...Một
là nguyện Phật thần thông
Chứng minh đệ từ thành công lâu dài
Hai là nguyện lạy Như Lai
Cầu cho già trẻ gái trai làm lành...
Miệng thì đọc theo ba nhưng mắt Bé cứ thỉnh thoảng lại phải nhìn theo con
thằn lằn trên cột nhà. Thằn lằn đang rình một con kiến cánh. Con kiến kia
nếu không biết bay đi thì thế nào cũng bị thằn lằn đớp, chú nghĩ trong
bụng, thoáng thấy tội nghiệp con kiến nhưng cũng thấy thương con thằn lằn
đang đói. Chú không thích nhìn thấy cảnh ấy một tí nào. Quay mặt đi chỗ
khác, Bé cố gắng chú tâm đọc rõ ràng từng chữ theo ba.
Tối
nào cũng vậy, hễ thấy ba vói tay lấy cái áo vải xe lữa nhuộm mực Tàu treo
trên vách là chú chạy ào ra lu, múc gáo nước xối vội hai bàn chân, khum
tay vốc ngụm nước úp lên mặt, quẹt quẹt vài cái lên má rồi chạy ù vào, vừa
chạy vừa lấy tay áo lau mặt. Coi như sạch sẽ rồi, chú liền chắp tay đứng
ngay ngắn đằng sau lưng ba. Ba thắp nhang và bắt đầu buổi tụng kinh tối.
Những năm chiến tranh, câu cầu khấn cửa miệng người dân không phải là cầu
tài cầu lộc, mà là “cầu cho tai qua nạn khỏi”. Do vậy, đêm nào ba cũng lễ
lạy và đọc tụng 12 bài nguyện Quan Âm. Chú đọc theo ba không sai
một chữ. Có những lúc mắt bận ngó nghiêng cái này cái kia, đôi khi chú lơ
là, nhưng vẫn dõi theo và đọc đủ bài kinh như quán tính. Buổi sáng, bốn
giờ ba đã thức tụng kinh. Chú nằm trong mùng, tai vẫn nghe và tiếng tụng
kinh âm trầm ngấm vào giấc ngủ của chú, mỗi ngày mỗi ngày đều đều như vậy
Xóm
Bà Tri nằm núp sau một cái cồn nhỏ quay mặt ra con sông Tiền rộng lớn.
Người ta kêu bằng cồn Dưa Leo bởi trên đó trồng toàn dưa leo, mà hình như
cái cồn này cũng có hình giống trái dưa leo nổi bập bềnh bên triền con
sông cái lớn. Dọc con sông đầy ắp phù sa này có biết bao nhiêu là cồn, cù
lao chìm, cù lao nổi... không sao kể xiết. Có cồn nổi giữa sông, có cồn
nổi gần bờ, hình như con nước cũng như người nông dân Nam bộ đầy chất nghệ
sĩ, phóng khoáng, vui đâu ghé đó, không tính toán so đo; bất cứ nơi nào,
hễ mõi tay hay thích chí, rút cây sào cặm xuống thì nơi đó là bến. Cồn Dưa
Leo nổi cách bờ chỉ khoảng hơn chục thước, vừa đủ tạo thêm một con sông
nhỏ trước nhà. Nước thì cũng là nước của sông cái lớn, nhưng cách chảy và
sóng của sông nhỏ thì hình như cũng hiền hòa và nhẹ nhàng hơn. Mỹ Xương là
vùng đất khá tốt, thích hợp trồng cây ăn trái, nhưng chiến tranh giặc giã
vào những năm này khá căng thẳng nên người dân không có điều kiện chăm sóc
vườn tược hoa màu, đất đai làng xóm trở nên xơ xác, đa phần là người nghèo
lam lũ, thất học. Con nít trong xóm lóc nhóc như bầu bí, đứa nào đứa nấy
da tóc cháy nắng, ốm nhách ốm nhom. Trò chơi trẻ con bốn mùa chỉ quanh
quẩn mấy trò bắn cu li bằng đạn đất, vỗ tu hú, táng u, rồi đánh trận giả
bằng súng bẹ chuối, cây lùn. Các trò chơi đa số là của lũ nhóc con trai,
các bé gái ở quê chưa kịp biết chơi đùa đã phải làm công việc nhà giúp mẹ,
có được chơi chăng nữa cũng chỉ vài trò, mà thường thấy nhất là trò
chơi nhà chòi, thì quanh quẩn cũng là nấu nướng, tắm em, quét nhà rửa
chén...! Tuổi thơ chưa kịp qua, các em đã phải làm người lớn thu nhỏ.
Người lớn thì vừa mần ăn vừa lo chạy giặc, sống được qua ngày là may rồi,
ít ai biết mơ ước điều gì cao xa. Ước nguyện ương lai hầu như được đo và
tính bằng từng mùa vụ. Dân miệt vườn còn đỡ, dân miệt ruộng càng chơn chất
thiệt thà hơn, hầu như cả đời họ chẳng cần nghĩ đến điều gì xa hơn mảnh
đất đồng làng mà họ có, chẳng cần nhìn thấy điều gì cao hơn cái nóc nhà họ
ở (nếu như cái nóc nhà ấy không bị dột). Ða số người dân quê là vậy. Nếu
tâm hồn được ví là hoa, thì tâm hồn những người dân quê giản đơn, bình dị
như là hoa lúa.
Bé
lớn lên trong một căn nhà nhỏ, vách lá cột tràm, quay mặt ra con sông được
tạo nên bởi cái cồn Dưa Leo bề ngang chưa đầy cây số ấy. Ðầu sông người ta
gọi là xép cù lao Quạ, cuối sông kêu bằng vàm Cả Sứt, những cái tên nghe
thiệt là quen. Mỗi ngày, ba chú đi qua cồn làm rẫy, chú ở nhà quanh quẩn
với mấy cục đạn cu li cứ vo mãi không tròn. Trong xóm chỉ có thằng Nghé
là có biệt tài vo đạn cu li khéo nhứt. Những viên đạn được làm bằng đất
đào tuốt ngoài vườn, cạnh mấy cái mương chứa nước. Ðất gần sông là đất cồn
bồi, phù sa pha cát nên làm đạn không có độ dẽo bền như đất sét. Thằng
Nghé lại rất khỏe tay, nó vo vừa tròn vừa chặt, lúc phơi nắng lại siêng
năng trở đều cẩn thận nên viên đạn rất tròn, bắn lăn chính xác và va chạm
mạnh mấy cũng không bị bể. Bé là đứa được thằng Nghé vò giùm cho nhiều đạn
nhứt vì chú rất hiền lành, chơi với bạn không ăn gian, lại hay nhường nhịn
và bắn bi cũng... rất dở, bởi chú không hay bắn mạnh tay, do vậy, có vo
giùm chú bao nhiêu đạn thì rồi cũng về lại túi thằng Nghé hết thôi.
Buổi chiều, Bé thường chơi quanh quẩn gần nhà, để ba đi cồn về, kêu một
tiếng là chú nhảy tót xuống xuồng bơi qua sông rước ba. Những ngày hái dưa
leo, má cùng qua cồn phụ ba thu hoạch, những lúc ấy Bé cũng được theo.
Ðứng trên cồn, nhìn ra con sông cái lớn rộng mênh mông, bên kia xa tít tắp
là phố chợ Sa Ðéc, ba nói bên đó có đường trải nhựa, buổi trưa nắng gắt
nếu không có dép mà đi là nóng phỏng chân luôn. Ðứng trên cồn, thỉnh
thoảng nhìn thấy mấy chiếc tàu lớn chạy qua xa xa ngoài sông, Bé thích
lắm. Tàu chạy qua lâu rồi mà sóng còn chưa vô tới bờ. Bé lượm mấy cục đất,
chạy lấy đà, quay thẳng tay liệng hết ga ra sông. Chẳng bứt xa khỏi bờ
được mấy, cục đất rơi không nghe tiếng chủm lớn như bên sông nhỏ trước
nhà, bởi tiếng gió và tiếng sóng óc ách vổ bờ át mất. Vòng sóng của cục
đất chìm xuống chưa kịp lan tỏa đã bị những con sóng khác xô trộn.
-
Ê, Bé...Bé...
Cả
đám con nít trong xóm cũng được ba má cho qua cồn tiếp bẻ dưa leo, việc
chưa xong chúng đã bỏ chạy đi chơi. Thằng Dứt có chiếc tàu làm bằng miếng
ván mỏng cắt hình tam giác dài, sau đuôi cặp hai chiếc đũa, quấn ngang là
một sợi dây cao su. Một cái chong chóng cắt bằng thiếc, đục lỗ xỏ qua sợi
dây cao su. Xoay thật nhiều vòng cái chong chóng và sợi dây rồi thả xuống
nước, sợi dây cao su đàn hồi quay trở ngược lại, nhả cái chong chóng thành
chân vịt đạp nước, đẩy miếng ván về phía trước. Trò này chơi ở trong mương
trong rạch thì tàu chạy rất ngon, có khi được ba bốn sãi tay mới ngừng.
Ra sông lớn thì thua, sóng dập mấy cái là chiếc tàu quay như chú vịt con
bị lươn rút! Cả đám thất vọng quay qua bày trò kết bè chuối. Bè được làm
rất công phu, cũng có mui như những chiếc tàu Pháp hay chạy trên sông, có
cả người lái nặn bằng đất, đầu đội cái nón khoét bằng chóp trái dưa leo
phần có cái cuống cong cong; chân không giày dép nhưng tướng tá lại giống
như thầy giáo trên trường. Trên bè có cả mấy con mèo chó, trâu bò... và lu
đựng gạo nữa. Kết xong chiếc bè thả xuống, nước chảy mạnh làm bè trôi rất
nhanh. Cả đám tiếc, sợ bè trôi mất, lại lấy sào vớt vô. Chiếc bè chuối cứ
cặp theo cồn mà trôi líu quíu cách bờ không đầy hai thước. Thấy vậy Bé
nói:
-
Thôi, mình đừng tiếc nữa, cứ đẩy cho nó trôi tuốt ra ngoài xa kia đi. Cho
nó đi qua bên chợ Sa Ðéc luôn đi.
Cả
đám chưa đứa nào biết chợ Sa Ðéc, nghĩ đến việc chiếc bè của mình trôi
được qua tới chợ Sa Ðéc thì khoái quá, bèn hè nhau lượm đất thi đua liệng
xua chiếc bè ra xa. Chiếc bè chuối trôi xa dần xa dần cho đến khi chỉ còn
là một chấm nhỏ xíu nhấp nhô trên sóng. Bé đứng nhìn theo mút mắt. Với trí
óc của một cậu bé mười tuổi, chú không biết trong mình đã manh nha có sẵn
ý thức mong muốn sự giải thoát, chú chỉ thấy thinh thích khi nhìn chiếc bè
trôi tự do giữa muôn ngàn con sóng lúc to lúc nhỏ... Những con sóng không
bao giờ ngớt dao động, lao chao...
Trường làng
^
Cái cặp bằng đệm, trong đó là một quyển Quốc văn giáo khoa
thư lớp ba, hai cuốn tập, cây viết mực ngòi lá tre, cây thước gỗ vuông
nhỏ dài ba tấc. Một bình mực tím, miệng bình có phễu, phòng khi bị lật,
mực khỏi đổ hết ra ngoài. Ðó là tất cả “lều chõng” của Bé để đi đến
trường. Cuốn sách cũ kỹ, quăn góc là của nhà trường cho mượn, hết năm học
phải trả lại cho lớp sau học tiếp, còn hai cuốn tập thì rất thẳng thớm,
sạch sẽ, luôn còn đủ 100 trang (tập ngày xưa in không tính luôn cả bìa như
ngày nay) không bị xé mất trang nào để biến thành chim én, tàu bay... như
tập của đa số các cậu bé tiểu học. Bé luôn được cô khen vì rất ngoan và
học giỏi. Bảng danh dự treo ở góc lớp bao giờ cũng có tên chú. Chú làm lớp
phó nhưng lại được phân công hô khẩu hiệu cho cả lớp trước khi vào học và
khi ra về. Còn nhớ mấy bữa đầu tiên vô lớp, thằng Tô là lớp trưởng, nó to
con, người ô dề kệch cợm, cô giáo vừa bước vô, nó đứng dậy hét to:
-
Học sinh - đứng!
Cả
lớp gào theo:
-
Nghiêm!
Cô
giáo người nhỏ nhắn, trắng bóc, có vẽ ốm yếu. Cô bước lên bục, ngồi xuống
ghế sau bàn giáo viên, vẻ mặt hơi cau có, phải đến một phút sau cô mới ra
hiệu cho lớp ngồi xuống. Thằng Tô lại hô tiếp, giọng của nó vẫn không giảm
khí thế hừng hực:
-
Học sinh – ngồi!
Cả
lớp nhìn vẻ mặt cô giáo, hơi xìu giọng:
-
Xuống!
Cô
giáo nhìn quanh một lượt, cất giọng hỏi:
-
Ai là lớp phó?
Cả
lớp nhao nhao:
-
Dạ, thằng Bé, cô.
Cô
giáo nghiêm mặt:
-
Không nói thằng. Kêu bằng trò Bé, nhớ chưa? Lớp này năm
ngoái ai dạy mà ăn nói kỳ khôi vậy? Trò Bé đâu?
Bé
đứng lên khoanh tay lễ phép:
-
Dạ thưa cô, con.
Cô
nhìn chú bé ốm ngẳng, gương mặt sáng sủa, hiền lành, vẻ hơi hài lòng,
nhưng cô bật hỏi:
-
Con làm lớp phó sao không ngồi đầu bàn nhứt, lại ngồi bàn nhì?
-
Dạ thưa cô, trò Út bị xếp ngồi sau lưng con, trò ấy lùn, không thấy bảng
nên con nhường...
Cô
giáo bảo:
-
Con đứng dậy hô khẩu hiệu cho lớp, cô nghe thử.
Bé
đứng lên, nhìn xuống lớp một cái rồi lấy giọng, hô chững chạc: “Học sinh -
đứng!” Giọng chú rõ ràng và nghe “êm” hơn giọng thằng Tô. Cô giáo gật đầu:
-
Từ nay em thay lớp trưởng hô khẩu hiệu, em xách cặp lên bàn nhứt ngồi đúng
chỗ.
Cả
làng có duy nhất một trường tiểu học nhưng cũng chỉ được hơn chục lớp với
một dãy phòng học lợp ngói. Trường có cổng và hai cánh cửa hầu như không
được mở đóng bao giờ. Bốn bức tường bao quanh khu vực trường cũng như có
như không, bởi đã bị xô ngã, lổ chổ những vết đạn bắn, lâu ngày không được
tu bổ sửa sang. Mấy chú học lớp nhứt có thể đi vào trường bằng cổng chính
hoặc cắc cớ thì nhảy qua mấy đoạn tường ngã đổ mà vào. Ðầu dãy là phòng
hiệu trưởng kiêm luôn phòng giáo viên. Cái trống được treo ở đó. Cái trống
tróc sơn loang lổ cũ kỹ nhưng âm thanh của nó thì luôn luôn mới tùy theo
tâm trạng của người đánh và người nghe. Trường có bác bảo vệ già, quanh
năm không bảo vệ được gì mà cũng chẳng có việc gì để bảo vệ ngoài việc bác
tự “bảo vệ” lấy bác trước đám học trò ranh mãnh, lí lắc. Nhiệm vụ của bác
là đánh trống, nhưng thường được mấy anh lớp nhứt tinh nghịch, xung phong
tự nguyện giúp bác, do vậy tiếng trống rất phong phú, khi thì tùng tùng
hăng hái như tất cả năng lượng của người đánh dồn vào mặt trống, khi thì
thùm thụp ngắt quãng như người cầm dùi đang bị thọt lét! Chỉ có lúc bác
đánh thì tiếng trống mới nghe đều đều quen thuộc. Sân trường trồng mấy cây
bả đậu lâu năm, tán rộng rất mát, có vài cái tổ chim cứ bị chọi rớt xuống
hoài. Cây bả đậu thân có gai nhọn nên không leo được, học trò cứ chọi tổ
chim, gạch đất rớt xuống nóc trường, nằm rải rác lổn nhổn đầy trên mái
ngói. Cứ mỗi lần nghe tiếng xủng xoảng trên mái, thầy hiệu trưởng bước ra,
cả bọn ùa chạy trốn, cũng có khi thoát, cũng có khi không, nếu trong đám
có “gian tế” mách lại với thầy. Thầy bắt quì cột cờ phơi nắng suốt giờ ra
chơi. Phơi nắng nhằm nhò gì nên chẳng đứa nào sợ, sợ nhứt là bị khẻ năm
đầu ngón tay thôi, khẻ năm đầu ngón tay đau dai dẵng, hậu quả kéo dài có
khi đến ngày hôm sau, không móc đất nắn đạn cu li hay làm tu hú được. Có
lần chọi rớt được một tổ chim se sẻ, cả bọn xúm lại giành. Tội nghiệp mấy
chú sẻ non chưa đủ lông cánh, xơ xác ngất ngư vì bị chuyền hết tay này qua
tay khác, ngắc ngoải sắp chết. Bé xin mãi cuối cùng cũng được chia cho một
con. Trống vào lớp, chú đành bỏ con sẻ non vào hộc bàn. Tan học, con sẻ
non chết ngắt. Chú cầm con sẻ trên tay vừa đi vừa khóc. Thằng Tô đi ngang
thấy vậy, chụp phắt con sẻ, quăng cái nhủm xuống sông, mắng:
-
Khóc khỉ gì? Ðồ mít ướt! Mơi tao kiếm con khác cho.
Thằng Tô coi thô bạo vậy chớ cũng được lắm, nó rất thương Bé. Hôm sau, nó
đem vô lớp cái hộp lon, gí vào tai chú:
-
Tao đố mày cái gì?
Tiếng ò...i...u...u... phát ra ri rỉ từ bên trong, Bé biết ngay:
-
Con ong bầu!
Thằng Tô cười:
-
Ừa, cho mày đó. Con ong bự tổ chảng luôn, để xa xa lỗ tai, kẻo nó đờn điếc
con ráy!
-
Dóc tổ! – cả nhóm cười xì. Thằng Tô rượt đá đít từng đứa, mỗi đứa một cái.
Bé đem cái lon để xuống cuối lớp, chú sợ trong giờ học mà nó nổi máu nghệ
sĩ, đờn um sùm thì cô giáo nghe, phạt chết. Sau giờ học, chú đem con ong
về nhà, khoe với má. Má nói: Coi chừng nó chun ra được, đánh chết. Ong bầu
mà chích là thúi thịt luôn. Má biểu đem thả đi, nhưng Bé tiếc, chưa chịu
thả. Chú vô bếp, bới một tô cơm ra võng ngồi ăn, vừa ăn vừa lắc lắc nghe
con ong ò í. Chợt chú nghĩ: nhốt trong đây hoài, con ong đói bụng, biết ăn
gì? Nó đói chết sao? Vét vội tô cơm, chú chạy qua nhà thằng Tô, hỏi:
-
Lấy gì cho con ong ăn?
Thằng Tô đang ngồi vò cả đống đạn cu li, ngước lên nói:
-
Ăn khỉ gì! Nó sống dai lắm, cả tuần chưa chết!
-
Nhốt nó tới chết thì thôi hả?
-
Hông lẽ mần mắm? Chết thì bỏ. Thằng này, khờ thấy mẹ!
Bé
xách hộp lon về, đi thẳng ra sau giàn mướp, mở nắp, thả con ong. Hí hửng
chạy vô khoe với má:
-
Má. Con thả nó rồi.
Má
đang loay hoay trong bếp hỏi:
-
Thả cái gì?
-
Thì con ong hồi nảy, má biểu con thả.
-
Ừa, giỏi, má thương, mai mốt đừng có chơi mấy thứ đó, ớn lắm nghen.
Bé
dạ thiệt ngoan, chú nhìn ra giàn mướp, chẳng thấy con ong đâu, chỉ có mấy
cái đọt mướp với dây leo lắn ngoắn huơ huơ trong gió buổi trưa mát rượi
thổi từ phía sông cái lớn qua cồn, thoang thoảng mùi rạ rơm phủ úm gốc dưa
leo. Bé lấy quyển sách trong cặp ra, phủi chân trèo lên bộ vạt tre, nằm
học bài. Hình như có tiếng con ong cứ i u bên tai, đưa chú vào giấc ngủ.
Chùa
quê
^
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái.
Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó
trong vườn. Buổi sáng, tiếng chuông mõ công phu bình dị hòa cùng tiếng gà
gáy sáng. Chùa Hải Huệ chỉ như một ngôi nhà lớn trong xóm, không mấy cách
biệt, do vậy bà con trong ấp Mỹ Hưng Hòa hằng ngày lui tới với chùa rất tự
nhiên, thân thiện. Ni sư trụ trì rất hiền lành, chất phác, nhu thuận.
Không như ở thành thị, cứ thấy chùa to Phật lớn, quang cảnh đẹp là mọi
người kéo nhau tới lễ bái, ít ai quan tâm tới chư tăng ở chùa ấy ra sao. Ở
quê, mọi sinh hoạt trong chùa cả xóm đều biết. Chùa nào thầy trụ trì đức
độ hiền lành là mọi người theo. Chùa ở quê rất nghèo, không có tiền nhưng
đồ ăn thức uống thì dư giả. Mùa nào thức đó: mùa xoài thì chánh điện tràn
ngập xoài, mùa nhãn thì vừa đến cổng chùa đã như bước vào vườn nhãn. Nhiều
nhất quanh năm là chuối. Những ngày rảnh, Bé thường cùng mẹ lên chùa phụ
quí cô ép chuối phơi khô. Chuối khô chất đầy trên mấy cái gióng tre treo
trong nhà bếp, lâu lâu có lái buôn, chùa phải gởi đi bán bớt để lấy tiền
mua nhang, mua dầu lửa thắp đèn. Người nào lên chùa cũng chỉ dâng cúng cây
trái nhà mình. Cô trụ trì cứ nhìn những thứ trên tay họ mà hỏi thăm về
vườn tược, thu hoạch, đời sống của họ. Chỉ đơn giản thế thôi nhưng tình
nghĩa vô cùng ấm áp. Nhà có việc gì họ cũng kể cô nghe, từ việc mẹ chồng
nàng dâu cho đến việc xích mích hàng xóm. Cô sống ở chùa từ nhỏ nên cũng
chẳng hiểu biết việc đời nhiều, nhưng cứ phải sắm vai nhà tư vấn tâm lý
giáo dục để khuyên nhủ mọi người. Những lời khuyên cứ khuyên đi rồi khuyên
lại, quanh quẩn bao nhiêu đó nhưng cũng tạm an lòng đôi chút. Lạ vậy, cũng
những lời nói ấy, nhưng nếu người này nói thì ta cho là sáo ngữ, hoặc
“biết rồi khổ lắm nói mãi...!” nhưng nếu người khác nói thì ta lại thấy
chí lý. Cái đức, cái duyên là vậy.
Chùa quê những năm chiến tranh này không tổ chức lễ bái rình rang, nhưng
người quê đi chùa chăm chỉ. Họ cầu an cầu siêu rất thiết tha. Trước tượng
Quan Âm lúc nào cũng khói hương thành khẩn. Người quê tin vào Phật, Trời,
Thần, Thánh một cách hồn nhiên, họ đâu cần biết Phật nói điều gì, trời như
thế nào, thần thánh ra sao, chỉ nghĩ đơn giản rằng “đội ngũ cõi trên” ấy
là điểm tựa cuối cùng của họ. Qui y Phật, qui y Tăng là chính, còn đối với
giáo pháp cao sâu họ chưa đủ điều kiện tiếp nhận. Tuy vậy, với Phật, với
Tăng họ đem hết lòng tin kính, có lẽ nhờ phước báu ấy mà đa số những bậc
cao tăng thường được sinh ra ở các vùng quê. Và chùa quê là cái nôi giản
đơn, mộc mạc đã nuôi lớn biết bao ý chí thanh cao thuần khiết.
Mẹ
của Bé thường lên chùa làm công quả, dù không biết chữ, nhưng giờ tụng
kinh, bà rất thành khẩn lên chánh điện quì, đợi tiếng chuông là cúi đầu
lạy Phật. Chùa không có tổ chức thuyết pháp, lên chùa chỉ nghe tiếng tụng
kinh, mà kinh thì đa số bằng tiếng Phạn, tiếng Hán khó hiểu, vậy mà theo
tiếng mõ tiếng chuông, tâm hồn những người dân quê cũng men ven đường
Chánh Pháp.
Ngày rằm, mùng một, cả nhà Bé đều đi chùa, phụ cô Sáu nấu nướng, dọn dẹp.
Ni sư trụ trì rất mến Bé vì không như những đứa trẻ khác, bao giờ lên chùa
chú cũng rất trang nghiêm, không leo trèo, phá phách, nghịch ngợm hay cười
đùa lớn tiếng. Trái lại, chú rất siêng năng, thành kính lễ Phật, tụng
kinh chăm chỉ. Nhìn dáng chú đứng chắp tay thành kính trước tượng Phật, cô
thầm đoán trong đầu: thế nào cậu bé này cũng xuất gia. Cái duyên với Phật
lộ rõ: mỗi lần đến chùa là chú cứ loanh quanh dọn dẹp lau chùi, phủi bụi
xung quanh bệ Phật. Chú làm rất say sưa tỉ mỉ. Một chút bụi dính trong kẻ
móng chân của tượng, chú cũng chồm người nhón chân lên lau thật kỹ. Có
lần, cô bắt gặp chú đứng nhìn ngắm rất say sưa tượng đức Di Ðà, cô hỏi:
-
Con nhìn gì kỹ vậy?
Chú
cười bẽn lẽn:
-
Sao con thấy thương ông Phật quá. Con muốn nữa mình cũng thành ông Phật
giống ổng.
Cô
bật cười:
-
Vậy con xin má cho đi tu đi. Tu rồi sẽ thành ông Phật như vậy.
Chú
phụng phịu:
-
Bữa hổm con có hỏi rồi, nhưng má hổng cho. Má nói con còn nhỏ, chùa hổng
có chứa.
-
Chứa chớ – Chợt thấy mình lỡ lời, cô dịu giọng – ờ, con cũng còn nhỏ, thôi
đợi lớn lên chút nữa hen.
Cô
xoa đầu chú, trong ánh mắt không giấu được một nét vui, kỳ vọng và tin
tưởng.
Xuất
gia
^
Bé có một người cô ruột, lớn hơn chú chừng mười tuổi. Cô là con
gái được cưng nhất trong gia đình, nhưng quyết chí đi tu và xuất gia năm
mười sáu tuổi. Có lần cô về thăm nhà, Bé níu áo cô kéo ra góc vườn hỏi
nhỏ:
-
Cô ơi, sao cô đi tu?
