47 tuổi. Nhờ những chuyến buôn bán đường sông nên Ngài đã
biết đến chùa Linh Sơn (Cầu Muối - Sài Ggòn) và được học đạo rất nhiều nơi
Hòa thươïng Hồng Tu - Thiện Huệ trụ trì nơi đây. Do đó khi đã sắp xếp yên
bề gia thất, các con đã lớn khôn, Ngài đến thọ giáo, xuất gia với Hòa
thượng.
Dù xuất gia muộn,
tuổi đã cao, nhưng nhờ ý chí tự lực và vốn tinh hoa Phật pháp được hấp thụ
từ nhỏ nên con đường hòa nhập nếp sống thiền gia của Ngài không mấy khó
khăn. Ngược lại còn được Hòa thượng Bổn sư và các pháp lữ chung quanh khen
ngợi.
Năm Mậu Dần (1938)
Ngài 50 tuổi, sau khi được thoï Tỳ Kheo giới tại Ðại giới đàn chùa Hội
Phước (Bến Tre), Ngài ra Bình Ðịnh tham học với Hòa thượng Bích Liên, rồi
vào học với Hòa thượng Kiều Ðạo - Hoằng Khai ở chùa Hội Tôn (Bến Tre), Hòa
thượng Phước Chí ở chùa Thiên Phước (Long An). Sau đó Ngài trở về chùa
Linh Sơn tham học với Hòa thượng Phước Chí - Huệ Thông một thời gian rất
lâu.
Trong thời gian tu
học và hoằng khai chánh pháp, Ngài đã trùng tu, kiến tạo rất nhiều tự
viện, như chùa Hội Long, Hưng Phú, Bình An, Linh Tâm, An Châu, Tâm Khánh
và nhiều chùa ở các địa phương khác trong tỉnh Long An.
Ngoài những công
việc trùng tu, kiến thiết, Ngài còn mở nhiều cuộc thuyết giảng định kỳ
hoặc nhân các ngày lễ lớn, thu hút được rất nhiều người nghe, kết quả mỹ
mãn.
Ngài đã cho mở hơn
13 khóa an cư kiết hạ, được cung thỉnh làm Ðàn chủ nhiều giới đàn trong và
ngoài tỉnh. Hàng cư sĩ tại gia được Ngài truyền thụ giới pháp rất đông,
không ít người đã trở thành những Phật tử nổi danh đóng góp trong nhiều
lĩnh vực xã hội.
Trong các phương
pháp tu hành, Ngài chọn một pháp môn để tu trì, nhất quyết trung thành với
thời khóa đã đề ra: trì Kinh Kim Cang, nieäm Phật và chú Chuẩn Ðề. Ngài
từng đi bộ trên 20 km để học Luật Tạng khi còn sức. Lúc về già Ngài vẫn
thường ôn tập điển chương, lắng nghe pháp nhủ, cả những thông tin Khoa học
xã hội để làm cơ sở cho việc giảng dạy Phật pháp.
Năm Quý Hợi (1983),
Ngài được suy cử làm Cố vấn và Chứng minh cho Ban Trị Sự Tỉnh Hội Long An.
Năm 1988, khi 100
tuổi Ngài vẫn còn đi dự khóa An Cư kiết hạ tại chùa Linh Sơn (quận 1 - Sài
gòn). Năm 1989, Ngài dự khóa An Cư tại chùa Giác Sanh (quận 10). Ðặc biệt,
lúc ở tuổi 94, Ngài đã có lần ra trước Tăng chúng phát lồ sám hối vì nghi
oan cho một chú điệu. Hơn ai hết, Ngài trân trọng các thế hệ truyền thừa
và luôn khuyến khích lơùp trẻ tinh tấn tu học.
Năm Nhâm Thân
(1992), Ngài tích cực hỗ trợ nhiều mặt trong sự ra đời của Trường Cơ Bản
Phật Học Long An. Ngài luôn nhắc nhở Ban Trị Sự Tỉnh Hội phải quan tâm
thường xuyên đến cơ sở đào tạo quan trọng này, có như vậy Trường Cơ Bản
Phật Học mới hoàn thành được công tác, trọng trách Phật sự của mình.
Tuổi thọ của Ngài
hình như là một sự đền bù xứng đáng cho tinh thần quyết chí cầu giải
thoát. Tuy xuất gia muộn, bản thân đã có gia đình riêng nhưng với ý thức
tự giác cao độ, Ngài đã minh chứng cho hậu thế thấy được những gì mà sự cố
gắng bản thân khi đã nhất quán thực hiện bằng tất cả lòng vô ngã vị tha,
tất sẽ đạt được một kết quả nào đó.
Ngài vẫn minh mẫn,
không thọ bệnh cho đến phút xả bỏ huyễn thân. Ngài đã an nhiên thị tịch
vào lúc 11 giờ 30' ngày 01 tháng 10 năm 1992, nhằm ngày 06 tháng 09 năm
Nhâm Thân. Hưởng thọ 105 tuổi, 55 hạ lạp. Tại Tổ đình Hội Long, xã Nhơn
Thạnh Trung, thị xã Tân An, tỉnh Long An.
Di cốt được trà tỳ
và tôn trí nơi tháp Bảo Ðồng Hội Long.
Công trình có ý
nghĩa thiết thực lâu dài mang tính hoằng hóa tích cực nhất của Ngài là chủ
biên cho các Pháp sư dịch giải kinh điển như Tỳ Ni Hương Nhũ, Luật Trường
Hàng v.v... Bên cạnh đó là việc tổ chức khắc in bản gỗ các kinh Pháp Hoa,
Ðịa Tạng, Nhật Tụng và các tranh tượng Phật, Bồ Tát.
HÒA THƯỢNG
THÍCH
ÐÔN HẬU
(1905-1992)
Hòa thượng pháp danh
Trừng Nguyện, hiệu Ðôn Hậu, thuộc đời thứ 8 phái thiền Liễu Quán, thế danh
là Diệp Trương Thuần. Ngài sinh vào ngày 13 tháng giêng năm Ất Tỵ
(16-2-1905) tại làng Xuân An, tổng An Ðồn, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng
Trị.
Ngài xuất thân trong
một gia đình có truyền thống Nho học, nhưng lại quy ngưỡng Phật giáo. Thân
phụ là cụ Diệp Văn Kỷ, một vị lương y nổi tiếng, về sau ông xuất gia học
Phật với Tổ Hải Thiệu, có pháp danh là Thanh Xuân, tự Sung Mãn, đắc pháp
với Tổ Tâm Truyền, được pháp hiệu là Phước Ðiền, khai lập chùa Long An
(Quảng Trị) và kế thế trụ trì chùa Sắc Tứ Tịnh Quang. Thân mẫu là cụ bà
Nguyễn Thị Cựu, mất sớm khi Ngài vừa lên 9 tuổi.
Năm Ngài lên bảy,
một hôm Tổ Tâm Tịnh về quê, đến nhà thăm, thấy Ngài diện mạo khôi ngô bèn
tỏ lòng ưu ái, huyền ký cho Ngài con đường xuất thế. Nghe vậy cụ ông vui
mừng khoân xiết, đặc biệt lưu tâm đến việc học hành của Ngài, liền mời
thầy về nhà dạy riêng, để un đúc tương lai cho Ngài với lòng ước mong được
như lời Tổ dạy.
