Viết về gương
người tốt việc tốt, một nhà báo có thể làm thành một phóng sự xuất
sắc, có tính giáo dục cao. Viết về một danh nhân lịch sử, một học
giả có thể dựa vào các tài liệu khoa học mà thực hiện một đề tài
nghiên cứu có tính thuyết phục, có giá trị lâu dài. Ðó là những
tác phẩm mang tính khách quan, và ngòi bút của tác giả cứ từ các
dữ kiện thực tế mà đưa lên trang giấy những hình ảnh sinh động.
Nhưng đối với Ðức Thích Ca Mâu-Ni, là một bậc vĩ nhân lịch sử của
thế giới, Ðấng Giáo Chủ của hàng tứ chúng con Phật, Bậc Thầy của
ba cõi chúng sinh, thì ngòi bút điêu luyện nào có thể diễn tả
tường tận cuộc đời của Ngài, từ lúc Ðản sinh đến khi nhập diệt?
Ngôn từ nào vẽ ra được hình tướng trang nghiêm đẹp đẽ, biểu hiện
được tinh thần Bi-Trí-Dũng, ca tụng hết được công lao hoằng hóa
lợi sinh của Ngài trong suốt bốn mươi lăm năm ròng rã?
Là
con người, mấy ai không có tham sân si? Ðôi khi chỉ vì một chút
quyền lợi, một chức vụ nhỏ nhoi, người ta đã nhẫn tâm giết hại
nhau rồi. Thái tử Sĩ-Ðạt-Ta cũng là con người, sống trong uy quyền
tột đỉnh, trong hạnh phúc gia đình đầm ấm, lại tự nguyện từ bỏ tất
cả, sống cuộc đời Sa-môn khổ hạnh trong núi rừng, tìm đạo giải
thoát. Sự hy sinh ấy há chẳng phải vô vùng cao cả hiếm hoi?
Suốt
sáu năm thiết tha cầu đạo, hết học với các vị Tiên đến thực hành
công phu khổ hạnh, quên cả thân xác đến nỗi hình hài chỉ còn da
bọc lấy xương, Ngài vẫn không cô phụ lý tưởng đời mình. Lời thề
sấm sét dưới cội Tất-bát-la thể hiện rõ một ý chí dũng mãnh, một
nghị lực siêu phàm của Ngài. Dù trên đường tu mà Ngài không đạt
mục đích tối hậu là giác ngộ và giải thoát sinh tử thì Ngài không
chùn bước, chỉ riêng ý chí nghị lực ấy cũng đã khiến nhân loại
phải cúi đầu!
Thế
mà, sau khi tu thành đạo, Ngài đã tạo dựng cho mình những danh
vọng quyền lực gì? Thông thường, chúng ta miệt mài làm việc học
tập, chịu nếm trải muôn vàn đắng cay, chịu hy sinh hạnh phúc gia
đình và cả tuổi thanh xuân của mình, cũng chỉ hy vọng có ngày
thành công trong sự nghiệp; và lúc ấy, chúng ta sẽ được đền bù
xứng đáng, về vật chất lẫn tinh thần. Chính niềm hy vọng ấy là
động lực kích thích động viên ta cố gắng vượt qua mọi khó khăn
gian khổ. Riêng đối với Ðức Phật, dù được người đời tôn xưng là
Bậc Giác ngộ Viên mãn, là Ðấng Giáo chủ Thích-Ca Mâu-Ni, Ngài cũng
vẫn sống cuộc đời vô cùng đạm bạc. Hình ảnh Ðức Phật dẫn đầu đoàn
Tăng sĩ, đầu trần chân đất, vận áo nhuộm ôm bình bát, khất thực
từng nhà trên đường về thành Ca-tỳ-la-vệ quê hương, thật trái
ngược với bức tranh “vinh quy bái tổ” lộng lẫy hoành tráng của một
vị Thái tử, theo tưởng tượng của vua cha và quần thần. Nhưng chính
sự trái ngược giữa tưởng tượng và thực tế ấy càng làm nổi bật tư
cách cao thượng và sự vĩ đại của một Bậc Giác ngộ đã thành tựu
tinh thần vô ngã vị tha.
Trong cuộc đời hoằng hóa độ sinh, khó có thể tính được bao nhiêu
đường đất Ngài đã đi, bao nhiêu nhà được Ngài gieo duyên bằng hạnh
khất thực, bao nhiêu người được nghe những lời Ngài giáo hóa.
Trong Tăng đoàn của Ngài, mọi người đều bình đẳng trong sinh hoạt,
trong tu học và trong quả chứng. Chính Ngài đã làm một cuộc đại
cách mạng khi triệt để xóa bỏ ý thức phân biệt giai cấp, mà biểu
tượng đỉnh cao là sự đảnh lễ của một vị vua dòng Sát-đế-lợi trước
một bậc A-la-hán xuất thân từ giai cấp mạt hạng Thủ-đà-la.
Có
thể nói, ngày Ðản sinh (rằm tháng tư) và đêm Thành đạo (mùng tám
tháng chạp) là hai dấu ấn quan trọng bậc nhất của cuộc đời Ðức
Phật, và là hai ngày trọng đại nhất đối với những người con Phật
chúng ta. Bởi vì nếu Bồ-tát Hộ Minh không thị hiện xuống cõi Ta-bà
thì không có Thái tử Sĩ-Ðạt-Ta, không có ngày khởi đầu một kỷ
nguyên mới – kỷ nguyên của từ bi, trí tuệ và hùng lực - không có
Ðức Phật, không có Pháp, cũng không có Tăng già. Như vậy, ngày Ðản
sinh là dấu ấn thứ nhất bắt đầu cuộc đời Thái tử, và đêm Thành đạo
là dấu ấn thứ hai của sự ra đời ba ngôi báu Phật – Pháp – Tăng
trên thế gian này.
Ðã
hai mươi lăm thế kỷ trôi qua, con người vẫn còn lăn lộn trong cuộc
tử sinh. Ðâu đó vẫn còn hận thù chiến tranh. Chúng ta vẫn còn
nhiều lúc giật mình khi biết nơi này nơi kia còn tàn sát nhau,
hành hạ nhau không thương tiếc. Mây mù đang bao phủ bầu trời, và
nhân loại đang từng ngày lo sợ những cái chết không báo trước. Tuy
thế, một góc trời bình an hạnh phúc vẫn còn hiện hữu. Chỉ cần
chúng ta tỉnh thức, lắng sâu tâm thức nghe bức thông điệp từ bi
cứu khổ của Ðức Phật. Pháp âm vi diệu ấy vẫn vang vọng nếu ta chịu
mở lòng ra đón nhận. Ánh giác ngộ ấy vẫn chói lọi nếu ta chịu quay
lại soi sáng chính mình!
Chúng tôi không phải là nhà văn với khả năng sử dụng từ ngữ văn
hoa chuẩn xác; cũng không phải nhà nghiên cứu với kiến thức uyên
bác, với sự nghiên tầm công phu, lại viết về sự ra đời và sự thành
đạo của một Bậc Ðại Thánh Vô thượng, thì quả là một việc làm quá
sức chúng tôi, không khỏi lỗi lầm với những bậc thức giả. Nhưng vì
lòng tôn kính biết ơn vô hạn đối với người đã hy sinh cả cuộc đời
mình để chỉ dạy cho chúng sinh phương pháp thoát ly sinh tử; vì
lòng tôn kính nhớ ơn vô biên đối với vị Cha lành nuôi lớn thân huệ
mạng của mình; và vì tâm thành thiết tha muốn tất cả mọi người
luôn nhớ về gương sáng của Ngài, nguyện đời đời đi theo con đường
Ngài đã đi và đã đến đích; nên chúng tôi tập hợp những bài viết đã
đăng trên một số tập san Phật giáo,
làm thành quyển sách này. Nhưng vì là những bài viết cùng chủ đề,
không sao tránh khỏi có nhiều chỗ trùng lập. Ðộc giả hãy thông cảm
cho. Xin được xem đây như một nén tâm hương, kính dâng lên Ðức Từ
phụ Bổn Sư nhân ngày Khánh Ðản.
Mong
rằng tất cả chúng ta luôn được sống trong hào quang vô lượng của
Ngài!
Thiền
Thất Viên Giác
Ngày
Phật Ðản – PL. 2548
THÍCH THÔNG HUỆ
Vào ngày trăng tròn
cách đây trên 25 thế kỷ, có một bậc vĩ nhân
xuất hiện ở
đời. Ngài sinh vào cung Vua Tịnh Phạn năm 563 trước Tây lịch. Ðó
là thái tử Sĩ Ðạt Ta, sau thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Cuộc
đời Ngài từ lúc đản sinh đến khi nhập diệt là một cuộc đời hết sức
đẹp đẽ và có ý nghĩa. Ngài đã đi vào quá khứ, nhưng uy đức và trí
tuệ của Ngài vẫn còn sống mãi với con người và cuộc đời. Hôm nay,
nhân ngày Phật đản sinh, chúng ta cần ôn lại một đôi điều trong
các Kinh điển Phật giáo để hiểu được ý nghĩa sự ra đời của Ðức Từ
phụ. Từ đó, chúng ta nguyện noi gương Ngài, luôn tinh tấn trên
bước đường tự lợi, lợi tha. Chúng ta đều biết, Hoàng Hậu Ma Gia hạ
sinh Ngài tại vườn Lâm Tỳ Ni, trên đường về quê ngoại. Khi mới
sinh ra, Ngài đi được bảy bước, mỗi bước có hoa sen nâng chân, một
tay chỉ trời, một tay chỉ đất, Ngài đọc bài kệ như sau:
Thiên thượng Thiên hạ
Duy ngã độc tôn
Nhất thiết thế
gian
Sinh lão bệnh tử.
Tạm dịch:
Trên trời và dưới
trời
Chỉ có Ta trên hết
Tất cả trong thế
gian
Ðều Sinh lão bệnh tử.
