THUYỀN PHÁP THÂN VƯỢT SÓNG TRẦN AI .....
Thích Nguyên Hạnh
---o0o---
Thuyền Pháp Thân vượt sóng trần ai
Ba cõi ra vào không chướng ngại
Ôn Từ Đàm (Hòa
thuọng Thích Thiện Siêu) với tôi vốn không có duyên nghĩa thầy trò; mặc
dù, vào đầu thập niên 1960, Ôn là Giáo thọ tại Phật Học Viện Hải Đức Nha
Trang trong khi tôi là một học tăng ở đó. Những tháng năm này, tôi là
nguòi được theo học trường Võ Tánh nên thời khóa sinh hoạt của tôi không
bị câu thúc chặt chẽ; và vì vậy, ít có cơ hội gần gũi với các bậc thầy
lớn như Ôn. Như thế cho đến sau này, ra ở Phật Học Viện Báo Quốc Huế,
đối với các bậc thầy lớn, tôi cũng chỉ biết là biết vậy, chỉ là người
“kính nhi viễn chi”, không có cái cảm giác gần gũi thâm tình đã đành mà
cũng không thấy có cái nhu cầu cho một sự gần gũi thâm tình nào bấy giờ.
Đến năm 1963,
cuộc tranh đấu của Phật giáo chống lại những áp bức có tính cách kỳ thị
của chế độ tổng thống Ngô Đình Diệm bùng dậy. Giữa những khuôn mặt lớn
của cuộc đấu tranh này mà hình ảnh gây ấn tượng khá mạnh trong lớp học
tăng trẻ chúng tôi, thì hình ảnh của Ôn Từ Đàm vẫn chỉ như một bóng mờ
thấp thoáng. Chỉ sau khi Giảng Sư Đoàn đươc thành lập lần đầu tiên ở Huế
sau 1963, một vài lời nhắn nhủ của Ôn với anh em chúng tôi trước khi lên
đường về các quận huyện xã thôn để diễn giảng mới thực sự gây nên một
chấn động âm thầm trong tôi bấy giờ và kéo dài đến rất nhiều năm sau.
Lời nhắn nhủ đó, không có gì trịnh trọng, chỉ như một lời nửa đùa nửa
thật : “Mấy anh em ra đi diễn giảng, nói hay cho người ta vỗ tay
chưa phải là hay. Nói làm sao để cho người ta phát khởi tín tâm mà quy y
Tam Bảo mới thật là hay”.
Trong khung
cảnh của một xã hội biến động với một Phật Giáo đang mở tung cánh cửa
Thiền môn trầm lặng bấy lâu để dấn bước vào hoạt trường rối rắm của thời
thế với bao nhiêu những “hoan hô, đã đảo” mà dư âm 1963 mới vừa qua đi
còn vang động; với hào khí của những tuyên bố, phát biểu như lúc nào
cũng kéo theo những tràng pháo tay khích động bấy giờ thì những lời nhắn
nhủ giản dị của Ôn đó – trong khi không đủ sức gây sự chú ý ở nhiều
người nghe khác – thì với tôi, nó lại mang một sức nặng lạ thường, gây
nên một chấn động âm thầm mà mãnh liệt để cho sau này, mỗi lần nghĩ về
con đường mình đi, lời nhắn nhủ đó như lúc nào cũng vang vọng khiến cho
tôi suy nghĩ mà quyết định cho con đương đi tới và cho mọi thái độ hành
xử của tôi trong cuộc đời. Ôn Từ Đàm thật sự đến với tôi và ở lại trong
tôi – nếu có thể nói như thế – là từ đó.