Cô
cười hiền lành, nhỏ nhẹ kể cho Bé nghe:
-
Hồi cô còn nhỏ, nhà bà nội hay được quí thầy cô ghé thăm. Mấy thầy cô điềm
đạm, nhân từ, dễ thương lắm! Cô nhìn thấy người tu sao mà thanh thoát quá.
Tự dưng cô thấy ham đi tu, được mặc áo giống như quí cô...
Bé
ngắt lời:
-
Còn cạo đầu, bộ cô hổng thấy mắc cỡ sao?
Cô
cười ngất:
-
Có gì đâu mắc cỡ, đội cái khăn lên cũng đẹp vậy. Ừa, mà sao cô hổng thấy
cạo đầu là xấu đâu nghen, ai nói xấu chớ cô đâu có thấy xấu! Mấy người bạn
cũ của cô cứ nghĩ chắc là cô thất tình hay chán đời, bất bình gì đó nên
mới đi tu...
Rồi
dường như có điều gì bức xúc, cô nói luôn một thôi một hồi: Người đời như
con cá lìm kìm trong mương trong rạch, nước chảy liu riu, sóng xô nhỏ xíu,
làm sao biết được con sông cái lớn rộng cỡ nào, sóng dậy ra sao? Cứ tưởng
tất thảy nước trên đời chỉ có bi nhiêu, sóng chỉ lô nhô chừng ấy, lấy dạ
tiểu nhân đo lòng quân tử, làm như chùa là nơi để trốn chớ không biết đó
là chốn quay về.... - Cô chợt bật cười - ý quên, cô hơi bực mình nên nói
tùm lum, nói vậy làm sao con hiểu nổi! Thôi, mai mốt nếu đủ phước duyên,
con đi tu thì tới lúc đó con sẽ hiểu liền.
Bé
không hiểu thiệt, chú chỉ quan tâm đến điều khác, nên hỏi tiếp:
-
Cô đi tu, nội hổng có la cô hả?
Cô
lắc đầu cười rất thảnh thơi:
-
Nội chịu cho cô đi tu lắm. Nội nói có chồng có con khổ lắm, đi tu là nhẹ
nhàng.
Bé
xịu mặt:
-
Vậy mà ba với má con hổng cho con đi tu.
-
Con có xin chưa?
-
Dạ có. Thầy Thiện Thọ về xin con hai lần rồi mà ba má hổng cho. Ba nói mới
có con là con trai đầu lòng, là anh hai lớn nhất trong nhà. Má thì nói con
còn nhỏ, đi xa nhà tội nghiệp. Mấy anh An, Hiền, Phước, Ðức... thầy cũng
dắt đi hồi bằng con bây giờ chớ nhiêu. Mỗi lần thầy dắt mấy ảnh về thăm
nhà, con càng nôn muốn đi theo. Cô biết hông, con có hỏi nhỏ mấy ảnh: “đi
tu ở trển có vui không?” Mấy ảnh nói là vui lắm. Thầy dạy chữ nho vẽ ngộ
lắm, dễ ẹc hà, không phải như tiếng Pháp mà mấy anh lớp nhứt trường con
học đâu.
Cô
im lặng, sau đó không biết có nói gì với ba má không, nhưng đến lần thứ
ba, khi thầy Thiện Thọ về, thầy lại qua nhà xin ba thì ba đồng ý.
Thầy Thiện Thọ là trụ trì chùa Phước Lâm ở Tân Uyên – Biên Hòa. Thầy có
bà con xa với ba. Thỉnh thoảng thầy về thăm người anh ruột ở nhà kế bên.
Trong xóm, thầy đã dẫn đi tu hết sáu đứa cũng cỡ bằng tuổi Bé.
Vậy
là đi. Bữa đó hình như má khóc nhiều lắm. Ðêm, má ôm Bé ngủ, dặn dò đủ
thứ, chú ậm ừ cho qua chớ nào có nhớ gì, lòng mãi nghĩ nôn nóng về chuyến
đi. Ba cũng vậy, hình như suốt đêm ông không ngủ, đi tới đi lui đốt nhang
trên bàn Phật hoài. Thầy không cho tiễn, má đứng ở cửa khóc, còn ba đưa
theo được có đoạn đường, tới chùa Hải Huệ là thầy biểu ba về. Lên tới xe
rồi, ngồi lúc lâu bên thầy tự nhiên Bé bỗng thấy nhớ nhớ... Tự dưng muốn
khóc gì đâu! Hình như thầy thấy được tâm trạng chú nên kéo chú ngồi lại
gần hơn rồi dỗ:
-
Con đừng sợ. Ði tu với thầy, thầy thương lắm. Mai mốt nhớ nhà thì thầy đưa
về thăm, có gì đâu!
Chú
ngoan ngoãn ngồi nép vô thầy. Xe chạy, cảnh vật mới mẻ hai bên đường thu
hút chú, chú mãi lo nhìn ngắm và tạm quên...
Chùa Phước Lâm là một ngôi chùa nhỏ do Hội Phật học Nam Việt xây cất.
Chùa nằm trong xóm Uyên Hưng, thuộc chiến khu Ð, Biên Hòa. Ngôi chùa nhỏ
nằm trong một khu dân cư thưa thớt. Quanh chùa trồng nhiều bưởi, chuối.
Ðất rộng nhưng thiếu người chăm sóc trồng trọt nên quang cảnh khá hoang
sơ. Lần đầu tiên bước chân vào một ngôi chùa mà mình rồi sẽ được ở lại đây
luôn, Bé vô cùng bỡ ngỡ. Thầy dẫn chú vô chánh điện lạy Phật, lạy Tổ rồi
gọi hết mấy chú trong chùa ra giới thiệu:
-
Ðây là các huynh đệ của con. Từ nay thầy đặt cho con pháp húy là Nhật Bé,
pháp hiệu Chơn Thanh...
Hầu
hết là mấy anh em đã quen nhau. Sư huynh Chơn An, Chơn Hiền, mấy chú đồng
trang lứa: Chơn Hòa, Chơn Hợp, Chơn Phước, Chơn Ðức và hai chú nhỏ hơn
Chơn Ðạt, Chơn Tâm đều là bà con họ hàng hoặc người trong xóm nên Bé cũng
bớt lo lắng lạ lẫm. Sư huynh Chơn An dẫn Bé đi tắm rửa và các chú xúm lại
chia quần áo cho Bé mặc tạm thời trước khi may áo mới. Lần đầu tiên khoác
lên mình cái áo đà của nhà chùa, Bé cứ thấy ngồ ngộ làm sao. Cảm giác nô
nức gần giống như lúc mặc áo mới ngày tết, nhưng hình như nó còn thiêng
liêng, quan trọng và đặc biệt hơn nhiều.
Buổi tối, lên chánh điện tụng kinh. Vẫn những bài kinh chú đã thuộc, đã
tụng cùng ba ở nhà hoặc những ngày rằm, mùng một lên chùa Hải Huệ tụng
cùng quí cô, nhưng sao buổi tụng kinh hôm nay Bé thấy long trọng quá. Chắc
vì chú tự cảm thấy mình đã được đứng vào hàng ngũ người tu thiệt rồi.
Ðêm
ấy, đêm đầu tiên xa nhà, nằm giữa các huynh đệ trên bộ ván, nghe tiếng dế
kêu, tiếng lào xào của gió bên ngoài... Bé nhớ nhà vô kể. Hình như tiếng
gió ở đây cũng khác với gió ở nhà, mọi âm thanh đều khác. Bé bắt đầu thấy
nhớ ba, nhớ má, nhớ em... Không biết giờ này ở nhà má có thức nhớ Bé
không? Ba tụng kinh một mình chắc là buồn lắm? Bé thấy nước mắt chảy ra
nóng hỗi. Chú nằm quay mặt vô vách, thút thít khóc. Lát sau, lỗ mũi nghẹt
cứng một bên, chú trở mình quay ra thì thấy thầy đang đi rón rén về phía
cái đèn dầu trên bàn, vặn to lên rồi bước lại ghé sát mặt vào mùng của
chú. Chắc thầy xem coi chú đã ngủ chưa. Chú nằm im nhắm hi hí mắt, cố thở
đều đặn. Thầy đứng nhìn hồi lâu rồi đi ra, không quên vặn nhỏ ngọn đèn như
cũ. Chú cũng thiếp ngủ đi lúc nào không biết.
Thầy chọn ngày tổ chức lễ xuất gia cho các chú. Hôm ấy có mấy thầy lớn và
một số Phật tử của chùa. Gia đình các chú đều ở xa, thời buổi chiến tranh
đi lại khó khăn nên không ba má đứa nào đến tham dự được. Chùa được bày
trí nghiêm trang. Thầy dẫn các chú đến quì trước bàn Tổ, nguyệân hương, lễ
lạy rồi ra chánh điện tụng kinh, làm lễ xuất gia. Trước bàn Tổ thầy hỏi
từng chú:
-
Vì sao con xuất gia?
Dù
đã suy nghĩ để trả lời từ trước, nhưng chú nào cũng lúng túng bạch thầy
với giọng run run vì không khí trang nghiêm, long trọng. Sau vài lời huấn
thị, thầy bắt đầu cạo tóc cho từng đứa:
Hủy hình
thủ chí tiết
Cắt ái từ
sở thân
Xuất gia
hoằng thánh đạo
Thệ độ
nhất thiết thân
Và tất cả các
huynh đệ đều tụng đọc:
Thế trừ
tu phát
Ðương
nguyện chúng sanh
Viễn ly
phiền não
Cứu cánh
tích diệt
Phủi xong mớ tóc, áo nâu đầu trọc, nhìn chú nào cũng có nét giống nhau.
Sau lễ xuất gia, dù chỉ là những đứa trẻ con nhưng hình như mỗi chú cũng
có một tí “tâm trạng”. Chú nào tính tình vô tư, không bận tâm thì chẳng
thấy gì khác mấy, chỉ có cảm giác cái đầu không có tóc hơi là lạ, cứ thấy
như người nhẹ hẫng, trống trải, thiêu thiếu một cái gì đó. Chú nào biết
nghĩ, đa cảm hơn một chút thì thấy người mình hình như gọn gàng hơn, thoải
mái hơn; vừa nghe như có chút tự do lại vừa nghe như có điều chi ràng
buộc. Tất cả các cảm giác ấy rồi cũng qua nhanh. Trẻ con dễ nhớ nhưng cũng
chóng quên. Ở tuổi này các chú chưa biết lắng nghe cảm xúc của mình (càng
không biết phân tích, săm soi) như người lớn. Không hiểu và cũng đâu cần
thiết hiểu làm gì, các chú cứ hồn nhiên sáng nhớ chiều quên, thơ ngây mà
tự tại.
Chú điệu chùa Phước Lâm ^
Bắt đầu đi vào nề nếp sinh hoạt của chùa. Buổi sớm, hết mấy
thầy trò thức dậy công phu rồi tập thể dục. Hôm nào cũng vậy, dẫu không
cần áo lễ tươm tất, cứ quần áo tập thể dục như vậy, cả chùa đều phải lên
chánh điện chắp tay đọc lời phát nguyện rất nghiêm trang: Nguyện trọn
đời hiến thân cho Ðạo để phục vụ Chánh Pháp, phục vụ chúng sanh. Chỗ nào
Chánh Pháp cần, con đến; chỗ nào chúng sanh cần, con đi. Chẳng kể gian
lao, chẳng nề khó nhọc.... Sau đó các chú đi bộ đến trường làng để
học. Buổi chiều ở chùa thầy dạy. Sợ nhất là môn học Huấn Mông, mỗi
ngày học từ ba đến bảy chữ tùy theo đứa học trước học sau. Mỗi tuần thầy
đều bắt viết lại để kiểm tra, cứ sai một chữ là bị phạt một roi. Cây roi
mà sư huynh Chơn An đặt tên là Ðả Thần Tiên hầu như không tuần nào
là không “viếng thăm” mấy cái mông các chú.
Mỗi
khi thầy đi vắng là cả đám điệu được nghỉ buổi học Hán văn, tha hồ vui
chơi tự do, thoải mái. Hôm nay trời mưa, không ra ngoài chạy giỡn được,
không biết làm gì, mấy chú tụ tập lại chơi trò vật tay, chơi ăn gian rồi
cải nhau ỏm tỏi. Sư huynh Chơn An đang nằm học kinh, thấy vậy bèn gọi:
-
Ðứa nào nghe kể chuyện Tề Thiên hông?
- N..g..h..e..! – Cả đám reo lên mừng rỡ, chạy ào lại, xô vào
người sư huynh. Chơn An bật dậy, dàn xếp đám nhốn nháo:
-
Ngồi im đàng hoàng, huynh kể. Bữa hổm tới đâu rồi?
-
Tới chỗ Tề Thiên khoe cái áo cà sa với Kim Trì trưởng lão...
-
Ừa, Lão viện chủ thấy áo quí quá bèn sanh tâm chiếm đoạt. Lão mượn áo cất
đi rồi sai đệ tử trong chùa nửa đêm chất củi đốt phòng thầy trò Ðường
Tăng. Tề Thiên thấy những người này dã tâm ác quá nên tương kế tựu kế, bày
trò gậy ông đập lưng ông, bèn đằng vân lên trời mượn cái tháp chắn lửa,
đem về che một mình thầy Tam Tạng lại, còn thì để cho đám người kia đốt
phòng chơi, cháy một phòng chưa đã, Tề Thiên liếng khỉ thổi thêm gió phù
phù... cho lửa cháy lan hết cả chùa. Lửa cháy phừng phừng không dập tắt
nổi, lão viện chủ và đám đệ tử chạy quắn đít!
-
Ha ... ha... Ðáng đời! Cháy cho chết mấy lão tham lam, ăn cắp...ha..
ha...
Cả
đám nhảy lên cồng cồng, reo hò vật nhau ngã lăn lóc. Bỗng Chơn Phước nói
lớn:
-
Hay mình chơi trò đóng giả Tề Thiên đi.
Cả
đám nhao nhao:
-
Phải rồi, phải rồi, chơi đi...
Vậy
là phân công: Chơn Ðức làm Tề Thiên, Chơn Hòa làm Trư Bát Giới, Chơn Hậu
làm Sa Tăng, và Chơn Thanh làm Tam Tạng, còn Chơn Nghĩa làm con ngựa. Con
ngựa lấy bốn cái miễng vùa, xỏ lỗ cột vô tay chân làm móng. Ngựa Chơn
Nghĩa bò bằng miễng vùa nghe lộp cộp, cõng “Ðường Tăng” Chơn Thanh trên
lưng. Ngựa ngẫu hứng hất thầy văng ngã lăn cù, cả bọn cười ầm ĩ rồi la
hét rân trời! “Ðạo diễn” Chơn An mệt hết hơi vì đám diễn viên phá bĩnh cứ
diễn những trò không có trong “kịch bản”.
Sư
huynh Chơn An đi học, những ngày nghỉ huynh thường về chùa thăm thầy.
Huynh có rất nhiều chuyện để kể. Có lần huynh kể chuyện Thạch Sùng. Huynh
kể hay đến nỗi cả đám đều thấy ghét Thạch Sùng, ghét đến mức nảy ra “sáng
kiến”: diệt thằn lằn! Vậy là cả bọn lấy dây thun đi tìm thằn lằn mà bắn.
Tội nghiệp mấy chú thằn lằn trong chùa hôm ấy gặp phải nạn kiếp, lớn nhỏ
cả bầy - dù thằn lằn xám ở nhà bếp hay thằn lằn vàng trên chánh điện -
đều bị săn lùng ráo riết. Hầu hết từ bị thương đến ngắc ngoải, đuôi không
rụng thì cũng móp mỏ, oằn lưng... Hôm đó, thầy gọi cả đám vào phòng, bắt
đứng thành hai hàng rồi nói:
-
Các con bắn giỏi quá ha?
Thầy tréo hai tay sau lưng, đi tới đi lui trước hai hàng “tội phạm”, gương
mặt thầy có vẽ “bí hiểm” làm sao! Cả đám nghe thầy “khen” mà tim đập
thình thịch! Thầy dừng lại trước mặt từng đứa, hỏi:
-
Con bắn trúng ở chỗ nào?
Mỗi
đứa lần lượt trả lời, đứa bắn trúng đầu, đứa bắn trúng cổ, trúng lưng,
trúng đuôi.v..v... Sau đó thầy bảo cả đám cởi hết quần áo ra, đứng áp vô
tường ôm cột như con thằn thằn, rồi bắt từng đứa thay phiên nhau, đứa này
lấy thun bắn đứa kia ba chục cái thật mạnh vào đúng vị trí mà đứa đó đã
bắn trúng thằn lằn. Phải kéo căng sợi thun, bắn hết ga kêu cái bụp vào
người đau điếng nhảy dựng mới kể, bắn nhẹ là không tính, đếm lại. Chơn
Thanh thưa với thầy là chỉ bắn dọa chớ không bắn trúng. Thầy bảo chú khỏi
quay mặt vô tường mà quay mặt ra, đứng nhìn cảnh các bạn chịu hình phạt,
xong rồi thầy đích thân cầm cọng thun đi lại kê ngắm thẳng vào mũi chú,
nhưng bắn cái chóc vào vách tường sát bên lỗ tai. Nảy giờ nhìn “thảm cảnh”
rùng rợn, chú đã sợ thất kinh hồn vía, mồ hôi chảy ròng ròng, da gà da vịt
nổi cứng cả người, giờ tới lượt mình, nghe tiếng dây thun xé gió nả cái
chát vô tường, chú điếng hồn nhắm mắt lại khóc thét! Thầy ngừng tay hỏi:
-
Không trúng mà sao khóc?
-
Dạ... con sợ... - chú mếu máo.
-
Sợ nhiều không?
-
Dạ... sợ dữ lắm! Sợ dữ lắm thầy ơi... - giọng chú run lập bập líu cả
lưỡi.
-
Con sợ sao thì thằn lằn nó cũng sợ vậy. Mai mốt còn bắn thằn lằn nữa
thôi?
-
Dạ thôi, dạ thôi, con hổng dám vậy nữa! – Chú nức nở.
Cả
đám đỏ cả lưng, sưng cả đít, đầu cổ bỏng rát, không dám khóc lớn, dắt nhau
lủi thủi theo sư huynh Chơn Hiền đi xức dầu vô chỗ bị bắn. Sư huynh vừa
xức dầu cho cả đám vừa khịt khịt mũi cố kềm cái sống mũi cay cay...! Lúc
mặc áo cho Chơn Thanh, thấy áo chú bị rách một lỗ, huynh đi lấy kim chỉ ra
vá lại cho chú rồi mới mặc vào. Vỗ về cả đám:
-
Mai mốt đừng chơi dại vậy nữa nghen!
Mà
nào có “đừng” được. Vài hôm sau thầy đi vắng, cả đám lại bài ra trò đi đào
dế đá. Trận đó lại cũng bị thầy phạt kiểu như trước, mấy cái đầu trọc sưng
vù vì phải làm dế đá nhau!
Ở
Phước Lâm, vui nhất là ngày có ba ở quê lên thăm. Ba đi với chú sáu - ba
của Chơn Ðạt. Thời chiến tranh, đường xá lại xa xôi, từ quê lên phải đi
mấy chặng xe. Hai người cha xách lên nào bắp, nào khoai, nào bánh tét nhưn
chuối.v..v... Cầm đòn bánh tét do má gói, chú bật khóc. Má thương chú
nhiều lắm, lần nào cũng đòi đi, nhưng nhà không thể đi hai người vì sợ tốn
tiền xe. Má dành dụm, gói ghém tất cả những món gì chú thích, gởi theo ba
kèm những giọt nước mắt. Có lần má lên thăm, hỏi chú có bị thầy đánh đòn
không, chú nói có. Nghe con trả lời một cách nhẹ nhàng mà lòng má đau
thắt, nước mắt tự nhiên tuôn ra không lau kịp! Chú hoảng hồn, không ngờ là
má lại khóc dữ như vậy. Chuyện bị đòn ở đây là thường. Chơn Ðức đứng gần
đó, thấy má chú khóc, bật nói: “ Ở đây đứa nào không bị đòn mà thím khóc?
Ðứa nào hổng bị đòn là thành Phật rồi! ”. Chơn Ðức kéo má lại nói nhỏ: “Ðố
thím ở đây quần áo tụi con rách chỗ nào trước?” Má lắc đầu, Chơn Ðức nói:
“ Rách đít! Bị roi cạp liền liền, mau rách lắm!”. Má bật cười, lau nước
mắt và kéo Chơn Ðức vào lòng, định giở lên coi thử, nhưng Chơn Ðức vùng
chạy trớt, để lại một tràng cười ngất: “Bộ thím tính đi tìm kho báu
hả? Cái mông của con là cái bản đồ kho báu quí lắm, bí hiểm vô cùng, đường
dọc đường ngang rối còn hơn ổ tám chục đời con nhện nữa đó!”... Nói xong,
chú thoắt cái tót lên ngọn cây bưởi. Chơn Thanh an ủi má: “Chú Ðức phá
trời thần, lại làm biếng học nên mới bị đòn nhiều, con ít bị đòn lắm, má
đừng lo cho con”. Nghe chú nói vậy, má mới yên bụng.
Ba
lên thăm ở chơi đôi ba ngày, những ngày ấy chú càng cố gắng học thật tốt,
thật ngoan để không bị sư phụ nhắc nhở.Chú sung sướng nhất là lúc ba hỏi
thăm về chú, thầy gật gật đầu: “nó cũng được...” Chỉ bấy nhiêu lời thôi
mà chú hãnh diện lắm, chú nghĩ mình đã làm cho ba vui. Chú đem những quyển
tập học ra cho ba coi, toàn những điểm và lời phê tốt. Ba vỗ vỗ vào lưng
chú, rồi ôm lấy chú, nói: “Con ráng học giỏi, ở tu với thầy, đừng có quậy,
bị đòn đau lắm nghen con...”. Nói là nói vậy chớ ba thừa biết là chú rất
ngoan hiền. Ở nhà ba má chưa từng bao giờ đánh chú một roi.Tan học ở
trường là chú chạy thật nhanh về để có thời gian ở bên ba nhiều nhiều một
chút. Thà không lên thăm thì còn nhớ ít, ba lên thăm về rồi là mấy ngày
sau chú còn ngẩn ngơ. Ðưa ba ra bến xe lam về quê, chú đứng nhìn theo cho
đến khi đám bụi khói sau xe tan hết mà nước mắt vẫn còn rớt. Vậy mà khi về
chùa, sư huynh Chơn Hiền hỏi nhỏ: “Có muốn theo ba về quê, nghỉ tu luôn
hông?” thì chú đáp: “Em nhớ má nhớ ba lắm, nhưng em nói là em theo thầy tu
rồi, dù gì đi nữa cũng không bỏ tu mà về.” Chơn Hiền cười, vuốt đầu chú và
nói: “Giỏi! Nhớ vậy nghen”. Rồi hai huynh đệ ngoéo tay, cười toe toét.
Không hiểu từ lúc nào thầy đã đứng bên cánh cửa, nhìn ra thấy cảnh đó,
chắc thầy cũng đoán được anh em chú thì thào với nhau điều gì. Gương mặt
thầy xúc động và lộ rõ sự hài lòng. Thấy chú quay qua bắt gặp, thầy im
lặng đi vào phòng. Nhìn theo dáng thầy, không hiểu sao trong lòng chú trổi
lên một niềm thương kính kỳ lạ. Chú nghĩ bụng: không bao giờ chú bỏ thầy.
Năm
1964, học xong chương trình gia giáo, tinh thông hai thời công phu và bốn
quyển Luật bằng chữ Hán, thầy quyết định đưa chú xuống học lớp Sơ đẳng
Phật học ở chùa Phổ Quang. Những ngày hành điệu ở Phước Lâm đã qua, lưu
lại trong chú biết bao là kỷ niệm. Làm sao quên được những đêm gần tết nhớ
nhà “khóc phong trào”, một đứa thút thít là cả dãy sùi sụt. Có lần, sau
một trận khóc tập thể, đám trẻ ngủ say vùi, đạp rớt cả Chơn Ðạt – chú nhỏ
nhất – xuống đất, Chơn Ðạt lồm cồm bò lên, bộ ván cao, vừa té đau giật
mình nên cứ leo lên rớt xuống, chú bật khóc hu hu... cả đám thức giấc,
nghe tiếng lại tưởng là có... khóc đợt hai, bèn hưởng ứng (!). Lần này vì
người khởi xướng khóc hơi lớn nên dàn đồng ca cũng theo đà nâng cao âm
lượng, sư huynh Chơn Hiền từ bộ ván bên kia giật mình thức giấc, hỏi:
“Chuyện gì vậy?” Chơn Ðạt bệu bạo: “Mấy ảnh đạp con té xuống đất đau quá
sư huynh ơi!” Cả đám vỡ lẽ, nín khóc, lại quay qua rúc rích cười!...
Rồi
những ngày học bài chưa thuộc, ham chơi, bị thầy đánh đòn. Cây đả thần
tiên của thầy sao mà nó đau chết điếng! Những buổi tụng kinh lễ Phật
lắng vào tiềm thức, thành thói quen. Mái chùa Phước Lâm trở nên thân
thuộc, đi vào ký ức tuổi thơ của chú còn đậm nét hơn cả ngôi nhà nơi chú
sinh ra. Hình ảnh vị thầy lưu dấu rất rõ trong tâm tưởng. Thầy đã cho chú
những bài học quí giá nhất mà sau này đi xa, lớn lên, thu nhận đệ tử rồi
chú mới hiểu được hết.