Năm 17 tuổi (1922 -
Nhâm Tuất), sau mười năm đèn sách, Ngài đã laøu thông Nho học. Nhưng tư
tưởng về nhơn sanh vũ trụ và phương pháp lập thân xử thế của Lão, Nho đã
không làm thỏa mãn được lý tưởng của người thanh niên trí thức ấy khi đứng
trước ngưỡng cửa cuộc đời. Phải chăng còn coù một chân lý, một lý tưởng
cao siêu hơn các nguyên lý Khổng Mạnh mà Ngài đã gặp? Cho đến khi được
song thân nhắc lại việc Tổ Tâm Tịnh đã huyền ký ngày xưa, Ngài mới nghĩ
đến con đường xuất gia học đạo.
Ðiều này khiến cho
chí xuất trần của Ngài trưởng thành. Năm 19 tuổi, ngày 19 tháng 6 năm Quý
Hợi (1923) được sự chấp thuận của phụ thân, Ngài vào chùa Tây Thiên đảnh
lễ Tổ sư Tâm Tịnh, xin được xuất gia tại đây.
Một năm sau, cũng
đúng vào ngày vía Quan Âm (ngày 19 tháng 6 năm Giáp Tý - 1924), nhờ học
hạnh kiêm toàn và chí nguyện xứng đáng, Ngài được đặc cách cho thọ tam đàn
Cụ Túc tại Giới đàn chùa Từ Hiếu, do chính Bổn sư làm đàn đầu. Thọ giới
được hai năm thì Bổn sư viên tịch (1926), Ngài bèn đến chùa Hồng Khê cầu
pháp với sư huynh là Hòa thượng Giác Tiên.
Năm 1927, Ngài được
22 tuổi, trường Phật Học Thập Tháp tại tỉnh Bình Ðịnh khai mở, do Tổ Phước
Huệ - bậc danh Taêng nổi tiếng làm Giáo thọ, Ngài cùng một số vị khác như
Hòa thượng Chánh Huy, Chánh Thống, Viên Quang vào đây tham học.
Năm 1932, Hội An Nam
Phật học ra đời, trường Trung học, Ðại học Phật giáo được mở tại Tây
Thiên, Tổ Phước Huệ được cung thỉnh từ Bình Ðịnh ra làm giáo thọ. Với tinh
thần hiếu học cầu tiến không ngừng, Ngài tiếp tục theo học chương trình
Ðại học tại đây và được bầu làm Thủ chúng cả hai trường. Ngài cũng làm
Giáo thọ cho Phật học đường Báo Quốc và Ni viện Diệu Ðức - Huế.
Ngay từ lúc còn ngồi
ghế Ðại học tại Tây Thiên, Ngài được mời làm Giảng sư của Hội An Nam Phật
Học. Năm 1936, tốt nghiệp Ðại học Phật giáo, với tuổi 32, Ngài được mời
làm Giáo sư cho Phật học đường Báo Quốc và Luật sư cho Sơn môn Thừa Thiên,
từ đó Ngài đã trở thành một hạt nhân tích cực của phong trào chấn hưng
Phật giáo, và là giảng sư nòng cốt, tiền phong của Hội Việt Nam Phật Học.
Ngài đã đi giảng dạy khắp các tỉnh miền Trung, nhất là tại Ðà Nẵng và
Quảng Nam.
Năm 1940 và 1942,
Ngài hai lần sang thuyết giảng ở một số tỉnh có đông Việt kiều tại Lào,
đàm đạo với vua Sãi và tham lễ tại một soá nơi ở Vương quốc Phật giáo này.
Năm 1945, Ngài thay
thế Bác sĩ Tâm Minh - Lê Ðình Thám giữ chức Chánh Hội trưởng Hội An Nam
Phật Học (Thừa Thiên). Cũng trong năm này, Ngài nhận chức trụ trì Quốc Tự
Linh Mụ - một di tích lịch sử của cố đô Huế. Sang năm 1946, Ngài làm Chủ
tịch Phật giáo Liên hiệp Trung bộ.
Năm 1947, cùng chung
số phận với hàng loạt các cơ sở Phật giáo cả nước, chùa Linh Mụ cũng bị
Pháp đánh phá và chiếm đóng. Ngài bị Pháp bắt, tra tấn và sau cùng bắt tự
đào huyệt chôn mình và suýt bị bắn chết, may nhờ bà Từ Cung (mẹ vua Bảo
Ðại) can thiệp mới được thả.
Năm 1948, Ngài làm
cố vấn đạo hạnh hội Phật học Trung phần và Tuyên luật sư Ðại giơùi đàn Báo
Quốc - Huế. Năm 1949, Ngài thay cố Cư sĩ Chơn An Lê Văn Ðịnh giữ chức
Chánh hội trưởng Tổng Trị sự hội Phật học Trung phần.
Năm 1951, Ngài được
cung thỉnh làm Ðàn đầu Hòa thượng Giới đàn tại chùa Ấn Quang - Sài Gòn,
sau đó được Sơn môn Tăng già Trung phần mời làm Giám luật. Qua năm 1952,
Giáo Hội Tăng Già toàn quốc được thành lập tại Hà Nội, Ngài được suy cử
làm Giám luật.
Năm 1956, Ngài thành
lập và làm Chủ nhiệm Liên Hoa văn tập. Năm 1958, Liên Hoa văn tập được
chuyển thành Liên Hoa nguyệt san cũng do chính Ngài làm chủ nhiệm.
Năm 1963, Ngài tham
gia đứng trong hàng ngũ lãnh đạo phong trào đấu tranh chống chính sách kỳ
thị, đàn áp Phật giáo của chính quyền Ngô Ðình Diệm. Ðêm pháp nạn 20 tháng
8 năm 1963, Ngài bị bắt tại chùa Diệu Ðế và bị đưa đi giam giữ.
Năm 1964, Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập, Ngài được cử làm Chánh Ðại
Diện miền Vaïn Hạnh.
Năm 1965, Ngài được
cung thỉnh làm Yết ma A Xà Lê Ðại giới đàn Từ Hiếu tổ chức tại Tổ đình Từ
Hiếu - Huế.
Từ năm 1968, Ngài
được mời tham gia Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, Ngài vào chiến
khu, ra Hà Nội. Từ đây, Ngài lại càng đẩy mạnh sự nghiệp lợi Ðạo ích Ðời.
- Tháng 1/1968: Phó
Chủ tịch Liên minh các lực lượng Dân chủ và Hòa Bình Việt Nam. Tháng
6/1968: Ủy viên Hội đồng Cố vấn Chính phủ Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt
Nam.
- Năm 1970, đi tham
quan văn hóa, tôn giáo ở Liên Xô và Trung Quốc. Năm 1971, đi dự Ðại hội
thành lập tổ chức Phật giáo Châu Á vì Hòa Bình ở Mông Cổ và được cử làm Ủy
viên thường trực Ban Chấp hành Hội Phật giáo Châu Á vì Hòa Bình.
- Năm 1975, miền Nam
được giải phóng, Ngài trở về chùa cũ (Linh Mụ) và sau đó được mời làm cố
vấn cho Ban chỉ đạo Viện Hóa Ðạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
- Năm 1976, Ngài đắc
cử Ðại biểu Quốc hội khóa VI nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Cũng
chính trong năm này, Ngài được mời giữ chức Ủy viên Ðoàn Chủ tịch Ủy ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Từ năm 1976 đến
1986, liên tục trong mười năm liền, Ngài giảng dạy kinh luật cho Tăng Ni ở
Huế tại các chùa Linh Mụ, Báo Quốc và Linh Quang.
Năm 1977, Ðại hội kỳ
VII Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Ấn Quang. Ngài được suy cử
vào Hội đồng Trưởng Lão của Giáo Hội và giữ chức vụ Chánh Thư ký Viện Tăng
Thống.