Với Ôn, tôi
không có gì để gọi là tình thâm nghĩa trọng. Nhưng với những đệ tử của
Ôn thì khác. Những thầy Huệ Minh, Hải Thanh, Hạnh Minh, Hải Tịnh, Nguyên
Tịnh..... đã là những người thân thiết với tôi khi ra dạy học và làm
Phật sự. Thân thiết đến như anh em ruột thịt là thầy Hạnh Minh – một tu
sĩ Phật Giáo tài hoa”bất cần đời”, từng đi học tập cải tạo sau năm 1975
và có lẽ, đã hắt hiu bỏ xác đâu đó trong một cánh rừng ở miền Nam mà
không một ai biết; cũng lại là người mà qua đó, tôi có nhiều cơ hội để
được gặp và nhìn thấy rõ Ôn hơn.
Đó là khoảng
những năm 1965, 1966. Thầy Hạnh Minh ở Từ Đàm, làm Hiệu Trưởng Trường Bồ
Đề Đệ Nhị Cấp Hữu Ngạn. Vốn thân tình từ khi thầy còn ở Báo Quốc, tôi
thường hay lên Từ Đàm chuyện trò và đôi khi ở lại dùng cơm. Chính ở
những lần này mà tôi thấy cái cách “dạy chúng” của Ôn. Không nhiều lời
và như bao giờ cũng nhẹ nhàng, từ tốn, Ôn thường hay mượn chuyện xưa để
nói chuyện nay một cách bóng gió. Có khi là một chuyện trong Bách Dụ hay
cả trong Cổ Học Tinh Hoa; lại cũng có khi là một câu chuyện do Ôn tự
nghĩ ra để dạy chúng. Với đệ tử nhỏ thì Ôn kể chuyện gần gũi, ý nghĩa cụ
thể dễ thấy; với đệ tử lớn thì Ôn kể chuyện thâm trầm, ý nghĩa xa xôi ẩn
náu. Và ý nghĩa đó, Ôn thường không tự mình nói ra mà chỉ để cho đệ tử
suy nghĩ để thấy ra cái điều Ôn muốn nói. Như có lần, sau khi Chúng dùng
cơm xong, Ôn xuất hiện nhẹ nhàng và cũng rất nhẹ nhàng nói với Chúng:
“Có một
Thượng tọa trong Viện Hóa Đạo ra thăm chùa hỏi tôi một câu hỏi mà tôi
không biết phải trả lời làm sao. Tôi xuống đây để nhờ các chú, các điệu
thử trả lời giùm tôi coi...”
Trong khi cả
Chúng im lặng chờ đợi Ôn đưa ra câu hỏi với hy vọng có thể giúp thầy
mình một câu trả lời thỏa đáng thì Ôn tiếp:
“Vị
Thượng tọa đó hỏi tôi, chúng điệu của thầy ở đây có bao nhiêu người?
Thiệt là một câu hỏi khó mà tôi không biết trả lời làm sao.”
Cả chúng lại
ngẩn ngơ vì điều đó ai cũng biết mà sao Thầy mình bảo là quá khó đến
không trả lời được thì Ôn tiếp:
“Nếu tôi
trả lời nhiều thì Thượng tọa đó bảo, sao buổi khuya lên công phu, tọa
thiền thấy chẳng có bao nhiêu người. Còn nói Chúng ở đây ít thì vị đó
hỏi, sao khi ăn cơm thấy có nhiều người lắm. Trả lời làm sao, tôi xem ra
cũng đều không được nên nhờ mấy chú mấy điệu trả lời giùm.”
Cuối cùng thì
câu trả lời Ôn mong đợi được thực hiện. Ăn cơm bao nhiêu người thì những
khi tụng kinh, tọa thiền cũng bấy nhiêu người.