Bổn sư Thiện Thọ ^
Thầy
là người quê Ðồng Tháp. Xuất gia năm bảy tuổi. Người dong dỏng cao, gầy
gò, gương mặt nghiêm trang, cương nghị. Thầy chủ trương thu đệ tử là những
chú nhỏ cùng quê để dễ hiểu tính tình, dễ thông cảm, dạy dỗ. Thầy dạy đệ
tử rất nghiêm. Từng cách đi dáng đứng, từng cử chỉ oai nghi đều được thầy
chi li giảng giải và áp dụng thực hành nghiêm nhặt, sai là phạt không
nương tay. Thầy dạy kỹ càng từ việc nhỏ đến việc lớn, từng động tác tụng
kinh, gõ mõ: khi đánh mõ lắc tay ra sao cho tiếng kêu chắc gọn, dứt khoác;
đánh chuông thế nào cho tiếng ngân vang xa mà chuông không bị lắc lư. Ở
tuổi ăn tuổi ngủ, tuổi hồn nhiên vô tư, các chú điệu đánh mõ mà để mõ “đi”
khỏi tầm tay, dùi gõ xuống nền gạch là chuyện bình thường; chuông nhỏ nhỏ
thì đánh lật cả chuông là chuyện không lạ. Thầy thường đem những trường
hợp như vậy ra “rao” trước, ai phạm phải sẽ bị hình phạt như thế nào. Bao
giờ cũng vậy, khi dạy đệ tử, thầy luôn dẫn chứng những tình huống có thể
xảy ra để học trò biết và tránh trước. Cách dạy dỗ của thầy sâu sát chi
li, thực tế. Thầy không quản khó nhọc. Có lần, thầy gập người, chịu cho
muỗi cắn, núp cả dưới gầm bệ Phật nghe đệ tử tụng kinh, để xem khi không
có mặt thầy, các đệ tử có đọc tụng rõ ràng không. Thầy lắng nghe rất kỹ,
ai đọc sai, đọc lệch, đọc lướt một chữ là thầy đều biết. Sau buổi tụng
kinh, ai phát âm không chính xác từ nào, thầy bắt đứng đọc lại hoài mỗi
chữ năm phút. Thầy rất thẳng tính, nghiêm khắc. Sai đâu là sửa đó liền,
không cho qua, dễ dãi. Ở chùa, ngày thường thầy không để phật tử vào chùa
nấu cơm. Mấy chú thay nhau làm trị nhật. Khi mấy chú bận học, thầy đích
thân xuống bếp nấu cho cả chùa ăn. Ðối với mấy chú điệu, thầy phân công
một chú phụ trách phần ghi chép báo cáo tất cả những “hoạt động” của các
“tiểu hòa thượng”. Người ghi báo cáo mà ghi không đủ, giấu diếm là bị phạt
nặng. Ghi người, không ghi mình bị phạt còn nặng hơn. Chơn Hậu là người
được thầy chỉ định cho công việc ghi chép báo cáo. Dẫu rất sợ thầy, sợ bị
phạt nhưng lứa tuổi mà ngoài đời gọi là “nhất quỉ nhì ma...” thì có hình
phạt nào ngăn cản được dài lâu những trò tinh nghịch. Chơn Hậu không hề vì
“địa vị” của mình mà kém nhiệt tình với các trò chơi, chú cũng bày trò
không kém ai. Do vậy, đôi khi ghi chép cũng biết “châm chước”, biết “quên”
những chi tiết không nhớ xuể. Vì thế nên thầy “anh minh” phái thêm một
“đạo hữu” ngoài chùa, đó là thằng bé Quân trong xóm. Tên điệp viên này rất
lợi hại. Sau một trò chơi có nó tham gia, nếu nó hài lòng thì thôi, nếu
các chú ỷ đông, phe nhà...chùa có ăn gian chút đỉnh thì y như rằng sau khi
“tòa” xử, nó còn khiếu kiện bổ sung. Không bao giờ thầy thưởng kẹo bánh
cho nó ngay sau khi nó méc, sau đó vài ngày thầy mới kêu nó lại cho. Thầy
làm như vậy là có chủ ý, thầy không thưởng cho nó vì chuyện mách lẻo, mà
“trả lương” cho nó vì công tác làm gián điệp. Thầy không dạy dỗ ra miệng,
nhưng trong mỗi hành xử, thầy đều có hàm ý giáo dục. Cách mách lẻo của
thằng Quân cũng rất đặc biệt. Thường là nó lựa khi thầy đang nằm trên
võng, nó mon men lại nằm phía dưới bộ ván, đưa võng nhè nhẹ cho thầy. Cái
bàn tay nhem nhuốc đất cát của nó ban đầu thì nắm đầu võng chỗ chân thầy,
sau vài lượt đưa, bàn tay nó lần lần nắm xuống gần chân thầy hơn, cho đến
khi đụng chân thầy thì nó khều nhẹ nhẹ vào ngón cái rồi bắt đầu ngồi dậy
nói, bao giờ cũng điệp khúc câu hỏi lung khởi mào đầu: “Thầy, thầy biết...
tại sao... ai... cái đó?...” Những chi tiết bổ sung của nó đều được thầy
thẩm tra và ghi vào cáo trạng, lần sau tái phạm là giở “tiền án” ra mà
nghị tội cộng thêm vô. Có lần, sau khi sư huynh Chơn An kể chuyện Tề
Thiên, như thường lệ, cả đám liền tổ chức một phái đoàn đi thỉnh kinh.
Chơn Ðạt và Chơn Tâm nhỏ nhứt đám, lần nào cả đám bày trò chơi thì hai chú
cũng bị phân công canh gác, thấy thầy về tới là báo động. Cũng có hôm Chơn
Thanh tự nguyện gát thay để hai chú nhỏ có dịp được chơi. Hôm ấy hai chú
“biểu tình” đòi chơi, nhưng không ai chịu ra gác thay, Chơn Thanh mắc làm
Tam Tạng, không thể đi gác thay cho hai chú. Vai Tam tạng không ai đóng
được vì tiêu chuẩn “tư cách đạo đức” gắt gao, chỉ có Chơn Thanh là được
mọi người tạm hài lòng đồng ý cho làm Tam Tạng bởi tính tình chú rất nhu
hòa,hiền lành, lại thông minh học giỏi, không bao giờ gây gổ bạn bè. Chú
lại là người đạt danh hiệu người có thân hình “sạch sẽ” nhất (ít có
lằn roi dọc roi ngang) nên đóng Tam Tạng là oai nghi nhất. Hôm đó Chơn Ðạt
và Chơn Tâm phụng phịu ra gác, hai chú tức mình, tự đóng làm yêu quái với
Tề Thiên. Tề Thiên rượt yêu quái chạy xa tuốt trong xóm, quên luôn nhiệm
vụ canh gác. Thầy về, không ai báo động, cả đám vãn hát không kịp, bị bắt
tại trận đang như đám giặc chòm inh ỏi cả chùa. Thế là thiết bảng của Tề
Thiên quay lại đánh luôn cả Tề Thiên. “Hậu Tây Du” kết thúc, cả đoàn đi
Tây Trúc - dù xuất thân Ðại Ðường nhưng đều trở thành “Ðại Mông” (sưng
đít) hết! Vậy mà thằng Quân còn chưa hả dạ, mấy lần trước chơi trò này nó
luôn bị phân vai đóng tiểu yêu, ma quỉ, đối tượng để Tề Thiên đánh đấm tha
hồ. Ðôi khi nó “bức xúc” quá, nổi loạn xin đổi vai đóng làm Tam Tạng, được
cỡi ngựa một chút, nhưng mấy chú cắc cớ bảo nó phải cạo đầu thì mới cho
làm. Nó ức lắm, ôm mối căm hờn nhưng không thể méc thầy vì nó vẫn muốn duy
trì trò chơi, dẫu toàn bị đóng vai chịu đòn nhưng ít ra thỉnh thoảng cũng
phản công ngoài lề được vài cái, đỡ hơn lộ ra, thầy không cho chơi nữa thì
cũng buồn. Lần này lộ rồi, nó thả giàn luôn, chuyến này cho thầy quánh cả
đám một trận “tốc xả mê đồ” luôn! Nó chờ thầy lên nằm trên võng, liền bắt
đầu điệp khúc:
-
Thầy, thầy... thầy có thấy cái Y của thầy bị dơ không?
-
Ðâu? Sao vậy? – thầy bật ngồi dậy hỏi.
Hồi
nảy... - thằng Quân nhìn trước nhìn sau, chợt nó thấy sư huynh Chơn An vừa
bưng thuốc vô cho thầy, nó khôn ngoan lấp liếm, nói lớn: - Hồi nảy sư
huynh có la rồi, chú Chơn Hậu đem vô trả lại mà làm rớt xuống đất, chỗ gần
lu nước nên bị dơ...
Sư
huynh Chơn An nghe vậy, vội nói đỡ:
-
Dạ, thưa thầy, hồi nảy mấy chú có lấy Y của thầy ra để làm cà sa cho Tam
Tạng, nhưng vừa lấy ra, con thấy, đã rầy mấy chú rồi, Mấy chú sợ lắm, đem
vô trả lại nhưng lỡ tay làm rớt nên bị dơ chút xíu, con định lát nữa sẽ
đem giặt...
Thầy nóng nảy quát:
-
Hết biết tụi con rồi! Dám đem Y của thầy ra mà chơi. Kêu hết mấy đứa vô
đây!
Chơn An quay qua liếc thằng Quân, nó lấm lét tụt xuống khỏi bộ ván chạy ù
về nhà. Mấy lần trước, sau khi báo cáo thành tích gián điệp, nó thường
được thầy nhìn và gật đầu: “ừa,ừa..” rồi biểu nó đi chơi đi, vậy thôi,
thầy ghi sổ đó, lần sau mới cộng tội. Thầy rất khéo trong việc “dùng
người”, thầy biết tánh trẻ con mau quên, thầy không muốn cho nó cũng như
cả mấy chú thấy được “hậu quả” của việc nó mách lẻo, để không ai giận nó,
nhờ vậy nên nó mới còn cơ hội chơi chung với “quân ta” mà tiếp tục hành
nghề. Thế mà không hiểu sao lần này thầy giận dữ vậy. Nó hối hận quá, vừa
chạy vừa lo.
-
Thầy ơi, thầy uống thuốc đi rồi hãy nói...
Chơn An bưng chén thuốc Bắc lên, hai tay đưa cho thầy. Thầy bị bệnh tim và
bệnh gan nên tính dễ xúc động và nóng nảy. Biết là chuyện nghiêm trọng nên
Chơn An lo lắm, sợ mấy chú nhỏ lại bị đòn nặng.
-
Các con nghe cho kỹ đây – Thầy bắt đầu nói khi cả đám xếp hàng quì gối
vòng tay trước mặt thầy – Y Hậu không phải là cái có thể đem ra chơi
được. Y Hậu là vật góp phần làm nên oai nghi của một thầy tu. Chỉ được
đắp y khi hành lễ trước Phật, trước Bồ Tát. Tăng chúng đi đâu xa chùa qua
đêm phải đem theo Y Hậu, đó là vật rất quan trọng trong đời sống Tăng
Già....
Thầy nói nhiều, nhiều lắm nhưng các chú không thể nhớ hết, chỉ lơ mơ hiểu
rằng đó là điều rất quan trọng. Tự dưng chưa bị đánh mà theo từng lời nói
của thầy, cả đám cùng khóc hết. Có lẽ nhìn những gương mặt non nớt đang tỏ
ra lo sợ, hối hận thực sự, dù chưa hiểu hết nhưng cũng ý thức được lỗi lầm
của mình, thầy cảm thấy nguôi giận. Cả đám được tha sau khi lên chánh điện
lễ lạy sám hối thành khẩn.
Thầy là vậy. Rất nghiêm khắc nhưng tất cả cũng vì muốn đệ tử trưởng thành,
Mỗi lần sau khi mấy chú bị đòn đau, thầy thường cho kẹo bánh, hoặc đích
thân xuống bếp nấu nướng, làm bánh cho cả chùa ăn. Thương yêu nhưng không
nuông chiều, Phương pháp dạy dỗ của thầy có phần hơi nặng nhưng thầy nói:
làm người tu phải kinh qua gian khổ, phải tập tính kiên nhẫn, chịu đựng.
Cũng như con cá chép, muốn vượt vũ môn hóa rồng phải qua bao gian nan,
thân thể gầy ốm nhưng chắc khoẻ mới tung mình nhảy nổi, con cá mập mạp lừ
đừ nuôi trong chậu cảnh không thể làm nào làm được việc gì! Cả chùa đứa
nào đứa nấy ốm nhom, mỗi lần chuẩn bị dẫn các chú về thăm gia đình là
trước đó cả tháng thầy mua thuốc “Ðại bổ ngũ tạng tinh” của nhà thuốc La
Vạn Linh cho cả đàn nhóc uống, “tân trang” chu đáo trước khi cho về. Sắp
về thăm nhà, đứa nào cũng cố gắng ngoan, không dám nghịch phá, vì hễ phá,
bị phạt đánh đòn có dấu roi là thầy không cho về, sợ người nhà thấy, xót
ruột. Thầy nói: Người đời không thấu lẽ thiệt hơn, dễ nhìn hình thức mà
xét nội dung, thầy không lừa dối gia đình các con nhưng các con muốn trở
thành một thầy tu tốt thì không thể giáo dục theo kiểu gia đình được.
Ðại chúng không thể hiểu như một đại gia đình. Ðại gia đình
tuy cùng chung tổ tiên giòng tộc, nhưng cái tôi được tôn trọng, mỗi người
một chí hướng, một mục tiêu phấn đấu, quan niệm sống khác nhau. Ðại chúng
thì ngược lại: cái tôi phải biến mất, tất cả cùng chung một chí hướng, một
mục tiêu tu hành, một cách sống như nhau. Ðại gia đình một trăm người là
một trăm người, không ai đại diện cho ai được. Ðại chúng trăm người là
một, một là một trăm. Tóm lại, hai từ “xuất gia” mang ý nghĩa vô cùng sâu
xa là vậy. Không thể đem tiêu chuẩn dạy dỗ kiểu gia đình áp dụng vào nhà
chùa được. Do vậy, các bậc cha mẹ thương con thiếu trí tuệ sẽ không hiểu
được cách dạy dỗ của thầy, sẽ phiền trách, làm chao đảo tâm các con, vì
thế, có những chuyện riêng tư ở chùa tuyệt đối không đứa nào được kể lại
cho gia đình biết.
Thầy chuẩn bị, làm công tác tư tưởng và dặn dò kỹ lưỡng như thế mỗi lần
đưa đệ tử về thăm nhà. Các chú cũng rất ngoan, rất quí thương thầy, và có
lẽ trên hết là cái duyên với đạo khiến những cánh chim non nớt ấy
vẫn chập chững bay lên cho đến ngày có thể sải cánh tự tin trên bầu trời
cao rộng.
Khi
các chú lớn lên, đi học ở chùa Phổ Quang, mỗi lần về thăm chùa, thăm bổn
sư là thầy hỏi han rất kỹ việc học tập. Học đến đâu, học thế nào, học
những gì? Có điều gì chưa rõ, trình kiến giải thầy nghe để kịp thời chỉnh
lý. Rồi thầy đứng ra tổ chức những buổi thực tập diễn giảng cho mấy chú
thực tập dạy thử, tổ chức rất chu đáo chớ không qua loa. Thầy quan tâm dõi
theo từng bước trưởng thành của đệ tử, kịp thời uốn nắn ngay những biểu
hiện sai lệch. Khích lệ, động viên, mở lối cho những ước mơ làm tốt đạo
đẹp đời. Lúc còn nhỏ, thầy nghiêm khắc dạy dỗ cứng rắn là thế, nhưng khi
lớn lên thầy lại nhẹ nhàng thân cận gần gũi, khiến đệ tử nào khi có vấn đề
gì cũng tâm sự, giải trình với thầy. Thầy chia sẻ với đệ tử tất cả tâm
nguyện của mình và đặt hết kỳ vọng vào đệ tử.
Sau
này, khi thầy sắp tịch, thầy gọi tất cả đệ tử về. Dù thân mang trọng bệnh,
thầy cũng ráng cho người dìu ra chánh điện, để được tận mắt lần cuối nhìn
thấy hàng đệ tử của mình Y Hậu nghiêm trang tụng kinh lễ Phật. Thầy khẻ
nở nụ cười nhìn các đệ tử giờ đã trưởng thành. Thầy tin chắc rằng trong
đội ngũ ấy, rồi sẽ có người không phụ công dạy dỗ của thầy, tiếp tục thay
thầy hoằng dương chánh pháp.
Góc nhỏ Phổ Quang ^
Năm Chơn Thanh 15 tuổi, thầy cho chú và Chơn Hòa xuống học lớp
Sơ Ðẳng ở trường Phật học Phổ Quang.
Trường Sơ Ðẳng Phật học Phổ Quang là cơ sở sinh hoạt của phái Lục Hòa Phật
Tử Việt Nam, do sư ông Hải Tràng sáng lập. Mọi sinh hoạt ở đây đều được
khép vào một qui củ rất nghiêm ngặt. Hôm sư phụ Thiện Thọ đưa Chơn Thanh
và Chơn Hòa đến chùa, gặp thầy Thiện Thông - vị trụ trì kiêm giám viện,
thầy Thiện Thông nhìn hai chú, mỉm cười, hỏi:
-
Mấy chú học thuộc hai đường công phu và bốn quyển luật Trường Hàng chưa?
Chơn Thanh lí nhí đáp:
-
Dạ rồi!
Thầy bắt bí:
-
Vậy nhập chúng đệ mấy?
Chơn Thanh nhìn sang Chơn Hòa, thấy bạn chưa có phản ứng gì, chú đáp luôn:
-
Mô Phật, đệ tứ.
Thầy nhìn vào Chơn Thanh hỏi tiếp:
-Phàm
tại xứ, thụy bất tại nhân tiền, khởi bất tại nhân hậu, mấy chú hiểu
không?
Chơn Thanh lễ phép:
-Mô
Phật! Ở Phật học viện, ngủ không được trước người, dậy không được sau
người...
Ðộc đáo ở chỗ chữ “phàm tại xứ” lẽ ra phải dịch là “phàm ở chốn này”, chú
lại nói là “ở Phật học viện”, vừa phù hợp với bối cảnh, vừa tỏ ra hiểu ý
thầy giám viện muốn răn dạy. Những điều này, khi còn ở Phước Lâm, mấy chú
được sư phụ dạy rất kỹ. Nhất là trước hôm lên đường, sư phụ còn dạy nhiều
kinh nghiệm ở chúng. Ở chúng không đơn giản như ở chùa một thầy vài ba trò
sống với nhau. Ở chúng đòi hỏi mình phải tự ý thức nhiều hơn. Phải biết
thức khuya, dậy sớm, chăm lo kinh kệ, học hành, sống sao cho vui lòng
huynh đệ, phải biết học tập những cái hay, cái tốt của mọi người. Thầy còn
chu đáo mời các vị thầy lớn về, tổ chức một đàn tràng thật trang nghiêm
cho các chú được thọ phương trượng sa di giới trước khi rời chùa đi học
để khỏi mặc cảm với huynh đệ rằng mình chỉ là một sa di đuổi quạ,
và cũng để cho các chú ý thức được rằng mình đã lớn, xa thầy thì phải biết
tự lực mà tu học. Bổn sư Thiện Thọ được mệnh danh là ông thầy giáo Tân
Uyên nổi tiếng dạy học trò nghiêm cẩn.
Nghe Chơn Thanh trả lời suôn sẻ và thông minh, thầy giám viện mỉm cười tỏ
vẻ hài lòng. Thầy với tay lấy cái linh (chuông nhỏ) để trên bàn rồi rung
lên mấy cái. Hồi linh vang lên lanh lảnh, Chơn Thanh hiểu là thầy đang gọi
chú thị giả vào. Lệ ở chùa, khi thầy trò chuyện, nhiều khi thị giả được
phép ở lại vừa hầu nước, vừa nghe chuyện để học hỏi, nắm bắt công việc,
nhưng cũng có lúc thị giả phải đi ra ngoài để giữ phép, đến khi nghe thầy
rung linh thì mới chạy vào. Ở Phước Lâm, sư phụ Thiện Thọ cũng có một cái
linh như thế. Mỗi khi sư phụ rung linh, thì y như rằng Chơn Hậu dù đang
làm bất kỳ việc gì cũng để lại đó, ba chân bốn cẳng chạy vù lên phòng
thầy.
Thị
giả là một chú sa di còn khá trẻ, nhỉnh hơn Chơn Thanh độ ba, bốn tuổi, là
thị giả của sư ông viện chủ, kiêm luôn việc hầu thầy giám viện, tên chú là
Minh Huệ. Minh Huệ bận chiếc áo vạt hò màu lam sạch sẽ, dáng người dong
dỏng cao và gương mặt trông rất lanh lợi. Chú chắp tay khẽ cúi chào khách
rồi cung kính đứng sau lưng thầy giám viện. Thầy dạy:
-
Ðây là thầy Thiện Thọ, đến xin cho hai chú nhỏ được nhập chúng để theo học
lớp Sơ Ðẳng Phật học. Chú đưa thầy lên gặp sư ông, luôn tiện để hai chú
đảnh lễ sư ông trước khi xuống đảnh lễ đại chúng.
Minh Huệ cúi đầu xá thầy Thiện Thọ, thỉnh thầy đi trước, rồi nhường lối
luôn cho Chơn Thanh và Chơn Hòa, chú đi sau cùng. Khi đi ngang qua con
đường nhỏ có bờ râm bụt bên phải chánh điện, Minh Huệ bước lẹ lên ngang
với Chơn Thanh, hỏi nhỏ: “Lúc nãy thầy giám viện có nói chỗ cho mấy chú
nghỉ chưa?”. Chơn Thanh ngơ ngác lắc đầu, vì chú không biết rằng như vậy
là thầy giám viện đã đồng ý cho hai chú nhập chúng. “Chắc là thầy quên đó,
để lát nữa tui chỉ chỗ cho” - Minh Huệ thân thiện nói.
Ngôi thất nơi sư ông Hải Tràng ở gọn nhỏ. Ðồ đạc lại có vẻ cũ kỹ nhưng
ngăn nắp. Một cái đơn gỗ thấp, hai chiếc tủ kinh, một cái bàn làm việc.
Giữa phòng là một tấm thảm màu xanh thẫm trải ngay ngắn trước bàn Phật,
nơi sư ông vẫn thường xuyên lễ lạy. Khách đến ngồi trên tấm nệm mỏng đặt
phía cửa sổ, bên chiếc bàn trà thấp. Sau khi các chú đảnh lễ, sư ông dạy:
“Mấy chú còn nhỏ, hãy ráng tu học, giữ gìn nội qui và phải sống cho hòa
hợp chúng, nghe!”. Nói xong, sư ông đưa tay xoa đầu hai chú. Sư ông dáng
người cao đậm từ hòa, gương mặt phúc hậu, bàn tay sư ông như có một sức ấm
nóng lạ kỳ, lan tỏa khắp người.
Gởi
chú xong, thầy ra về. Trước khi ra cổng, thầy dừng lại, đặt tay lên vai
chú thị giả Minh Huệ và nói, giọng cảm động: “Chú Minh Huệ à! Chú ở đây
trước, Chơn Thanh và Chơn Hòa mới đến, hai đứa có gì chưa biết, chú hoan
hỷ chỉ vẽ giùm...”. Giọng thầy chân thành, xúc động. Hồi còn ở trên Tân
Uyên, chú và Chơn Hòa hay sợ và tránh thầy, vậy mà lúc đó bỗng hai chú
thấy lưu luyến, cứ luấn quấn bên thầy, sợ thầy đi mất! Chú theo sát chân
thầy ra đến cổng, bất ngờ thầy quay qua ký lên đầu chú một cái, rồi nói:
-
Thôi, ở lại ráng học nghen!
Thầy nắm hai vai quay chú trở vô, rồi vội vả bước nhanh. Chú lặng người
xúc động trước cử chỉ ấy của thầy. Ngày còn bé, chưa bao giờ thầy xoa đầu
chú, không có một cử chỉ thân thiện nào ngoài ánh mắt âu lo mỗi khi chú
nóng sốt, bệnh yếu. Bây giờ chú lớn rồi, thầy lại ký đầu chú như một chú
bé con. Dáng thầy đã đi khuất khúc quanh con đường mà chú còn đứng đó,
nước mắt chảy lúc nào không hay! Chú nhớ mãi hình ảnh của thầy hôm ấy.
Phổ
Quang - ngôi chùa mà chú mới đến ở không lớn lắm, nhưng khuôn viên khá
rộng, ăn thông ra con đường Võ Di Nguy phía trước. Ở góc sân chùa có một
cây bồ đề lớn, cành đơm chi chít những quả chín màu nâu sậm, chim chóc
giành nhau kêu ríu rít suốt ngày, thỉnh thoảng lại rụng xuống một cái lá
to có đuôi dài hơn những chiếc lá cây bình thường khác. Bên phải chánh
điện là một con đường nhỏ với bờ râm bụt thâm thấp, được cắt xén cẩn thận.
Ðối diện bên kia con đường là ngôi thất có gác gỗ của sư ông viện chủ, bên
này là cốc của thầy trụ trì. Dãy nhà Tăng nằm phía bên trái chánh điện.
Nói là dãy nhưng kỳ thực đó chỉ là một căn phòng lớn kê mấy dãy đơn dài.
Chơn Thanh và Chơn Hòa được phân ở tại căn phòng đó, nằm ngủ trên một cái
bộ ngựa màu mun bóng nhẵn. Cái bộ ngựa cũng là nơi dành riêng cho hai chú
để mớ đồ đạt ít ỏi của mình. Buổi tối, hai chú giăng chung một cái mùng,
nhưng có riêng hai cái gối và hai cái mền. Phòng rộng, có đến mấy chục
chú, gồm cả chúng thường trụ lẫn chúng học đường, tất cả cùng học chung
lớp Sơ Ðẳng.
Trong chúng học đường, tức những vị từ nơi khác đến học, Chơn Thanh
quen được huynh Thiện Tri, gốc người Phú Yên, rất giỏi kinh, luật, luận và
chữ Hán. Huynh Thiện Tri lớn hơn Chơn Thanh khoảng sáu, bảy tuổi nhưng
chưa thọ Tỳ Kheo giới. Trong chúng thường trụ, Chơn Thanh thân với huynh
Minh Huệ nhất. Trong thâm tâm, Minh Huệ cũng rất mến Chơn Thanh - chú sa
di trắng trẻo, ốm và cao đến độ mấy huynh đệ trong chúng thường chọc là
“Thanh cò”, được cái tuy mau miệng nhưng tính tình lại rất hiền hòa, không
thích cãi cọ. Một lẽ nữa là sư phụ của Chơn Thanh đã có lời gửi gắm đệ tử
của mình cho Minh Huệ nên mặc nhiên chú coi Chơn thanh và Chơn Hòa là hai
sư đệ. Minh Huệ là học tăng giỏi nhất chúng thường trụ, được sư ông và
thầy giám viện thương, thành thử Minh Huệ cũng có uy với chúng. Có một
điểm chung giữa bốn huynh đệ là tất cả đều giỏi chữ Hán và viết chữ Hán
rất đẹp. Chữ Thiện Tri thì cứng cáp, chữ Minh Huệ bay bướm, chữ Chơn Hòa
đều đặn, riêng chữ Chơn Thanh thì ốm ốm, cao cao và hơi nghiêng nghiêng
trông giống hệt hình dạng của chú, nhìn vào ai cũng nhận ra ngay chữ của
Thanh cò! Bộ ba Thiện Tri, Minh Huệ và Chơn Thanh, tuy tuổi tác ba
người cách biệt, nhưng cả ba lại thân thiết, coi nhau như huynh đệ.
Những tháng ngày tại Phổ Quang cứ thế lặng lẽ trôi qua. Chiều chiều, sau
giờ cơm, Chơn Thanh thường hay ra sân trước đứng nhìn cây bồ đề và con
đường nhỏ. Chú như vẫn còn thấy dáng áo nâu của thầy đi hút cuối con đường
vào cái hôm thầy gởi hai chú ở lại đây tu học.