Những hình ảnh trên
đây mang nhiều ý nghĩa rất sâu mầu. Vì sao Thái tử Sĩ Ðạt Ta đi
bảy bước mà không nhiều hơn hoặc ít hơn? Con số bảy nói lên điều
gì? Về mặt thời gian, người ta thường cho là có ba thời: quá khứ,
hiện tại, vị lai. Về không gian thì có bốn phương chính: Ðông,
Tây, Nam, Bắc. Những quan niệm về thời gian và không gian, thật ra
chỉ là con đẻ của vọng tưởng, không phải là lẽ thực. Cho nên, hình
ảnh Thái tử đi bảy bước tượng trưng Ngài đã siêu vượt được thời
gian và không gian, không còn bị ràng buộc trong những qui ước
tương đối của con người.
Về hoa sen, tất cả
Phật tử đều biết một đặc điểm rất tuyệt vời của nó, là mọc từ bùn
nhơ mà vươn lên rồi tỏa hương thơm ngát. Hoa sen ở trong bùn mà
không bị lấm bùn, không bị bùn nhơ làm ô nhiễm. Thái tử cũng như
thế, sinh vào chốn trần lao để làm lợi ích cho chúng sinh nhưng
không bị vướng mắc, nhiễm nhơ bởi bùn lầy ngũ dục.
Bài kệ bốn câu Ngài
đọc đã làm một số người hiểu lầm. Ðạo Phật là đạo Vô ngã, vì sao
vị Giáo chủ lại đề cao cái "Ta" của mình quá đáng như thế? Nếu đọc
kỹ hai câu sau, chúng ta mới thấy cái nghĩa lý uyên áo trong đó.
Tất cả chúng sinh, không ai thoát được bốn điều khổ não là Sanh,
Già, Bệnh, Chết, dù ở cõi Chư Thiên (trên trời) hay cõi người
(dưới trời). Chỉ riêng "Ta" là trên hết vì "Ta" đã thoát được sự
ràng buộc này. Thử hỏi, tất cả những hình tướng của thế gian, có
cái gì không chịu sự chi phối của lý vô thường? Có sanh thì có
diệt, có hình tướng thì phải có hũy hoại, dù là thân hình có 32
tướng tốt và 80 vẻ đẹp của Thái tử. Vì thế, cái "Ta" ở đây dứt
khoát không phải là cái ngã hữu hình hữu hoại của Ngài, mà chính
là cái "Chơn Ngã". Ðó là Chơn-tâm, Phật tánh, là
Bản-tâm-thanh-tịnh, là Phật-tri-kiến, là Tâm Viên-giác, là
Bản-lai-diện-mục... Nó có vô số tên vì bản chất nó không có tên.
Nó không có hình tướng nên không thể bị hũy diệt. Nó trùm khắp vạn
hữu nên siêu việt cả không gian và thời gian. Tất cả mọi hàm linh
đều có cái Ngã này, không ai hơn không ai kém. Phật đã nhận ra và
sống viên mãn với nó nên Ngài thành Phật, còn chúng ta vì quên nó
nên cứ mãi trôi lăn trong sanh tử luân hồi.
Hiểu được những điều
này, chúng ta thấy mình được đôi phần an ủi. Nếu
chúng ta ngồi
trong tư thế thiền tọa, tâm an định không bị vọng tưởng lôi dẫn,
thì rõ ràng ngay lúc ấy chúng ta cũng đang ngồi trên tòa sen. Nếu
chúng ta đi từng bước thiền hành, tâm an trú trong giờ phút hiện
tại mà không duyên theo các pháp, thì mọi bước đi của chúng ta
cũng có hoa sen nâng chân. Và nếu chúng ta luôn luôn tinh tấn, gội
rữa dần từng lớp bụi ngũ dục, ở ngay trong cuộc đời mà không bị
nhiễm ô theo trần cảnh, thì một lúc nào đó, ánh trực giác đột
nhiên bừng lên, bóng tối vô minh từ bao đời kiếp sẽ bị xua tan
không còn dấu tích.
Trong Kinh A Hàm có
câu: " Một chúng sinh duy nhất, một con người phi thường đã xuất
hiện trên thế gian này, vì lợi ích cho số đông, vì hạnh phúc cho
số đông, vì lòng bi mẫn, vì sự tốt đẹp, vì lợi ích và hạnh phúc
cho Chư Thiên và loài người".
Vì sao đức Phật được gọi là "một chúng sinh". Ở đây, chúng
ta phải hiểu chữ "chúng sinh" theo nghĩa, các hình tướng do nhiều
pháp hợp lại mà thành. Như vậy, thân tướng của Ðức Phật, dù đủ vẻ
đẹp và tướng tốt, cũng là do tứ đại giả hợp mà thành, cũng bất
tịnh và vô thường như mọi người. Do đó, Ngài cũng là con người, là
chúng sinh, nhưng khác chúng ta ở chỗ, Ngài là một con người phi
thường, một chúng sinh duy nhất. Bởi vì, Ngài là một chúng sinh
không còn tham-sân-si, không còn lậu hoặc phiền não. Bởi vì, Ngài
là một con người tuy sinh ra nơi chốn trần lao, nhưng tự tại với
tất cả mọi cám dỗ của ngũ dục lục trần. Sự xuất hiện của Ðức Phật
mục đích cao cả, là vì lợi ích và hạnh phúc cho Chư Thiên và loài
người. Cuộc đời Ngài là một tấm gương sáng chói về sự quên mình để
đem lại an lạc và chỉ bày chân lý tối thượng cho chúng sinh.
Kinh Pháp Cú 193,
Phật dạy: "Khó gặp được Như Lai, không phải đâu cũng có, chỗ nào
Phật đản sinh, nơi đó tất an lạc". Nếu cho rằng
Như Lai là Ðức
Phật có 32 tướng tốt, gọi là Như Lai xuất thế, thì quả thật rất
khó gặp. Ðức Phật Thích Ca ở Ấn Ðộ đã nhập diệt trên 2.500 năm,
đến nay chúng ta vẫn chưa thấy có một vị Phật nào khác ra đời.
Nhưng nếu hiểu theo tinh thần Kinh Kim Cang, Như Lai
tức không từ đâu đến cũng không đi về đâu, nghĩa là phi sắc phi
tướng, vô hình vô vật, thì khi chúng ta tọa thiền, tâm lặng lẽ mà
hằng tri, thì khi ấy Như Lai đã hiện tiền. Một niệm tỉnh giác thì
Ðức Phật ra đời, vì Phật là Giác. Một niệm điên đảo chạy theo trần
cảnh thì Ðức Phật nhập diệt. Khi Như Lai tự tâm đản sanh, nghĩa là
lúc tâm an định sáng suốt thì rõ ràng nơi ấy tức khắc được an lạc.
Trong Kinh Pháp Cú
182: " Ðược sinh ra làm người đã là khó. Ðược sống còn lại khó
hơn. Ðược nghe chánh pháp là khó. Ðược gặp Ðức Phật ra đời là rất
khó". Quả thật, được làm thân người là khó, vì ngoài thế giới loài
người gồm 4 châu nhân gian, còn có các cõi khác như địa ngục, ngạ
quỷ ... Nhưng cái khó ở đây là khó phát tâm tu hành, vì thường thì
những nơi quá sung sướng (như cõi trời) hoặc quá khổ sở (như địa
ngục), chúng sinh ít có điều kiện được nhắc nhở để tiến tu. Còn
cõi người thì không quá sung sướng mà cũng không quá khổ cực,
nhiều khi gặp những thăng trầm trong cuộc sống hay đau khổ mất
mát, đó là những cơ hội để con người thấy rõ lý vô thường hay lý
nhân quả, từ đó nguyện theo con đường Phật dạy.
Trong bốn cái khó ở
trên, được gặp Phật ra đời là khó nhất. Trong một thế giới, không
bao giờ có hai vị Phật xuất hiện đồng thời. Chỉ khi nào giáo pháp
của vị Phật trước đã hết lưu truyền, thì vị Phật sau mới ra đời.
Hiện nay, dù đang trong thời mạt pháp, chúng ta không tận mắt thấy
được Ứùng hóa thân của Phật, nhưng chúng
ta vẫn còn nghe chánh pháp, vẫn còn chiêm ngưỡng được dung nhan
của Ngài qua hình tượng. Cho nên, nếu có ai tự xưng là Phật, giảng
pháp cho người khác, hoặc phao tin sắp có Hội Long Hoa, Phật Di
Lặc ra đời..., thì đó chỉ là những lời dối trá, mê hoặc người đời,
nhằm phục vụ cho một ý đồ đen tối nào đó.
Sự thị hiện của Ứùng
hóa thân Phật trên cõi đời là một sự kiện hiếm gặp, là điều vị
tằng hữu (chưa từng có). Nhưng chúng ta có khi nào tự hỏi, Ngài
xuất hiện trên đời để làm gì? Trong Kinh Pháp Hoa, Phật dạy: "Chư
Phật xuất hiện ở đời chỉ vì một đại sự nhân duyên: Khai thị cho
chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến". Bản hoài của Chư Phật mười
phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri-kiến- Phật,
tức Phật tánh như nhau, bình đẳng không khác. Từ đó sẽ nhận ra và
hằng sống với Phật tánh của chính mình một cách viên mãn.
Kinh Phạm Võng,
Trường Bộ tập I, Phật dạy rằng: "Này các Tỳ kheo! Thân của Như Lai
còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt
đứt. Khi thân của Như Lai còn tồn tại, thì Chư Thiên và loài người
có thể thấy thân ấy. Khi thân hoại mạng chung, thì Chư Thiên và
loài người không thể thấy được". Khi Ðức Phật còn tại thế, thân 32
tướng tốt và 80 vẻ đẹp của Ngài là một điều kiện tốt để dễ gần và
dễ giáo hóa những chúng sinh căn cơ thấp kém. Vì chìu uốn theo
tánh dục của chúng sinh nên Ngài phải thị hiện sắc thân như thế.