Ôn là vị Thầy
chăm sóc cho đệ tử hết lòng. Từ một chú điệu nhỏ đang tập sự xuất gia
đến những đệ tử lớn đã ra làm việc đạo, Ôn như lúc nào cũng quan tâm
đến. Với nhỏ thì Ôn để ý đến phẩm hạnh oai nghi, lo đến cả chuyện học
hành bên ngoài. Tôi từng nghe, ngay đến những bài luận văn các chú làm ở
nhà trường, Ôn cũng bảo đưa cho Ôn đọc coi thử. Có lẽ, điều Ôn muốn biết
không phải là văn hay hay dở; mà là cái suy nghĩ, cảm tưởng của các chú
thể hiện trong bài luận văn; và biết như thế là để thấy rõ tâm tính mà
nhắc nhở, dạy dỗ các chú cho nên người. Không chỉ đọc bài các chú làm,
đôi khi Ôn còn đọc cả bài các chú học. Ngày tôi ra Huế dạy, chùa Từ Đàm
có chú Thiện, chú Tuyến là sinh viên ban Triết. Hai Chú cho tôi biết, Ôn
hay bảo hai chú đưa mấy bài dạy của tôi cho Ôn xem. Ôn cũng thường đọc
các tập san – cả đến những tập san của học sinh, sinh viên – để thấy cái
gì hay, thấy đoạn văn nào có cái ý tốt về đạo đức làm người là Ôn lại
bảo các chú đọc để học theo cái hay của người ta. Như tôi biết, gần như
không một ngày nào Ôn không đọc Đại Tạng. Với ngàn vạn trang kinh xưa
không một ngày rời bỏ mà Ôn còn để thì giờ đọc đến cả những điều nhỏ như
thế cho đệ tử của mình thì quả là thế gian hiếm có.
Với đệ tử lớn
đã ra làm việc đạo thì Ôn quan tâm đến cách hành sử công việc và ảnh
hưởng của nó đối với Phật Giáo. Có một thầy đệ tử lớn của Ôn làm việc ở
Cao nguyên. Một Phật tử ở đó, không biết tranh chấp thế nào với một
người có thế lực mà sự việc phải đưa ra tòa án để phân xử. Vị Phật tử
này đến nhờ thầy nọ giúp đỡ. Ôn biết được, gọi thầy đó về, nói một câu
đủ làm kim chỉ nam cho người tu sĩ mọi thời đại khi ra làm việc đạo giữa
đời: “Xưa nay, Phật Giáo cứu người ta ra khỏi tù thì có chứ chẳng
bao giờ đẩy ai vào tù. Thầy có giúp ai thì cũng phải nhớ lấy điều đó.”
(Cách đây mấy
năm, chính câu nói này, tôi đã có lần lập lại ở Mỹ cho một Hội Phật Giáo
ở Boston khi ngôi chùa Việt Nam trên đó bị một số người vào đập phá. Số
người này bị bắt rồi bị đưa ra tòa. Trước tòa, Hội Phật Giáo này đã nói
lại câu trên để không những xin tòa không giam tù họ mà còn xin được
chia xẻ trách nhiệm giáo dục tuổi trẻ cùng xã hội và các gia đình liên
hệ. Và tiếng nói Từ Bi của Phật Giáo này đã cảm hóa được mọi người để
cuối cùng, chính những người không cùng chủng tộc, tôn giáo sống chung
quanh chùa đã tự động đóng góp để giúp chùa phương tiện sửa chữa!)
Có người nói
với hàm ý than trách “Ôn lo cho đệ tử quá mức”. Nói như vậy, tôi nghĩ,
đúng mà không đúng. Đúng là Ôn lo cho đệ tử ở cái mức có thể gọi được là
“hiếm thấy” ở nơi những vị thầy bình thường khác. Mà như vậy, với tôi,
có gì là không hay, không phải ! Một vị thầy khi nhận đệ tử xuất gia nào
có khác gì một người cha khi sinh con ra. Cha phải thương, phải lo cho
con mình nên người ở đời thế nào thì thầy cũng phải thương, phải lo,
phải tài bồi làm sao cho đệ tử mình nên người trong đạo thế ấy. Còn nhận
đệ tử mà không thương, không lo tài bồi, không mong cho đệ tử mình một
ngày trở nên pháp khí cho đạo thì nhận để làm gì? Từ giả cha mẹ thân
thuộc mà đi xuất gia, có được một vị Thầy như thế quả là cần thiết và là
một diễm phúc lớn. Đạo làm Thầy, trong luật cũng đã từng nói đến. Cho
nên nói “Ôn lo cho đệ tử quá mức” như một lời than trách thì quả là
không phải chút nào.