Năm 1979, đức Ðệ nhị
Tăng Thống - Hòa thượng Thích Giác Nhiên - viên tịch, Ðại hội kỳ VIII chưa
tổ chức được, Hội đồng Lưỡng Viện bèn cung thỉnh Ngài kiêm chức vụ Xử lý
Viện Tăng Thống.
Năm 1981, Ðại hội
Ðại biểu thống nhất Phật giáo Việt Nam tại chùa Quán Sứ - Thủ đô Hà Nội,
đã suy cử Ngài vào Hội đồng Chứng minh với chức vụ Ðệ Nhứt Phó Pháp Chủ
kiêm Giám luật Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
Năm 1977, 1981 và
1983, ba lần Ngài được cung thỉnh làm Ðàn đầu Hòa thượng các Ðại giới đàn
tại chùa Báo quốc và Trúc Lâm - Huế.
Ở tuổi ngoài bát
tuần, sức khỏe của Ngài đã giảm sút rất nhiều, thân ngũ uẩn như chiếc xe
cũ, đèn dầu cạn, nhân duyên hội họp đã mãn. Hóa duyên đã tròn, Hòa thượng
an nhiên thu thần hội nhập vào cảnh giới an lạc tịch tĩnh vào ngày
23/4/1992 (nhằm ngày 21/3 Nhâm Thân) tại Tổ đình Linh Muï thành phố Huế,
trụ thế 88 năm, trải qua 68 mùa An cư kiết hạ...
Dù Phật sự đa đoan
và cuộc đời hành đạo gặp nhiều gian truân, nghịch cảnh, Hòa thượng cũng đã
để lại một số tư liệu khiêm tốn nhưng rất có giá trị do chính Ngài dịch
giải, biên soạn như:
- Cách thức sám hối
các tội đã phạm.
- Phương pháp tu
quán.
- Tứ nhiếp pháp.
- Cảm ứng tự nhiên.
- Ðâu là con đường
hạnh phúc.
- Ðồng mông chỉ
quán.
- Sinh mệnh vô tận
hay là Thuyết luân hồi.
- Luật Tứ Phần Tỳ
kheo ni.
Ngoài ra còn có một
số bài đăng trên các báo Viên Âm, Liên Hoa.
HÒA THƯỢNG
THÍCH
MẬT HIỂN
(1907 - 1992)
Hòa thượng Thích Mật
Hiển, pháp danh Tâm Hương, nối phaùp đời thứ 43 dòng thiền Lâm Tế.
Ngài thế danh Nguyễn
Duy Quảng, sinh ngày 04/02/1907 (tức năm Ðinh Mùi) tại làng Dạ Lê Thượng,
xã Thủy Phương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên (Huế) trong một gia đình
thuần túy Phật giáo. Thân phụ là cụ Nguyễn Duy Bút và thân mẫu là cụ
Nguyễn Thị Tang.
Vốn có thiện duyên
với Phật chủng, nên năm lên 7 tuổi, Ngài được song thân cho phép rời mái
ấm gia đình xuất gia học đạo với Hòa thượng Giác Tiên- Tổ khai sơn chùa
Trúc Lâm - Huế. Khi còn là chú tiểu, Ngài đã có cốt cách đạo phong; tâm
chí chân trực cầu tiến, Ngài sớm thấm nhuần mưa pháp trong suốt bảy năm
hầu Thầy học đạo.
Năm 1921, lúc Ngài
14 tuổi, trước sự mến mộ của vị Hoàng Cả (tức vua Khải Ðịnh) và được Bổn
sư cho phép, Ngài theo học cùng lớp với các vương tôn công tử tại nội phủ
Hoàng gia. Sống trong cảnh cao sang Ngài vẫn không tham đắm, ngược lại
Ngài càng thiết tha với nếp sống an bần lạc đạo của chốn Thiền môn nhàn
tịnh nên sau một năm, Ngài đã khẩn khoản xin trở về chùa.
Năm 1927, trường
Phật học tại chùa Thập Tháp Di Ðà tỉnh Bình Ðịnh khai giảng, do Tổ Phước
Huệ, vị cao Tăng lúc bấy giờ làm Giáo thọ; Ngài cùng các Pháp lữ ở Huế vào
đây tham học. Trong khóa học này, Ngài rất tâm đắc về Mật giáo.
Năm 1932, hội An Nam
Phật Học được thành lập, Tổ Phước Huệ được cung thỉnh ra Huế làm Giáo thọ
cho Ðại học Phật giáo tại Phật học đường Tây Thiên, do Ngài Giác Nhiên làm
Giám đốc. Tham học lớp này, Ngài là một học Tăng được Hòa thượng Giáo thọ
chiếu cố ngợi khen.
Năm 1935, Ngài là
Thủ Sa Di tại Giới đàn Phúc Lâm tỉnh Bình Ðịnh do Tổ Phước Huệ làm Ðàn
đầu. Sau thời gian thọ Ðại giới, Ngài đã được Bổn sư phú pháp qua bài kệ:
Tâm hương thế giới
huân
Tùy xử kết tường vân
Phú nhữ tâm hương
tánh
Cừ kim chánh thị
quân.
Năm 1937, Ngài được
bà Từ Cung mời về cung An Ðịnh - Huế giảng dạy Phật học cho những vị trong
Hoàng tộc qui ngưỡng Phật pháp.
Năm 1938, Ngài đảm
trách trú trì Trúc Lâm thay cho Sư huynh Mật Tín già bệnh. Năm sau đó Sơn
môn và bộ Lễ cung cử Ngài giữ chức trú trì Thánh Duyên Quốc Tự tại núi Túy
Vân, thuộc huyện Phú Lộc - Huế.
Năm 1940 - 1941,
Ngài chuyên trì Mật giáo và đạt nhiều thành quả, góp phần không nhỏ vào
công việc độ sanh.
Ðầu năm 1947, sau
khi Hòa thươïng Phúc Hậu, trú trì Tổ đình Báo Quốc viên tịch, Giáo Hội
Tăng Già Thừa Thiên đã thành lập Ban Quản Trị chùa gồm ba vị là: Hòa
thượng Châu Lâm, Hòa thượng Trí Thủ và Ngài, trong đó Hòa thượng Trí Thủ
trực tiếp trông coi.
Trên bước đường
hoằng dương chánh pháp, năm 1949, Ngài vào Sa Ðéc. Suốt hai năm Ngài đã
tận tụy trao truyền Phật pháp căn bản cho Tăng Ni tỉnh này.
Năm 1953, Ngài làm
Trị sự trưởng Giáo Hội Tăng Già Trung Việt. Năm 1956, Ngài dự Ðại lễ Phật
Ðản tại Ðông Hồi, trong dịp này Ngài đã chiêm bái các Thánh tích tại Miến
Ðiện, Thái Lan, Ai Lao và Cao Miên. Năm 1958, Ngài cùng với các Ngài Thiện
Hoa, Thiện Minh, Tâm Châu, Ðại diện Phật giáo Vieät Nam tham dự Hội Nghị
Hòa Bình Thế Giới tại Nhật Bản.
Năm 1963, là Trưởng
ban Tổ chức Ðại lễ Phật Ðản PL 2507 và chính trong ngày lễ này, Ngài cùng
chư Tôn túc phát động phong trào chống chính sách kỳ thị Phật giáo của
chính quyền Ngô Ðình Diệm. Năm 1964, Ngài tham gia đoàn Ðại biểu Phật giáo
Thừa Thiên - Huế vào dự Ðại hội thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
Thống Nhất tổ chức tại chùa Xá Lợi - Sài Gòn.
Năm 1965, Ngài làm
Ðệ tứ Tôn chứng Ðại giới đàn Vạn Hạnh tại Tổ đình Từ Hiếu - Huế.