Buổi sáng, mấy huynh đệ cùng học nội điển tại trường, buổi chiều có khi
nghe giảng, có khi tự học. Ðối với Chơn Thanh, chương trình nói chung
không nặng lắm, vì chú và Chơn Hòa đã được bổn sư dạy dỗ khá kỹ trong
chương trình Gia giáo tại chùa. Buổi tối, sau giờ cơm chiều, hai
chú được quí thầy trên cho phép đi học lớp đệ lục bổ túc văn hóa tại
trường tư thục Tân Thạnh. Giờ học bắt đầu từ sáu giờ và kết thúc lúc chín
giờ. Hai chú ăn chiều qua loa rồi xách cặp đi học. Tối về, bụng đói lại
phải thức khuya nên thỉnh thoảng mấy chú “lai vãng” xuống bếp lục xin...
cơm nguội. Nội qui nhà bếp Phổ Quang khá chặt chẽ, buổi tối các chú không
được xuống bếp lục lạo đồ ăn, gây phiền hà cho những người nấu bếp. Nhưng
Chơn Thanh và Minh Huệ đặc biệt được mấy cô nhà bếp thương nên hễ thấy
bóng dáng mấy chú lấp ló gần khu vực bếp là các cô múc cơm lên cho, thỉnh
thoảng khuấy bột bồi dưỡng các chú vì học khuya, tội nghiệp! Ðời sống chư
tăng tại Phổ Quang bấy giờ rất kham khổ. Giờ quả đường trưa mới có cơm pha
gạo trắng, thức ăn tàm tạm, còn buổi chiều và buổi sáng thì chỉ ăn toàn
gạo đỏ, hạt nào hạt nấy to bằng hạt lúa mì, cứng ngắt. Ðồ ăn gồm nước
tương do nhà bếp pha chế, các thứ rau quả thì xin ở chợ về. Ðạm bạc vậy
nhưng đời sống tu học của các chú không vì thế mà lơi lỏng.
Lễ Phật Ðản ^
Mùa Phật Ðản, chùa Phổ Quang cũng như rất nhiều chùa khác trong
thành phố tổ chức xe hoa và lễ đài rất trang nghiêm, hoành tráng. Buổi
chiều, sau thời mông sơn thí thực, Chơn Thanh và Chơn Hòa được quí thầy
gọi đi dự lễ Phật Ðản tại lễ đài trung tâm Việt Nam Quốc Tự. Chơn Thanh và
Chơn Hòa nhỏ con nhất nên được quí thầy cho ngồi trên xe hoa làm “chư
thiên” tung hoa cúng dường Ðức Phật. Xe đi chầm chậm qua các ngả đường Yên
Ðỗ, Hai Bà Trưng, Trần Quốc Toản...
Khi
chiều xuống, màu huỳnh y của chư tăng sáng lên huyền ảo trong sắc hoàng
hôn. Quíù thầy đi chậm rãi bên xe hoa như thể thiền hành; phía sau là dòng
suối áo lam của Phật tử, tay cầm cờ, miệng không ngừng hát vang liên khúc
mừng Phật đản. Phía sau nữa là quần chúng ngưỡng vọng, hiếu kỳ nối đuôi
theo. Hai bên đường rất nhiều gia đình treo cờ Phật giáo và thiết ảnh
tượng đản sinh. Những ngọn lồng đèn hình hoa sen đủ kích cỡ màu hồng đỏ
lung linh tỏa sáng.
Lễ
diễu hành thiêng liêng và trang trọng. Dòng người trôi chầm chậm trong
lòng phố, niềm hân hoan dâng tràn.... Ðến các ngả đường lại gặp thêm xe
hoa của nhiều quận huyện khác nữa, cùng nối đuôi nhau hòa vào niềm vui lan
tỏa. Khuôn viên Việt Nam Quốc Tự người đông chật cứng. Màu vàng của chư
tăng, màu lam của phật tử và muôn màu sắc khác của những người tham dự.
Cờ, hoa, lồng đèn, bong bóng rợp trời. Tất cả như bừng lên lung linh trong
ánh sáng của muôn vàn ánh điện. Tiếng chuông, tiếng trống, lời kinh cất
lên rộn rã cả bầu trời lồng lộng. Dưới bến Bạch Ðằng người ta cùng nhau
thả hoa đăng, ánh sáng lập lòa bập bềnh theo từng dợn sóng. Trên bầu trời,
phía xa kia, ánh trăng rằm vành vạnh đang cố nhô lên khỏi mấy từng nhà để
chứng kiến một mùa đản sinh mầu nhiệm.
Chơn Thanh cảm thấy lòng hân hoan quá đỗi. Ðó là mùa Phật Ðản để lại ấn
tượng sâu sắc nhất trong cuộc đời của chú. Chú như thấy được sức sống tiềm
tàng mà mãnh liệt của Phật giáo trong lòng người dân Việt. Năm tranh đấu
1963, chú còn nhỏ nhưng thỉnh thoảng vẫn nghe sư phụ kể về những cuộc biểu
tình bất bạo động, những cuộc tuyệt thực, tự thiêu của chư tôn đức và phật
tử, nhất là câu chuyện về quả tim bất diệt của Bồ tát Thích Quảng Ðức. Lúc
đó, trong lòng chú cũng trào dâng lên một niềm tự hào, tuy mơ hồ nhưng
không kém phần mãnh liệt. Bây giờ, tận mắt nhìn thấy sức sống của Phật
giáo qua mùa lễ, sau những máu và nước mắt của người con Phật đã đổ xuống
bởi sự độc tài, tàn ác của chế độ Ngô Ðình Diệm, Phật giáo vẫn không tàn
lụi, vẫn bùng lên mạnh mẽ, niềm tự hào ấy trong lòng chú như được nhân
lên. Trước tượng Ðản Sinh, chú thầm khấn nguyện, sau này, nhất định chú sẽ
làm được một cái gì đó cho công cuộc chấn hưng và xiển dương Phật pháp.
Mùa
hè năm đó, Chơn Thanh cùng với các huynh đệ sa di được tùng chúng nhập hạ.
Nhưng đó là một mùa hạ không bình yên cho lắm, mặc dù trường lớp và các
thời khóa vẫn được duy trì đều đặn, nhưng thỉnh thoảng lại dấy lên các
cuộc biểu tình, các phong trào tranh đấu cho sự tự do, bình đẳng của Phật
giáo. Nhiều hôm, các thầy đi tranh đấu, tuyệt thực tại Việt Nam Quốc Tự,
các chú ở nhà tụng kinh và quả đuờng như thường lệ. Chơn Thanh không thích
tham dự vấn đề chính trị, nhưng những việc liên quan đến sự tồn vong của
Phật giáo, ít nhiều cũng khiến cho chú ưu tư, trăn trở. Cuối năm, trong
lần về chùa ăn tết, chú bày tỏ với sư phụ về những suy nghĩ của mình. Thầy
nhìn chú, yên lặng hồi lâu rồi nói: “Công việc của con bây giờ là tu và
học. Tu cho thật tốt và học cho thật giỏi, vậy thôi nghen!”.
Dấu ấn Huệ Nghiêm ^
Năm 1965, trường Trung Ðẳng Phật học chuyên khoa được đổi tên
thành Phật Học Viện Huệ Nghiêm và nhận thêm khoảng 300 tăng sinh nữa vào
tu học. Vì vậy, khi hay tin mình trúng tuyển vào ngôi Phật học viện tuy
mới thành lập nhưng có nhiều vị thầy danh tiếng, đức độ và uyên thâm giáo
điển như vậy, Chơn Thanh cảm thấy rất đỗi vui mừng. Cùng trúng tuyển với
chú sau khi kết thúc chương trình Sơ Ðẳng tại Phổ Quang còn có huynh Thiện
Tri, huynh Minh Huệ, Chơn Hòa và nhiều huynh đệ khác nữa. Mấy huynh đệ lại
chuẩn bị hành trang cho một hành trình mới, khó khăn hơn và đòi hỏi phải
có nhiều nỗ lực hơn.
Huệ
Nghiêm nằm trong khu An Dưỡng Ðịa rộng lớn. Xung quanh la liệt mồ mả với
một cái lò thiêu cũ kỹ. Phía sau là cánh đồng trải dài. Chánh điện khá
rộng. Một ngôi nhà tăng lợp tole và mấy cái cửa sổ lúc nào cũng mở. Khuôn
viên rộng với những chậu hoa cảnh, mấy cây dừa, đặc biệt là dăm đụn rơm
cao cao phía gần bờ rào, nơi mấy thầy, mấy chú trẻ thường hay “ẩn thân”...
đọc truyện. Ðó là ấn tượng đầu tiên về Phật học viện Huệ Nghiêm qua cái
nhìn còn ít nhiều ngơ ngác của Chơn Thanh.
Toàn bộ học tăng trong lớp Sơ Trung 2 của Chơn Thanh được quí thầy xếp vào
một chúng: Chúng Long Thọ. Bên cạnh chúng Long Thọ còn có các
chúng: Mã Minh, Vô Trước, Thế Thân, Huyền Trang, Vạn Hạnh, Hư Vân.... Hơn
sáu chục huynh đệ ở chung trong một căn “nhà thiếc”. Căn nhà chỉ toàn tole
là tole, tole “đậy” bốn bề! Có hai cửa chính và sáu cửa sổ. Phòng lớn, sắp
bốn dãy đơn dài, nhưng chỉ có ba ngọn đèn ne-on sáu tấc sáng nhờ nhờ. Mỗi
đơn còn có một bóng đèn trái ớt, hai đơn đấu đầu lại một, có một cái thùng
gỗ dính chung, hai nắp, ngăn làm đôi; toàn bộ “gia sản” của mỗi người đặt
hết trong đó, chỉ là áo quần, sách vở. Ðường đi chỉ đủ để đặt khép nép hai
chân. Hơi nóng cộng với hơi người hầm hập. Cửa sổ vì vậy mở suốt cả đêm
lẫn ngày.
Buổi sáng, sau giờ công phu khuya, Chơn Thanh ít khi trở lại phòng vì ngại
thứ hơi nóng ngột ngạt. Chú thường cùng huynh Thiện Tri ra ngoài tập thể
dục - những bài tập mà ngày trước sư phụ chú từng bắt tập sau mỗi buổi
công phu. Ban đêm, nhiều khi mấy huynh đệ cùng ra khu mộ ngồi đọc sách
dưới ngọn đèn mờ mờ từ cây trụ đèn hắt xuống. Ðêm yên bình cho những ước
mơ lang thang đây đó. Có lần Chơn Thanh hỏi huynh Thiện Tri rằng mai mốt
huynh có thích trụ lại đây để hoằng pháp không? Sư huynh cười, bảo hoặc là
huynh sẽ lên núi, hoặc là huynh sẽ vào chợ, không ở đây đâu! Chơn Thanh
thì không nghĩ thế, chú cảm thấy ở đây có một điều gì đó rất quan trọng
đối với chú. Ðiều gì thì chú chưa biết, nhưng chú mơ hồ cảm thấy mình rất
gắn bó và thân thiết với nơi này.
Ðó
là những tháng ngày cực mà vui. Khó khăn là môi trường tốt nhất để người
ta tự rèn luyện tâm chí. Ăn uống thiếu thốn. Tuần hai buổi, thầy Thiện
Phát thường lái chiếc Lambeta chở thêm một vài chú nữa ra chợ An Ðông, Cầu
Muối, Bà Chiểu... xin thức ăn về, chủ yếu là những loại rau cải héo úa.
Mỗi bữa cả chùa dùng hết một tạ gạo, tức mỗi ngày nhà kho phải xuất đến ba
bao chỉ xanh gạo. Tăng sinh được phát cho mỗi người một cái chén, một cái
muỗng và một đôi đũa, mất thì tự sắm lấy. Chúng học tăng chia nhau trị
nhựt. Rửa chén phải ít nhất bốn nước, huynh đệ sắp một dãy thau dài, người
này rửa xong thì chuyền cho người kia chuyền cho tới chỗ úp chén, rất nhịp
nhàng, đều đặn.
Chúng trưởng Long Thọ là sư huynh Bửu Thành. Huynh hiền lắm. Chúng trưởng
mà cắt việc cho huynh đệ chấp tác, mấy chú không làm thì huynh âm thầm làm
lấy. Trong chúng cũng có những người rất nghịch, như Tâm Thanh, Tâm Hòa,
Thiện Hữu... Ðơn Tâm Thanh nằm đối đầu với đơn Chơn Thanh. Một tối, trước
giờ thiền, Tâm Thanh hỏi xin Chơn Thanh một cuộn dây. Chơn Thanh hỏi: Chú
làm gì vậy? Tâm Thanh cười: Bí mật!... Lát sau, đang giờ thiền, cả phòng
chìm sâu vào sự yên lặng, bỗng đâu một tràng chuông reng... reng...
reng... vang lên, khiến ai nấy đều giật nẩy mình. Ðây đó có tiếng cười rúc
rích. Chơn Thanh nhìn qua phía bên kia, thấy huynh Tâm Thanh ngồi bật dậy,
khoanh chân kiết già ngay thẳng như không có việc gì xảy ra. Chơn Thanh
thấy mắc cười quá. Thì ra huynh này lém! Huynh lấy một thanh thép nhỏ, nẹp
vào lon sữa bò rồi quấn sợi dây thun, cột thanh thép vào sợi dây giăng
ngang đường làm chuông cảnh báo, huynh Bửu Thành đi tuần chúng, vướng dây,
kéo sợi thun nhả ra, quay thanh thép đập lia lịa vào hộp lon, tạo ra
tiếng chuông reo. Nhờ vậy mà khi toàn thể huynh đệ đang ngồi thiền thì
huynh ngon lành nằm ngủ, lúc nghe tiếng chuông reo thì mới bật dậy ngồi...
trình! Ðến khi xả thiền, huynh Bửu Thành đi điều tra, nhưng không ai khai
báo hết. Huynh liền gọi Chơn Thanh lại - vì so với mấy huynh đệ khác, chú
nhỏ hơn, lại hiền lành hơn - huynh hỏi, Chơn Thanh nói khéo: “Mấy thầy
dạy ngồi thiền là phải nhất tâm, không được mở mắt láo liên dòm ngang ngó
dọc, sao huynh lại hỏi em?”. Sư huynh Bửu Thành bó tay, không biết phải
làm gì, tủi thân ấm ức...bỗng òa lên khóc lên ngon lành. Mấy chục huynh đệ
ai nấy nhìn nhau ngơ ngác, vừa buồn cười, vừa thấy thương huynh quá.
Kỷ
luật Phật học viện khắc khe lắm. Hễ ai bỏ thiền hay không tụng kinh một
bữa là hôm sau phải lạy sám hối và quì một hương, lần thứ hai thì ba thời
sám hối và quì ba hương, lần thứ ba thì cho biệt chúng - tức “được”
ăn riêng, ở riêng, nhưng phải chấp hành thật tốt mọi thời khóa, bao
giờ ban Lãnh chúng thấy có sự thực tâm hối cải mới cho trở lại cùng chúng
sinh hoạt. Trong những ngày sống tại Huệ Nghiêm, hầu như Chơn Thanh chưa
phải quì đến ba hương lần nào. Chú sống hòa mình vào đại chúng, tham gia
tích cực mọi sinh hoạt của đại chúng; cũng... vi phạm nội qui nhưng chưa
bao giờ đi quá đà. Nhiều khi chú cũng “có phước”, thoát khỏi bao phen bị
phạt. Có lần huynh Hạnh Nghiêm mượn của ai đó về một bộ truyện kiếm hiệp,
mỗi tối sau giờ thiền, mấy huynh đệ rủ nhau chui vào bụi rơm sau vườn và
với một ngọn nến “tiện tay tiện tay” lấy trộm trên chánh điện, cả đám say
sưa đọc. Chơn Thanh mê truyện lắm, cũng theo mọi người đọc từ đêm này sang
đêm khác. Vậy mà đúng ngay cái hôm Chơn Thanh nghỉ vì bị bệnh thì mấy
huynh đệ bị thầy Quản chúng phát hiện, sáng ra bị bắt quì hương, sám hối,
chỉ có Chơn thanh là thoát.
Từ
ngày đến Huệ Nghiêm, ngoài hai vị sư huynh Thiện Tri, Minh Huệ ra, Chơn
Thanh còn thân thêm huynh Trí Hải nữa. Huynh tính tình rất dễ thương, khéo
tu đến độ dường như trong chúng không ai là không quí.
Chơn Thanh quen huynh trong một dịp khá đặc biệt. Ðó là lần Phật giáo
xuống đường năm 1966 để yêu cầu tự do tôn giáo. Lần xuống đường này, huynh
Minh Huệ bị trúng lựu đạn cay, ngất xỉu tại dinh Gia Long, được phật tử
đưa về dưỡng đường Lê Văn Miên điều trị. Chơn Thanh ở chùa, hay tin liền
vội vàng đến thăm. Hai mắt sư huynh vẫn còn cay xè, không mở ra được. Ngồi
bên giường là huynh Trí Hải, huynh không theo đoàn xuống đường nhưng huynh
thường có mặt tại những “điểm nóng” rất kịp thời để chăm sóc cho những
người bị nạn. Lần này cũng vậy, chính nhờ sự săn sóc tận tình của huynh mà
huynh Minh Huệ bớt khổ sở phần nào. Huynh tất bật đến từng giường bệnh,
hỏi han, chăm sóc hết người này đến người khác. Chơn Thanh theo chân
huynh, phụ giúp một tay. Từ đó chú trở nên gần gũi với huynh. Chú cảm thấy
nể phục hạnh nguyện Dược Vương của huynh lắm, bởi không phải ai cũng thành
tựu được hạnh nguyện đó.
Chúng ở đông, vì vậy không khỏi xảy ra những chuyện xích mích lặt vặt.
Nhưng Chơn Thanh tính tình ôn hòa, không va chạm với huynh đệ. Vì vậy,
trong chúng hầu như ai cũng mến chú, ai cũng có thể trở nên thân tình với
chú. Trong số huynh đệ, Chơn Thanh gần gũi, trò chuyện nhiều nhất với ba
vị sư huynh Thiện Tri, Minh Huệ và Trí Hải. Mấy vị sư huynh mỗi người một
đặc điểm nổi bật, đều học giỏi, đức hạnh, tài năng...
Huynh Thiện Tri nổi tiếng là người nghiêm trì giới luật - đặc biệt là sau
khi huynh thọ giới tỳ kheo. Huynh sống khắt khe và cẩn mật, đến mấy thầy
lớn cũng có phần “cả nể”. Huynh Minh Huệ thì nhanh nhạy và có phần... hào
hoa. Huynh Trí Hải hiền lành, vị tha và điềm đạm. Huynh là mẫu người mà
quý thầy lớn vẫn thường ngợi khen trước chúng. Ðặc biệt, cả ba sư huynh
đều học giỏi và thương quí Chơn Thanh. Bốn huynh đệ đều cảm thấy gần gũi,
cảm thông và sẻ chia những khó khăn, vui buồn trong cuộc sống cũng như
những kiến giải trong tu học. Không nói ra nhưng cả nhóm mặc nhiên xem
nhau như anh em ruột thịt. Thiện Tri thường được gọi thân thiện là “anh
hai”, Minh Huệ là “anh ba”, Trí Hải là “anh tư” và Chơn Thanh là “chú út”.
Ðời sống tu tập hẳn nhiên là có nhiều khó khăn và cũng thật nhiều cám dỗ,
không ai có thể tự phụ cho rằng lúc nào mình cũng xử sự đúng đắn. Một lời
góp ý đúng của chư huynh đệ, đôi khi có giá trị chuyển hướng cả một bước
đường tu hành.
Huệ
Nghiêm như một mảnh đất thân yêu, từng ngày từng ngày nuôi dưỡng những mầm
xanh vươn lên, cứng cáp và trưởng thành. Chơn Thanh cũng tự thấy mình học
hỏi được rất nhiều điều từ những sư huynh, những vị thầy nổi tiếng, đặc
biệt là quí ngài: Thiện Hoa, Thiện Hòa, Bửu Huệ, Thiền Tâm, Thanh Từ, Trí
Tịnh, Hoàn Quan, Từ Thông, Huyền Vi, Quảng Ðộ...
Cây cao bóng cả ^
Tại Phật Học viện, có ba vị Hòa thượng mà bất kỳ tăng sinh nào
cũng kính nễ. Ðó là hòa thượng Bửu Huệ - giám viện, hòa thượng Thiền Tâm -
giáo thọ, hòa thượng Thanh Từ -quản viện. Ba vị hòa thượng, mỗi người một
sở tu, sở đắc, nhưng đều là những bậc thầy đạo hạnh và uyên thâm giáo
điển, cùng chung một sở nguyện chung lo cho đàn hậu tấn.
Ðể
có được ba vị hòa thượng làm trụ cột cho Huệ Nghiêm, trước hết phải nhắc
đến công đức của hòa thượng Thiện Hoa, hòa thượng Thiện Hòa. Năm 1957, hòa
thượng Thiện Hòa mua lại mảnh đất của một phật tử, xây dựng Huệ Nghiêm,
đến cuối năm 1962 thì hoàn thành. Năm 1964, hòa thượng Thiện Hoa, trưởng
ban Hoằng pháp, quyết định dời Phật học viện vào An Dưỡng Ðịa, lập trường
Trung đẳng Phật học chuyên khoa - tiền thân của Phật học viện Huệ Nghiêm.
Hòa
thượng Thiện Hoa là một bậc danh tăng lỗi lạc. Ngài rất thấu hiểu tâm lý
lứa tuổi tăng sinh. Một lần, có vị thầy tuổi trung niên mới xuất gia,
thường làm ra vẻ đường đường Tăng tướng, dung mạo khả quan, đến
phàn nàn với hòa thượng rằng tăng sinh Phật học viện của ngài quậy quá,
ham giỡn nhiều hơn chăm lo thiền định. Hòa thượng cười, bảo: “Mấy chú tu
từ nhỏ, quậy một chút cũng không sao, chớ hơn bốn mươi năm qua, ông “quậy”
quá trời, có ai nói gì đâu, ông phải biết thông cảm với mấy chú chớ”!
Nhiều khi ngồi nghĩ lại, Chơn Thanh kính nể quí thầy quá. Quí ngài hầu như
ai cũng phát nguyện sau khi học xong thì nhập thất mười năm để thực chứng
những gì mình đã học. Vậy mà vì sự nghiệp chung, đành phải hy sinh mình,
đứng ra đỡ đầu, dìu dắt đàn hậu tấn. Chú đọc trong kinh Di giáo,
Ðức Phật dạy chư đệ tử rằng: một vị thầy mà chăm lo nhiều đồ chúng quá thì
cũng giống như cây đại thụ có nhiều chim chóc đến đậu vậy, chẳng mấy chốc
cành lá sẽ xơ rụi. Chú hiểu, vì tâm nguyện tiếp dẫn hậu lai, quí
ngài đành phải chấp nhận mối nguy hại đó nên càng kính trọng thâm ân của
quí ngài nhiều hơn. Các ngài đã để lại trong lòng Chơn Thanh một ấn tượng
mà sau này dù có làm gì, đi đến đâu, chú cũng không thể nào quên được.
Hòa
thượng Bửu Huệ rất hiền, lại ít nói. Nhưng chính sự uy nghiêm của ngài lại
làm cho chúng vô cùng kính phục. Trước khi đến Huệ Nghiêm làm giám viện,
hòa thượng đã tịnh tu gần mười năm. Chơn Thanh nghe kể lại: năm 1964, khi
hòa thượng đang tịnh tu trong thất Nam Tuyền tại Tân Hương, Long An, còn
một tháng nữa là tròn mười năm thì từ sự nhất trí đề cử của hòa thượng
Thiện Hòa và hòa thượng Thiện Hoa, hòa thượng Thanh Từ đã đến cung thỉnh
ngài về Sài Gòn để chung lo Phật sự. Sau đó, ngài Thanh Từ còn tiếp tục về
Bến Tre để thỉnh hòa thượng Thiền Tâm xả thất cùng đến Huệ Nghiêm. Nhờ vậy
mà Phật học viện mới có tam sư thường trực đức độ, uy nghiêm, nhiếp
chúng với tinh thần vô ngã, vị tha.
Trong ba vị, hòa thượng Thanh Từ nổi tiếng nghiêm khắc. Ngài ít nói nhưng
hễ đã nói là làm, nhất nhất không sai chạy. Có lần ngài thực thi kỷ luật,
đuổi khỏi viện hai vị học tăng gây gỗ nhau nảy sinh sân tâm, có hành vi
không biết kềm chế. Hòa thượng họp chúng, tuyên bố tẩn xuất. Mặc cho hai
vị đắp y sám hối và ban Lãnh chúng ngỏ lời xin tha, hòa thượng vẫn không
thay đổi quyết định.
Tối
hôm đó, trong khi hai sư huynh xếp sách vở, áo quần vào va li, các huynh
đệ cùng đến an ủi, Chơn Thanh ngồi xuống bên cạnh, phụ hai huynh xếp đồ.
Chú hỏi một trong hai vị: “Huynh có giận Hòa thượng không?”. Huynh ấy im
lặng một lát rồi lắc đầu: “Không đâu! Hòa thượng chỉ chiếu theo nội qui
Phật học viện. Tôi nhớ ngày trước, khi còn làm điệu, mỗi khi có lỗi, dù
lỗi không nặng nhưng vẫn bị sư phụ cho ăn đòn, sư phụ thường nói rằng một
đứa bị đau nhưng tránh được nhiều đứa sau này khỏi bị đau. Hòa thượng đuổi
chúng tôi khỏi viện chắc cũng vì lý do ấy. Tôi chỉ giận mình, tu lâu rồi
mà không làm chủ tâm được”. Sáng hôm sau, hai huynh đệ tách bạch từ giã
đại chúng. Chư huynh đệ tiễn hai thầy ra đến cổng, ai nấy ngạc nhiên khi
thấy hai chiếc xích lô máy chờ đó tự bao giờ. Hỏi ra mới biết có người gọi
sẵn. Hai sư huynh lên xe mà không cầm được nước mắt! Khi trở về phòng, đi
ngang qua thất hòa thượng, bất chợt, Chơn Thanh sững người lại: chú thấy
Hòa thượng đứng im bên cửa sổ nhìn ra, hai dòng nước mắt lặng lẽ chảy trên
đôi gò má của ngài. Hòa thượng khóc! Lần đầu tiên, và có lẽ cũng là lần
duy nhất trong đời Chơn Thanh thấy một vị hòa thượng khóc. Một vị hòa
thượng nổi tiếng cứng rắn đã nhỏ đôi dòng lệ từ bi. Ngay lúc đó, chú chợt
hiểu tấm lòng bao la của Hòa thượng, đuổi hai người là để đảm bảo kỷ cương
của hơn ba trăm người, giữ gìn oai nghi cho đại chúng.