Thực ra, lo cho
đệ tử là việc nhỏ, vun bồi cho mối đạo được vững bền mới là việc lớn. Và
có thể nói mà không sợ lầm, lo cho đệ tử chính là vun bồi cho mối đạo
được vững bền đó. Và đó chính là tấm lòng của Ôn. Ôn quý mến trân trọng
mọi “nhân tài” trong Phật Giáo dù người đó ở đâu. Nhân tài còn nhỏ thì
Ôn khích lệ làm sao cho nẩy nở. Nhân tài đã trưởng thành thì Ôn tán
dương mong sao làm cho nên việc lớn. Không chỉ khích lệ, tán dương, Ôn
còn tỏ ra “biệt đãi nhân tài” mỗi khi gặp gỡ. Nói “biệt đãi” là nói vậy
chứ thực ra chẳng có gì nhiều. Một trái chuối hương, một tách trà thơm.
Vài miếng bánh ngọt. Một căn phòng an tịnh, thích hợp cho việc sáng tác…
Không có gì
nhiều nhưng tấm lòng hoài vọng của Ôn gởi theo đó thì rất lớn. Hoài vọng
nơi người đó sẽ làm nên được cái gì cho Phật Giáo. Chính ở nơi những
biệt đãi này mà tôi thấy ra ở Ôn một quan niệm khá mới mẽ, hiếm có nơi
thế hệ những bậc thầy lớn như Ôn. Ôn đã không nhìn Phật Giáo như con
đường một chiều, sớm tối chỉ có tụng kinh niệm Phật là đủ. Trong khung
cảnh của một Phật Giáo mang nặng xã hội tính mà thời đại đòi hỏi, Phật
Giáo với Ôn là một cơ cấu toàn diện. Tụng kinh, niệm Phật, tọa thiền
chuyên tu là việc thiết yếu. Nhưng cũng là cần thiết để Phật Giáo đó nói
được tiếng nói của mình trong các lãnh vực sinh hoạt văn hóa, văn học,
nghệ thuật, tư tưởng, giáo dục, từ thiện… Và Ôn là người đã âm thầm hỗ
trợ hết lòng để cho những tiếng nói này được cất lên.
Gặp được một
tập thơ hay, thể hiện được tinh thần Phật Giáo là Ôn hết lời tán dương.
Đọc được một bài luận thuyết vững vàng, lên tiếng nói được cho Đạo lý
chân thật giữa những trá ngụy của thế giới tri thức sách vở là Ôn hết
lòng cổ võ, thậm chí còn làm mọi cách để quãng bá rộng rãi, sao cho đến
tay được nhiều người… và tác giả của những bài thơ, bài văn đó, với Ôn
bao giờ cũng là những viên ngọc quý. Ôn từng có lần viết thư than thở: “Nhân
tài Phật Giáo như lá mùa thu. Có bao nhiêu việc đáng làm mà không người
làm. Gặp được mãnh đất tốt (quần chúng có sẳn niềm tin mà không ai gieo
hạt, thiệt là uổng…”. Lời than cho thấy tấm lòng hoài vọng của
Ôn thi thiết đến thế nào! Tấm lòng hoài vọng đó có thực hiện được hay
không, cái đó còn tùy. Nhưng có được một tấm lòng như thế ở thời buổi
ngổn ngang này của thế đạo nhân tâm quả là đáng quý và cần thiết biết
bao cho cơ đồ của Phật Giáo hôm nay và ngày mai!