Nhưng dù thân ấy còn tồn tại, mà cái nghiệp lực thúc đẩy thọ lãnh
thân sau đã không còn. Chính lòng ái dục đã tạo dòng nghiệp lực
khiến đưa đến một đời sống khác, với chánh báo và y báo tương ứng.
Ứng hóa thân của Phật, vì có hình tướng nên Chư Thiên và loài
người có thể thấy được. Khi thân ấy đã hoại, Ðức Phật trở về với
pháp thân vô tướng nên không ai có thể thấy được Ngài. Tất cả
chúng ta cũng đều có pháp
thân vô tướng như thế. Vấn đề ở chỗ chúng ta có nhận ra không, và
tu hành cách nào để sống được với chân thân, miên mật từng phút
giây.
Chúng ta đã xét qua
một số ý nghĩa về sự đản sinh của Ðức Phật, để thấy rõ rằng, sự
xuất hiện của Ðức Thế Tôn, vị Giáo chủ của chúng ta, là một việc
hy hữu ở đời. Cứ mỗi lần mùa Khánh Ðản đến, người Phật tử về chùa,
nghe quý Thầy nhắc lại về cuộc đời và những đức tính cao đẹp của
Ngài, chúng ta mới biết rằng, Ngài cũng đã trải qua vô lượng kiếp
tu hành, cuối cùng mới thị hiện là Thái tử Sĩ Ðạt Ta ở Ấn Ðộ, sau
thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Ngài là một bậc vĩ nhân, đã để
lại một hình ảnh không bao giờ phai mờ trong lòng những người con
Phật khắp năm châu bốn biển. Vì cuộc đời Ngài quá vĩ đại và đẹp
đẽ, nên từ xưa đến nay, biết bao người đã dùng mọi hình thức văn
hóa để ca tụng cái toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ của Ngài. Biết
bao người đã nguyện theo gương Ngài, quên mình để phụng sự chúng
sinh, hy sinh hạnh phúc riêng tư để lo cho hạnh phúc của nhiều
người. Những sứ giả của Như Lai đã mang thông điệp của Ðức Phật đi
vào cuộc đời, làm cho con người hiểu được bản chất của kiếp sống
là vô thường, là đau khổ, từ đó thúc giục con người sớm theo lời
dạy nơi Ngài tu hành để được giác ngộ và giải thoát.
Hôm nay, một lần nữa
kỷ niệm ngày Phật đản, chúng ta đem hết tâm thành quy ngưỡng và
đảnh lễ Ngài. Chúng ta thấy mình rất có phước duyên nên mới được
làm người, được thấm nhuần dòng sữa pháp, được Chư Tăng Ni hướng
dẫn tu hành, được làm bạn đạo cùng những người hiền thiện. Chúng
ta nguyện nhớ mãi hình ảnh Ngài bước trên hoa sen khi mới ra đời,
để bắt chước Ngài cũng bước từng bước an lạc, thảnh thơi trên
những bất ổn của cuộc sống. Thân ngũ uẩn của chúng ta tuy ở trong
trần thế, nhưng phải biết vươn lên, không để bùn nhơ của ngũ dục
làm ô nhiễm. Từ đó, chúng ta sẽ góp phần thổi một luồng sinh khí
mới vào cuộc đời, khiến mọi người cũng được an lạc và hạnh phúc.
Ðây là cách duy nhất để đền đáp ơn khó đền của Ðức Bổn Sư vô cùng
quý kính của chúng ta.
Một lần nữa, ngày
kỷ niệm Ðức Phật đản sinh lại về trên toàn thế giới. Trong không
khí tưng bừng của ngày hội lớn này, những người con Phật chúng ta
hãy suy gẫm đôi điều về sự xuất hiện của Ðức Bổn Sư. Từ đó, chúng
ta có thể rút ra những bài học quý giá, cần thiết cho cuộc sống
thường nhật và cho bước đường tu hành.
Hội nghị Tôn giáo thế giới lần thứ
tư, tổ chức tại Népal, đã chính thức công nhận vườn Lâm-Tỳ-Ni là
nơi Ðức Phật Thích Ca đản sinh. Vị Giáo chủ của chúng ta là một
nhân vật lịch sử, ra đời cách đây hơn hai mươi lăm thế kỷ, và vườn
Lâm-Tỳ-Ni trở thành một Thánh tích. Tuy Ngài là người của nước Ấn
Ðộ, nhưng lời dạy của Ngài - những chân lý vượt thời gian và không
gian, giờ đây đã lan truyền khắp hành tinh, mang tính hòa bình,
xây dựng và đem lại hạnh phúc đích thực cho con người.
Kinh Trung Bộ tập I, Phật dạy: "Này
Xá Lợi Phất! Những ai nói một cách
chân chính về Như Lai, sẽ nói như vầy: Một hữu tình không bị si
chi phối, đã sinh ở đời vì lợi ích, vì hạnh phúc của chúng sinh;
vì lòng thương tưởng cho đời; vì lợi ích an lạc và hạnh phúc cho
chư thiên và loài người". Vì sao Ðức Phật là một hữu tình không bị
si chi phối? - Ðức Phật xa xưa cũng là một chúng sinh hữu tình,
cũng từng vô minh tạo nghiệp, quay cuồng trong vòng luân hồi sinh
tử. Nhưng Ngài cũng đã trải qua vô lượng kiếp tu hành, nên trong
kiếp cuối cùng này, Ngài không còn si mê nữa. Sự ra đời của Ngài
tại Ấn Ðộ là một sự thị hiện, vì lợi lạc cho muôn loài chúng sinh,
nên đáng để chư Thiên và loài người ca ngợi tán thán.
Trong lịch sử tồn tại
và phát triển của mình, loài người đã đạt được một tầm cao về khoa
học kỹ thuật, cho phép đi sâu vào những bí ẩn của vũ trụ và cơ thể
con người. Nhưng bên cạnh trình độ cao của nền văn minh vật chất,
nhân loại đang bị đe dọa bởi bạo lực và chiến tranh - không những
là chiến tranh sắc tộc hay tranh chấp lãnh thổ, mà còn nhân danh
tôn giáo để tiến hành những cuộc Thánh chiến đẫm máu. Trong suốt
thế kỷ vừa qua, hành tinh chúng ta đã mang biết bao thương tích vì
hai trận thế chiến ở nữa đầu thế kỷ, cùng vô số cuộc xung đột vũ
trang và chiến tranh hũy diệt trên quy mô lớn sau này. Và do những
bất hạnh, những khổ đau triền miên đó, con người đã hướng về Ðạo
Phật, đến với giáo lý Phật Ðà, như đứa con mang thân xác gầy mòn
tiều tụy về nằm trong chiếc nôi êm của mẹ hiền. Thật vậy, Ðạo Phật
là đạo từ bi, ban vui và cứu khổ. Những người con Phật không bao
giờ mượn danh vị Giáo chủ của mình để truyền đạo bằng bạo lực,
bằng binh quyền. Ðạo Phật cũng không bao giờ chủ trương bắt buộc
người khác phải theo đạo mình. Bởi vì, như đã dẫn, Ðức Phật ra đời
vì an lạc hạnh phúc cho muôn loài chúng sinh, vì muốn loài người
được giác ngộ và giải thoát khỏi khổ đau và sinh tử luân hồi.
Trong thời Ðức Phật,
xã hội Ấn Ðộ được chia thành bốn giai cấp, trong đó có hai giai
cấp thống trị là Bà-la-môn lãnh đạo về tinh thần, và Sát-đế-lợi có
sức mạnh binh quyền, đứng đầu về chính trị xã hội. Giai cấp thấp
hèn nhất là Thủ-đà-la, bị chà đạp bóc lột, không còn có quyền làm
người nữa. Chính Ðức Phật, như một nhà đại cách mạng,
đã dõng dạc tuyên bố: "Không có giai cấp khi mọi dòng máu
cùng đỏ, không có giai cấp khi mọi nước mắt cùng mặn". Bằng trí
tuệ siêu xuất, Ngài thấy tất cả chúng sinh - kể cả chúng sinh hạ
đẳng, đều có Phật tánh như nhau. Vì vậy, bức thông điệp của Ngài
trao truyền cho xã hội đương thời và cho muôn thế hệ về sau, mang
tính bình đẳng và tính tự do tuyệt đối, cũng như trả lại cho con
người quyền làm chủ thực sự đối với vận mệnh của chính mình.
Vì sao nói Ðạo Phật
có tính bình đẳng tuyệt đối? - Chúng ta biết Ðức Phật chủ trương
không phân biệt giai cấp và giới tính. Trong Tăng đoàn của Ngài,
nhiều vị thuộc giai cấp Thủ-đà-la hoặc nữ giới được xuất gia. Ðây
là bình đẳng về xã hội, chỉ có tính cách tương đối. Ðỉnh cao nhất
của sự bình đẳng, là mọi người đều ngang nhau khi thọ lãnh nghiệp
báo hoặc khi tu thành đạo quả. Phàm phu chúng ta, nếu tạo nghiệp
ác thì bị đọa vào ba đường khổ, nếu tạo nghiệp thiện sẽ được tái
sinh về các cõi lành. Ðức Phật và chư vị Tổ sư, dù đã đắc đạo
nhưng nếu còn dư báo, cũng phải trả cho xong: Phật bị nạn kim
thương mã mạch, Tổ Sư Tử bị chặt đầu, Tổ Huệ Khả chết trong nhà
ngục... đó là bình đẳng đối với nghiệp báo. Nhưng nếu phàm phu
nghe lời Phật dạy, tinh tấn tu hành đúng đường đúng hướng, thì có
ngày cũng thành Phật như Ngài. Có thể nói, chỉ có vị Giáo chủ của
Ðạo Phật mới đặt mình ngang hàng với tất cả chúng sinh - vì đây là
cái thấy như thật của một người đã thực sự giác ngộ.