Năm 1967, Ngài là
Giáo sư cho lớp Chuyên khoa Phật học Liễu Quán, do Ngài Thích Mật Nguyện
tổ chức tại chùa Linh Quang - Huế. Năm 1968, Ngài được Viện Tăng Thống
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất suy cử lên hàng giáo phẩm Hòa
thượng cùng một lúc với Ngài Trí Thủ và Ngài Thiện Hòa. Năm này, Ngài làm
Ðệ ngũ Tôn chứng tại Giới đàn Hải Ðức - Nha Trang.
Trước sự phát triển
của các Phật học viện, Ngài cùng Hòa thượng Trí Thủ và Hòa thượng Thiện
Hòa thành lập Ban Bảo trợ Phật học viện, nhằm đào tạo Tăng tài cho Phật
giáo Việt Nam. Ngài luôn quan niệm rằng Tăng đoàn là giềng mối của Giáo
Hoäi, và xem nhiệm vụ chăm lo Tăng sự là việc chính yếu của đời mình.
Năm 1972, sau khi
Pháp đệ của Ngài là Hòa thượng Thích Mật Nguyện viên tịch. Ngài kiêm giữ
chức trú trì chùa Linh Quang, một cơ sở trọng yếu của Giáo Hội.
Năm 1973, Ngài được
mời vào Hội đồng Giáo phẩm Viện Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
Thống Nhất.
Năm 1975, sau ngày
đất nước thống nhất, Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam tỉnh Bình Trị Thiên đã mời
Ngài tham gia vào Mặt trận và Hội đồng Nhân dân. Vì sự nghiệp đoàn kết,
Ngài đã làm Ðại biểu Hội đồng Nhân dân tỉnh, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận
Tổ Quốc Việt Nam tỉnh và Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam.
Tại Tổ đình Báo
Quốc, các giới đàn lần lượt được tổ chức và Ngài được cung thỉnh làm Giáo
thọ, Yết ma và Ðàn đầu Hòa thượng.
Năm 1981, Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam được thành lập, Ðại hội Phật giáo kỳ I đã suy cử Ngài
lên chức vụ Phó Pháp Chủ Hội đồng Chứng minh Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
Năm 1984, những biến
cố dồn dập cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, Hòa thượng Thích Trí Thủ - Chủ
tịch Hội đồng Trị sự Trung ương thị tịch, tiếp Hòa thượng Thích Thanh Trí,
Trưởng ban Trị sự Giáo Hội Phật Giáo tỉnh Bình Trị Thiên cũng viên tịch,
Ngài phải đảm trách nhiệm vụ Trưởng Ban Trị sự.
Năm 1990 Ðại hội Ðại
biểu Kỳ I của Giáo Hội Phật Giáo Thừa Thiên - Huế, Ngài đã được Ðại hội
cung thỉnh làm Trưởng ban Trị sự kiêm Ủy viên Tăng sự.
Trong cuộc đời tu
tập, Ngài đã khéo dung nhiếp Thiền tông, Tịnh độ và Mật giáo thành một
pháp môn tổng hợp, cẩn mật hành trì. Trên cương vị lãnh đạo, Ngài đã nêu
cao tinh thần trách nhiệm, tận tụy với mọi Phật sự.
Ngài đã sống thật
đơn giản, bình dị, tâm chí thì cương trực, hành động thì hết lòng phụng sự
Ðạo pháp và Dân tộc. Trên bước đường hoằng pháp lợi sanh, Ngài đã không từ
nan bất cứ một nhiệm vụ nào do Tăng đoàn hay Giáo hội giao phó.
Ðầu năm 1992, linh
cảm về sự ra đi của mình, nên trong ngày húy nhật của thân sinh, Ngài đã
về quê viếng mộ phần tổ tiên để thăm lại lần cuối cùng những nấm mồ quý
kính.
Sau đó, Ngài lần
lượt thăm viếng các bực Tôn túc trong Giáo hội, chiêm bái các Tổ đình,
khuyên dạy và nhắc nhủ chư Tăng Ni và đồ chúng tinh cần tu học, phục vụ
chánh pháp, lợi lạc quần sanh. Sau hơn một tháng thị bệnh và tịnh dưỡng,
Ngài đã an nhiên thị tịch vào ngày Rằm tháng 4 năm Nhâm Thân tại Tổ đình
Trúc Lâm - Huế giữa tiếng tụng kinh niệm Phật của chư Tăng Ni cùng môn đồ,
hiếu quyến. Ngài đã trụ thế 85 năm và gần 80 năm tu tập, phụng sự đạo
pháp. Ngài đã ra đi vào cõi tịnh lạc, đạo phong của Ngài vẫn mãi còn với
quê hương non nước và còn mãi trong lòng Tăng Ni, Phật tử Việt Nam.
HÒA THƯỢNG
THÍCH
THIỀN TÂM
(1925 - 1992)
Hòa thượng pháp danh
Thiền Tâm, pháp hiệu Liên Du, tự Vô Nhất thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời
thứ 43, thế danh Nguyễn Nhựt Thăng, sinh năm 1925 (Ất Sửu) tại xã Bình
Xuân, Gò Công Ðông, tỉnh Tiền Giang. Song thân là cụ Nguyễn Văn Hương và
cụ Trần Thị Dung pháp danh Giác Ân. Ngài là người thứ 10 trong số 13 anh
em, 4 trai, 9 gái.
Xuất thân từ gia
đình Nho giáo kính tín Tam Bảo. Sáu tuổi, Ngài đã cắp sách đến trường học
quốc ngữ song song với Nho học. Lúc thiếu thời, Ngài đã bộc lộ thiên tư
tài hoa văn nhã, bẩm chất cao khiết, và là người con chí hiếu với cha mẹ.
Do vì thấy mẹ đau yếu triền miên, năm 12 tuổi, Ngài ra đi tìm thầy học
thuốc để mong trị lành bệnh cho mẫu thân. Nhân tạm trú học thuốc tại chùa
Vĩnh Tràng - Mỹ Tho, Ngài có dịp nghiên tầm Phật điển và nuôi dần ý chí
xuất gia tu học.
Năm 18 tuổi, Ngài
trở về chăm sóc mẹ đến khi lành mạnh. Sau đó, Ngài khẩn khoản xin phép
song đường cho xuất gia, nhưng không được đồng ý. Cuối cùng, Ngài đành
phải âm thầm trốn đi (năm Giáp Thân - 1944, lúc 19 tuổi), đến tu tại chùa
Sắc Tứ Linh Thứu ở Xoài Hột, và được thế phát xuất gia vào năm Ất Dậu
(1945) làm đệ tử của Ðại lão Hòa thượng Thành Ðạo.
Năm 1948, Ngài thọ
giới Sa Di và học ở Phật học đường Liên Hải cùng Phật học đường Nam Việt
chùa Ấn Quang cho đến năm 1951 để hoàn tất chương trình Trung đẳng Phật
học. Thời gian đó, Ngài được thọ Tỳ Kheo giới tại Ðại giới đàn Ấn Quang tổ
chức năm 1950.
Từ năm 1951 đến năm
1954, Ngài hoàn tất chương trình Cao đẳng Phật học tại Phật học đường Nam
Việt với các vị đồng khóa như: Hòa thượng Bửu Huệ, Tắc Phước, Tịnh Ðức,
Ðạt Bửu, Tịnh Chơn... và Ngài cùng quý thầy lớp Cao đẳng đã phụ giúp đắc
lực cho Hòa thượng Giám đốc Thiện Hòa trong việc điều khiển sinh hoạt đại
chúng. Ngài làm Tri chúng, Ngài Bửu Huệ làm Tri sự. Lòng khoan dung, tính
hòa nhã điềm đạm của Ngài giúp an chúng và thành tựu mọi Phật sự.