Năm
1966, khóa học đầu tiên kết thúc, hoàn thành tâm nguyện, hòa Thượng Bửu
Huệ, hòa thượng Thiền Tâm, hòa thượng Thanh Từ tiếp tục con đường tịnh tu
của mình. Toàn thể tăng chúng tiễn đưa quí ngài, bùi ngùi không sao cầm
được nước mắt. Chơn Thanh cảm thấy Phật học viện như mất đi những cây cao
bóng cả, nghiêm khắc anh minh và bao dung từ ái.
Hòa
thượng Bửu Huệ trở lại tịnh thất Nam Tuyền, tiếp tục nhập thất chuyên tu.
hòa thượng Thanh Từ thì ẩn thân trên núi; sau hơn một năm dài, ngài về
Vũng Tàu thành lập tu viện Chơn Không, khơi mở cội nguồn cho dòng thiền
Trúc Lâm Yên Tử. Hòa thượng Thiền Tâm thì về Ðại Ninh lập tịnh thất Hương
Nghiêm ròng chuyên tịnh mật trong một vùng hoang sơ đầy rắn. Nơi đó, ngài
ở chung với những “đạo hữu không chân” vẫn thường đến để nghe ngài trì
chú, niệm Phật. Thỉnh thoảng, Chơn Thanh cùng mấy sư huynh lên thất thăm
và giúp Hòa thượng một số công việc. Thấy cảnh hoang sơ ấy, Chơn Thanh cảm
thấy rất thương ngài và kính nể ngài gấp bội. Thì ra, trong thời mạt pháp
này, vẫn còn đó những cội tùng vững chãi, những tấm gương đạo hạnh sáng
ngời. Trong cái sương lạnh của núi rừng, Chơn Thanh cảm thấy lòng mình
chợt như ấm lại...
Ba
vị Hòa thượng ra đi để lại một nỗi trống vắng lớn lao cho Phật học viện.
Ðể tiếp tục duy trì kỷ cương tu học và nề nếp sinh hoạt, một ban giám đốc
mới đã được thành lập, gồm: Thầy Phước Hảo - giám đốc, thầy Tâm Thanh -
tổng thư ký, thầy Ðức Pháp - giám học, thầy Từ Hóa - thủ quỹ. Ðó là một
ban giám đốc còn khá non trẻ, vì vậy giáo hội Tăng già thỉnh chư tôn đức,
mỗi ngày một vị, ra Phật học viện để trông coi toàn bộ sinh hoạt của tăng
chúng: Hòa thượng Minh Châu, hòa thượng Thiện Hoa, hòa thượng Thiện Hòa...
Nhờ cái bóng của quí ngài mà mọi sinh hoạt của tăng chúng trở nên
ổn định. Nhưng tình hình không thể duy trì như thế mãi. Năm sau, hòa
thượng Thiện Hoa lại đích thân xuống thất Nam Tuyền, một lần nữa, cung
thỉnh hòa thượng Bửu Huệ trở về làm giám đốc Phật học viện. Tăng chúng
Phật học viện từ đó lại được an tâm tu học dưới bóng cao râm mát của
ngài...
Thọ
giới^
Mấy huynh đệ, như thường lệ, mỗi cuối năm, lại về chùa thầy tổ,
phụ giúp thầy chăm sóc vườn tược, quét dọn đồ đạc chuẩn bị đón xuân. Ngày
tết, mấy chú cũng phải chia nhau xuống bếp phụ rửa chén, dọn cơm. Không
như một số chùa khác, “treo” chuông mõ từ hôm đưa ông táo về trời, mấy
ngày tết ở Phước Lâm vẫn kinh kệ ngày bốn thời đều đặn. Cũng như ngày
trước, thầy ngồi dưới phòng lắng tai nghe, hễ không thấy rõ tiếng tụng
kinh của chú nào là y như rằng ngay sau buổi lễ chú đó liền bị thầy kêu
lên phòng quở mắng.
Ðó
là mùa xuân năm 1969. Thời khắc giao thừa. Niềm vui bùng lên trong tiếng
pháo mừng rộn rã. Bảy hồi chuông trống Bát Nhã ngân vang. phật tử lần lượt
kéo nhau lên chùa dự khóa lễ đầu năm, cầu nguyện cho một năm yên mới yên
bình, nhân dân thoát khỏi nạn binh đao, máu lửa.
Sau
khóa lễ, chư huynh đệ vẫn y áo chỉnh tề, bưng khay trầm sang phòng mừng
tuổi sư phụ. Thầy mặc hậu vàng, trông rất nghiêm trang. Nhìn chúng đệ tử,
thầy cảm thấy lòng dâng lên một niềm hoan hỷ. Ít ra thì một số đệ tử của
thầy cũng đã trưởng thành. Chơn Thanh, Chơn Hòa tuy còn Sa di nhưng cũng
đã được trui rèn nhiều năm tại các Phật học viện. Tính đến năm nay, hai
chú vừa tròn hai mươi tuổi. Ðã đến lúc phải cho các chú thọ giới cụ túc.
Sau
khi chúng đệ tử chúc tết xong, thầy lì xì mỗi chú một chiếc bao giấy đỏ,
rồi thầy cho phép mấy chú ngồi xuống quanh thầy. Giọng nghiêm trang nhưng
thân tình, thầy nói:
-
Năm nay Huệ Nghiêm mở đại giới đàn, thầy định cho Chơn Thanh và Chơn Hòa
thọ Cụ túc giới, mấy chú lớn nghĩ sao?
Chơn Hiền nói:
-
Thưa thầy, con thấy Chơn Thanh, Chơn Hòa đã đủ tuổi thọ giới. Với lại các
chú ở Phật học viện bốn năm rồi, trình độ Phật học chắc cũng đủ...
Thầy cười:
-
Ừ, thì mấy chú thấy được là được rồi!
Im
lặng một lát, thầy tiếp:
-
Mai mốt đến kỳ Phật tử thọ bát, Chơn Thanh, Chơn Hòa lên tập giảng coi
sao.
Chủ
nhật, tuy vẫn còn “mùng”, nhưng sư phụ Thiện Thọ cũng tổ chức cho Phật tử
thọ Bát quan trai giới. Bảy giờ rưỡi sáng, Phật tử tề tựu đầy đủ ở chùa,
đợi thầy lên truyền giới. Nguyên ngày hôm đó, phật tử chuyên ròng kinh
hành, niệm Phật, nghe giảng, quả đường... nghiêm cẩn y như quí thầy đang
mùa An cư kiết hạ vậy.
Buổi chiều, sau giờ chỉ tịnh xong, quí phật tử đã thiết pháp tòa
đâu vào đó. Pháp tòa là một chiếc bàn nhỏ trải khăn xanh với một bình hoa
cúc vàng trông khá nổi bật. Pháp sư Chơn Thanh mặc một chiếc hậu
lam, không khác gì chiếc áo tràng của Phật tử mấy, chỉ có ống tay áo là
rộng và dài hơn, chuẩn bị “đăng lâm pháp tòa”. Chơn Thanh cảm thấy run
quá, vì đây cũng là lần đầu tiên chú đứng giảng trước rất nhiều Phật tử.
Kỳ thực, ở Phật học viện, học tăng được học khá vững về kỹ năng thuyết
giảng. Bên cạnh sư huynh Thiện Tri, Minh Huệ thuyết giảng rất vững và đi
giảng nhiều đạo tràng ra, thì Chơn Thanh cũng là một trong những người có
nhiều triển vọng nhờ chất giọng tự nhiên, vui và có phần tươi trẻ. Ðề tài
Chơn Thanh tâm đắc phần nhiều gần gũi với đời sống tu tập của phật tử, nên
chú cảm nhận rằng nếu mình thực sự ra giảng thì chắc cũng tạo được ít
nhiều ích lợi cho những người bước đầu học Phật, tập tu. Mỗi lần huynh
Minh Huệ đi giảng đâu đó, Chơn Thanh cũng đều xin theo, phần để học hỏi
kinh nghiệm, phần cũng nhằm trợ lực, gây cảm hứng cho huynh bằng những câu
hỏi thú vị nhưng không kém phần hóc búa.
Bây
giờ, ngồi trên pháp tòa, phía dưới là hàng trăm con mắt đang đổ dồn về
phía mình, Chơn Thanh không khỏi cảm thấy mất tự chủ. Toàn là người quen.
Họ biết chú từ khi chú mới về chùa, thậm chí đã từng thỉnh thoảng thấy chú
bị phạt quì hương chung với mấy chú khác vì tội nghịch ngợm. Những cặp mắt
hướng về phía chú vì tò mò nhiều hơn là chờ đợi nghe pháp. Mèn ơi, cái chú
Bé hôm nào đây mà, đi học mấy năm về thấy chững chạc dữ ha? Hỗng biết có
giảng được không đây? Chơn Thanh như đọc được những câu nói đó trong mắt
của các phật tử. Chú thầm niệm Phật cầu gia hộ rồi điều hòa hơi thở như
lúc tập ngồi thiền. Chú đưa ánh mắt nhìn khắp đạo tràng, lòng thầm nhủ:
mình phải xem họ như những ngươi thân rất gần gũi với mình, có sự giao cảm
ấy thì người nói người nghe mới không có khoảng cách nặng nề làm mình lo
âu, ngượng ngập. Rồi chú từ tốn bắt đầu: “Kính thưa quý phật tử trong Ðạo
tràng Bát quan trai giới, nhân dịp đầu năm, chắc hương vị tết vẫn ít nhiều
phảng phất trong lòng quí phật tử, vì vậy, hôm nay, chúng tôi xin nói với
quí phật tử về hạnh nguyện của ngài Di lặc, Ðức Phật tương lai của chúng
ta...”. Nói xong câu mào đầu, Chơn Thanh cảm thấy tự tin hẳn. Chú bắt đầu
giảng một cách trơn tru, sinh động. Những cặp mắt tò mò dần dần ánh nên
niềm ngạc nhiên, thích thú. Ðó là một trong những bước rèn luyện để chú
cảm thấy vững chân bước vào đại giới đàn thọ giới để trở thành một tỳ
kheo.
Mùa
Hạ năm 1969, Phật học viện Huệ Nghiêm khai Ðại giới đàn miền Quảng Ðức.
Chơn Thanh, Chơn Hòa và hàng trăm huynh đệ các lớp Trung đẳng Phật học
được chư tôn đức cho phép thọ Ðại giới, chính thức dự vào hàng Tam Bảo.
Hơn
một ngàn giới tử tựu về Phật học viện Huệ Nghiêm, gồm giới tử nội viện lẫn
giới tử ngoại viện. Giới đàn cung thỉnh Hòa thượng Hải Tràng làm Ðàn đầu
Hòa thượng. Ngoài ra, Tam sư, Thất chứng, có các vị Hòa thượng như: HT.
Trí Tịnh, HT. Hành Trụ, HT. Phước Cần, HT. Thiện Hòa, HT. Thiện Thành, HT.
Huệ Hưng... Tất cả đều là những vị danh sư. Chơn Thanh cảm thấy rất hãnh
diện khi được quí ngài truyền trao giới pháp. Bởi vì, thọ giới, không
những là bước ngoặc quan trọng trong suốt cả cuộc đời tu hành, mà còn kiến
tạo năng lực hộ trì tam nghiệp cho việc tiến tới quả tu giải thoát. Chơn
Thanh rất hiểu điều đó, nên trong lòng chú không ngừng rung lên những xúc
cảm mãnh liệt.
Những giới tử nội viện vượt qua kỳ khảo hoạch một cách khá dễ dàng, vì đa
số những câu hỏi đều nằm trong các bài giáo lý căn bản mà mấy huynh đệ đã
được học rất kỹ trong suốt mấy năm qua.
Khi
lễ truyền trao giới pháp chính thức được cử hành, một cảm giác rất lạ đột
ngột dâng lên trong lòng Chơn Thanh. Chú ngước nhìn chư vị Tam sư, Thất
chứng. Quí ngài trông uy nghiêm quá! Một trong những giờ phút thiêng liêng
nhất trong cuộc đời của một người tu là đây. Khi cúi đầu hướng về phương
Bắc đảnh lễ cha mẹ lần cuối cùng, nước mắt Chơn Thanh chợt trào ra. Kể từ
giờ phút này, chú trọn lòng với đạo pháp, dứt hết những hệ lụy của cuộc
đời. Trong trí tưởng của chú hiện lên rõ mồn một hình ảnh ba má ngày tiễn
chú đi xuất gia...
Lời
của Hòa thượng Ðàn đầu cắt ngang dòng suy tưởng của Chơn Thanh. Ngài khai
đạo giới tử: “Các giới tử lóng nghe! Ba đời chư Phật đều do xuất gia mà
được thành đạo; lịch đại Tổ sư truyền Phật tâm ấn đều là bậc sa môn, do
nghiêm trì giới luật thanh tịnh mới có thể hoằng truyền chánh pháp. Cho
nên tham thiền học đạo, giới luật làm trước. Nếu không tránh lỗi ngừa
quấy, thì làm sao mà thành Phật tác Tổ được. Bởi thế, người thọ trì giới
này, giữ đủ luật nghi của Phật, sẽ được Phật thọ dụng...”
Giới tử bước lên thọ lãnh giới pháp được chia làm nhiều đàn, mỗi
đàn ba vị. Chơn Thanh, Chơn Hòa và Chơn Tánh cùng một đàn. Ba vị cúi lạy
chư vị hòa thượng để thọ lãnh giới pháp từ quí ngài. Ðây là bốn pháp Ba la
di, đây là mười ba pháp Tăng tàn, hai pháp Bất định, ba mươi tội Xả đọa,
chín mươi Tội đọa, bốn tội Hối quá, một trăm pháp Chúng học, bảy pháp Diệt
tránh - tổng cộng thọ lãnh 250 giới. Này là y An đà hội, này là y
Uất đa la tăng, y Tăng già lê; này là bát; này là tọa cụ; này đãy lọc
nước. Tất cả vật dụng của một vị tỳ kheo thường phải mang theo bên mình
cũng đã được truyền trao. Kể từ giờ phút này, Chơn Thanh chính thức gia
nhập hội chúng Tăng già, trở thành một thầy Tỳ kheo. Như một luồn
điện chạy dọc xống lưng, Chơn Thanh nghe như có một sức mạnh hộ trì lan
tỏa khắp người. Mình đã đắc giới! - Chơn Thanh nghĩ - mình không còn là
một Sa di nữa mà đã là một tỳ kheo. Một Tỳ kheo, ngoài việc nghiêm trì
giới luật, còn phải xả thân hành đạo, phải luôn luôn sống vì lợi ích của
số đông. Tỳ kheo thì phải có trọng trách với Ðạo pháp, với sự hưng suy của
Ðạo pháp. Phải xoa đầu để luôn luôn tự nhắc nhở mình: mình là một Tỳ kheo!
Này là điều nên làm. Này là điều không nên làm. Này là con đường đưa đến
an lạc, giải thoát. Này là con đường đưa đến sự ràng buộc, khổ đau...
Những lời giáo huấn của Ðức Phật mấy ngàn năm trước như đang vang vọng
trong lòng Chơn Thanh. Mình khoát ba y, tay ôm bình bát, thầy nghe
lòng mình lắng dịu sâu sắc một nỗi niềm an lạc lạ kỳ.
Sau
khi thọ giới, thầy cùng nhiều huynh đệ khác thường được Ban lãnh chúng cử
đi thuyết giảng các nơi. Khi thì Bình Long, Tiền Giang, khi thì Trà Vinh,
Vũng Tàu... Ðối với thầy, thuyết giảng là một Phật sự quan trọng. Nhờ
những chuyến đi xa, thầy cảm nhận rất rõ niềm khao khát chánh pháp mãnh
liệt của phật tử. Thầy hiểu những bài pháp của mình tuy chưa sâu sắc, tuy
chưa có nền tảng thực chứng như quí hòa thượng, song, trong chừng mực nào
đó, đây cũng chính là những liều thuốc quí, có công năng hóa giải bớt
những nỗi khổ đau, mất mát, đem lại nguồn sống tươi mới cho một số người.
Cảm
nhận sâu hơn trọng trách của mình, thầy tâm nguyện được dấn thân vì đạo
pháp. Nhiều lần thầy đến giảng tại các vùng sâu, vùng xa, phương tiện đi
lại khó khăn, đôi khi kẹt lại ở đó đến vài ngày. Gian khổ nhưng vui, niềm
vui rất thật - vui vì đem chánh pháp đến cho người. Những lúc ấy, thầy
thường nhớ lại và nhẩm đọc bài học thuở nhỏ sư phụ Thiện Thọ vẫn bắt đọc
mỗi buổi sáng trước khi tập thể dục: “Nơi nào Chánh pháp cần, con đến;
nơi nào chúng sanh cần, con đi. Không quản gian lao, không nề khó nhọc...”
Ðó
là quãng vào những ngày sau tết năm 1971. Thầy cảm thấy mình đã cứng cáp,
tự tin hơn nhiều trong những lần thuyết giảng. Thầy nhận thấy những vị
thầy của mình ở trường, ngoài việc rất uyên thâm giáo điển ra, mỗi vị còn
có một “chiêu thức” riêng để thu hút thính chúng. Hòa thượng Huyền Vi thì
độc đáo bởi vốn ngoại ngữ sâu rộng, ngài có thể chú nghĩa các thuật ngữ
Phật học bằng tiếâng Anh, tiếng Pháp, tiếng Pali. Hòa thượng Từ Thông thì
đặc sắc bởi khiếu vẽ - với một viên phấn và vài nét phác họa, một con cò
hay một bụi trúc hiện ra trông hết sức sống động. Thầy không có những nét
độc đáo như quí ngài, vì vậy, thầy chọn cách tạo cho mình không khí tự
nhiên, gần gũi, thân mật đối với thính chúng. Bài giảng của thầy thường là
những vấn đề thiết thực với cuộc sống của mọi người, nên tuy còn trẻ, thầy
vẫn được rất nhiều phật tử quí kính.
Ðèn
sách ^
Thầy và các huynh đệ đã bước qua kỳ thi tốt nghiệp Trung đẳng,
ráo riết ôn luyện chuẩn bị cho việc dự tuyển vào kỳ thi Cao đẳng Phật học
cam go sắp tới.
Hàng ngày, tăng chúng tu viện rất ít khi ra ngoài, phần vì ít nhu cầu thế
sự, phần vì qui luật của Phật học viện khá khắt khe, phải đi thưa về trình
qui củ; vì vậy, mỗi khi có việc quan trọng, mấy huynh đệ mới xin ra ngoài.
Trong thời gian này, thầy gần như chỉ chú tâm vào việc học. thầy cảm thấy
bể học thức sâu rộng, chỉ riêng tri thức Phật học thôi cũng không thể nào
chiếm lĩnh hết được. Nhưng kinh điển rất hiếm, không phải lúc nào cũng có
sẵn để đọc. Nhiều quyển kinh sách chỉ chư vị giáo thọ sư mới có, nên mỗi
buổi học tại lớp, học tăng phải ghi chép rất nhiều. Vì vậy, Phật học viện
quyết định thành lập một ban ấn loát, gồm: thầy Phước Tài làm trưởng ban
và các thành viên gồm Thiện Tri, Chơn Thanh, Chơn Phát... Ban ấn loát có
trách nhiệm viết lại các bản kinh, đặc biệt là kinh chữ Hán, quay roneo
làm tài liệu phát cho huynh đệ học tập.
Sau
kỳ thi tốt nghiệp Trung đẳng Phật học của tăng sinh, Phật học viện vẫn
sinh hoạt như thường lệ, nhưng các thời khóa như được giãn ra. Học tăng
chuẩn bị thi vào Cao đẳng Phật học được hưởng một số ưu tiên so với các
huynh đệ khác trong những sinh hoạt thường ngày. Một số vị xin phép về trụ
xứ để tập trung ôn bài; một số khác ở lại, một mặt duy trì các thời khóa,
một mặt chuyên tâm cho việc học hành.
Không khí tại Phật học viện như trầm lắng xuống. Trong khung cảnh quen
thuộc với những sinh hoạt thường ngày, không phải lúc nào cũng khiến cho
người ta có thể chú tâm vào việc học được, nhiều lúc việc học có thể bị
phân tán do những chuyện không đâu. Do vậy một hôm, huynh Trí Hải đề nghị
với các huynh đệ: “Ở đây khó chú tâm cho việc học quá. Hay là mình xuống
chùa Long Khánh học đi!”. Ý kiến của huynh được mọi người hưởng ứng ngay
lập tức. Bởi trong mấy huynh đệ, dường như ai cũng đã từng có lần xuống
chùa Long Khánh. Chùa Long Khánh nằm cạnh một con sông nhỏ với vườn cây
xanh mát, nhất là phía vườn cau, không khí trong lành và thật yên tĩnh. Sư
cô Mỹ Duyên là trụ trì ở đây. Cô là người thân của huynh Trí Hải, từng lo
lắng, chăm sóc huynh lúc huynh còn làm điệu “ba chóp”. Tính sư cô khá
thoáng, lại rất quíù những học tăng chăm chỉ học hành. Cô không nhận ni
chúng, vì vậy, Long Khánh là một nơi khá lý tưởng cho các huynh đệ “trú
quân” trong khoảng thời gian dùi mài kinh sử.
Chiều chiều, sau khi cơm nước xong, bốn huynh đệ, thêm thầy Minh Thanh và
thầy Thiện Phát nữa, cùng nhau đạp xe xuống chợ Ðệm. Mấy huynh đệ được sư
cô giao cho một căn phòng khá rộng, đèn đóm đầy đủ. “Mấy thầy muốn học lúc
nào thì học, muốn ngủ lúc nào thì ngủ!” - sư cô nói. Thỉnh thoảng, cô lại
đem bánh, sữa, mì gói xuống cho mấy huynh đệ “bồi dưỡng”. Nhiều khi, mấy
huynh đệ ở lại Long Khánh đến vài ba ngày, tự phân công nhau đi tụng kinh,
nấu cơm, rửa chén... phụ với sư cô. Nhiều khi thức khuya quá, sợ ảnh
hưởng đến chùa, lại gặp lúc đêm trăng sáng, mấy huynh đệ liền kéo nhau ra
vườn cau ngồi học dưới ánh trăng, rồi cùng nhau khảo bài, ai không thuộc
thì sẽ bị phạt...
Rồi
mùa thi cũng đến. Hội đồng thi tại Viện Ðại học Vạn Hạnh - do hòa thượng
Minh Châu làm Viện trưởng - rợp màu áo nâu. thầy cũng hòa vào mảng nâu ấy,
nhận thấy mình khá nhỏ nhoi giữa hàng trăm tăng ni sinh dự tuyển. Tuy vậy,
thầy cũng thấy tự tin bởi đã ôn bài khá kỹ, cộng với những lần đi thuyết
giảng cho phật tử, thầy nghĩ vốn giáo lý và vốn sống đạo của mình chắc tạm
đủ để có thể vượt qua kỳ thi này.
Kết
quả danh sách thí sinh dự tuyển được dán trên một chiếc bảng lớn tại
trường. Ngay buổi sáng công bố kết quả, đã có nhiều tăng ni sinh đến xem.
Tăng riêng, ni riêng, mỗi bảng danh sách lại được niêm yết thành hai bảng
nhỏ: bảng danh sách thí sinh thi đậu và bảng danh sách thí sinh thi rớt.
Danh sách thi đậu được xếp theo thứ tự điểm số, từ cao đến thấp. Chưa kịp
lướt mắt xuống, Chơn Thanh đã vội dừng ngay lại ở dòng tên đầu tiên: thủ
khoa, không ai khác, chính là sư huynh Thiện Tri, tiếp theo, thứ nhì là
Chơn Thanh, thứ ba là Minh Ðạt. Á khoa! - Thầy thầm nghĩ - mình đã đậu cao
hơn nhiều huynh đệ khác! Ðó như là một sự may mắn vì thầy biết có nhiều
huynh đệ chăm học và còn có khả năng hơn thầy. Tuy vậy, thầy rất vui, thầy
nghĩ đây cũng là một quả tốt cho việc đèn sách cần cù của các thầy.
Trong năm này, có một sự kiện đáng nhớ, đó là Phật học viện Huệ Nghiêm
được đổi tên thành Viện Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm, do Hòa thượng Trí
Tịnh làm viện trưởng, hòa thượng Bửu Huệ làm viện phó đặc trách học vụ,
Hòa thượng Quảng Ðộ làm Tổng Thư ký, Hòa thượng Thiện Hòa làm Giám Luật.
Viện Cao đẳng được chia làm ba cấp: bốn năm đầu học cử nhân, hai năm sau
học cao học, hai năm sau nữa học tiến sĩ. Chơn Thanh lại tiếp tục cuộc
hành trình tu học, mà với thầy, vẫn còn rất xa rộng phía trước...
Khói hương ^
Bước vào Viện Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm, một trong những
cảnh quan thu hút cái nhìn của mọi người là ngôi bửu tháp Phổ Ðồng. Ngọn
tháp như vươn hẳn lên giữa bầu trời cao xanh lồng lộng với bảy tầng. Tháp
cao chừng 34 thước, không chạm trổ hoa văn, không màu sắc sặc sỡ, nhưng
với nét bình dị ấy, ngọn tháp lại càng uy nghiêm, sừng sững hơn.
Ngôi tháp hoàn thành năm 1972. Chót vót trên tầng tháp thứ bảy, ở chính
giữa, chưng thờ xá lợi Tôn giả Mục Kiền Liên, chung quanh là di cốt của
chư vị tăng ni giáo phẩm. Những tầng dưới là nơi nhập cốt vĩnh viễn những
ưu bà tắc và ưu bà di; còn có một gian khá rộng nữa dành riêng cho việc
cúng kính. Thầy và sư huynh Thiện Tri được ban Lãnh chúng giao cho nhiệm
vụ chăm lo chỗ thờ cúng này. Nhiều lúc hai thầy phải quán xuyến luôn cả
việc cúng thất cho chư hương linh.
Những năm sau này, chiến tranh càng trở nên khốc liệt, số hương linh nhập
di ảnh hoặc di cốt vào tháp Phổ Ðồng càng nhiều, chủ yếu là những người
lính trẻ tử trận. Ða số các thân nhân quìø trước di ảnh là những người phụ
nữ còn rất trẻ, bên cạnh họ thường là những đứa bé thơ. Họ còn trẻ quá,
đẹp quá, đến nỗi hai thầy thường xuyên bị mấy huynh đệ trong chúng chọc
ghẹo rằng: coi chừng cúng bảy thất là mất ông thầy đó nghe! Huynh
đệ nói đùa, nhưng trong chừng mực nào đó, những lời nói đùa ấy cũng có
công năng nhắc nhở, thức tỉnh. Quí thầy lớn vẫn luôn để tâm coi ngó mấy
thầy trẻ, sợ mấy thầy bị “giống cọp có đuôi trên đầu” bắt mất đi. Ðối với
thầy, chưa bao giờ thầy quan tâm nghĩ đến việc ấy. Ðứng trước những người
phụ nữ đáng thương ấy, thầy cảm thấy mủi lòng! Chiến tranh đã làm cho cuộc
sống trở nên tang thương, tan nát tất cả. Nhìn cảnh ấy, thầy tự nhủ mình
phải cố dốc lòng hơn nữa chăm lo chu toàn việc cúng kính, để phần nào trợ
giúp cho hương linh người chết và cũng để an ủi, thức tỉnh người sống.