Mặt khác, Ðức Phật đã
dạy rõ cho chúng ta về lý nhân quả, với hai cặp phạm trù nhân quả
thế gian và xuất thế gian (Khổ - Tập, Diệt - Ðạo). Ðể phù hợp với
trình độ căn cơ, Ngài cũng phương tiện dạy về Ngũ thừa và phương
pháp tu hành tương ứng (tu Nhơn thừa phải giữ năm giới, tu Thiên
thừa là hành Thập thiện...). Tất cả chúng ta đều có quyền tự do
lựa chọn con đường mình đi, tự do tạo nghiệp và tự do thọ lãnh quả
báo. Nếu thấy được cái khổ tột cùng nhất chính là cái khổ luân
hồi, không muốn trầm luân sinh tử nữa, chúng ta cũng có quyền lựa
chọn pháp môn thích hợp để đạt mục đích cuối cùng là giải thoát.
Ðây há chẳng phải là sự tự do tột đỉnh, tự do tuyệt đối sao?
Từ năm 1948, thế giới
lấy ngày 10/12 làm ngày Quốc tế Nhân quyền, và hô hào tất cả các
nước hãy "Trả thế giới con người, những quan hệ của con người về
với bản thân con người". Nhưng thật ra, ở nơi này nơi khác vẫn còn
đầy dẫy những áp bức bất công, đầy dẫy sự kỳ thị chủng tộc - quốc
gia - tôn giáo. Chỉ riêng Ðức Phật ngay trong thời đại văn minh
chưa phát triển, con người còn mê tín theo những giáo thuyết thần
quyền, Ngài đã bảo mình không phải là thần linh để có quyền ban
phước giáng họa cho ai. Trong suốt cuộc đời, Ngài cũng nói năng
sinh hoạt như mọi người, cũng tọa thiền khất thực như các đệ tử
của Ngài. Ðức Phật là một con người bình thường, nhưng khác chúng
ta ở chỗ không còn bị tham-sân-si chi phối, nên trong cái bình
thường ấy chứa đựng cái phi thường. Ngài luôn đề cao tư cách con
người, luôn dạy con người phải tự mình tìm sự giải thoát ngay
trong chính mình chứ không mong cầu ở tha lực. Vì thế, Ðạo Phật đã
trả về cho con người quyền làm người chân chính nhất.
Sự kiện Ðức Phật đản
sinh được xem là điều chưa từng có; không những hy hữu về thời và
xứ, còn là hy hữu về đức và sự. Hy hữu thời là rất hiếm được sinh
ra cùng thời với Phật; hy hữu xứ là khó thể ở cùng nơi để chiêm
ngưỡng kim thân của Ngài. Ngài có vô lượng phước đức và vô lượng
trí huệ, nên gặp được người như Ngài là điều hiếm có - đó là hy
hữu đức. Lại nữa, sự nghiệp hoằng hóa độ sanh của Ngài trong vô
lượng kiếp tu hành thật không thể nghĩ bàn, tất cả chư vị Bồ tát
hay Hiền Thánh Tăng đều không sánh kịp, vì vậy ta gọi là hy hữu
sự.
Một hình ảnh độc đáo
trong quang cảnh ra đời của Ðức Phật, là bảy bước đi nở bảy đóa
sen. Ở đây, chúng ta không bàn về vấn đề thực hay hư của sự kiện,
mà chỉ đề cập đến ý nghĩa sâu xa của nó. Phật dạy: "Như hoa sen
tươi đẹp và dễ thương, không nhiễm ô bùn nhơ nước đục, giữa chốn
bụi trần ta không nhiễm chút bợn nhơ, như vậy ta là Phật". Hoa sen
tươi đẹp thanh khiết, tỏa hương thơm ngát đã có gốc rễ từ đâu? Nếu
không có bùn nhơ nước đục sen không nẩy mầm, tăng trưởng rồi trổ
hoa như thế. Thái tử Sĩ -Ðạt- Ta sinh ra trong hoàng cung, hưởng
tất cả lạc thú thế gian, nhưng
Ngài đã bỏ lại sau lưng để một mình đi tìm chân lý. Sống
trong ngũ dục nhưng Ngài không tham đắm, luôn luôn canh cánh trong
lòng ba câu hỏi lớn: Con người từ đâu sinh ra? - Sau khi chết đi
về đâu?- Có cách nào giải thoát khỏi luân hồi sinh tử? Ngài mang
thân phận làm người, giữa chốn bụi trần mà không bị nhiễm ô, khác
nào hoa sen trong bùn mà không hôi tanh mùi bùn. Lịch sử Phật giáo
có rất nhiều hoa sen ngát hương như thế: Tướng quốc Bùi Hưu và
Bàng Long Uẩn ở Trung Hoa, Sơ Tổ Trúc Lâm và Tuệ Trung Thượng Sĩ
của Việt Nam. Dù là cư sĩ hay người xuất gia, đều tìm được hạnh
phúc đích thực từ mãnh đất phiền não nhiễm nhơ của cuộc đời.
Từng bước đi nở hoa
sen là biểu tượng của những bước chân vững chãi và thảnh thơi
trong cuộc đời. Ðây là bí quyết của những hành giả tu Phật. Muốn
thành bậc xuất trần, phải ngay từ trần tục mà vươn lên. Người có
sức mạnh tu hành là người luôn thắng được những khó khăn trở ngại
đến từ bên ngoài và cả bên trong nội tâm của chính mình. Tu không
phải là trốn chạy các pháp mà là trực diện với chúng, nhưng tâm
không dính mắc khi đối duyên xúc cảnh - Ðối cảnh vô tâm mạc vấn
thiền. Khi tiếp xúc với trần cảnh mà tâm không khởi niệm phân biệt
hay - dở, tốt - xấu, ưa - ghét ..., ngay đó đã là Thiền, không cần
hỏi Thiền chi nữa. Hiểu được như vậy, chúng ta mới thấu triệt được
tinh thần của Ðại thừa Phật giáo, ngay trong vô thường mà thấy cái
hằng hữu, ngay trong khổ đau mà chứng được Bồ đề.
Một biểu tượng khác
của hoa sen thường được đề cập đến trong nhà Thiền, là sen nở hoa
trong lò lửa. Chúng ta có tin được điều này không? Xin hãy nghe
bài kệ:
Thấm thoát thu qua
mấy độ rồi
Ðời người bóng chớp
áng mây trôi
Muôn vật hiện bày trò
ảo hóa
Sen nở trong lò sắc
thường tươi.
Trong lò lửa vô
thường của thân tứ đại, có một đóa sen luôn luôn tươi tốt. Ðóa sen
ấy là Diệu Pháp Liên Hoa. Ðây cũng là ý nghĩa của cành mai không
bao giờ tàn, mà Thiền sư Mãn-Giác đã nhìn thấy. Hoa sen hay cành
mai ấy là chân tâm, là Phật tánh của mỗi chúng sinh. Tuy chúng
sinh ở trong cảnh giới vô thường, mang thân vô thường, tâm nghĩ
tưởng cũng vô thường, nhưng pháp thân không bao giờ biến hoại theo
thời gian vô cùng và không gian vô biên. Người tu chúng ta phải
nhận được chân tâm bất sinh, bất diệt trong ngũ uẩn sinh diệt và
luôn sống với nó - đó là mục đích cuối cùng của mỗi người tu Phật.
Có khi nào chúng ta
tự hỏi: Ðức Phật xuất hiện nơi đời là vì bản thân Ngài hay vì
chúng sinh? Và vì sao trong suốt 45 năm hoằng pháp, tựu trung Ngài
chỉ nói về khổ và phương pháp thoát khổ? - Bản hoài của chư Phật
là chỉ cho tất cả chúng sinh nhận ra và sống được với bản lai Phật
tánh của chính mình. Do vậy, Ðức Thích-Ca thị hiện trên thế gian
này là vì chúng sinh, muốn chúng sinh cũng được giác ngộ giải
thoát như Ngài. Nhưng bởi chúng sinh còn vô minh, nhận lầm cái giả
cho là thật, cái khổ cho là vui, cái không có chủ thể cho là ngã,
cái nhiễm nhơ cho là thanh tịnh, nên Ngài phải giúp chúng ta ý
thức được cuộc đời là khổ não vô thường. Một người luôn luôn sống
trong cảnh sung sướng giàu sang, mọi việc đều thành tựu như mong
cầu, thì khó tu và khó tiến. Nếu gặp việc bất như ý hay đau khổ
trong đời sống, ta mới dễ thức tỉnh, dễ đến với Ðạo. Có thể nói,
khổ đau là chất liệu nung nấu người tu tìm cách thoát khổ, là điều
kiện cần thiết để một hành giả thăng tiến đạo lực, vì đạo lực chỉ
biểu hiện nơi cảnh thử thách truân chuyên, cũng như bùn nhơ nước
đục là điều kiện cần để hoa sen nở và tỏa hương thơm ngát.
Nhân ngày Khánh đản,
chúng ta suy nghiệm lại một số điều mà Ðức Phật muốn truyền trao,
bằng thân và khẩu giáo. Ðặc biệt, chúng ta học nơi Ngài tình
thương bao la, trí huệ siêu xuất và ý chí phi thường. Có tình
thương bao la tức đại bi, Ngài đã thị hiện vào các cõi tế độ quần
sinh. Do giác ngộ tột cùng nên Ngài có đại trí tức trí vô sư, thấu
triệt được thực tướng
của tất cả pháp và thể nhập chân tâm thường trụ; từ đó khởi
phát diệu dụng, thiết lập phương tiện giáo hóa người hữu duyên. Do
ý chí phi thường tức đại hùng, Ngài đã chiến thắng những chướng
ngại nội tâm cũng như những thử thách bên ngoài mà thành tựu đạo
quả.
Chúng ta cũng thệ nguyện thừa hưởng
pháp âm vi diệu của Ngài, vun bồi lý tưởng giải thoát để cuộc sống
thăng hoa, để lòng từ mở rộng. Chúng ta cố gắng tu tập theo Ngài
để cuộc đời mình có nhiều lợi ích, nhiều ý nghĩa; và trang trải
kết quả ấy cho những người xung quanh cũng được lợi ích như mình.