Năm 1954, tốt nghiệp
lớp Cao đẳng, Ngài xin phép chư Tôn đức trong Ban Giám Ðốc lui về nhập
thất tịnh tu trong mười năm tại trụ xứ Cái Bè và Vang Quới.
Dù nhập thất tinh
tấn chuyên tu, song Hòa thượng không xa rời bi nguyện độ sanh. Trong mười
năm ấy, Ngài đã phiên dịch các loại kinh sách chuyên hướng xiển dương pháp
môn Tịnh độ, như: kinh Quán Vô Lượng Thọ, Tịnh học Tân Lương, Lá thơ Tịnh
Ðộ, Hương quê Cực Lạc, và giảng dạy cho Ni chúng khắp nơi đến thọ học.
Năm 1964, Hòa thượng
Thiện Hòa mở Trường Trung đẳng Chuyên khoa Phật học tại chùa Huệ Nghiêm,
Bình Chánh, Sài Gòn. Ngài và hai vị Thanh Từ, Bửu Huệ được mời giao đảm
trách việc giáo dục học Tăng. Song song đó, các Ngài còn phụ trách giảng
dạy cho học Ni tại Phật học viện Dược Sư. Ngoài ra, Ngài coøn giảng dạy
tại Phân khoa Phật học thuộc Viện Ðại Học Vạn Hạnh, Sài Gòn. Trong giai
đoạn này, Ngài tập trung biên soạn các bộ sách để làm giáo trình kiến thức
Phật học Trung Cao như: Phật học Tinh Yếu, Duy Thức học Cương yếu và phiên
dịch sách Tịnh Ðộ Thập Nghi Luận cùng kinh Ðại Bi Tâm Ðà La Ni.
Năm 1967, Ngài đến
Ðại Ninh, ấp Phú An, xã Phú Hội, huyện Ðức Trọng, tỉnh Lâm Ðồng, kiến
thiết Hương Quang Thất, chuẩn bị cho giai đoạn ẩn tu.
Năm 1968, Hòa thượng
chính thức về trụ hẳn ở Ðại Ninh, lập nên đạo tràng Tịnh độ. Ngài không
câu nệ vào việc nhập thất, mà sẵn sàng tiếp hóa chư Tăng Ni Phật tử đến
tham vấn học đạo, Ngài còn soạn thuật: Niệm Phật thập yếu, Tây phương nhựt
khóa, Tịnh độ pháp nghi và phiên dịch kinh Phật Ðảnh Tôn Thắng Ðà La Ni.
Năm 1970, Ngài xây
dựng Hương Nghiêm Tịnh Viện, biến đạo tràng thành một vùng chuyên tu Tịnh
độ, cũng là trung tâm xiển dương pháp môn này ở miền Nam. Tăng Ni tín đồ
qui tụ về lập am thất trụ lại tu học rất đông. Danh đức của Ngài được lan
truyền rộng và Phật tử đến quy ngưỡng ngày càng nhiều. Ðặc biệt, ở Hương
Nghiêm Tịnh Viện này tâm Tịnh độ laø nguồn cảm hứng để Ngài sáng tác rất
nhiều thơ văn đượm chất đạo vị, thanh thoát. Thơ văn liễu ngộ tâm cảnh Cực
Lạc của Ngài cảm hóa được không biết bao nhiêu đồ chúng hướng về pháp môn
này.
Năm 1974, Ngài mở
khóa tu học chuyên về pháp môn Tịnh độ trong ba năm, với số Liên chúng 13
vị dưới sự hướng dẫn của Ban Liên Ðạo gồm 3 vị: Liên Thủ: Hòa thượng Bửu
Huệ, Liên Huấn: Hòa thượng Thiền Tâm, Liên Hạnh: Hòa thượng Bửu Lai.
Từ năm 1975, Ngài
viễn ly mọi sự nghe thấy bên ngoài, lặng lẽ nhiếp tâm tu niệm gia trì hai
pháp môn Mật Tịnh song hành. Suốt một thời gian dài, Ngài kiên trì nhập
thất chăm chắm giải quyết việc lớn sanh tử, song Ngài vẫn soạn dịch bộ:
“Mấy Ðiệu Sen Thanh” và “Tam Bảo cảm ứng lục” để lợi lạc nhân sinh khuyến
tu Tịnh độ.
Những ngày cuối cùng
cuộc đời ẩn tu hành đạo, Ngài vương chút thân bệnh, trước đó Ngài đã giao
phó mọi việc của Tịnh viện Hương Nghiêm lại cho Tăng đồ quản lý điều hành.
Ngài cố gắng khắc phục thân bệnh, nổ lực dụng công trì danh hiệu Phật. Cho
đến khi cảm nhận thời khắc vãng sinh, Ngài bảo đồ chúng vây quanh trợ
niệm, rồi đến 9 giờ sáng ngày 21 tháng 11 năm Nhâm Thân (tức ngày
14-2-1992), Ngài an nhiên thoát hóa, vãng sinh hưởng thọ 68 tuổi, hạ lạp
42.
Cảm thức đức độ của
một bậc danh Tăng, lúc sinh thời, các vị tôn túc trong Giáo hội Tỉnh đã
cung thỉnh Ngài vào Hội đồng Chứng minh Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Lâm
Ðồng. Trong cuộc đời hành đạo, Hòa thượng là vị Cao Tăng có công lớn trong
việc xiển dương pháp môn Tịnh Ðộ. Sự nghiệp sáng tác và phiên dịch của
Ngài để lại cho hậu theá là một vốn quí làm tư lương tu trì và giúp hàng
hậu sinh nhận thức sâu rộng trong giáo pháp.
Các tác phẩm của Hòa
thượng để lại:
. Kinh Quán Vô Lượng
Thọ.
. Tịnh Học Tân
Lương.
. Lá thơ Tịnh Ðộ.
. Hương Quê Cực Lạc.
. Phaät học Tinh
yếu.
. Duy Thức Học cương
yếu.
. Tịnh độ Thập nghi
luận.
. Kinh Ðại Bi Tâm Ðà
La Ni.
. Niệm Phật Thập yếu.
. Tây phương Nhựt
khóa.
. Tịnh Ðộ Pháp Nghi.
. Kinh Phật Ðảnh Tôn
Thắng Ðà La Ni.
. Mấy điệu sen thanh.
. Tam Bảo Cảm ứng
lục.
HÒA THƯỢNG
THÍCH
NHỰT MINH
(1908 - 1993)
Hòa thượng thế danh
là Nguyễn Quang Tống, pháp danh Nhựt Minh, húy Chơn Tảo, hiệu Trí Từ,
thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 40, sinh ngày rằm tháng 8 năm Mậu Thân
(10-9-1908) tại xã Tân Lợi, tổng Quản Long, quận Cà Mau, tỉnh Bạc Liêu
(nay là tỉnh Minh Hải). Ngài sinh trưởng trong một gia đình tín thành Phật
giáo. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Ðồng pháp danh Chơn Từ. Thân mẫu là cụ
bà Ðặng Thị Nhụy pháp danh Diệu Hương.
Từ ngày còn thơ ấu,
Ngài đã được song thân dẫn đến chùa lễ Phật, nên mến thích cảnh thiền môn.
Ðến năm lên 8 tuổi, Ngài được song thân chấp thuận cho phép xuaát gia học
đạo tại chùa Từ Phước với vị Hòa thượng trú trì chính là ông nội của Ngài.
Trong đạo nghĩa thầy trò còn có tình huyết thống nên Ngài được giáo dục
rất chí tình.