Nhiều hôm, cầm cây chổi lông gà phủi bụi qua mấy tấm di ảnh, thầy đột
nhiên dừng lại, nhìn chăm chú vào một tấm ảnh nào đó, thầy thấy họ sao mà
quen quá, quen như thể họ là những người hàng xóm cùng quê của thầy vậy.
Thầy chợt nhớ đến câu chuyện mà thầy từng đọc đâu đó về đức Phật, ngài đã
cố ngăn cuộc chiến tranh giữa vương quốc Kiều-tát-la của vua Lưu Ly và
thành Ca-tỳ-la thuộc dòng tộc Sakya của ngài. Mỗi lần gặp Ðức Phật, vua
Lưu Ly lại lui binh, nhưng mối thù thì không thể nào dứt được. Vua dùng
quân để vây khốn Ca-tỳ-la. Ðức Phật biết rằng đó là cộng nghiệp của dòng
họ Sakya, đã đến lúc họ phải trả, ngài không thể can thiệp vào nghiệp lực
của người khác được. Chuyện kể rằng, ngài Mục Kiền Liên thấy thế, liền
dùng thần thông đưa 500 người Sakya bỏ vào bình bát đem ra khỏi thành để
tránh bị chém giết. Nhưng khi mở bình bát ra, ngài kinh ngạc khi nhìn thấy
trong bình của ngài chỉ chứa toàn máu!
Nghiệp lực của con người chăng? Nhưng ai gây ra nghiệp? Thầy tự hỏi và tự
trả lời: ừØ, thì cũng tại con người! Trong cái sức mạnh cộng nghiệp này,
thầy trở nên quá nhỏ bé. Nhưng cho dù nhỏ bé đến thế nào, thầy vẫn cố cầu
nguyện cho cuộc chiến tranh sớm chấm dứt, để mọi người bớt khổ.
Buổi sáng, như thường lệ, sau giờ công phu, thầy lên tháp lau quét bàn
Phật và phủi bụi trên những bức ảnh thờ. Thầy quét cẩn thận, nhẹ nhàng,
như thể sợ hương linh sẽ giật mình thức giấc. Xong công việc, thầy ra ban
công, đứng hít thở bầu không khí trong lành và nhìn về phía phố xá. Một
màng sương mỏng lãng đãng bao trùm lấy thành phố đã bắt đầu rộn lên báo
hiệu một ngày tất bật.
Chiến tranh đã bùng lên khắp nơi. Cả cái thành phố rộng lớn này đi đâu
cũng nghe người ta xôn xao bàn tán về những trận đánh. Ngay cả những phật
tử thuần thành cũng không còn giữ được tâm thái thanh thản thường ngày.
Người ta lo sợ. Sợ điều gì chính người ta cũng không phân tích được rõ
ràng. Nhưng đó là một nỗi sợ thật sự. Nhiều Phật tử đến chùa không còn
chăm tụng kinh nữa, họ đến để hỏi quí thầy về những điều chưa đến. Có lần,
để giải tỏa nỗi lo lắng cho một phật tử, thầy kể cho người đó nghe câu
chuyện về một người mất ngựa. Mất ngựa, nhưng ông không buồn, vì ông hiểu
được bản chất của cuộc đời, rằng cái gì đến tất nó sẽ đến. Cái sẽ đến có
thể là lành, cũng có thể là dữ, không biết trước được. Vài hôm sau, con
ngựa của ông trở về, rủ theo một con ngựa nữa. Hàng xóm đến chúc mừng ông,
nhưng ông không lấy đó làm mừng. Hôm sau, con trai ông đem con ngựa mới ra
tập cưỡi, vì không thuần, ngựa hất rơi đứa con trai xuống đất, gãy một
chân. Hàng xóm đến chia buồn, ông bảo, đó không hẳn đã là chuyện buồn. Rồi
bất ngờ chiến tranh ập đến, trai tráng trong làng đều bị bắt ra chiến
trận, chỉ có con trai ông là thoát... Chuyện tuy giản đơn nhưng hết sức ý
vị.
Vô
thường - trong mắt nhiều người là một sự đau khổ. Nhưng, trong nhận thức
của thầy, nếu không có vô thường thì không có cuộc đời này, cũng không có
Niết Bàn. Vô thường làm cho cuộc sống nở hoa, làm cho cuộc sống thay đổi.
Sự thay đổi là cần thiết, nếu biết nhìn nhận đúng bản chất của vấn đề.
Chiến tranh rồi cũng đã kết thúc. Sau bao năm tranh đấu, bây giờ đất nước
đã được thống nhất. Quân giải phóng tràn vào thành phố. Cờ đỏ phần phật
tung bay. Nụ cười và nước mắt. Những loạt đạt đây đó thỉnh thoảng vẫn nổ.
Người em trai của thầy - chú Ðợi - từ ký túc xá sinh viên hớt hãi chạy
sang chùa, hấp tấp nói :
-
Thầy ơi, em về quê nghen?
Thầy hỏi:
-
Sao lại về quê? Trong lúc giao thời đương nhiên có nhiều biến cố phức tạp,
nhưng từ từ rồi sẽ ổn định thôi. Chú phải ở lại học cho xong chớ. Chú đã
hứa với ba má là sẽ trở thành thầy giáo cho ba má vui lòng mà.
Nói rồi thầy dắt chú vào chánh điện. Lần nào đến chùa thăm thầy, chú Ðợi
cũng lên chánh điện lạy Phật. Thầy điềm tĩnh đốt nhang, thắp lại hết mấy
cây đèn cầy trong chánh điện, rồi nhẹ nhàng nói với người em:
-
Thôi, lạy Phật đi, bình tâm lại, chú cũng biết chút ít giáo lý, không áp
dụng được miếng nào sao?
Chú
Ðợi không đáp. Chú lẳng lặng đến trước bệ Phật, khẽ khàng quì xuống. Thầy
cũng trang nghiêm quì xuống. Ngoài kia không khí sôi động ong ong, trong
chánh điện khói hương bình lặng tỏa. Những ngọn nến chao chao khi có cơn
gió đến, nhưng rồi vẫn cháy sáng lung linh đến giọt cuối cùng nếu có ánh
mắt, bàn tay người giữ lửa.
Gió mùa hạ ^
Những vị xuất gia chủ trương thoát tục, ở ẩn núi cao rừng sâu,
chuyên tu, tự tin giữ gìn mối đạo bằng cách thể hiện sự chứng ngộ của
mình, cắt đứt hẳn với thế giới bên ngoài, tồn tại một cách độc lập, mới
không bị tác động của những biến đổi xã hội; còn người mang tâm nguyện
hoằng dương Chánh Pháp, tu tập giữa cuộc đời thì những biến đổi của xã hội
ảnh hưởng rất lớn vào đời sống.
Mùa
hạ năm 1975, thầy đã chứng kiến bao nhiêu là biến động, những người bạn
thân thiết sống chung dưới mái trường Phật học Huệ Nghiêm, cùng kết nghĩa,
coi nhau như anh em rất chân tình, giờ đã tan tác mỗi người một nơi. Trong
nhóm chỉ còn “anh tư” Trí Hải và “chú út” Chơn Thanh trụ lại. Có những
buổi sáng đi dạo quanh chùa, đứng ở tháp Phổ Ðồng, thầy quay nhìn lại hai
dãy phòng quen thuộc: nơi này đã có những ngày rộn tiếng huynh đệ gọi nhau
trước lúc đi ăn quả đường, tiếng bàn luận, hỏi han đầm ấm sau giờ tan học;
tiếng cười vui nhẹ nhàng khi đi tụng kinh xuống, y hậu vàng rực cả một góc
xôn xao. Những âm thanh quen thuộc ấy giờ còn đâu! Một số phòng cửa đã
khóa im ỉm vì người ở đó đã ra đi! Dãy nhà lặng vắng, một không khí buồn
bã nặng nề bao trùm. Những huynh đệ ngày nào cùng nhau tu học, chia sẻ
những gian lao, thiếu thốn, ôm ấp biết bao hoài bão ước mơ, mà giờ đây mỗi
người một nẻo. Người về chùa Tổ, người đi nước ngoài, kẻ ra đời hoàn
tục... Mới hay ở đời “đồng cam” đã khó mà “cộng khổ” lại càng khó hơn. Khi
thiếu thốn vất vả chịu đựng như nhau thì mọi người cùng siết tay sát cánh
đương đầu, nhưng khi cái khó, cái khổ giáng xuống từng con người với một
mức độ khác nhau thì con người bắt đầu buông nhau ra và trong hàng ngũ sẽ
có ngay những kẻ đứng im hoặc quay lưng lại. Lý tưởng xuất gia cao đẹp là
vậy, những ngày tâm đắc tiếp cận giáo pháp cao sâu, được thầy tổ sách tấn
hết lòng như thế, tưởng rằng bột sẽ thành bánh, nào ngờ óc trâu lợn cợn,
bánh cũng không thành mà muốn trở về thân gạo cũng không xong. Nguyễn Du
đã thật thiên tài khi dùng từ “hàng thần lơ láo”. Những người thay đổi
không phải do chủ định mà do đứng trước hoàn cảnh không trụ được thì suốt
đời đi cũng như trôi. Biết vậy, nhưng đâu phải ai cũng có thể kiên trì đối
mặt cùng thử thách. Thầy suy nghĩ thật nhiều và cảm thấy buồn. Thầy không
trách những huynh đệ ra đi, thầy chỉ thấy thương và tội cho tất cả vì
biết nghiệp duyên khó cải. Bản thân thầy, dù đã quyết định con đường ở
lại nhưng nhìn không khí ảm đạm xung quanh, cũng không khỏi xao lòng.
Buổi chiều, sau giờ cơm, các thầy thường đi bách bộ trong khuôn viên chùa,
từng người hoặc từng nhóm ngồi lại với nhau trên các băng đá.Vẫn không
gian và cảnh vật ấy mà sao giờ đây không khí nhuốm màu ảm đạm. Ai nấy nói
năng dè dặt, trong mắt mỗi người đều ẩn nét âu lo. Có những nhóm trước kia
hay tụ họp trong phòng trò chuyện, bàn bạc về giáo lý, về tình hình thời
sự. Bây giờ, những buổi nói chuyện thật nhạt nhẽo. Trước kia đất nước
chiến tranh, tình hình xã hội biến chuyển, thay đổi từng ngày mà tinh thần
mọi người không dao động. Bây giờ, đất nước hòa bình, tình hình xã hội đã
khẳng định, vậy mà tinh thần mọi người lại bất ổn vì những âu lo xa xôi.
Mới hay đức Phật ngày xưa thấy tâm chúng sinh rất rõ, Ngài đã không trả
lời các câu hỏi về những chuyện xa xôi, chỉ dạy bảo người nên nhằm vào
hiện tại mà tu tập, thân đâu tâm đó sẽ bớt những phiền não vô ích. Là
người tu, bất cứ thời nào, bất cứ lúc nào nếu biết nương vào Pháp Phật,
đừng để tâm chạy theo ngoại cảnh lăng xăng thì sẽ được yên. Thầy chợt nhớ
về cái triết lý ăn chuối của dân gian ngẫm thiệt hay: lột tới đâu cắn tới
đó. Trong tình hình này, chớ nên suy diễn toan tính đa đoan, cứ quán chữ
duyên mà tùy thuận là hay nhất.
Một
hôm, ngồi nói chuyện với thầy Trí Hải bên hồ sen, nhìn mấy cái mạng nhện
nho nhỏ giăng trên đám sen trong hồ, thầy ngẫm nghĩ: những con nhện trước
khi giăng tơ phải quan sát, chọn kỹ cho mình một góc để giăng, đã chọn thì
phải làm cho trót, nếu cứ giăng chỗ này vài đường, lại nhảy sang chỗ kia,
thì suốt đời giăng mắc dở dang! Những con nhện biết chăm chút cái góc mà
mình đã chọn, giăng cẩn thận những đường tơ rút từ ruột của mình để có
một cái lưới tròn, chắc, thì gió giật không đứt, mưa quất không rơi. Cái
lẽ ở đời của con người cũng thế. Quay qua thầy Trí Hải, thầy nói:
-
Trong nhóm huynh đệ thân thiết chúng mình, “anh hai” và “anh ba” đã ra đi,
còn tôi với thầy chúng ta gắng trụ lại. Mình đã gắn bó với nơi này hơn
mười năm qua, những điều chúng ta học hỏi được ở Phật học viện, không lẽ
không giúp gì được cho chúng ta vượt qua thử thách hôm nay hay sao?
Thầy Trí Hải bóp chặt hai bàn tay, gương mặt lộ rõ nét đăm chiêu, lúc sau
mới nói:
-
Huynh đệ ở đây lúc nầy rất hoang mang với những tin đồn: nay thì lấy
trường, mốt thì sẽ không cho tu.... tôi cũng thấy lo quá!
Thời cuộc ảnh hưởng rất lớn vào tư tưởng mỗi người. Ai mà không lo, giữa
lúc mọi thứ còn đang quá mới mẻ, biết bao sự hoài nghi phát tán khắp nơi.
Mọi phán đoán nhận định đều có thể sai lệch, nhưng là người tu, đối cảnh
phải biết điều tâm, tri hành hợp nhất. Bao nhiêu điều tâm đắc từ giáo pháp
cao minh, đối với cảnh trần chẳng lẽ chỉ là những bài học suông? Thầy nói:
-
Nghiệp duyên dù khó chuyển, nhưng nếu lòng thành phát tâm thì tôi tin rằng
chúng ta sẽ được gia hộ. Gió chỉ có thể thổi tung được bụi cát chớ làm sao
bay được đá tảng.
Trầm ngâm một lúc, thầy ngồi xích lại gần thầy Trí Hải nói nhỏ vừa đủ hai
người nghe:
-
Thời nào cũng vậy, con người luôn cần có một đời sống tâm linh. Những quan
niệm ấu trĩ, quá khích, nhất thời rồi sẽ bị thời gian đào thải. Thầy học
lịch sử cũng thấy đó: dân tộc ta, truyền thống Phật giáo đã ăn sâu, dù
trải qua thăng trầm nhưng rồi vẫn giữ vững vị trí trong lòng trăm họ.
Những tấm gương xưa còn đó, không bằng cách này thì bằng cách khác, những
bậc chân tu vẫn giữ tròn mối đạo. Mình xuất gia rồi, xá gì an nguy của bản
thân, quyết chí tu hành chân chánh, tôi nghĩ không có gì không thể vượt
qua.
Có
lẽ đây cũng là dịp sàng lọc nghiêm khắc. Thế hệ những người xuất gia đi
qua mấy cuộc chiến tranh đến ngày đất nước thống nhất, trải bao thay đổi
từ chế độ chính trị, hoạt động xã hội bên ngoài đến tận ý thức hệ, tư
tưởng bên trong con người... Chính thế hệ ấy đã cho Phật giáo Việt Nam
những bậc cao tăng tài đức mà sau này lịch sử còn mãi lưu danh.
Trong những ngày này, Phật học viện Huệ Nghiêm – một trong những cái nôi
tu học quan trọng của chư tăng miền Nam - nếu không được bàn tay dìu dắt
của quí hòa thượng, không biết tình hình còn tan tác đến đâu. Hòa thượng
Bửu Huệ nhận thấy mỗi lần họp chúng là mỗi lần chư tăng thưa thớt dần dần.
Sự tồn tại của Phật học viện Huệ Nghiêm do bao công sức và tâm huyết của
hòa thượng Thiền Tâm, hòa thượng Thanh Từ... không lẽ trôi theo dòng nước?
Hòa
thượng Bửu Huệ triệu tập cuộc họp Ban chấp hành nhà trường để nhận định
tình hình tư tưởng của tăng chúng và bàn phương án giải quyết. Hòa thượng
đưa ra ý tưởng dựng một số thất cho chư tăng nhập thất tu tập, quay về
sống với nội tâm, bớt đi những vọng tưởng, bớt bị chi phối bởi trần cảnh
bên ngoài. Mọi người đều tán thành ý định lập thất tu tập của hòa thượng.
Thế là hai thất bằng lá được dựng lên cấp thời phía sau dãy phòng tăng.
Mọi người trong chúng ai cũng phải bắt thăm nhập thất từ một tuần cho đến
sáu tháng. Từ khi có hai thất lá, tinh thần của mọi người bớt đi phần nào
hoang mang, bắt đầu bình tâm trở lại. Không khí dần lắng dịu.
Sóng gió thật lợi hại, nhưng nếu biết chống chèo thì rồi cũng vượt qua.
Sóng bên ngoài không nguy hiểm bằng sóng bên trong. Khi lòng người dậy
sóng, thì thuyền to biển lặng cũng cứ phải loay hoay giữa giòng không thể
đến bờ nào được.
Nhập thất ^
Ðối với các mối quan hệ hằng ngày thầy hay xuề xòa, dễ dãi cho
qua: “thôi kệ...” đó là câu cửa miệng mà thầy hay nói, nhưng trong tu học
thầy luôn nghiêm khắc với chính mình. Ðể chuẩn bị cho ngày nhập thất, thầy
tìm đọc, nghiên cứ kỹ các tài liệu sách vở một cách riết ráo và chú ý tham
hỏi ý kiến những huynh đệ nhập thất trước đó. Thầy thường xuyên lên chánh
điện lạy Phật cầu gia bị. Tập ngồi thiền lâu hơn thường ngày. Thầy ý thức
đây là dịp tu tập quan trọng cho mình, không phải là sự đối phó hay khoa
trương, do vậy thầy chuẩn bị cho mình thật kỹ về tinh thần cũng như kiến
thức. Tu tập phải dụng công toàn diện, không thể phiến diện nghĩ rằng chỉ
có tu tâm là đủ. Ði quả là bằng chân nhưng nếu chỉ có hai chân cử động
thôi thì không thể về đích được. Phải có ý muốn đi, có mắt nhìn đường và
cả người cùng chuyển động hỗ trợ cho chân bước đi thì mới tới đích được.
Phải khiêm cung nhận biết khả năng mình, không thể ngã mạn so mình với
những bậc tuệ giác cao, chỉ cần một cành hoa, một tiếng hét là có thể hốt
nhiên đại ngộ. Thầy luôn ý thức học hỏi một cách cẩn thận, bất cứ làm việc
gì cũng chu đáo chuẩn bị.
Ðến
ngày thầy nhập thất. Y Hậu trang nghiêm thầy lên chánh điện lễ Phật, lễ
Tổ. Thầy Minh Thanh được phân công hộ thất, cũng y hậu chỉnh tề đưa thầy
vào. Dù đã chuẩn bị kỹ nhưng thầy vẫn cảm thấy hồi hộp, xúc động. Thầy đã
từng nghe nhiều câu chuyện kể lại tâm trạng khi ở trong thất: rất nhiều
những biến hiện của tâm khi nó ở yên không có cảnh và duyên tiếp xúc. Ðối
với người nhập thất có phương pháp điều tâm thích hợp, hiệu quả thì trạng
thái rất an lạc. Nhưng nếu người nhập thất chưa quen, điều tâm chưa tốt
thì rất nhiều chướng ma quấy phá. Trước khi vào thất thầy cũng như các
huynh đệ đều đã được nghe hòa thượng giải thích dặn dò: “Tâm ta như con
vượn, lúc nào cũng muốn leo trèo, nhảy nhót suốt ngày, không thể ngồi yên
cho nên khi để tâm không là nó sanh khởi vọng niệm, người tu
phảøi biết nhận ra nó để mà điều phục. Khi nhập thất phải lưu ý không
nên sợ hãi khi gặp ma ấm hoặc Phật cảnh hiện ra, lúc đó phải
trụ tâm, thân đâu tâm đó không nên xao động cũng như tham đắm.
Phải biết bớt việc từ bên trong lẫn bên ngoài, phải giữ tâm hiện tiền
không để cho nó chạy theo tập khí, việc đi đứng nằêm ngồi chấp tác trong
khi nhập thất cũng phải biết hạn chế”...
Qui
định ở trong thất: ngoài những dụng cụ cá nhân và y hậu...không đựợc mang
vào thất bất cứ vật gì kể cả kinh tụng. Thầy tự phân thời khoá cho chính
mình:
Ba
giờ khuya thầy thức dậy ngồi thiền niệm Phật. Lúc đầu thầy ngồâi được
khoảng một giờ và vài ngày sau bắt đầu tăng dần lên. Sau giờ tọa thiền là
thể dục đi thiền hành quanh thất. Khi ngồi thiền, thầy nhận rõ những hoạt
động tâm thức di chuyển. Tâm càng lắng chừng nào thì những hoạt động của
tâm càng thấy rõ từng li từng tí, giống như mặt nước vậy, nước càng yên
mặt hồ càng hiện rõ bóng dáng của sự vật. Tám giờ thầy lại ngồi thiền niệm
Phật. 12 giờ thọ trai rồi chỉ tịnh đến 13g30. 14giờ lại ngồi thiền niệm
Phật. Buổi chiều thì đi thiền hành quanh thất.
Vào
buổi tối cảnh vật xung quanh yên lặng và tâm cũng dễ tĩnh. Có lúc thầy
cảm giác mọi vật quanh mình mất hết, chỉ có mình đối diện với mình, lòng
nhẹ tênh nhưng trạng thái đó chỉ thoáng đến, bước đầu chưa giữ được lâu.
Khi
duyên cảnh bên ngoài bị cắt thì cũng là lúc nội tâm bắt đầu hoạt động,
nhưng nhờ trước đây thầy đã học rất kỹ Kinh Lăng Nghiêm nói về ngũ ấm
ma nên thấu rõ phần nào vọng khởi từ bên trong.
Ngày đầu tâm rất yên, qua ngày thứ hai, thứ ba thì lại lăng xăng nhớ tới
việc này việc nọ. Sống trong thất có lúc khởi lên ý mong muốn cho mau hết
ngày giờ nhưng mỗi lần như vậy thầy biết tâm mình đang duyên bên ngoài nên
tỉnh giác kéo nó trở về. Phương pháp nầy người xưa gọi là “chăn tâm”. Có
những lúc theo dõi tâm, thầy cảm thấy nhức đầu và sau đó thầy thả lỏng
thân tâm không trụ một chỗ nữa. Ðây là giai đoạn con khỉ bị trói chặt quá
nên nó vùng vẫy, phải buông dây ra từ từ không nên cột chặc. Có đêm sau
khi tọa thiền niệm Phật xong, đặït lưng nằêm xuống mới vừa chợp mắt ngủ
là sa vào những giấc chiêm bao triền miên. Mới hay giữ được chánh niệm
thật khó. Thầy nhớ đến bài kệ trong kinh Người biết sống một mình:
Ðừng tưởng nhớ quá khứ
Ðừng lo lắng tương lai
Quá khứ đã không còn
Tương lai thì chưa tới.
Hãy quán chiếu sự sống
Trong giờ phút hiện tại
Kẻ thức giả an trú
Vững chải và thảnh thơi
...
Bài
kệ đã phần nào giúp thầy trở về chánh niệm. Thầy bắt đầu dụng công ngay
vào cả những sinh hoạt cá nhân, khi rửa mặt đánh răng, khi nghỉ ngơi đều
theo dõi tâm mình, không để những tạp niệm sinh khởi, dẫn dắt. Chú tâm và
dành nhiều thời gian thực hiện pháp môn niệm Phật để choán chỗ, không để
những vọng tưởng len vào tâm. Khi đi thiền hành, thầy đưa mắt nhìn vào
khuôn viên Huệ Nghiêm, thế là những nhớ nghĩ đủ thứ ập đến. Thầy biết ngay
và bắt đầu áp dụng phương pháp sơ đẳng làhạn chế cái nhìn. Sau nhiều ngày,
khi đã làm chủ được tâm hơn, thầy mới từ từ thả lại ánh mắt. Thầy nhìn vào
khuôn viên Huệ nghiêm nhưng tâm không lung tung nhớ nghĩ nữa. Trước đây
khi sống trong chúng, thầy cũng đã từng thực tập thiền hành, nhưng chỉ là
sự thực tập đơn giản. Bây giờ, sống trong thất, qua nhiều ngày lắng rõ
tâm, thầy mới thực sự cảm thấy có những bước thiền hành an lạc,
khác hẳn với trạng thái thư giãn khi thiền hành trước kia. Rồi
những lúc nghỉ ngơi, nằm lắng nghe tiếng gió, tiếng con chim nào đó kêu
thánh thót... tiếng hót như mở ra cảnh vật ở quê nhàthời thơ ấu. Thầy cũng
lập tức nhận thấy và nhẹ nhàng khởi tâm niệm Phật. Khi ăn cơm, nhận thấy
bữa ăn hôm nay không ngon, tâm bắt đầu dấy tưởng ý niệm phân biệt, lần đầu
thì thầy ngưng ngang bữa ăn, niệm Phật sám hối, nhưng lần sau thì thầy có
thể vẫn tiếp tục ăn, không quá khắc khe với tâm mình nữa, nhưng biết cảnh
giác hơn. Cứ như thế, dần dần thầy điều phục, từ việc làm chủ được lục căn
đến làm chủ tâm thức và càng ngày càng cảm thấy nhẹ nhàng, tự tại, không
khẩn trương, khổ công như trước nữa.
Triết gia Descartes lý luận: “Tôi tư duy tức là tôi tồn tại”; có thiền sư
cho rằng càng tư duy chúng ta càng không có mặt, vì khi tư duy chúng ta
đánh mất sự sống trong dòng tư duy. Tư duy trở thành một chướng ngại khiến
ta không tiếp xúc thực sự được với sự sống. Phái Thiền Tào Ðộng cũng nói:
“Phi tư duy thị thiền chi yếu giả” (không tư duy là điểm thiết yếu của
thiền). Có nhập thất và điều được tâm mới thấy và hiểu rõ điều này.
Tuy
những ngày sống trong thất “chăn tâm” rất khó, nhưng những lúc chăn được
thì tâm rất khinh an (nhẹ nhàng). Có sống những giờ phút theo dõi tâm
mình như thế mới thấy được những cái hay cái dở của chính mình để mà điều
phục. Ðiều phục được tâm bình thường mới có được an lạc.
Trạng thái an lạc trong thất khi điều phục được tâm quả là “bất khả tư
nghì”, không thể miêu tả được, chỉ có chính hành giả mới biết. Người nhập
thất điều tâm tốt, khi ra thất rồi, vẫn có được khả năng thấy tâm rất rõ,
giúp ích rất nhiều cho đời sống tu tập hằng ngày. Nhập thất là một phương
pháp tu tập tối thiết của người tu để tiếp cận chân lý giải thoát.