Ðó là cách cúng dường Ðức Bổn Sư thiết thực nhất.
Ngày
Phật đản được xem như ngày tết của Phật giáo, vì đánh dấu thời
điểm trọng đại một bậc vĩ nhân ra đời vì lợi ích cho nhân loại nói
riêng và cho chúng sinh trong toàn pháp giới nói chung. Cuộc đời
của Ðức Bổn Sư, từ khi sinh ra đến khi nhập diệt, đều thể hiện
tính cách kỳ vĩ siêu tục có một không hai. Cho đến bây giờ, dù đã
trải qua 25 thế kỷ, trí tuệ và lòng từ bi của Ngài vẫn còn ảnh
hưởng sâu đậm đến cuộc đời, và là tấm gương sáng chói cho tất cả
mọi người con Phật.
Kinh
kể rằng, Ðức Bổn Sư của chúng ta vốn là một vị Ðại Bồ-tát ở nội
viện cung trời Ðâu Suất. Ngài chỉ sinh vào cõi Ta-bà một lần cuối
cùng là thành tựu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nên được
tôn là Bồ-tát Nhất sanh Bổ xứ. Trước khi nhập thai, Ngài quan sát
khắp cõi Diêm-phù-đề, thấy nước Ấn Ðộ là trung tâm, và Vương quốc
Ca-tỳ-la-vệ là nơi cường thịnh nhất. Vua Tịnh-Phạn và Hoàng Hậu
Ma-Gia là những người đạo đức, có duyên với Ngài từ nhiều đời.
Trong Vương quốc, phần đông dân chúng được thuần hóa, những ngành
Triết học rất thịnh hành. Vì thế, Ngài chọn hoàn cảnh trên làm y
báo.
Gần đến ngày sinh, Hoàng hậu Ma-Gia
theo tục lệ trở về quê mẹ. Ðến vườn Lâm-Tỳ-Ni, bà hạ lệnh nghỉ
chân. Thấy trên cành cây vô ưu có một nụ hoa vừa nở, bà đưa tay
lên hái. Ngay lúc đó, Thái tử từ hông phải của bà sinh ra. Vừa mới
ra đời, Thái tử đã đi bảy bước, có bảy hoa sen nâng chân. Một tay
chỉ trời, một tay chỉ đất, Ngài đọc bài kệ như sau:
Ngã ư nhất thiết
Thiên nhân chi
trung
Tối tôn tối thắng.
Vô lượng sinh tử
Ư kim tận hỉ.
Tạm
dịch:
Ta đối với tất cả
Chư Thiên và loài
người
Là tối tôn tối
thắng.
Qua vô lượng sinh
tử
Kiếp này là chấm
dứt.
Một bài kệ khác thường được truyền
tụng hơn:
Thiên thượng thiên
hạ
Duy ngã độc tôn
Nhất thiết thế
gian
Sinh lão bệnh tử.
Tạm dịch:
Trên trời dưới
trời
Chỉ Ta trên hết
Tất cả thế gian
Sinh lão bệnh tử.
Những sự kiện phi khoa học nầy khiến
chúng ta khó thể chấp nhận; và nếu không hiểu ý nghĩa sâu xa của
huyền thoại Ðản sinh, ta dễ cho đó là dị đoan mê tín.
Người xưa có câu “Lưu danh thiên cổ, lưu xú vạn niên” (Ðể lại
tiếng thơm ngàn đời, để lại tiếng xấu muôn năm). Ðối với những bậc
vĩ nhân có công lớn với đất nước, lịch sử luôn luôn ca ngợi và
trong dân gian cũng có nhiều truyền thuyết về cuộc đời của các
Ngài. Ðây là biểu hiện lòng tôn kính ngưỡng vọng của người đời,
phù hợp với tinh thần Ðông phương ưa sự mầu nhiệm huyền bí, khác
với tính thực tế của Tây Phương, thường đánh giá sự việc bằng
thước đo khoa học. Ðức Phật là bậc vĩ nhân đệ nhất trong lịch sử,
truyền thuyết về Ngài đã nói lên phần nào sự tôn sùng kính ngưỡng
của các hàng môn đệ.
Mặt
khác, huyền thoại Ðản sinh của Ðức Phật còn có ý nghĩa tượng trưng
sâu xa. Vì Ngài đã là vị Ðại Bồ-tát trước khi thị hiện xuống cõi
Ta-bà, nên Ngài không sinh theo lối thông thường mà sinh từ hông
phải của hoàng hậu Ma-Gia. Bên phải tượng trưng sự thuận chiều,
tức thuận chiều Niết-bàn và nghịch chiều sinh tử. Ngài không bị
cuốn vào vòng xoáy luân hồi mà vượt thoát, và độ nhiều người cùng
vượt thoát như Ngài. “Phương pháp nào giúp con người thoát ly sinh
tử?” là vấn nạn lớn nhất của kiếp người, nhưng chỉ có Ngài biết
đặt ra và biết cách trả lời thỏa đáng.
Bảy
bước đi của Thái tử lúc mới hạ sinh tượng trưng ba yếu tố thời
gian (quá khứ – hiện tại – vị lai) và bốn chiều không gian (đông
tây nam bắc). Một người tự tại giữa dòng sinh tử sẽ không bị chi
phối bởi thời gian vô cùng và không gian vô biên. Hoa sen nở dưới
gót chân Thái tử biểu tượng sự trong sạch giữa cuộc đời, sống
trong trần mà không nhiễm trước, như hoa sen mọc giữa bùn lầy mà
vẫn nở hoa thơm.
Thật
ra, những câu chuyện thần kỳ về Ðức Phật được truyền tụng bao đời
nay, ngẫm lại vẫn chưa tương xứng với phẩm chất cao quý, với công
hạnh độ sanh của Ngài. “Xưng dương cập tán thán, ức kiếp mạc năng
tận”. Dù xưng tán trong trăm ngàn ức kiếp, chúng ta cũng không thể
nói hết sự vĩ đại siêu tuyệt của cuộc đời Ngài. Ngay sự thị hiện
bằng thân 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp cũng có tính cách giáo hóa –
vừa nói lên công đức tu hành trong vô lượng kiếp của một bậc Ðại
Thánh, vừa chiều uốn theo sự ưa thích cái đẹp của chúng sinh để dễ
bề tiếp cận dạy bảo họ. Ngài cũng có một cuộc sống thế tục trước
khi xuất gia, cũng có những sinh hoạt bình thường như mọi người,
khiến ai cũng thấy Ngài vô cùng gần gũi ; từ đó phát khởi lòng tin
mình cũng có khả năng tu hành và thành đạo như Ngài.
Một
người có thân tướng đẹp đẽ hiếm thấy, có cuộc sống cao sang tột
bực, có hạnh phúc gia đình hoàn mỹ, vì sao lại từ bỏ tất cả, sống
đời cô độc khổ hạnh trong rừng già? Ðối với chúng ta, chỉ từ bỏ
chút ít tài sản hay quyền lợi nhỏ nhoi để theo đuổi một mục đích,
đã là việc khó làm. Và khi làm được điều ấy, ta lại mong thụ hưởng
kết quả, mong cho bản thân mình và người xung quanh có một ngày
mai tươi sáng hơn hôm nay. Chỉ riêng Ðức Phật nhận chân cuộc đời
và con người đều là những thứ giả tạm nay còn mai mất, nên với ý
chí xuất trần, Ngài nỗ lực đi tìm lẽ thật tuyệt đối, cái chân
thường hằng hữu trong các pháp giả hợp vô thường. Sau khi đạt được
ý nguyện, trở thành vị Giáo chủ mà Trời người đều kính ngưỡng,
Ngài vẫn bình đẳng với tất cả mọi người trong một cuộc sống vô
cùng giản dị. Ðôi chân trần đưa Ngài đi khắp nơi, gieo duyên và
hóa độ cho biết bao người, trong suốt 45 năm ròng không hề mệt
mỏi. Ðến giờ phút cuối cùng, Ngài vẫn còn thiết tha nhắc nhở việc
tu hành cho môn đệ. Những chân lý Ngài đã thấy, những phương pháp
hành trì thoát ly sinh tử, Ngài đều chỉ dạy tường tận, không hề
giấu giếm chút gì, vì thế ta tôn xưng Ngài là Bậc Giác hạnh viên
mãn. “Viên mãn” không có nghĩa Ngài đã độ tất cả chúng sinh, không
có nghĩa tất cả môn đệ của Ngài đều thành tựu quả vị tối thắng.
“Viên mãn” chỉ có nghĩa, giáo pháp của Ngài là rốt ráo cao tột,
những điều cần dạy Ngài đã dạy hết, Ngài không để lại điều gì bí
mật cho riêng mình. Ai tuân theo lời Ngài chỉ dạy, đi đúng con
đường Ngài đi, chắc chắn sẽ đạt kết quả như Ngài.
Một
người kinh doanh, trước tiên phải có vốn đầu tư. Người muốn có một
học vị, phải trang bị vốn kiến thức tương xứng về lĩnh vực chuyên
môn. Ðối với người Phật tử, muốn đạt mục tiêu Giác ngộ – Giải
thoát, trước hết phải có lòng tin đối với Tam bảo. Chúng ta tin
Ðức Phật là Bậc Toàn giác, là vị cha lành với trí tuệ, từ bi và
hùng lực siêu xuất đáng cho ta tin phục kính ngưỡng. Chúng ta tin
Pháp là những lời Ðức Phật tuyên thuyết, là thuyền bè đưa ta qua
sông sinh tử, là ngọn đuốc soi đường trong đêm tối vô minh. Chúng
ta tin chư Tăng là những người thay Phật lưu truyền chánh pháp.