Năm Ngài 12 tuổi
(1919) Bổn sư viên tịch, khiến Ngài không biết nương tựa vào ai. Nỗi buồn
chưa nguôi thì qua năm sau, thân mẫu lại qua đời, Ngài đành phải trở về
sống chung với gia đình. Vài tháng sau, cô ruột của Ngài là sư bà Diệu
Hạnh, trú trì chùa Quan Âm Phật tại xã An Trạch - Bạc Liêu, biết được hoàn
cảnh, bèn cho người tới đón về theo hầu Hòa thượng Thiện Nhựt ở chùa Thiên
Ấn để tiếp tục tu học.
Năm 1921, Ngài được
Tổ Thiên Ấn cho theo học lớp Ðông y tại chùa Long Phước thuộc xã Long
Ðiền, huyện Giá Rai do Hòa thượng Hoằng Nghĩa chủ trì.
Năm 1922, Ngài 15
tuổi, Tổ Thiên Ấn cho thọ giới Sa Di tại giới đàn Sắc tứ Quan Âm Cổ Tự -
Cà Mau, được Tổ ban pháp danh Nhựt Minh, và cho đến cầu pháp học hoûi với
Tổ Quảng Ðạt.
Ðến năm 1927, lúc 20
tuổi, Ngài thọ giới Tỳ Kheo tại giới đàn chùa Bửu Linh huyện Cổ Cò. Năm
1932, Ngài tới cầu học với Tổ Bửu Quang chùa Vạn Linh - Cần Thơ. Năm 1937,
Ngài tiếp tục tham học với Tổ Chánh Thành chùa Vạn An - Sa Ðéc.
Năm 1942, Ngài được
cử làm Giáo thọ tại Trường Kỳ chùa Long Phước, xã Long Ðiền. Năm 1944,
Ngài làm Yết Ma A Xà Lê Trường Kỳ chùa Linh Thạnh tại Bá Láng, huyện Giá
Rai.
Năm 1945 Cách Maïng
Tháng Tám thành công, rồi kế đến Nam bộ kháng chiến, với trách nhiệm Tăng
sĩ trước hiện tình đất nước, Ngài tham gia công tác Mặt trận đoàn kết toàn
dân, góp phần chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp. Suốt bảy năm liên
tục, Ngài giữ chức Hội trưởng Hội Phật giáo Cứu quốc tỉnh Bạc Liêu. Tuy lo
Phật sự, Ngài vẫn không quên tham cầu giáo lý. Ngài đã cầu pháp với Hòa
thượng Huệ Viên tại chùa Vĩnh Hòa tỉnh Bạc Liêu, được ban pháp hiệu Trí
Từ.
Năm 1951, trong một
cuộc bố ráp của thực dân, Ngài bị bắt đưa về giam lỏng ở Cà Mau. Ít lâu
sau, Ngài đã trốn ra vùng tự do gây dựng lại cơ sở. Ðược một thời gian cơ
sở bị bại lộ, Ngài phải rời quê lên Sài gòn. Ngài tham gia vào Giáo Hội
Tăng Già Nam Việt trụ sở của hội đặt tại chùa Ấn Quang, và được cử làm Phó
Trị sự trưởng phụ tá Hòa thượng Thích Thiện Hòa.
Ðến năm 1953, nhận
thấy ở các tỉnh miền Tây, phong trào Phật giáo có phần suy yếu, thiếu bóng
các bậc Tăng tài hướng dẫn, Giáo Hội cử Ngài làm Tăng trưởng ba tỉnh Sóc
Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau. Với cương vị ấy, năm 1955, Ngài mở đại giới đàn
tại chùa Phước Hòa huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng, Ngài được chư sơn 6
tỉnh miền Tây cung thỉnh vào ngôi vị Ðàn đầu Hòa thượng. Giới tử Tăng Ni
hơn 100 vị và hơn 1.000 Phật tử được thọ ân pháp vũ của Ngài.
Năm 1956, Ngài xây
dựng chùa Ðại Giác tại tỉnh Sóc Trăng để làm văn phòng liên lạc cho Phật
giáo ba tỉnh nói trên. Năm 1961 Ngài được cử làm Trưởng ban Từ thiện Giáo
hội Tăng già Toàn quốc. Năm 1962, Ngài nhận trọng trách mới là Chủ tịch
đoàn Như Lai Sứ Giả, tuyển chọn Tăng tài bổ nhiệm trú trì các tự viện và
dẫn đầu Ban Hoằng Pháp đi thuyết giảng khắp các tỉnh Nam, Trung. Ðây là
điểm son trong công tác Phật sự của Ngài.
Năm 1964 - 1966, Ngài
dẫn đệ tử ra Long Thành- Ðồng Nai khai phá đất đai, lập khu Phật Tích Tòng
Lâm. Trong lúc công việc kiến tạo Tòng Lâm đang còn dang dở, thì Hòa
thượng Từ Quang, nguyên Hội trưởng Hội Linh Sơn Phật Học tại Sài Gòn ra
tận nơi hai lần, thỉnh cho kỳ được Ngài về đảm nhiệm chức vụ trú trì Linh
Sơn Cổ Tự đường Cô Giang, gần chợ Cầu Muối. Ngày 01-1-1968 nhân đại hội
Phật giáo tổ chức tại chùa Linh Sơn, Ngài được chính thức bầu làm trú trì
kiêm Hội chủ Linh Sơn Phật học.
Khi Ngài về nhaän
nhiệm vụ trú trì, chùa Linh Sơn ở trong tình trạng gần như hoang tàn. Ngài
bắt tay vào việc trùng tu, tái thiết liên tục trong ba năm. Cuối năm 1970,
công việc hoàn thành. Chùa Linh Sơn trở nên nguy nga tráng lệ do công sưùc
đóng góp của Tăng sinh các Phật học viện Hải Tràng, Huỳnh Kim, Giác Sanh
và Phật tử xa gần ở các chợ Cầu Muối, chợ Cầu Ông Lãnh, chợ Cầu Kho... Ðầu
năm 1971 đại lễ khánh thành được tổ chức long trọng cùng lúc với đại giới
đàn và lễ thỉnh ngọc Xá lợi Phật Thích Ca do Ðại đức Narada người Tích Lan
cúng dường thờ tại chùa. Sau cuộc lễ này, Phật học viện Linh Sơn tiếp tục
mở lại trong ba năm, có trên 50 Tăng Ni sinh theo học.
Năm 1973, Ngài ra Hòn
Nghệ trong vùng biển Kiên Giang xây dựng Bảo tượng đức Quan Thế Âm Bồ Tát
lộ thiên, cao 22 mét để cầu an lành cho mọi người qua lại trên biển, nhất
là ngư dân. Công việc kiến tạo này gần xong thì miền Nam hoaøn toàn giải
phóng.
Năm 1987 Ngài cùng
nhiều vị Hòa thượng trú trì các tự viện ở một số tỉnh và thành phố Hồ Chí
Minh đứng ra xây dựng “Tam bảo công đồng tháp” trong khuôn viên Phật Tích
Tòng Lâm ở xã An Phước, huyện Long Thành để an trí di cốt hàng trăm vị tôn
đức mãn thế. Năm 1989 ngôi tháp đã hoàn thành viên mãn.
Từ năm 1992, sức khỏe
của Ngài sút giảm dần. Ngày mồng 7 tháng 3 năm Quý Dậu (28-4-1993) vào lúc
13 giờ 40' Ngài đã an nhiên thâu thần thị tịch, hưởng thọ 87 tuổi đời, 67
tuổi hạ.