Ôn vốn không
thích dính dáng đến chuyện thế sự và chính trị. Trong cuộc đấu tranh
1963 cũng như trong những năm xáo trộn sau đó, mặc dù như lúc nào Ôn
cũng có mặt nhưng trước sau, Ôn vẫn chỉ là một bóng mờ. Tấm lòng và con
đường Ôn đi vốn đặt vào việc giáo dục đào tạo Tăng Ni và xây dựng một sự
nghiệp trí tuệ cho Phật Giáo Việt Nam. Việc mở trường Cơ Bản Phật Học,
Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Huế; việc hình thành một Đại Tạng Kinh
Việt Nam cũng như một số lượng lớn những tác phẩm, dịch phẩm mà Ôn đã
miệt mài làm việc ngay cả khi mắt đã mờ và thân bệnh đã đến hồi trầm
trọng là những thể hiện quá rõ, hoài bảo và con đường Ôn đi đó. Ôn đã
chỉ sợ “không còn đủ thời gian” để hoàn tất được các công
trình đóng góp vào sự nghiệp trí tuệ này. Cuối cùng thì Ôn đã hoàn tất
được những gì hoài bảo. Và những gì đó, chắc chắn là những đóng góp quý
báu cho sự nghiệp trí tuệ của Phật Giáo Việt Nam hôm nay.
Vốn không thích
dính dáng đến chuyện chính trị thế sự, nhưng sau 1975 và trong những bất
hạnh sau này của Phật Giáo Huế, Ôn như ở vào một tình cảnh “chẳng đặng
đừng” để không thích mà vẫn phải dính dáng. Cũng như với Ôn Linh Mụ, Ôn
Thiện Minh hay như với Ôn Già Lam, Ôn Trúc Lâm và bao nhiêu vị Thầy khác
nữa mà tôi biết, thật không đơn giản tí nào để có thể, đứng trên những
quan điểm chính trị bên này và bên kia mà nhìn vào hành trạng của quý Ôn
trong một hoàn cảnh phức tạp, tế nhị như của đất nước và Phật Giáo Việt
Nam sau 1975. Đứng trên những quan điểm nhị biên như vậy, hẳn nhiên
người ta dễ dàng phê phán, đồng ý hay chỉ trích; và điều này đã xảy ra
nhiều. Nhưng một quan điểm như vậy có thật là thích đáng, cả trên bình
diện lý luận và thực tế? Ngay như với Ôn Huyền Quang, Ôn Quảng Độ, với
những gì mà chúng ta đã thấy, nếu đứng trên những quan điểm nhị biên như
vậy mà nhìn và có ca ngợi, tán thán đi nữa thì tôi nghĩ, cũng là một
điều oan uổng cho quý Ôn và cho con đường hành động của Phật Giáo Việt
Nam mà thôi. Bởi vì, tâm hồn của người tu sĩ Phật Giáo đúng nghĩa thì
chỉ có thể là tâm hồn “vô nhị”, không ở bên này hay bên kia mà chỉ ở cái
khổ của con người và ở con đường giải khổ cho con người.
Bên này và bên
kia, cái đó là gì ở nơi những tâm hồn vô nhị mà đem nó trói buộc nhãn
quan của mình khi nhìn vào những con người mang lấy cái tâm hồn đó?
Cho nên, với Ôn
Từ Đàm - trong những dính dáng với thế sự như đã có mà nói - thì tôi
chỉ xin được nói rằng, cái thân đã ở chốn thế sự ngổn ngang thì như cũng
đành, vì cái tâm cho nên phải lụy cái hình. Hình đã không còn kéo theo
tất cả những cơn sóng trần ai liên lụy với nó - ít ra là với Ôn lúc này
– thì còn chi để nói. Cái còn lại và là cái đáng nói hơn hết là cái Tâm
– cái tấm lòng hoài vọng thiết tha của Ôn cho một Phật Giáo Việt Nam
hôm nay và ngày mai, cái tấm lòng đã trải ra trong suốt cuộc đời của Ôn,
ở tất cả những gì Ôn đã làm thì tôi tin, sẽ còn lại đó cho muôn đời.
Trong ánh trăng
Lăng Già vằng vặc giữa đêm thâu, tôi chỉ là một học trò chưa nên nghĩa,
cũng xin đem một chút lòng ghi lại mấy lời này để gọi là hiến cúng một
bậc Thầy đã cỡi thuyền Pháp Thân vượt sóng ra đi.
Thành Kính