Tuy chư Tăng chưa giác ngộ bằng Ðức Phật, nhưng các vị nhận trọng
trách trung gian giữa Ðức Phật và chúng sinh nên là “Sứ giả
Như-Lai”; các vị thắp sáng đuốc tuệ, làm chánh pháp mãi mãi trường
tồn, nên được tôn xưng là Tăng bảo – một trong ba ngôi báu. Nếu
chúng ta không có niềm tin sâu xa đối với Tam bảo, ta không chịu
khó nghiên cứu giáo lý, không tu hành theo chánh pháp, dễ bị lôi
cuốn bởi ngũ dục lục trần, đường tu có thể rơi vào những ngã rẽ
đáng tiếc. Do vậy, có thể nói, niềm tin Tam bảo là một trong những
điều kiện quan trọng bậc nhất của người Phật tử.
Ðức Phật đã nhập diệt, thân 32 tướng
tốt không còn nữa, nhưng ánh giác của Ngài vẫn soi sáng, pháp âm
vi diệu của Ngài vẫn vang vọng và ngày càng ảnh hưởng mạnh mẽ đến
toàn nhân loại. Nếu không có Phật pháp, con người sẽ còn độc ác
hung bạo gấp bao lần, cuộc đời còn chìm đắm trong đau khổ biết bao
lâu. Chúng ta có diễm phúc được sống trong hào quang của Ðức Phật,
tự thấy đời mình có phần an ổn thanh lương, phiền não có phần giảm
thiểu; từ đó vững bước tiến trên đường đạo. Ðể có thể tiếp cận với
Ngài, chúng ta không mong thấy được thân tướng, mà phải nương vào
nội tâm tỉnh giác của chính mình. Một niệm giác là ta đối diện với
ba đời chư Phật, một niệm mê là Phật nhập Niết-bàn. Như thế, giữ
gìn thân miệng ý thanh tịnh là phương pháp trực tiếp gặp Ðức Phật
một cách dễ dàng và có kết quả không nghi.
Thông thường, khi
liên tưởng đến Ðức Bổn Sư, chúng ta nghĩ đến sắc thân tuyệt hảo
của Ngài với 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp. Ðó là sự toàn mỹ của hình
thức, mà vì chìu uốn theo thị hiếu của chúng sanh, Ngài đã thị
hiện ra đời để dễ bề tiếp cận và giáo hoá. Riêng nhân cách vĩ đại
của Ngài, sự toàn thiện toàn chân của đời sống nội tâm, chúng ta
khó thể hiểu được thấu đáo vì không có trình độ tâm chứng khả dĩ
tương ưng. Tuy vậy, những người con Phật chúng ta cũng cần biết
đến một số đặc điểm nổi bật của Ngài, dù chỉ là sơ lược, để củng
cố lòng tin và càng thêm tôn kính vị Giáo chủ của mình .
Ðọc lịch sử Ðức Phật
Thích Ca từ khi sinh ra đến khi thành đạo và nhập diệt, chúng ta
thấy Ngài cũng là một người như bao người bình thường khác.Ngài
cũng từng hưởng lạc thú thế gian, từng đau khổ bệnh hoạn và cuối
cùng, cũng từ giã cuộc đời như bất cứ ai. Ðây là một điều khích lệ
lớn, vì chúng ta thấy Ngài vô cùng gần gũi, và tin tưởng mình cũng
có khả năng tu hành, chứng ngộ như Ngài, nếu chúng ta biết đi đúng
đường đúng hướng.
Kinh Kim Cang, đoạn
mở đầu diễn tả một số công việc thường nhật của Ðức Bổn Sư: "Khi
ấy gần đến giờ thọ trai, Ðức Thế Tôn đắp y mang bát vào đại thành
Xá-Vệ khất thực. Trong thành, Ngài theo thứ lớp khất thực xong,
trở về trú xứ. Sau khi thọ trai, Ngài cất y bát, rửa chân, trải
tòa ngồi".Tất cả
việc làm nầy hoàn toàn quen thuộc đối
với mọi người, không có gì mang tính chất siêu phàm vượt thế hay
phô diễn thần thông diệu dụng. Vậy tại sao Trưởng lão Tu-Bồ-Ðề
cung kính ca ngợi: "Ðức Thế Tôn! Thật ít có, Như-Lai khéo hộ niệm
các vị Bồ -Tát, khéo phó chúc các vị Bồ- Tát "? - Như hoa sen
trong bùn vẫn nở hoa tinh khiết, Ðức Phật ở trong trần lao nhưng
không vướng chút nhiễm nhơ. Ngài đã tẩy sạch lậu hoặc phiền não,
không còn vô minh tăm tối. Hàng ngày Ngài vẫn đối duyên xúc cảnh,
vẫn sinh hoạt nói năng, nhưng tâm Ngài không khởi niệm phân biệt
khen-chê-ưa-ghét. Nhà Phật gọi đó là Tâm bình thường - tâm ấy
chính là Ðạo. Toàn thân Ðức Phật là Ðạo, nên bên trong hình thức
bình thường lại chứa đựng sự phi thường, ngay nơi những hành động
thường tục luôn ẩn tàng sự siêu tục. Chính vì thế, chúng ta luôn
xưng Ngài là Ðấng Thế tôn - bậc tôn quí của thế gian.
Do rốt ráo chứng ngộ,
có cái nhìn thấu thể vào bản chất muôn pháp, nên Ðức Phật không
chấp nhận có một quyền lực
siêu nhiên nào có thể kiểm soát và chi phối vận mệnh con
người. Ngài cũng từng nói, Ngài không phải là một đấng thần linh
có quyền ban phước giáng hoạ cho ai. Mỗi người tự làm chủ vận mệnh
của mình, tự mình tạo nghiệp và thọ hưởng kết quả của nghiệp ;
không ai cứu rỗi được mình và mình cũng không thể tu thay cho
người khác.
Phật dạy:
"Hãy tự xem con là
hải đảo của con
Hãy tự xem con là nơi
nương tựa của con
Không nên tìm nương
tựa nơi ai khác".
Người đi biển gặp
trận cuồng phong, thuyền gần chìm đắm, bỗng nhiên thấy một hòn đảo
ở phía trước, ai cũng muốn tấp ngay vào để tìm sự bình an. Hải đảo
là nơi nương tựa của thuyền khi gặp tai nạn trên biển, cũng như
mình là nơi nương tựa vững chắc của mình khi bị sóng đời vùi dập.
Ðối với người tu, sự nổ lực cá nhân chính là điều kiện quyết định
để đạt mục tiêu giác ngộ và giải thoát. Nếu gởi gắm mục đích tối
hậu của đời mình vào một năng lực siêu nhiên, ấy là ta đã lầm lạc
từ căn bản. Ðức Phật còn bị nạn kim thương mã mạch, huống gì phàm
phu chúng ta. Cho nên, cầu Phật gia hộ cho mìmh luôn gặp may mắn
hạnh phúc, là điều không thực tế. Chúng ta hiểu cặn kẽ luật nhân
quả, có sức mạnh tinh thần, thì dù gặp thử thách khó khổ vẫn có
sức tự chủ và kham nhẫn. Người biết tu không phải mong tránh khỏi
nạn tai, mà là người luôn giữ chánh niệm tỉnh giác trước mọi hoàn
cảnh thuận nghịch trong đời.
Ðề cao tinh thần tự
lực, không phải đạo Phật hoàn toàn chối bỏ sự gia trì giúp đỡ của
tha lực. Tuy "tự mình thắp đuốc lên mà đi ", nhưng phải "thắp lên
với chánh pháp". Ðức Phật là bậc Ðạo sư, vị Thầy dẫn đường. Chúng
ta tự mình tiến bước, nhưng phải đi theo con đường Ngài đã đi, nếu
không muốn lạc vào ngã rẽ. Khi tâm ta thanh tịnh, phần nào tương
ứng cùng tâm chư Phật Bồ-Tát, tự nhiên được thần lực của các Ngài
gia hộ độ trì, sự linh ứng sao có thể phủ nhận? Nếu tham sân si
còn đầy dẫy mà thắp hương dâng lễ cầu xin việc nầy việc khác, mong
các Ngài thỏa mãn nguyện ước của mình, thử hỏi điều mong ước ấy có
thể thành tựu được không?
Trả cho con người
quyền làm chủ cuộc đời mình, trong cả ba thời quá
khứ - hiện tại - tương lai, quả
thật đạo Phật mang tính nhân bản rất cao và tính tự do tuyệt đối.
Ðây là một nét độc đáo của đạo Phật, vì vị Giáo chủ không bao giờ
tự xưng mình là Ðấng cứu tinh của nhân loại. Với tinh thần nầy,
chúng ta đến chùa nghe pháp, cũng không vội vàng tin tưởng mù
quáng vào ai, không thần tượng hóa người nào, dù đó là một vị thầy
khả kính. Nói như thế không phải khuyến
khích sự tự tôn kiêu mạn hay sự nghi ngờ quá đáng, mà chỉ cốt đề
cao khả năng tư duy độc lập, trí tuệ nhận định đúng - sai, hay -
dỡ. Người Phật tử cần có chánh kiến và chánh tín, biết đâu là
đường hướng phải theo, ai là vị Thiên tri thức hướng dẫn đời mình.
Khi đã quyết định đúng, ta sẽ có niềm tin kiên cố, có sức mạnh phi
thường vượt qua mọi trở ngại gian nan để hoàn thành đạo nghiệp. Ta
sẽ có sức sống trào dâng, có cơ hội bơi lội vào công phu của chính
mình để truyền đạt sức sống ấy cho mọi người xung quanh.