Nhiệm vụ đa đoan
^
Năm 1981 Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập, Ban đại
diện Phật Giáo huyện Bình Chánh chuẩn bị nhân sự. Một hôm thầy Thiện Bổn
đến thăm và có ý mời thầy tham gia Ban Ðại diện Phật giáo huyện Bình
Chánh. Thầy Thiện Bổn nói:
-
Huệ Nghiêm là một ngôi chùa có chư tăng đông nhất trong huyện, các vị lãnh
đạo cử tôi đến trao đổi với thầy và mời thầy tham gia vào cương vị Phó Ban
đại diện, thầy thấy thế nào?.
Thầy đáp:
-
Thượng tọa cũng biết đó, tôi là chúng của Huệ Nghiêm chớ không phải trụ
trì, ở đây có hòa thượng và các huynh đệ lớn hơn tôi, thượng tọa để tôi
trình lại với hòa thượng và mấy vị lớn rồi sẽ trả lời sau.
Sau
giờ thọ trì thầy lên phòng hòa thượng trình bày sự việc và xin ý kiến.
Hòa
thượng Bữu Huệ ôn hòa nói:
-
Tôi là người thầy hướng dẫn mấy huynh đệ tu thôi, còn việc tham gia công
tác với giáo hội mấy huynh đệ cứ tự lượng sức mình. Tôi chỉ nhắc một
điều: dù làm việc phật sự hay dụng công tu tập thì các huynh đệ cũng nên
nhớ lời hòa thượng Vạn Ðức đã dạy: “Phiền nảo khởi giai do đa sự , thị
phi sanh dĩ thị đa ngôn”. Nếu chúng ta lao vào công việc mà ta cho là
phật sự nhưng không làm chủ được tâm mình trong khi làm việc, bị danh lợi
cuốn trôi thì phật sự sẽ trở thành ma sự !
Sau
khi trình và tiếp ý hòa thượng, thầy suy nghĩ rất nhiều. Thầy nhớ lại
những ngày sau giải phóng, tâm trạng hoang mang đã ảnh hưởng đến đời sống
tu tập của mọi người như thế nào. Nghĩ đến đó thầy quyết định phải tham
gia gánh vác công việc với giáo hội để các huynh đệ ở đây an tâm lo tu.
Mọi việc sẽ an ổn, thuận lợi hơn nếu trong chúng Huệ Nghiêm có người đại
diện ra làm việc cùng giáo hội. Nếu ai cũng muốn an nhàn, không muốn tham
gia hoạt động quản lý thì công việc chung ai lo? Phật giáo phải khẳng định
vị trí của mình trong xã hội, phải góp sức xây dựng xã hội hoàn thiện.
Không thể đứng ngoài lề công cuộc đổi mới đất nước. Giúp đất nước, con
người sống trong hòa bình, ấm no hạnh phúc cũng là một trong những mục
tiêu của Phật giáo Sau một đêm suy nghĩ cái chung cái riêng, thầy quyết
định chọn giải pháp đứng ra gánh vác công tác mà quí thầy đã tín nhiệm
yêu cầu.
Khi
tham gia Ban Ðại diện với chức vụ Phó ban, thầy lại có thêm nhiệm vụ quản
lý Bát Bửu Phật Ðài. Công việc quản lý rất phức tạp làm thầy càng thấm
thía lời dạy của Ðức Phật: “Cái nầy có thì cái kia có, cái nầy sanh thì
cái kia sanh”. Thật là rối rắm! Mới hay, tu được trong hoàn cảnh
phật sự đa đoan quả thật là khó! Người đứng ra làm quản lý là đứng giữa
ranh giới của hai khái niệm “hy sinh” và “chết”. Nếu vẫn giữ được
mình, không để cho vọng tưởng, danh vị kéo đi thì là một sự hy sinh
bản thân cho sự nghiệp chung; còn nếu không giữ được mình, bị cuốn luôn
vào guồng máy ấy thì coi như đã chết! Chấm dứt sự nghiệp tu hành,
đôi khi còn mang hậu quả vô lường mà không biết, bởi hình thức thì còn đó
mà nội dung thì đã biến mất rồi! Chức danh, giáo phẩm đại đức, trụ
trì.v..v... còn đó mà bản chất một tỳ kheo trong con người ấy đã không còn
nữa.
Sau
Ðại hội Phật giáo toàn quốc nhiệm kỳ V, thầy được giao nhiệm vụ làm Trưởng
ban Hoằng pháp TP.HCM. Ðây là một nhiệm vụ mà thầy cảm thấy cần phải tập
trung bỏ ra nhiều công sức, bởi đây cũng là vấn đề mà thầy rất tâm huyết
và có nhiều ấp ủ, dự định.
Công tác hoằng pháp những năm qua dẫu có nhiều tiến triển khá tốt nhưng
vẫn chưa có những bức phá mới. Ðã có nhiều chùa tổ chức được các đạo tràng
tu học cho phật tử, có nơi thu hút được gần cả ngàn người. Các chùa đã bắt
đầu quan tâm, ý thức tổ chức các lớp giáo lý căn bản dành cho phật tử.
Những buổi thuyết pháp của quí thầy ngày càng nhiều hơn, nâng cao hơn. Ðó
là những mặt mạnh mà công tác hoằng pháp nhiều năm qua đã đạt được. Tuy
nhiên, với trách nhiệm vừa nhận, còn rất nhiều điều khiến thầy âu lo, trăn
trở. Nhìn lại lực lượng tham gia hoằng pháp: những vị giảng sư có tiếng,
thuyết pháp được nhiều chỉ đếm trên đầu ngón tay. Thành phần phật tử trí
thức và lớp trẻ so với mặt bằng chung vẫn còn quá ít. Phải quan tâm chú
trọng đầu tư, nhắm vào giới trí thức và lớp trẻ. Nhiều đêm, thầy nằm suy
nghĩ những phương pháp khả thi có thể kiến nghị cùng giáo hội để đẩy mạnh
lĩnh vực hoằng pháp. Dù là Duyên hay điều kiện Thiên thời – Ðịa
lợi – Nhơn hòa cũng cần có bàn tay con người tác động, tạo dựng.
Không thể “chờ” mãi.
Những ý nghĩ về công tác hoằng pháp đôi khi chiếm rất nhiều thời gian của
thầy. Có lần ngồi uống trà với thầy Minh Thanh, không thể không bày tỏ
những trăn trở của mình, thầy thở dài, tâm sự:
-
Tôi thấy mình sao đa đoan quá!
Thầy Minh Thanh nói:
-
Thầy vẫn nhớ lời của hòa thượng đó chớ?
-
Lúc nào tôi cũng nhớ.
-
Vậy thì bớt đa đoan đi!
Thầy cười:
-
Tôi giống như hạng người thứ hai trong câu chuyện ba người chưa biết lội,
đi qua bên một bờ sông, khúc sông đó luôn có người chết đuối. Người thức
nhất thấy và bỏ đi luôn, không cứu giúp; người thứ hai thì đứng la lên,
gọi người tới giúp; người thứ ba thì lặng lẽ quyết tâm đi học lội để trở
lại cứu được nhiều người. Tôi chưa biết lội nhưng cũng không nỡ bỏ đi,
đành đứng đó mà la làng kêu cứu vậy! Vớt được người nào đỡ người đó.
Thầy Minh Thanh điềm đạm cười:
-
Người chết đuối vô số, đứng đó kêu hoài sao? Kêu một lúc nào đó thôi rồi
phải lo đi tập lội chớ.
Thầy cũng cười:
-
Thì thấy còn có chút hơi, cứ kêu cái đã.
Rồi
thầy uống một ngụm trà, cầm luôn cái cốc trên tay, vẻ mặt trầm ngâm, nói
như nói với chính mình:
-
Kêu hoài, đến lúc hết hơi rồi lấy gì tập lội đây? Nhưng... cứ nhìn thấy là
bỏ đi không đành, không đoạn!
Thầy là vậy. Trong thầy như luôn có hai luồng ý nghĩ: thiết tha với việc
chuyên tu mà vẫn đau đáu lòng với việc chúng sanh, phật sự.
Cành lá bồ đề ^
Buổi sáng, thầy đi thể dục vòng quanh sân chùa với thầy Minh
Thanh. Bao nhiêu năm rồi vẫn vậy. Cứ năm giờ sáng là thầy Minh Thanh từ
trên lầu xuống, dừng chân trước cửa sổ phòng thầy. Nếu không nhìn thấy
thầy ngồi ở bàn viết thì cất tiếng gọi: Thầy Thanh ơi! Hoặc có khi cũng
không cần gọi, cứ đứng đó vài giây là thầy cảm thấy có bạn đến chờ, ra
ngay. Chỉ cần thoáng thấy bóng nhau là đủ, đôi khi đi bên cạnh suốt buổi
mà hai người chẳng cần nói điều gì, lặng lẽ đi bên nhau thế thôi, vậy mà
rất hiểu ý. Có những tình bạn thân thiết như anh em ruột thịt, điều gì ta
cũng có thể nói cho bạn nghe, chia sẻ đến từng ý nghĩ, quan niệm. Ý thích
giống nhau như anh em song sinh. Nhưng cũng có những tình bạn âm thầm
không cần ngôn ngữ, tính tình có thể trái ngược nhau mà vẫn khớp tâm hồn
vào nhau được. Những tình bạn không có khoảng cách khi gần thì rất gần
nhưng khi xa thì cũng dễ bứt. Nhưng những tình bạn vô ngôn thì sẽ bền mãi
với thời gian. Con người lạ vậy! Có lẽ bên ngoài cái lõi của chữ duyên
còn bàng bạc lãng đãng bao quanh là một màng sương của chữ tưởng.
Không có cái vùng từ trường này chắc mọi thứ đều giản đơn tẻ nhạt và chân
lý không có hào quang, không tỏa sáng!
Xong giờ thể dục với thầy Minh Thanh, thầy lại lên uống trà với thầy Nhật
Huệ để nghe đài và trao đổi bâng quơ vài câu về chuyện tình hình đây đó.
Thầy Minh Thanh là người thích chuyên tu, ít quan tâm đến chuyện thời sự.
Lạ vậy, thầy vừa có thể hăng say bàn đủ chuyện với thầy Nhật Huệ và cũng
có thể lặng im ngồi uống trà chiêm nghiệm với thầy Minh Thanh. Thầy như
nước, có thể hòa vào tất cả. Thầy như gió, có thể làm dịu mát tất cả. Thầy
như đất có thể nuôi sống, dung hòa tất cả. Và ngọn lửa trong tim thầy dẫu
không bùng sáng chói lóa, nhưng âm ỉ, bền bĩ ngày đêm, lặng lẽ giữ gìn
ngọn đèn chánh pháp. Trong thầy có biết bao là hoài bão, ước mơ cho sự
nghiệp Phật giáo. Có lần thầy gợi ý với thầy Chơn An:
-
Tôi bây giờ còn khỏe, cố gắng đem hết sức mình phục vụ cho công tác phật
sự của giáo hội, sau này lớn tuổi rồi, đủ kinh nghiệm và độ chín, tôi rất
mong có được thời gian ngồi tĩnh tâm dịch kinh viết sách. Tôi thấy thầy có
khả năng về mảng này mà bỏ qua uổng lắm. Hay là mai mốt tôi với thầy mình
cùng nhau làm?
Thầy Chơn An nói:
-
Lãnh vực ấy tôi biết có nhiều người còn giỏi hơn mình. Quan niệm tôi hồi
nào giờ là thấy việc gì mình nhắm làm không giỏi, thôi để cho người khác
làm, mình lo tu thôi. Nhưng việc này tôi và thầy nếu thuận duyên thì cùng
nhau làm, điều đó cũng rất tốt.
Thầy cười nói:
-
Tôi rất tâm đắc cuốn Sự nghiệp đời tôi của hòa thượng Thiện Hoa.
Hoạt động của đời người tu có thể khái quát ra ba giai đoạn: học, làm việc
và sáng tác phiên dịch kinh tạng. Ráng làm thì giẻ rách cũng đỡ đầu móng
tay, miễn là đừng ảo tưởng quá khả năng mình. Thường thì người giỏi lại
rất cẩn trọng, kẻ dỡ lại hay liều, điếc không sợ súng, do vậy mà rốt cuộc
rồi thì sản phẩm của kẻ liều lại nhiều hơn tác phẩm của người giỏi, báo
hại làm hư rất nhiều người là vậy. Mình biết mình có khả năng tới đâu thì
làm tới đó, tát được gàu nước nào thì tát, trăm tay mới cạn biển. Tận nhân
lực mới tri thiên mạng chớ...
Thầy nói đến đây bỗng dừng lại, trầm ngâm:
-
Nhưng mà có khi tận nhân lực là tiêu thân mạng luôn hổng chừng...
Hai
huynh đệ nhìn nhau cười xòa, thấm ý!
Thầy chợt nhớ đến thầy Trí Hải. Một thoáng buồn nhè nhẹ mà len sâu nhói
buốt tận trái tim thầy. Thầy Trí Hải là người huynh đệ thân thiết nhất.
Thầy đã đi trước một bước, sớm từ bỏ cõi ta bà này để lại thầy với bao nhớ
tiếc! Ngày thầy Trí Hải mất, thầy như mất đi một người thân ruột thịt. Ðã
từng sống bên nhau qua những ngày sóng gió, tất cả vui buồn trăn trở cùng
chia sẻ. Ðối với thầy, tình huynh đệ thâm sâu như biển. Việc đời việc đạo,
không ai hiểu và có thể chia sẻ với ta trọn vẹn như huynh đệ đồng môn.
Huynh đệ đồng môn cũng như những chiếc lá trên cành một cây bồ đề vậy.
Cùng chịu chung nắng mưa sương gió, cùng sống bằng nguồn Pháp gốc rễ thiền
môn. Mỗi lần có người vấp ngã, lòng thầy đau như chính mình bị thương vậy.
Ở tuổi này, bắt đầu chứng kiến những cuộc ra đi từ giã cõi ta bà của huynh
đệ, mỗi lần như vậy, thầy thấy tim mình cứ yếu dần đi, dẫu quán lẽ vô
thường nhưng tình cảm yếu mềm của con người khó cưỡng. Mỗi lần tống tiễn
kim quan một bạn tu, thầy về thắp nén nhang trên bàn thờ Phật, dạ cứ ngùi
ngùi, phải mấy ngày sau mới bình tâm được. Lòng thầy là như thế, bao la mà
ấm áp biết bao!
Người thầy khả kính
^
-
Bữa
nay chùa cho ăn ớt hả con?
Thầy hỏi đùa lúc nhìn thấy ni sinh Thánh Tâm nét mặt tỏ vẻ không vui, bực
bội, nhăn nhó khi đến lớp. Thánh Tâm giật mình, đảnh lễ thầy. Cô thầm biết
ơn sư phụ đã nhắc nhở. Người tu cũng lắm khi phiền não, khi thì có thể
vượt qua, khi thì cũng đa đoan mang nặng. Ngoài oai nghi, người tu còn
phải khéo giữ những phút không hài lòng, phải biết kềm chế, không nên thể
hiện quá rõ ràng trên nét mặt. Nhìn một thầy, hay một cô mặt mày sân si
nổi giận thiệt khó coi. Thầy không nói ra nhiều lời nhưng sự ân cần nhắc
nhở nhẹ nhàng khéo léo ấy làm cô ghi nhớ mãi. Thầy vào lớp, bao giờ cũng
cũng đi vòng xuống các dãy bàn nhìn ngắm tận nơi đàn con thân yêu của
mình. Thấy một thầy trị nhật đứt tay, dán băng một chút thầy cũng hỏi. Sau
những lời ái ngữ dịu dàng thân thiện bao giờ thầy cũng xoa hoặc ký yêu lên
đầu những đứa học trò mà thầy luôn cảm giác chúng thật gần gũi. Thầy luôn
nhớ cái ký nhẹ lên đầu của bổn sư thầy lúc đưa thầy ra học ở Phổ Quang.
Cái cảm giác đầm ấm ấy không bao giờ thầy quên được. Có lẽ vì vậy mà bây
giờ thầy muốn truyền lại cho những đứa học trò của mình cái cảm giác được
sư phụ yêu thương ấy. Giờ lên lớp của thầy ai cũng thấy thoải mái. Những
bài pháp thầy trao thật nhẹ nhàng. Mà chính thân giáo của thầy mới là bài
học dễ nhớ nhất. Chính vì vậy mà tăng ni sinh rất quí yêu thầy. Có những
buổi đi dạy về, chiếc xe của thầy treo lúc lĩu nào là thức ăn, trái cây
bánh mức... đủ các vật thực mà các học trò thương yêu dành để dâng thầy.
Bao
giờ cũng vậy, thầy đến lớp đúng giờ, dù bận chuyện gì thầy cũng cố gắng
sắp xếp để không bỏ buổi dạy. Có hôm trời mưa lớn, nhưng đến giờ là thầy
đội áo ra đi. Có lần hay tin mẹ ở quê bệnh nặng, thầy vô cùng sốt ruột,
đứng ngồi không yên, nhưng kẹt giờ dạy, chưa sắp xếp được, thầy nhờ thầy
Trí Hải về thăm, chăm lo cho mẹ phụ với gia đình, thầy dạy xong rồi mới về
sau. Ðối với thầy, lên lớp truyền giáo là một nhiệm vụ vô cùng thiêng
liêng cao cả. Khi dạy đến những bài giáo lý cao, khó hiểu, thầy bỏ rất
nhiều công sức suy nghĩ, tìm cách dẫn giải thật dễ hiểu để giảng, rồi lên
lớp cứ hỏi đi hỏi lại xem các tăng sinh đã hiểu chưa, còn chỗ nào gúc mắc
là thầy tận tình giảng đến nơi đến chốn, khi nào trò thông cả rồi thì thầy
mới cảm thấy tạm an lòng.
Có
những khi các tăng sinh làm bài không tốt, thầy không quỡ trách, chỉ
khuyên răn. Thầy biết tuổi trẻ còn nhiều nông nỗi. Làm một vị thầy dạy
giáo lý không như một vị thầy giáo ngoài đời. Giáo lý không phải chỉ là
kiến thức phải đem vào trí óc mà còn là một sự vỡ lẽ, sáng ra. Nếu không
làm cho người nghe thông hiểu, tự thấy được cái đúng, cái hay mà chỉ là sự
áp đặt, nhồi nhét thì giáo lý không có giá trị. Bởi vậy, khi trò không
thuộc bài, chưa thông suốt, thầy không giận mà chỉ thấy tội nghiệp, thương
học trò cạn nghĩ, ngộ tính chưa cao, còn phải vất vả nhiều trên đường tu
tập.
Ðối
với tăng ni sinh ở tỉnh, ở các vùng quê, thầy càng dành cho nhiều ưu ái.
Mỗi lần có các khóa giảng cho tăng ni dù ở các tỉnh đồng bằng hay tận
ngoài Trung, ngoài Bắc, thầy cũng rất nhiệt tình đi. Tận tâm, tận lực
không nề hà mọi điều kiện gian khó. Những trường hợp khó khăn tìm đến thầy
giúp đỡ, không bao giờ bị chối từ. Bằng mọi cách thầy tạo điều kiện để
nâng đỡ. Có lần một tăng sinh ở quê lên làm thủ tục nhập học, giấy tờ còn
thiếu vài thứ, thầy vi vu cho qua. Biết lỗi vì sự dễ dãi của mình, thầy
dặn vị tăng nọ: “Tôi làm vầy là không đúng nguyên tắc đâu, thôi thầy cố
gắng học nghen”. Không nhiều lời nhưng tất cả tấm lòng từ ái, bao dung thể
hiện trong cái vỗ vai thân thiện như truyền trao ý chí, nghị lực và lòng
kỳ vọng. Vị tăng đứng lặng nhìn thầy, trào dâng niềm cảm xúc. Có những bậc
thầy mang tấm lòng như thế đối với tăng sinh, thì môi trường giáo dục tăng
ni càng khởi sắc, tăng ni vững niềm tin vào sự dìu dắt chân tình của các
bậc tôn túc, thêm phấn chấn mà cố gắng hơn.
Ở
trường đã thế, còn ở chùa, đối với các thầy, các chú nhỏ hơn, thầy cũng
luôn có cách dạy dỗ hòa ái. Mỗi lần có chú nào phạm lỗi, thầy không bao
giờ nổi giận trách phạt ngay, đợi đến hôm sau, khi kẻ phạm lỗi đã có một
độ lùi để phản quang tự kỷ lại mình, thầy mới gọi lên khuyên bảo. Thầy
thường nói: Dạy người phải dạy trong chánh niệm. Nếu vì giận dữ mà dạy thì
không làm chủ được ý nghĩ, lời nói. Ý nghĩ lời nói của mình, mình còn chưa
làm chủ được thì làm chủ dạy bảo ai?! Bao giờ cũng vậy, trước khi trách
phạt một tăng chúng trong chùa, dù là nhỏ tuổi mấy, thầy cũng nghiêm trang
thắp nhang trên bàn thờ Phật rồi mới cho gọi người lên để nói. Có lần, hai
chú trong chùa cải nhau kịch liệt, thầy đến can nhưng hai người vẫn chưa
thông, tuy không cải nhau nữa nhưng thái độ còn chưa chịu hòa hợp. Thầy im
lặng về phòng, để qua hai buổi tối mới gọi hai người lên. Sau khi thắp
hương lễ Phật xong, thầy bảo hai người cùng quì bên nhau lạy Phật. Rồi
thầy nói:
-
Hai thầy thấy đó. Hai thầy hình tướng như nhau, mặc áo như nhau, quì lạy
Phật cũng như nhau, vậy mà sao không biết thương nhau?
Im
lặng một lúc như để hai người lắng lòng suy nghĩ, thầy ôn tồn nói tiếp:
-Tôi kể hai thầy nghe: Hồi trước, lúc hòa thượng Thanh Từ còn làm giám
viện ở đây, có lần trong bữa cơm, có hai thầy vì giành nhau một trái
chuối, mới đầu là giỡn chơi, sau thành ra nổi sân thiệt, một thầy giằng
mạnh làm bể cái chén, lúc đó thầy Thanh Từ đi qua nhìn thấy. Sau đó, một
hồi chuông họp chúng đổ lên, cả chùa có mặt đầy đủ. Thầy Thanh Từ tuyên
bố trục xuất hai thầy ấy ra khỏi học viện vì thiếu oai nghi trong giờ thọ
thực. Hai thầy hối hận đắp y sám hối nhưng thầy Thanh Từ vẫn cương quyết
không thay đổi hình thức kỷ luật. Tất cả chúng bùi ngùi xót xa tiễn hai
thầy ấy ra khỏi học viện. Thầy Thanh Từ đau lòng hơn ai hết, thầy rơi nước
mắt đứng nhìn hai vị ấy ra đi. Học viện ngày đó nhờ có thầy Thanh Từ mà
tăng chúng oai nghiêm, nề nếp răm rắp, tiếng tốt vang xa, những người đã
kinh qua thời gian ở học viện Huệ Nghiêm thời ấy đa số đều thành đạt. Tôi
chưa học tập nổi ở thầy Thanh Từ tinh thần đó để giúp các thầy trao dồi
đạo đức, kỷ cương, mong mấy thầy hãy tự ý thức giữ gìn phạm hạnh để mà tu
tiến. Sống trong chúng mà không áp dụng trọn vẹn pháp lục hòa thì làm sao
mà tu được. Làm người, ai không có những lúc sai lầm, mình cũng vậy. Thế
nhưng sao lúc mình sai thì mình dễ dàng bỏ qua, chậc lưỡi một cái là xong,
còn khi người sai thì mình ghi xương khắc cốt? Ai sai, tạo nghiệp, người
đó đã mắc tội rồi, cớ gì mình lại nhào vô chia phần hùn, cùng lãnh thêm
cái tội bởi người đó nữa? Mấy thầy ngẫm coi phải không? Giống như một
người đang té xuống bùn, mình thấy vậy thay vì đưa tay kéo người ta lên,
mình lại nhảy xuống xỉa xói người đó một trận, mình dính bùn luôn! Mấy
thầy còn nhỏ, cũng nên chọn lấy một bộ kinh nào đó mà sám hối thọ trì hằng
ngày để tâm đừng chạy theo cảnh, nhàn cư vi bất thiện. Thôi, tôi không nói
nhiều, vì tôi biết mấy thầy cũng thừa hiểu mọi chuyện, chẳng qua là còn
chưa kềm được mình thôi. Mình đi tu trước nhất là rèn cái này đó. Thôi
ráng nghen, đừng giận nhau nữa, giận nhau không có lợi mình, lợi người.
Mỗi người lùi một chút sẽ thấy đất trời rộng rãi, không gian trống trải,
dễ chịu hơn. Sống trong vui vẻ không sướng hơn sống trong bức bối buồn bực
sao? Tui nói vậy, hai thầy thấy hết phiền não chưa? Phiền não là do mình
chuốc, thôi buông đi nghen! Không buông thì bán tôi mua...
Những lời từ ái chân thành của thầy làm hai chú vô cùng cảm động! Chút tự
ái cá nhân tan biến. Thầy là vậy. Khoan dung độ lượng, luôn lấy từ tâm mà
sách tấn mọi người.
Con
đường đầy gai nhọn khiến người ta nhẹ bước. Con đường đầy cỏ mịn hoa thơm
cũng khiến người ta nhẹ bước.
Ðối
với các đạo tràng tu học của Phật tử thầy cũng rất tận tình. Dù bận mấy,
hễ nơi nào mời là thầy đến. Các đạo tràng đa số là người trung niên, nhìn
họ thầy thấy thương lắm. Cuộc sống bươn chãi vất vả, nhín thời gian đến
chùa nghe pháp là tốt lắm rồi. Có lần thầy đi ngang qua khu chợ đầu mối
bán cá, nghe mùi tanh hôi bốc lên nồng nặc, thầy bùi ngùi nói với chú thị
giả chở thầy:
-
Chú thấy không, dân người ta ngoài đời mần ăn khổ lắm. Mùi hôi như vầy,
mình đi ngang một chút còn thấy ngặt mình khó chịu, vậy mà người ta phải
sống với nó quanh năm. Mình là người tu, phước báu sâu dày, phải cố gắng
giữ. Phải biết thương những người còn kém phước, chưa biết đạo. Những phật
tử đến được với chùa mình phải hết sức thương yêu, dìu dắt họ. Họ cực vậy
mà vẫn dành tiền cúng chùa, bát cơm ngàn nhà nặng lắm, không một giây phút
nào ta được quên. Không nên mặc nhiên coi sự cúng dường của phật tử như
một sự trao đổi: ai biết cúng dường Tam Bảo người đó có phước. Chúng ta
phải luôn nhớ đến trọng trách của người thọ nhận, hộ trì Tam Bảo. Phải đem
hết sức mình dìu dắt chúng sanh.