HÒA THƯỢNG
THÍCH ÐỨC
NHUẬN
(1897 - 1993)
Hòa thượng thế danh
là Phạm Ðức Hạp, pháp hiệu Thanh Thiện, pháp danh Ðức Nhuận, sinh năm Ðinh
Dậu, triều Thành Thái năm thứ 9 (1897), tại Quần Phương, xã Hải Phương;
huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Ðịnh (nay là tỉnh Nam Hà). Thân phụ là cụ ông Phạm
Công Toán, hiệu Thành Phủ, thân mẫu là cụ bà Lê Thị Vụ. Ngài là con thứ 6
trong một gia đình có 8 anh chị em.
Sinh trưởng trong một
gia đình nề nếp Nho phong, lên 7 tuổi Ngài đã được cho đi học chữ Hán.
Thân phụ Ngài vốn là một vị lương y Ðông dược nổi tiếng trong vùng, được
Sư tổ chùa Ðồng Ðắc ở tỉnh Ninh Bình mời sang để bào chế thuốc phong cứu
giúp dân làng. Do được theo hầu thân phụ, dần dần Ngài mến mộ cảnh yên
tĩnh và không khí thoát tục của chốn thiền môn.
Năm Nhâm Tý (1912)
khi Ngài tròn 15 tuổi, Ngài nhận chân được cuộc đời là vô thường, thân
người là giả tạm, nên Ngài xin phép song thân xuất gia đầu Phật. Ngài sơ
tâm cầu pháp với Sư Tổ Thích Thanh Nghĩa thuộc dòng thiền Tào Ðộng chùa
Quảng Bá, Hà Nội, trú trì chùa Ðồng Ðắc xã Ðồng Hướng, huyện Kim Sơn, tỉnh
Ninh Bình.
Sau khi thế phát quy
y, Ngài được nghiệp sư gửi tới chùa Thanh Nộn, huyện Kim Bảng, tỉnh Nam Hà
cầu học với Sư Tổ Thích Thanh Ninh. Với đức hạnh khiêm cung, siêng năng,
hiếu học, Ngài luôn được Sư Tổ thương yêu và kỳ vọng sau này Ngài là pháp
khí của tùng lâm.
Năm Ðinh Tỵ (1917)
Ngài được 20 tuổi, được Tôn sư cho thọ giới Cụ Túc tại giới đàn chùa Già
Lê Tự làng Phúc Nhạc, tỉnh Ninh Bình. Giới Ðàn này được các bậc Cao tăng
thạc đức giữ các chức vụ quan trọng như : Sư tổ Thích Thanh Khiết làm Hòa
thượng Ðàn đầu, Sư tổ Thích Trung Ðịnh làm Yết Ma A Xà Lê, Sư tổ Thích
Thanh Phúc làm Giáo Thọ, Sư tổ Thích Khang Thượng và Sư tổ Thích Thanh
Nghĩa làm Tôn chứng. Từ đây Ngài thực sự được dự vào hàng Tăng Bảo với
trọng trách “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa quần sinh”.
Sau khi đắc pháp,
Ngài tiếp tục con đường tu học, tìm đến tham vaán với chư Tổ danh tiếng
khắp nơi, như chốn Tổ đình Ðào Xuyên ở huyện Gia Lâm do Tổ Giám Thông Mệnh
truyền dạy, chốn Tổ Bằng ở huyện Thường Tín tỉnh Hà Ðông (nay là Hà Tây)
và chốn Tổ Sở ở huyện Hoàn Long (nay là quận Ðống Ða) Hà Nội do Sư Tổ Phan
Trung Thứ thuyết pháp.... và còn nhiều nơi khác nữa.
Trải qua bao năm
tháng chuyên tâm tu học, tinh tấn trau dồi đạo hạnh, Ngài đã trở thành một
bậc tôn đức không những uyên thâm Phật học, maø còn quán thông cả Khổng
học, Lão học, đạo hạnh sáng ngời đáng làm tiêu đích cho hàng Tăng Ni hậu
tấn, Phật tử sơ cơ ngưỡng mộ, quy tâm.
Trong thời gian tu
học ở Tổ đình Bằng Sở, nhận thức của Ngài về chánh đạo đã nhaäp sâu, Ngài
nhận thấy thực trạng mê tín dị đoan có tính truyền thống là một trở ngại
rất lớn cho người Phật tử trên con đường tu học. Nên Ngài đã hăng hái và
tích cực khởi xướng việc bài trừ. Ban đầu Ngài đã phải đối phó với tư
tưởng dị đồng của chính những bạn đồng môn, nhất là của một số Phật tử có
dính dáng ít nhiều với các đền, các phủ. Tuy việc làm của Ngài lúc đó chưa
đạt thắng lợi, nhưng ít ra cũng gợi cho mọi người khái niệm so sánh, phân
biệt giữa chánh tín và mê tín. Tổ Bằng Sở sau này đã hết lời khen ngợi
Ngài như một viên dũng tướng, khi mà trình độ cũng như điều kiện phát
triển Phật giáo nước nhà đã được nâng cao.
Năm Kỷ Mão (1939),
nhằm thực hành hạnh nguyện từ bi, Ngài đã phát tâm thọ giới Bồ Tát do Sư
tổ Thích Doãn Hài, viện chủ chùa Tế Xuyên ở tỉnh Hà Nam chứng đàn.
Năm Canh Thìn (1940),
Ngài trở lại chùa Ðồng Ðắc xưa tiếp tục tu học. Tại đây, sau khi nghiệp sư
viên tịch, Ngài được cử thừa kế làm trú trì. Phật sự đầu tiên được đặt ra
trong tâm trí Ngài là: đào tạo Tăng tài, tổ chức Giáo Hội. Ngài liền lập
hai trường Phật Học : một ở chùa Ðồng Ðắc và một ở chùa Kỳ Lân thôn Ðại
Hữu, xã Văn Bồng, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.
Ngài luôn được chư
Tăng Ni và Phật tử cung thỉnh làm chủ hạ các trường như trường hạ chùa
Phúc Nhạc, chùa Ðại Hữu, chùa Sơn Thủy (Non Nước), chùa Lê Xá (huyện Gia
Viễn), chùa Bà Ðá ở Hà Nội v.v... Ngài luôn nêu cao uy mãnh Thích Hải Côn
Bằng, tiêu biểu cho ngôi vị Tòng lâm Pháp chủ.
Sau năm Ất Dậu
(1945), vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, Tổ đình Ðồng
Ðắc do Ngài trú trì là cơ sở nuôi giấu cách mạng. Ngài còn vận động Tăng
tín đồ khắp nơi, nhất là vùng Hà Nam Ninh ủng hộ và tham gia kháng chiến,
đáp lời kêu gọi của cách mạng. Bấy giờ vì chiến tranh lan tràn, nhu cầu
nhân tài vật lực cho kháng chiến rất cao: Tất cả cho kháng chiến. Tất cả
cho mặt trận. Do đó các Phật học đường đều ngưng hoạt động. Các chùa thu
hẹp sinh hoạt, Tăng Ni đều phải tạm thời rời bỏ cuộc sống tu hành, lên
đường tham gia phong trào Phật giáo cứu quốc.
Khoảng năm Canh Dần
(1950), với đức độ ngời sáng, giới luật tinh nghiêm của Ngài, Hội Phật học
tỉnh Ninh Bình cung thỉnh Ngài giữ chức Giám luật cho hội để giữ vững kỷ
cương cho hàng Tăng Ni, Phật tử trên con đường tiến tu Tam vô lậu học.