Một đặc điểm quan
trọng và độc đáo góp phần hình thành nhân cách vĩ đại của Ðức
Phật, cũng là một yếu tố căn bản khiến đạo Phật còn lưu truyền mãi
đến ngày nay, là tính bình đẳng đích thực. Không những Ngài chủ
trương bình đẳng giữa những giai cấp trong xã hội, giữa hai giới
nam và nữ, mà còn bình đẳng giữa loài người với mọi loài chúng
sanh. Ðặc biệt hơn cả là sự bình đẳng giữa Ngài là vị Giáo chủ tối
cao với tất cả môn đệ. Bằng trí tuệ siêu xuất của một bậc Giác ngộ
toàn triệt, Ngài thấy mọi chúng sanh đều có Phật tánh, mọi chúng
sanh đều có khả năng thành Phật. Vàng còn trong quặng bị lẫn nhiều
tạp chất, chưa biểu lộ giá trị thật sự của nó. Ðến khi được tôi
luyện thành vàng ròng, nó mới được tôn vinh. Ðức Phật là vàng đã
tôi luyện, chúng sanh còn là vàng trong quặng phiền não vô minh.
Nói về hình thức, Phật và chúng sanh khác nhau ngàn trùng. Nhưng
về bản chất, thì rõ ràng giữa Phật và chúng sanh không hơn không
kém. Bản chất vàng ấy là Phật tánh bình đẳng của muôn loài hữu
tình, mà nếu nhận ra, tức đã có chánh nhân thành Phật.
Xã hội Ấn Ðộ thời bấy
giờ bị phân chia thành bốn giai cấp, trong đó Thủ -Ðà- La là giai
cấp nô lệ, bần cùng nhất và bị khinh miệt nhất. Chính Ðức Phật đã
làm một cuộc cách mạng lớn khi mạnh mẽ xóa bỏ giai cấp, khiến lung
lay cả thể chế cố định từ bao đời. Ngài đã dõng dạc tuyên bố:
"Không có giai cấp khi mọi dòng máu cùng đỏ; không có giai cấp khi
mọi nước mắt cùng mặn". Trong giáo đoàn của Ngài, mọi người đều
được cư xử ngang nhau, đều được hưởng pháp âm vi diệu như nhau,
đều có điều kiện tu hành giống nhau, và đều có cơ hội chứng Thánh
quả nếu tu hành đắc lực. Ðối với nữ giới, xã hội đương thời không
xem trọng, các giáo phái khác cũng không cho gia nhập. Riêng Ðức
Phật, dù đợi Ngài A-Nan cầu xin đến ba lần và đặt ra Bát kỉnh
pháp, Ngài vẫn cho phép Di mẫu cùng một số nữ đệ tử xuất gia. Chư
Ni trong thời Ðức Phật cũng chứng Thánh quả, cũng có những vi nổi
danh đệ nhất về trí tuệ, thần thông, biện tài ... như chư Tăng
không khác.
Tâm từ bi của Ðức
Phật vô cùng rộng lớn, nên Ngài đối xử bình đẳng với tất cả mọi
người, không phân biệt thân sơ, thù bạn. Kẻ sát nhân Anguilimala
hay kỹ nữ Ambapàli cũng được Ngài giáo hóa và thành tựu công hạnh
như các Ðại đệ tử của Ngài. Ngay như Ðề-Bà-Ðạt-Ða, kẻ phá hòa hợp
Tăng, ác tâm hãm hại Ngài nhiều lần, Ngài vẫn tha thứ bao dung.
Thuyền to sóng lớn, chính người có công phu tu hành cao thâm lại
thường gặp nhiều trở ngại thử thách kinh khiếp, mà nếu vượt qua
được, sẽ tiến một bước rất dài trên đường đạo. Cho nên, ta có thể
hiểu vì sao Ðức Phật bảo Ðề-Bà-Ðạt-Ða là Thiện hữu tri thức bậc
nhất của Ngài. Chúng ta theo gương Ngài, nhìn cuộc đời bằng đôi
mắt bao dung như thế thì phiền não giảm thiểu biết chừng nào !
Một số giáo phái thời
Ðức Phật có tục lệ giết súc vật tế cúng thần linh. Bằng biện tài
vô ngại, Ðức Phật đã thuyết phục được ngoại đạo bãi bỏ việc giết
hại ấy. Trong giáo đoàn của Ngài, các môn đệ đều phải giữ gìn cấm
giới, mà giới không sát sanh, bao gồm việc không giết người và cả
súc vật - được đưa lên hàng đầu. Bởi vì, tất cả chúng sanh hữu
tình đều có mạng sống, cũng ham sống sợ chết như con người. Không
lý gì con người lại dùng sinh mạng của chúng để phục vụ cho nhu
cầu dinh dưỡng và giải trí cho mình; nói chi đến việc tế lễ cầu
Thánh Thần ban ơn phước. Ngay cả cây cỏ, chúng cũng có cái biết,
dù rất yếu và thô. Ngày nay, các nhà khoa học đã chứng minh, cây
khi được nghe những bản nhạc êm dịu sẽ trổ hoa và ra trái nhanh
hơn những cây đối chứng. Cách đây trên 25 thế kỷ, vị Giáo chủ của
chúng ta đã dạy các Tỳ-Kheo, phải có lòng biết ơn những loài thực
vâït cho mình bóng mát, rau quả, không được hũy hoại mầm sống dù ở
hình thức nào. Có thể nói, người tu theo tinh thần đạo Phật không
những tôn trọng sinh mạng của con người và loài vật, mà còn biết
bảo vệ môi trường sống, biết tạo khung cảnh yên lành thanh lương
cho tất cả chúng sanh.
Nhân ngày Phật đản,
chúng ta ôn lại những đức tính hiếm có của Ðức Bổn Sư, để thấy
mình có phước duyên vô hạn mới được làm đệ tử của Ngài, được đi
theo con đường Ngài chỉ dạy. Nhân cách vĩ đại của Ðức Phật là tấm
gương sáng chói về trí tuệ, đạo đức và phương cách xử thế. Hiểu
Ngài bao nhiêu, chúng ta càng tôn kính và tin tưởng Ngài bấy
nhiêu. Và tôn kính tin tưởng Ngài, chúng ta cũng tôn kính tin
tưởng giáo pháp của Ngài cùng những sứ giả thay Ngài nối truyền
mạng mạch Phật Pháp.
Chúng ta nguyện noi
gương Ngài, nỗ lực tu hành để phát huy trí tuệ và từ bi, tích cực
đem Ðạo vào đời để chan rải niềm an lạc hạnh phúc cho tất cả mọi
loài. Một ngày nào đó, chúng ta viên thành công hạnh tư lợi - lợi
tha, đó mới thật là đền đáp được ơn sâu dày của Ðức Bổn Sư, mới
không cô phụ bản hoài của chư Phật Bồ - tát. Tu hành theo tinh
thần ấy, chúng ta mới xứng đáng là môn đêï trong nhà Phật, và dù
đã xa Ðức Phật một khoảng cách không gian và thời gian, chúng ta
vẫn ở trong Pháp hội Linh Sơn, vẫn được tắm gôïi trong hào quang
vi diệu của Ngài, vẫn tận hưởng khoảnh khắc thiên-thu của cành sen
Ðức Phật và nụ cười Ca-Diếp!
“Một
người, nầy các Tỳ kheo, khi xuất hiện ở đời, là xuất hiện một cách
vi diệu. Người ấy là ai? Chính là Thế Tôn, bậc A-La-Hán Chánh đẳng
giác”. Ðức Phật đã nói về sự xuất hiện của chính bản thân Ngài và
của chư Phật, một sự kiện vô cùng trọng đại ngàn năm chưa một
thuở.
Vì
sao sự kiện Ðức Phật đản sinh được tôn xưng bằng mỹ từ “vi diệu”?
- Bởi vì sự hiện diện của Ngài trên thế gian như ánh sáng mặt trời
xua tan bóng đêm tăm tối; chúng sanh nhờ Ngài dẫn lối đã biết thế
nào là hạnh phúc đích thực, là bình an vĩnh cửu, thế nào là tình
thương chân thật và bình đẳng giữa người với người, giữa người với
vũ trụ vạn loại. Và trên tất cả, Ngài ban cho toàn thể loài người
một phương thuốc nhiệm mầu điều trị được nỗi khổ lớn nhất của
chúng sanh: nỗi khổ trầm luân sinh tử.
Một
tác phẩm quan trọng viết về cuộc đời Ðức Phật Thích-Ca, từ lúc đản
sinh đến khi nhập diệt, là Phật Sở Hành Tán của Bồ-tát Mã Minh
(100-160), tác giả bộ Luận Ðại thừa Khởi tín. Trong tác phẩm nầy
có nhắc lại lời Ðức Bổn Sư lúc mới đản sinh như sau:
Thử sinh vi Phật
sinh
Tắc vi hậu biên
sinh
Ngã duy thử nhất
sinh
Ðương độ ư nhất
thiết.
Tạm
dịch:
Phật thị hiện sinh
ra
Là lần sinh cuối
cùng
Ta trong một đời
nầy
Nguyện độ khắp tất
cả.
Bài
kệ nầy cho thấy rõ, sự xuất hiện của Ðức Phật là sự thị hiện của
một Bồ-Tát Nhất sanh bổ xứ. Chỉ còn sinh ra trên thế gian nầy
trong một đời, tu hành và thành tựu quả vị Phật, nên Ngài biết rõ
đây là lần sinh cuối cùng. Còn phàm phu chúng ta, khi ra đời mờ mờ
mịt mịt, đâu thể biết mình phải chịu luân hồi bao nhiêu kiếp nữa?
Có phước duyên gặp Phật pháp, nguyện nỗ lực tu hành mong chặt đứt
mối manh sinh tử, nhưng chúng ta cũng phải trải qua biết bao đời
kiếp, đâu phải chỉ một sớm một chiều. Ðiều này nhắc nhở chúng ta
thận trọng khi nghe người quả quyết có thể giúp ta giải thoát chỉ
trong một đời.
Vì biết rõ đây là lần sinh cuối cùng,
nên Ðức Phật nguyện trong đời này độ khắp tất cả muôn loài. Ròng
rã suốt 45 năm, Ngài đã đi cùng khắp xứ sở, giáo hóa cho mọi người
biết con đường sáng phải theo nếu muốn vĩnh thoát luân hồi. Công
hạnh của các vị Bồ-tát, từ lúc sơ phát tâm đến Nhất sanh bổ xứ đều
nhằm mục đích duy nhất, vừa tự lợi vừa làm lợí ích cho chúng sanh.