Lên
lớp cho phật tử thầy không có thái độ thân cận như đối với tăng sinh nhưng
rất nhiệt thành. Luôn giữ một khoảng cách tôn nghiêm nhưng rất từ bi. Thầy
chọn những bài giảng thiết thực phù hợp với nếp sống tu tập tại gia. Chưa
có giáo trình chính thức cho những lớp giáo lý dành riêng phật tử, thầy
nhằm vào những bài pháp căn bản nhưng giảng rất rõ ràng. Thầy để ý quan
tâm chuyện thời sự cũng nhằm giúp cho bài giảng đối với phật tử thêm phần
cụ thể sinh động, dễ nghe, dễ nhớ và thiết thực, bổ ích hơn.
Quê
hương và gia đình luôn là nỗi niềm thương yêu da diết trong thầy. Mỗi lần
về quê, đi dọc theo bờ con sông nhỏ, thầy cảm giác thật yên bình. Ngày xưa
khi còn nhỏ, thầy nhìn thấy con sông cái lớn rộng mênh mông, đầy cả một
trời tưởng tượng. Những ngày mưa, gió to sóng lớn, nhìn con sông thấy mình
thật nhỏ nhoi, cảm giác lạ lùng và sợ hãi. Ðó là những ngày thơ ấu, khi
thầy chưa được nhìn thấy biển, chưa biết biển là gì. Bây giờ, về quê nhìn
con sông, thấy như hiểu được từng con sóng, từng cụm lục bình trôi bơ bất
trên sông.
Thầy thỉnh tượng Phật về an vị ở chùa Hải Huệ, buổi lễ an vị Phật rất long
trọng, cả xóm Bà Tri vui như có hội lớn. Ơn nghĩa với quê hương thầy lo
chu tất. Mỗi lần về quê vài ngày, thăm gia đình xong là thầy lên chùa ở,
góp ý chăm lo chùa chiền. Hàng xóm láng giềng ai cũng quí mến, có điều
kiện là thầy sẵn lòng giúp đỡ mọi người.
Người cô của thầy giờ đã là trụ trì ở chùa Phước Thạnh, thầy cũng hết sức
quan tâm. Thầy nói: “Mai mốt tôi già, sẽ về đây ẩn tu với cô”. Cô cất sẵn
cho thầy một cái thất. Chùa Phước Thạnh có lễ, thầy về chăm lo chu đáo. Cơ
sở vật chất chưa khang trang, mỗi lần lễ lớn, thỉnh quí thầy về dự, bao
giờ thầy cũng nhường nơi tốt nhất cho khách, còn thầy lên chánh điện nằm
ngủ dưới bệ thờ Tổ Ðạt Ma, giản dị bình thường như thuở còn là một chú sa
di nhỏ.
Nhà
có sáu anh em. Tuy xuất gia từ nhỏ nhưng với các em trong gia đình, thầy
luôn là người anh cả thân thương nhất. Mỗi đứa em trong nhà thầy đều thăm
hỏi quan tâm ân cần lo lắng chu đáo. Thầy là sợi dây kết nối thâm tình,
hòa thuận cả nhà. Nhắc đến anh hai là trong mắt tất cả mọi người em
đều ánh lên niềm thương yêu kính phục. Việc gì cũng hỏi ý kiến anh hai,
việc gì cũng nghe anh hai chỉ bảo. Dẫu không ở nhà nhưng hình bóng thầy
phủ trùm tất cả. Tất cả niềm vui hạnh phúc của gia đình đều bắt nguồn, tỏa
ra từ thầy.
Với
ông bà cụ, thầy là tất cả niềm tin yêu hy vọng của ông bà. Phải xa cha mẹ
từ bé, tình thương thầy dành cho cha mẹ dồn gấp nhiều lần. Ðối với cha mẹ
thầy vừa là con trai vừa là con gái. Thầy lo lắng chăm sóc từ việc lớn đến
việc nhỏ, từ việc ngoài đến việc trong. Có những buổi trưa, thầy ngồi tỉ
mỉ cắt móng tay móng chân cho ông bà, chăm chút thương yêu không kể xiết!
Mỗi lần hay tin ông hoặc bà lên thăm, thầy ra cổng chùa đứng đón, đi tới
đi lui như đứa trẻ đợi mẹ đi chợ về. Chưa mắc được điện thoại cho ông ở
nhà, phải nhờ điện thoại hàng xóm, thầy hẹn ngày giờ gọi điện về thăm ông,
không bao giờ thầy quên. Biết lòng thầy thương ông vô tận nên các huynh đệ
bạn bè, học trò của thầy cũng thường xuyên ghé thăm hoặc điện thăm ông,
thầy luôn dặn dò mọi người phải nhớ giờ ông tụng kinh, đừng làm phân tâm
ông lúc tụng kinh lạy Phật. Thầy rất chú tâm tạo mọi điều kiện thuận tiện
nhất cho ông bà tu tập tại nhà. Thầy là một tấm gương đại hiếu.
Một ngày để nhớ ^
Hôm nay Minh Thuận và Huệ Nghiêm thi đậu vào Học viện Phật giáo
khóa V. Thầy nảy ra ý muốn chiêu đãi cho tụi nhỏ một bữa để khích lệ động
viên tinh thần bọn trẻ. Sống trong chúng, không có không gian riêng, đành
phải ra nhà hàng. Hồi nào giờ thầy chưa từng chủ động đi ăn bên ngoài,
nhưng hôm nay thầy mời cả nhóm tăng ni sinh vừa mới thi đậu và thầy Thiện
Phát cùng đi. Mấy thầy trò chọn một quán chay lịch sự. Thầy vui vẻ lắm.
Nhìn hàng đệ tử của mình bắt đầu trưởng thành, thầy vừa vui nhưng cũng vừa
lo. Thầy nói với thầy Thiện Phát, là người có nhiệm vụ phụ trách nhân sự ở
văn phòng:
-
Vậy là bốn năm nữa tui có hai đứa, thầy có thể sắp xếp cho chúng nó công
việc gì đó để chúng có cơ hội phục vụ .
Thầy Thiện Phát cười to, nói đùa:
-
Không có xí chỗ, dựa hơi “bà con” đâu à nghen! Phải giỏi thì người ta mới
tin tưởng chớ.
Mấy
thầy trò cùng cười. Thầy bỗng trầm ngâm nói:
-
Hồi nào đến giờ thầy sống trong chúng, không nghĩ đến việc nhận chùa. Bây
giờ các đệ tử lớn rồi, thầy mới bắt đầu suy nghĩ. Chắc cũng phải có một
chỗ để sau này các con ổn định mà tu và làm phật sự.
Trong ánh mắt của thầy thoáng nét âu lo. Ðệ tử lớn của thầy là thầy Quảng
Long còn đang du học ở Ấn, thầy Hạnh Giác vừa xong Cao đẳng Phật học cũng
đang theo học đại học ở ngoài. Minh Thuận, Minh Nhẫn và Huệ Nghiêm đều còn
đi học. Thầy thấy trách nhiệm của mình thật nặng. Ðã không nhận đệ tử thì
thôi, thu nhận rồi phải lo cho nó đến nơi đến chốn. Thầy cảm thấy mình
chưa lo được gì nhiều cho đệ tử ngoài những lời sách tấn khuyên răn bình
thường. Mong sao chúng nó biết nghe, đủ phước, ít gặp phải nhiều chướng
duyên để đi cho đến đích. Trò phải hơn thầy mới được. Có năm đứa thì cả
năm đã học hành tốt. Thầy tạm thấy có chút yên lòng, hy vọng.
Thấy hôm nay thầy vui, Minh Thuận hồn nhiên liếng thoắng:
-
Mai mốt sinh nhật sư phụ, mình lại đi ăn mừng như vầy nữa nghen sư phụ!
Thầy cười, trách yêu:
-
Ông thầy là ham bày vẽ lắm đó! – Thầy gắp cho Minh Thuận một miếng thức ăn
rồi ôn tồn nói: - Tính con ham hoạt động, tuổi trẻ như vậy là tốt, nhưng
phải biết phân bố thời gian hợp lý. Thời gian dành cho học, cho tu không
được lơ là, không được “ăn gian” vào thời khóa. Làm phật sự nhiều, tâm
động, nếu không tu để giữ tâm thì sẽ sinh phiền não hoặc chạy theo vọng
tưởng luôn. Vọng tưởng gì con biết không? Nếu làm được việc sẽ sinh ngã
mạn, nếu làm không được việc sẽ sinh phiền toái cho mình cho người. Tuổi
trẻ các con khi làm được việc là dễ quên tu lắm, cứ ỷ lại vào cái phước mà
mình tạo được trong khi làm phật sự, coi đó là của hồi môn, bảo đảm cho
đường tu. Không nên nghĩ vậy. Phước chỉ giúp cho mình tu hành thuận duyên
hơn, chớ phước không đồng nghĩa với tu chứng. Phải tu. Ðó là thầy còn chưa
nói đến việc đôi khi mình vì sở thích lung tung, lại quơ vào, viện lý do
là làm phật sự để thỏa mãn vọng tưởng chạy theo việc ngoài đời. Phải biết
nhìn vào vi tế tâm mình mà khiển chúng quay trở lại. Thầy nói vậy con có
hiểu không?
Minh Thuận gật đầu lia lịa:
-Dạ
con hiểu, con hiểu.
Thầy cười bao dung nhìn đứa đệ tử có chút hảo tướng của mình. Mặt mũi sáng
sủa như vầy là thuận duyên nhưng cũng là nghịch duyên đây. Thông minh, học
giỏi, tu tốt thì có thể tiến xa, nhưng nếu nhãng ra là cũng dễ bị rất
nhiều chướng ma vây lấy. Thầy nói tiếp:
-Hiểu lia hiểu lịa như vậy là còn chưa hiểu hết đó. Con phải ráng giữ lấy
mình. Làm gì làm, phải tu chí tử thì mới được!
Cả
đám cười vui hòa theo lời thầy: “Phải rồi đó thầy, Minh Thuận là phải tu
chí tử mới được!”. Minh Thuận bị mấy huynh đệ chọc quê thì cười đỏ mặt,
cúi nhìn xuống đất. Trong lòng chú dâng lên niềm thương thầy vô kể. Chú
nhớ mỗi lần ra thăm thầy đều được thầy sách tấn kiểu như vậy. Nhờ đó mà
mỗi lần gặp trường hợp tương tự lời thầy răn, chú kịp thời tự điều chỉnh
lại mình. Nhẹ nhàng mà sâu sắc, thầy như thấu hiểu từng ngóc ngách ý nghĩ
của từng đứa đệ tử.
Thầy quay qua Huệ Nghiêm, lại nói:
-
Còn con - con gái út - cũng vậy nghen! Môi trường ni chúng nghiêm mật, đó
là điều kiện tốt để tiến tu. Việc học hành của bên ni các con khó khăn
hơn, cần phấn đấu nhiều hơn bên tăng. Con ráng vươn lên. Thầy thương bên
ni các con nhiều lắm! Sinh thân làm nữ giới thiệt thòi nhiều. Có phước làm
tăng rồi thì ráng cố gắng vượt qua chính mình.
Rồi
thầy vui vẻ nói với tất cả:
-
Ðề nghị của Minh Thuận hồi nảy thầy thấy như vầy: Người phương Ðông mình
không quan tâm ngày sinh bằng ngày mất. Thôi thì bây giờ thầy còn sống,
ngày ngày đã có thầy quan tâm nhắc nhở các con. Mai mốt thầy chết rồi, cứ
mỗi ngày đám giỗ, không cần lễ lạt gì cả, chỉ cần ngày đó các con để ra
vài phút, ngồi nhớ lại tất cả những điều thầy dạy, rồi kiểm điểm coi mình
đã làm được những gì. Vậy thôi. Vậy là thầy cũng vui rồi.
Bửa
tiệc hôm ấy kết thúc thật vui vẻ. Thầy đã lưu lại trong tâm tưởng những
người đệ tử trẻ dấu ấn về một bậc thầy không thể nào quên.
Hương sen cuối gió. ^
Mấy hôm nay thầy thường đi bách bộ quanh hồ sen. Thỉnh thoảng
dừng lại nhìn đàn cá bơi lội chung nhau theo bầy dưới hồ. Phải cùng sống
chung trong một môi trường, cùng ăn, cùng ngủ, cùng tu, cùng học... những
ý nghĩ về một Phật học viện nội trú dành cho tăng ni sinh cứ hiện ra trong
tâm tưởng của thầy. Không thể để lâu hơn nữa. Môi trường hiện đại ngày nay
có quá nhiều cám dỗ, dễ làm phân tâm những tăng ni trẻ. Sống ở chùa, thời
khóa nhiều khi không thích hợp cho việc học hành, khó chuyên tâm vào việc
học. Phải có một Phật học viện nội trú với những bước cải cách phù hợp,
khoa học và nghiêm mật mới có thể góp phần đào tạo tăng tài cho thế hệ
sau. Thế hệ các hòa thượng cao thâm thạc đức lớp trước dần khuất đi mà
mảng trống chưa người thay thế. Tăng tài ở giai đoạn lịch sử này trống đi
một mảng rất lớn. Phải lập tức ngay từ bây giờ khôi phục để thế hệ sau
nhiều khả quan hơn.
Không hiểu sao thầy cứ có cảm giác nôn nao, muốn làm nhanh, thực hiện gấp
mọi chuyện. Thầy thấy mình bắt đầu có những biểu hiện của tuổi già. Thỉnh
thoảng có những cơn choáng thoáng qua, không biết lý do. Dạo này lại hay
mất ngủ. Những đêm trằn trọc, thầy lại nhớ về ông cụ ở quê. Thầy gọi điện
về thăm ông thường xuyên hơn. Bà mất rồi, ông lẻ loi quạnh quẽ. Phải chi
thầy có chùa, đem ông về phụng dưỡng thì tốt biết mấy. Ðành vậy thôi, thầy
đã chọn nếp sống này rồi, thầy sẽ sống trong chúng mãi. Thương ông lắm
nhưng chỉ thỉnh thoảng đón lên ở vài ngày. Thôi thì còn anh chị em lo cho
ông. Là người xuất gia, cách báo hiếu hay nhất là báo hiếu theo lời Phật
dạy. Ông bà đều hiểu đạo, tuy không xuất gia nhưng là phật tử thuần thành,
vậy là đã tốt rồi, thầy cảm thấy yên tâm nhiều, hy vọng kiếp sau ông bà sẽ
có một báo thân tốt, có đủ phước duyên làm tăng để tu tập. Thầy nhớ hôm
đám tang của bà: Chưa bao giờ làng Mỹ Xương có một đám tang như thế. Tăng
ni phật tử đến dự đông vô kể. Thầy đã hoàn thành nghĩa vụ của một người
con. Ðám tang được tổ chức hết sức chu đáo dù điều kiện ở quê hạn chế.
Thầy cảm thấy được chút an ủi dù có lúc thầy tưởng như mình ngã quị. Bà đã
ra đi an ổn trong lời hộ niệm của thầy. Chính tay thầy đã vuốt mắt bà với
lời khuyên: “Má đi thanh thản, đừng luyến tiếc, má hiểu Phật pháp rồi phải
biết nương theo, cố chuyên lo niệm Phật”... Vậy mà lúc nhập quan cho bà
rồi, ngồi lặng lẽ trong một góc lúc nửa đêm vắng khách, nhìn lên di ảnh
bà, nhìn mấy cây đèn cầy lã chã tràn những giọt sáp trắng, rồi nhìn chiếc
quan tài trơ cứng, trong đó là di thể người mẹ thương yêu đang nằm một
mình đơn độc, cách ly vĩnh viễn với thế giới này, với những người thân...
Thể xác kia rồi dần mục nát, không còn gì nữa cả, từ nay căn nhà này không
còn má nữa rồi! Thầy cố hít vào thở ra để điều tâm mà sao nước mắt cứ
trào! Những giọt lệ của người xuất gia khóc mẹ mới khiến cho người ta đau
lòng thấm nhuần chữ hiếu, cảm cái ơn sinh thành dưỡng dục biết bao! Nhìn
người trẻ khóc, ta xúc động có thể khóc theo dễ dàng, nhưng nhìn người lớn
tuổi khóc, cảm giác ta nghẹn ngào xót xa, đau thắt, khó chịu đến không thể
tả được! Thầy ngồi đó, hai hàng nước mắt len lén chảy, rơi thấm dài xuống
ngực chiếc áo nâu!... Ðám tang bà xong, ông như người đãng trí. Thầy phải
để ra nhiều ngày ở bên cạnh an ủi ông. Dạo này ông yếu quá. Thầy cảm thấy
mình bất lực thật sự trước cái sanh già bệnh chết của kiếp người. Thầy
nghe trong người của chính thầy cũng bắt đầu có sự bất ổn về sức khỏe.
Ngày thứ bảy, 21-7-2002.
Sau
một ngày lên lớp - sáng dạy ở trường hạ Phổ Ðà, chiều giảng bốn tiết ở
Vĩnh Nghiêm - thầy rất mệt mỏi. Ngồi sau xe chú Minh Nhẫn chở về, thầy
cảm giác con đường từ Vĩnh Nghiêm về Huệ Nghiêm hôm nay sao mà xa! Cũng xe
cộ tấp nập, khói bụi như mọi ngày mà sao thầy nghe ngột ngạt khó thở quá!
Thầy chỉ mong nhanh về để được nghỉ ngơi. Bao nhiêu tấm hình vừa rửa, thầy
đã chu đáo ký tên gởi tặng các thầy cô và tăng ni sinh. Chiều nay vừa gởi
tặng xong mấy tấm cuối cùng cho các vị ở văn phòng, thầy chợt nhớ vẫn còn
một số người mà thầy chưa gởi tặng đủ. Một cảm giác buồn bã kỳ lạ chưa bao
giờ có. Ðầu cứ nghe ong ong, mặt gay gay sốt. Xe chạy vào cổng Huệ Nghiêm
quen thuộc, lối đi này thầy đã đi về mấy chục năm rồi, tự dưng hôm nay sao
thầy thấy có điều gì đó nao nao không tả được khi nhìn thấy tháp Phổ Ðồng
đứng lặng lẽ trong chiều. Xe chạy vòng qua, thầy ngoái nhìn lại tháp, bất
chợt thoáng qua trong đầu ý nghĩ: rồi sẽ có ngày mình cũng nhập tháp thôi.
Mệt mỏi sao kiếp sống con người! Ờø mà sao hôm nay mình nghĩ cái gì đâu
lung tung vậy, thầy lắc lắc đầu cho rãn cổ, vừa để bớt đi cảm giác nhức
buốt, vừa như để xua những ý nghĩ mông lung của mình. Về đến phòng, thấy
thầy Minh Thanh đứng đó. Nhìn nét mặt có vẻ uể oải của thầy, thầy Minh
Thanh hỏi:
-
Bữa nay thầy bệnh hay sao mà coi có vẻ mệt mỏi vậy?
Thầy đáp qua loa:
-
Chắc bị cảm, tôi nghe trong mình hơi mệt.
-
Coi thuốc men gì đi – thầy Minh Thanh nói, quay qua đưa mắt ngầm nhắc chú
thị giả Minh Nhẫn.
Thầy im lặng đi vào phòng, có cảm giác căn phòng sao mà chật chội hơn mọi
ngày. Dù rất mệt, muốn nằm nghỉ ngay, nhưng thầy vẫn gắng đi rửa mặt, thắp
cây nhang trên bàn thờ Phật. Nằm nghỉ một lúc, chợt nhớ đến bữa ăn chiều,
sợ chi Ninh nhà bếp chờ, thầy đi xuống bếp ăn một ít hủ tiếu rồi lên nằm
nghỉ. Những cơn nhức đầu cứ mỗi lúc một nhiều hơn.
Tiếng kiểng đổ báo giờ tọa thiền, âm thanh quen thuộc hằng đêm. Thầy nằm
lắng nghe hơi thở mình, nghe trong người thỉnh thoảng lại nhoáng lên những
cơn hụt hẩng như mất trọng lượng, thoáng qua rất nhanh rồi trở lại bình
thường.
Sau
giờ xả thiền, nghe chú thị giả báo là thấy thầy có vẻ mệt, thầy Minh Thanh
xuống hỏi, định đưa thầy đi bệnh viện. Thầy không muốn làm phiền mọi người
khi đêm đã khuya, thầy gượng cười, nói với thầy Minh Thanh:
-
Chắc không sao đâu, uống thuốc rồi từ từ sẽ hết.
Năm
giờ sáng.
Bệnh viện Triều An từ lúc đèn đêm trên đường chưa tắt đã tràn ngập bóng
áo lam, áo nâu, áo vàng. Tin thầy bị bệnh nặng (huyết áp cao dẫn đến tai
biến mạch máu não) bác sĩ báo là không còn hy vọng cứu chữa đã truyền đi
trong đêm làm bàng hoàng các chùa trong thành phố lẫn các tỉnh. Ðủ các
phương tiện xe từ mọi ngã đổ về. Chưa bao giờ mọi người ở xung quanh bệnh
viện Triều An chứng kiến một một cảnh tượng như thế. Khắp trong ngoài bệnh
viện đâu đâu cũng có bóng tăng ni. Những gương mặt âu lo, những giọt nước
mắt, những giọng nói nghẹn ngào...
Từng đoàn, từng đoàn lũ lượt, tăng ni và phật tử khắp mọi nơi đổ về. Ai
cũng muốn gặp mặt thầy lần cuối. Ðông quá, không thể giải quyết xuể, đành
chỉ sắp xếp cho mỗi đoàn cử một đại diện vào thăm thầy, dù chỉ được vào để
nhìn thấy thầy nằm đó! Gương mặt hiền từ phúc hậu, quen thuộc... nhìn đến
là đau lòng! Thầy sốt cao, mê man không còn nói được nữa. Thỉnh thoảng
trong đôi mắt nhắm nghiền, hai giọt nước mắt trào ra lăn dài xuống...
Người cha già của thầy ở quê đã kịp lên, nhưng không ai đủ can đảm báo với
ông rằng thầy đang hấp hối!
Không ai tin rằng thầy có thể ra đi vào lúc này. Không! Không thể!!!
Chiếc máy đo nhịp tim vô tri vô giác cứ giảm dần chỉ số báo hiệu!
Không còn tia hy vọng nào nữa, không thể giữ được thầy, mọi người đành
quyết định đưa thầy trở về chùa.
Chùa Huệ Nghiêm... 00 giờ 20 phút...
Thầy đã không còn nữa!
!!!
Thầy đã thanh thản ra đi trên chiếc đơn của mình, giữa căn phòng nhỏ trong
không gian Huệ Nghiêm quen thuộc suốt ba mươi bảy năm in bóng hình thầy.
Nơi này, huynh đệ bao người đã đến rồi đi, thầy vẫn kiên trì ở lại cho đến
giây phút chót.
Hơi
thở cuối cùng thầy trả cho trời đất, đã tan hòa trong gió Huệ Nghiêm...
Cành hoa huệ trên bàn thờ Phật đột nhiên rơi một bông, nhẹ khẻ như một
giọt trắng, trút chút làn hương dịu dàng thanh khiết sau cùng, quyện vào
khói nhang phảng phất.
Tiếng tụng kinh hộ niệm lan thấm từng cành cây ngọn cỏ, từng lối đi, bậc
thang, mảnh tường, góc cột; từ các tăng phòng đến các tháp ngoài sân; mặt
nước hồ như bỗng đầy hơn, lấp loáng, ngân ngấn rưng rưng như ánh mắt tiếc
thương của đất!
Tiếng chuông ngân lên. Tiếng chuông vang xa mấy rồi cũng tắt, để tiếng
chuông khác tiếp nối. Tiếng tụng kinh và nước mắt đêm này thì vẫn không
ngớt, không nguôi.
Thầy nằm đó. sắc... không... không.. sắc...
Chánh điện. Khói hương lẩn quẩn bay vòng...
Mấy
ngày qua, không biết bao nhiêu là tăng ni phật tử từ khắp mọi miền đất
nước và cả ở nước ngoài đã đến lễ tang thầy. Người đến, người về cùng
chung một ánh mắt. Hương hoa triền miên dường như bất tận...
Sáng mai là ngày di tiễn kim quan thầy đến nơi làm lễ trà tỳ. Vầng trăng
đêm nay ánh sáng lạ lùng muôn nỗi dù bầu trời có thật nhiều mây! Khu vực
Huệ Nghiêm rền vang tiếng tụng kinh. Người ngồi khắp mọi nơi, từ chánh
điện tràn xuống sân, không cần ghế. Huệ Nghiêm thắp sáng đèn tất cả mọi
chỗ trong chùa. Ai nấy chọn cho mình một góc, ngồi lặng lẽ bên gốc cây,
băng đá, hành lang, bờ tường... Trên tay là quyển kinh Ðịa Tạng, chú tâm
đọc tụng. Thỉnh thoảng lại có những giọt nước mắt rơi xuống trang kinh!
Tiếng nấc nghẹn ngào rưng rức cố nén mà chốc chốc lại xen vào trong âm ba
lời Pháp! Cây bằng lăng sân chùa thả rơi từng giọt cánh mỏng tím, lịm
buồn! Hàng dương liễu không màng đến gió, im rũ gục đầu mang nặng những
giọt sương.
Tiếng tụng kinh...
Tiếng tụng kinh âm ba cả một vùng. Một không khí không ngôn từ nào, bút
mực nào tả nỗi! Lâu lâu bất chợt một cơn gió thốc đến, lật bay bay những
trang kinh, cuốn theo âm thanh rền vang ấy rồi đi mất hút.
Thầy cũng đã đi ... rồi!
Dẫu
còn đây muôn ngàn những bóng áo nâu, nhưng rõ ràng trống vắng làm sao khi
một bóng áo nâu vừa khuất!
Bóng áo nâu ấy đã khuất nhưng đã để lại trên đời muôn ngàn những bóng áo
nâu...
Bông sen chơn chất thanh khiết trong hồ vẫn nở, hương vẫn tỏa ra ngan ngát
dù không còn có gió để mang đi. Hương không đến được với nhiều người nữa,
nhưng dẫu sao ngọn gió trước đó cũng đã kịp mang đi một ít, rải khắp muôn
rồi. Hương tỏa ra lặng lẽ tan vào không khí, dẫu không thấy nhưng đất trời
vạn vật đã tự nhiên hương.
Thế
cũng là đã đủ.
Sắc
tức thị không, không tức thị sắc
Bát Nhã Tâm Kinh.
Thành phố Hồ
Chí Minh ngày 15-5-2004
Ðồng tác giả:
Thu Nguyệt - Ðỗ Thiền Ðăng - Thiện Bảo
---o0o---
[ Mục Lục
] [ Phần I
] [Phần II
] [Phần
III] [Phần
IV]
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 1- 10 -2004