Năm Nhâm Thìn (1952),
quê hương bản sở của Ngài bị quân đội viễn chinh Pháp và bọn tay sai khủng
bố ác liệt. Một số tín đồ Phật giáo bị gò ép bỏ đạo. Chùa chiền bị phong
tỏa hoặc đập phá. Tinh thần Phật tử bị khủng hoảng trầm trọng. Ðứng trước
thảm họa mất nước và nguy cơ mất đạo, với cương vị là người đứng đầu hàng
cao Tăng trong vùng, sứ giả của Như Lai, Ngài đã cương quyết bảo vệ tôn
giáo và tín ngưỡng của quần chúng, kêu gọi mọi người hãy sát cánh bên
Ngài. Kẻ thù đã dùng mọi thủ đoạn mua chuộc, hăm dọa tù đày hòng uy hiếp
tinh thần Ngài. Nhưng Ngài vẫn an nhiên, hiên ngang trươùc mọi sự đe dọa.
Cuối cùng, trước nguy cơ bị ám hại, Ngài đành phải thuận theo lời thỉnh
cầu của Tăng tín đồ, tạm lánh lên Hà Nội một thời gian.
Năm Giáp Ngọ (1954),
hiệp định Genève được ký kết, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình. Trên
miền Bắc sạch bóng xâm lược, Ngài mới cùng các đệ tử trở lại chùa xua, gầy
dựng lại tất cả để tiếp tục tu hành, hoằng dương Chánh pháp.
Năm Ất Mùi (1955),
Hòa thượng Tuệ Tạng, Thượng thủ Giáo hội Tăng già Việt Nam và Hòa thượng
Mật Ứng, Pháp chủ Phật giáo Bắc Việt, hiệp cùng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
vào tận chùa Ðồng Ðắc, mời Ngài trở lên chùa Quán Sứ - Hà Nội nhận chức
Phó Hội trưởng Hội Phật Giáo Vieät Nam. Trong thời gian này, Ngài được
thỉnh về trú trì chùa Tàu (Phổ Giác tự) ở quận Ðống Ða, Hà Nội. Từ ngôi
chùa này, Ngài thường xuyên sang làm việc tại trụ sở trung ương của Hội
chùa Quán Sứ. Về sau do nhu cầu của Giáo Hội, Ngài ở lại chùa Quán Sứ,
được ít lâu sau Ngài lãnh nhiệm vụ trú trì chùa Quán Sứ. Năm Bính Thân
(1956), Ngài được bầu làm Phó ban Ðại diện Phật giáo Thủ đô.
Năm Ðinh Dậu (1957),
Ngài là một thành viên trong Phaùi đoàn Ðại biểu Phật giáo Việt Nam đến
yết kiến Chủ tịch nước Hồ Chí Minh và Phó Chủ tịch Tôn Ðức Thắng tại Phủ
Chủ tịch. Cùng năm này, Ngài được bầu làm Trưởng Ban Ðại diện Phật giáo
Thủ đô.
Tháng 3 năm 1958, Hội
Phaät Giáo Thống Nhất Việt Nam (ở miền Bắc ) được thành lập. Hòa thượng
Thích Trí Ðộ được bầu làm Hội trưởng, Ngài được bầu làm Phó Hội trưởng.
Ngài đảm nhiệm chức vụ này liên tục qua bốn kỳ Ðại hội từ năm 1979, Ngài
laøm quyền Hội trưởng cho đến năm 1981, sau khi Hòa thượng Trí Ðộ viên
tịch.
Năm 1969, Ngài về trú
trì chùa Quảng Bá (Hoàng Ân tự) xã Quảng An, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Cũng
trong năm này, Hội Phật Giáo Thống Nhất Việt Nam mơû trường Tu học Phật
pháp Trung ương tại chùa này và thỉnh Ngài làm hiệu trưởng. Ðây là Phật
học đường đầu tiên từ sau ngày miền Bắc được giải phóng. Ngài trú trì và
giáo hóa Tăng ni, Phật tử ở chùa Quảng Bá hơn 20 naêm, sau đó về chùa Hòe
Nhai.
Ðể có nơi an táng sắc
thân tứ đại của Tăng Ni toàn thành phố Hà Nội, năm 1980 Ngài đứng ra xin
phép Nhà nước thành lập nghĩa trang tại chùa Huỳnh Cung, xã Tam Hiệp,
huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội. Cũng trong năm này, Ngài nhận lãnh Tổ
đình Hồng Phúc (Hòe Nhai), chốn Tổ của thiền phái Tào Ðộng. Năm 1986, Ngài
chính thức về đây trú trì cho đến khi viên tịch.
Năm 1980, trong bối
cảnh nước nhà hoàn toàn độc lập và thống nhất, Tăng Ni, Phật tử cả nước
mong muốn thực hiện ý nguyện bao đời của các bậc tiền bối là thống nhất,
hòa hợp Phật giáo Việt Nam thành một khối. Ban vận động thống nhất Phật
giáo Việt Nam ra đời trong thơøi điểm này và đã cung thỉnh Ngài làm Chứng
minh. Cũng trong năm này Ngài vào lưu trú tại Tổ đình Vĩnh Nghiêm (thành
phố Hồ Chí Minh) một năm để cùng với Ban Vận Ðộng đi thăm viếng trao đổi,
bàn bạc với chư vị tôn đức lãnh đạo các giáo phái, hệ phái, hội đoàn Phật
giáo tại các tỉnh phía Nam để thực hiện ý nguyện thống nhất Phật giáo.
Tháng 11 năm 1981,
Hội nghị đại biểu thống nhất Phật giáo Việt Nam diễn ra tại chùa Quán Sứ -
Hà Nội để thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Toàn thể đại biểu nhất
tâm cung thỉnh Ngài đảm nhận ngôi vị Pháp Chủ. Nhưng Ngài từ chối đến 3
lần. Cuối cùng với sự thành tâm tha thiết của Hội nghị, Ngài nhận lãnh
ngôi vị Pháp chủ với điều kiện là Hội nghị sẽ đề đạt lên Chính Phủ ba
nguyện vọng tha thiết của Ngài. Ðó là :
1.- Cho phép mở tại 3
thành phố Hà Nội, Huế, thành phố Hồ Chí Minh 3 trường Ðại học Phật học.
2.- Cho mỗi tự viện
được nhập khẩu từ 2 đến 5 người để chăm lo Phật sự.
3.- Cho phép Phật tử
được tự do đến chùa lễ Phật, nghe Pháp.
Từ đó, qua hai kỳ đại
hội nữa, Ngài vẫn được Tăng tín đồ cung thỉnh ở ngôi vị Pháp Chủ.
Ngoài Phật sự, Ngài
còn tham gia các công tác từ thiện, xã hội. Ngài được bầu vào Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam nhiều khóa. Do công lao đóng góp của Ngài cho sự
nghiệp đại đoàn kết toàn dân, Nhà nước đã tặng thưởng Ngài Huân Chương Hồ
Chí Minh và Huân Chương Ðộc Lập hạng nhất.
Là một vị đại cao
Tăng, cống hiến trọn đời cho lý tưởng hoằng pháp lợi sinh, Ngài đã đóng
góp nhiều công sức trong công cuộc chấn hưng, thống nhất và hòa hợp Phật
giáo, góp phần đoàn kết và phụng sự dân tộc.
Vào lúc 5 giờ 5 phút ngày 11 tháng 11 năm Quý Dậu (23-12-1993), hạnh
nguyện hoằng pháp lợi sinh đã viên mãn, Ngài đã an nhiên thị tịch tại bệnh
viện Hữu Nghị Việt - Xô - Hà Nội, hưởng thọ 97 tuổi đời, 77 hạ lạp.
--- o0o ---
|
Mục Lục Tập I |
|
I |
II |
III |
IV |
V |
VI |
VII |
--- o0o ---
[
Tập II ]
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 05-2003