Ðến khi thành Phật, các Ngài vẫn thị hiện khắp các cõi, dưới nhiều
hình tướng thích hợp, hóa độ cho những chúng sanh hữu duyên. Các
Bồ-tát Quan-Âm, Văn Thù, Phổ Hiền hoặc cư sĩ Duy-Ma-Cật đều là
những hình ảnh tuyệt vời về công hạnh độ sanh của các vị Cổ Phật,
trợ hóa cho Ðức Phật Thích Ca.
Bản
thân Ðức Phật đã từng miệt mài khổ luyện ở trường đời và trường
đạo, nhờ vậy ngài sở đắc kiến thức bác lãm của thế gian và trí tuệ
tuyệt vời xuất thế gian. Từ năm 16 tuổi, Ngài đã thông thạo văn
chương võ nghệ, luôn dẫn đầu trong những cuộc thi tài. Lúc xuất
gia tìm thầy học đạo, Ngài đã quán thông mọi ngành tư tưởng triết
học và tôn giáo đương thời, thấu triệt 62 kiến chấp của ngoại đạo.
Nhiều lần vào hội chúng ngoại đạo có khi đông cả ngàn người, Ngài
vẫn dễ dàng đối phó. Nhờ trí tuệ siêu xuất và vô ngại biện tài,
Ngài thấy rõ những sai lầm trong các luận thuyết của họ, và bẻ gãy
những luận điểm ấy một cách khoa học, đầy sức thuyết phục. Một số
vị trưởng lão hoặc chức sắc cao cấp của Bà-la-môn, Kỳ-na-giáo ...
đã quy y theo Ðức Phật, trở thành những đệ tử lớn của Ngài. Ðức
Phật được tôn xưng là bậc Thế gian giải, vì Ngài uyên bác về cuộc
sống thế gian về mọi lĩnh vực trong đời người. Ngài đã chỉ dạy
tường tận về bản chất của cuộc đời là khổ, nguyên nhân của khổ để
đưa đến cái thấy như thật về các pháp là con đường bất tử thực
chứng Niết-bàn.
Không những Ðức Phật là vị đại diện tối cao của trí tuệ, Ngài còn
là tấm gương sáng ngời về lòng từ bi vô hạn và ý chí kim cương.
Bằng trí tuệ xuất thế, Ngài nhìn tất cả các pháp một cách thấu thể
tận nguồn cội của chúng, nên đối cảnh mà tâm vẫn như như. Ngài
thấy chúng sanh muôn loài đều bình đẳng ở tánh giác, chỉ vì vô
minh nhận thân cảnh giả là thật mình, mãi tạo nghiệp và đắm chìm
trong sinh tử, nên Ngài phát khởi tình thương bình đẳng và rộng
khắp tất cả chúng sanh. Ðây là bản chất của lòng từ bi – ban vui
và cứu khổ. Chính vì lòng từ bi, Ngài đã hy sinh mọi tài sản,
quyền lực và hạnh phúc thế gian, cả thân xác mình lúc tìm thầy học
đạo, chỉ với mục đích duy nhất là tìm cho mình và cho chúng sanh
con đường thoát ly sinh tử.
Sống
và tu chỉ với mục đích duy nhất ấy, Ngài đã khắc phục biết bao trở
ngại từ bên ngoài và cả bên trong: bên ngoài là hoàn cảnh khó khổ,
ngoại đạo phá khuấy; bên trong là những tập khí tham-sân-si ngay
tự thân. Ðây là ý chí sắt đá, là hùng lực của bậc Thánh nhân, thể
hiện rõ nhất nơi lời thề sấm sét dưới cội Tất-bát-la: dù thịt nát
xương tan, nếu chưa thành tựu đạo quả thề không rời khỏi chỗ nầy!
Và sau 49 ngày nổ lực công phu, cuối cùng Ngài đã hoàn thành sự
nghiệp vĩ đại: trở thành Bậc Vô thượng Chánh Ðẳng Chánh giác, Ðấng
ban vui của toàn thể chúng sanh, Bậc Thầy cao cả của Trời và
Người!
Nhân
cách tuyệt vời của Ðức Phật còn biểu hiện ở tính khiêm cung, một
đức tính rất đáng quý và rất hiếm gặp nơi những vị đứng đầu thiên
hạ. Dù được tôn xưng bằng nhiều danh hiệu cao quý, dù được các bậc
vua chúa cung kính cúng dường, Ngài vẫn giữ nếp sống giản dị của
Sa Môn. Bàng bạc trong kinh điển là lời Ðức Phật nhiều lần nhắc
nhở, Ngài không phải là một Ðấng quyền năng ban phước giáng hoạ,
mà chỉ là một Người dẫn đường. Những ai đi theo con đường Ngài chỉ
dẫn đều có thể giác ngộ giải thoát; nhưng đi hay không, đi nhanh
hay chậm là công việc của riêng mỗi người. Với lời dạy nầy, Ðức
Phật đã trả lại cho con người quyền làm chủ đích thực – làm chủ cả
vận mệnh, tương lai và sự sanh tử của chính mình.
Chúng ta đang sống trong thời kỳ khoa học công nghệ đang phát
triển vượt bâïc, nhưng đời sống tâm linh lại có chiều hướng đi
xuống. Con người phần đông thiên về tiện nghi vật chất, chỉ nghĩ
đến quyền lợi bản thân và lợi ích cục bộ mà quên sự cần thiết của
đạo đức. Từ đó đưa đến hận thù, chiến tranh, đau khổ; và hạnh phúc
như là một thứ xa xỉ phẩm, một cái bóng phù du không bao giờ với
tới. Sự hiện diện của Ðức Phật, của Tăng đoàn, sự truyền bá chánh
pháp của Ngài đã trở nên cần thiết và sự quan yếu đối với sự bình
an của toàn nhân loại. Bởi vì, Ngài chỉ dạy rõ ràng cho chúng ta
về đạo tình đạo nghĩa, về những hiểu biết đúng đắn đối với các
pháp thế gian và xuất thế, về phương pháp tìm hạnh phúc đích thực
cho mình và cho mọi người. Hình ảnh Ngài và các Thánh đệ tử đầu
trần chân đất, ôm bình bát đi khất thực một cách thong dong tự
tại, là một hình ảnh thật đẹp đẽ của một hạnh phúc Vô ngã-vị tha.
Tình cảm thì không ai không có, nhưng cần được tịnh hoá và hướng
về tha nhân mới là tình cảm chân chính; còn tình cảm vị kỷ, yêu
thương người vì mình chỉ là sự ràng buộc chiếm hữu của phàm phu.
Mặt khác, lòng từ bi cần được soi
sáng bằng trí tuệ. Người quá nhiều tình cảm bi luỵ rất dễ bị
khuynh đảo trước những cám dỗ của tiền trần, dễ bị lung lay trước
những gian nan trở ngại. Có trí tuệ, lòng từ bi sẽ được hướng dẫn
một cách chuẩn xác, các công việc ngoài đời cũng như trong đạo sẽ
chu toàn. Hơn nữa, nhờ biết suy xét cân nhắc, con người càng thêm
ý chí nghị lực vượt qua mọi hoàn cảnh khó khăn, dù gặp nhiều thất
bại cũng không nản lòng. Muốn thành công trong công danh sự
nghiệp, người đời phải trải qua bao nhiêu năm học hành khổ luyện,
bao nhiêu cay đắng của thất bại, thậm chí bao nhiêu lần bị nhục
nhã rẻ khinh? Sự nghiệp thế gian còn như thế, huống gì là sự
nghiệp xuất thế gian là thành Phật tác Tổ, càng đòi hỏi đại hùng
lực, đại ý chí mới mong bơi ngược dòng nước, phục hồi chức năng
ban sơ là nhận ra Phật tâm sẵn đủ của chính mình.
Sơ
Tổ Trúc Lâm Ðại Ðầu Ðà, trong bài phú Cư Trần Lạc Ðạo đã viết:
Bụt ở trong nhà,
chẳng phải tìm xa
Nhân khuấy bản nên
ta tìm Bụt
Ðến cốc hay chỉn
Bụt là ta.
Vì
quên gốc (khuấy bản) nên chúng ta mãi lăng xăng tìm Phật nơi rừng
núi xa xôi, không ngờ Phật ở ngay trong ta- ấy là tánh giác thanh
tịnh hằng hữu mà chúng sanh nào cũng có. Mỗi chúng sanh như một
đợt sóng trên biển cả, sinh ra là sóng nổi, mất đi là sóng chìm.
Sóng có sinh diệt chìm nổi, còn bản chất nước chưa bao giờ sinh
diệt; thân chúng sanh chết đi sinh kia, lẩn quẩn trong sáu đường
ba cõi , còn tánh giác hay Phật tâm không hình tướng, như hư
không bàng bạc khắp chốn thì có bao giờ vắng mặt? Ðức Phật Thích
Ca lịch sử có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp là Ðức Phật hình tướng, có
sinh có tử; còn Ðức Phật Pháp thân không đi không đến, chưa hề
sinh ra và chưa hề nhập diệt. Người giác ngộ là người nhận ra và
sống được với Ðức Phật Pháp thân ấy của chính mình; trong khi phàm
phu chúng ta lại nhận lầm thân sinh diệt là mình, mà quên Ðức Phật
Pháp thân sẵn có, từ đó cứ mãi chịu nỗi khổ luân hồi. Chúng ta
không biết rằng tâm suy nghĩ tưởng tượng chỉ là hư dối không phải
mình; còn lúc bặt hết vọng tưởng điên đảo, ta vẫn rõ ràng thường
biết- cái Biết ấy mới là chân thật. Ðây cũng là ý nghĩa diệu mầu
của sự đản sinh: Khi tâm an định mà hằng tỉnh hằng giác là Phật ra
đời, khi vọng tưởng lăng xăng che mờ tánh giác là Phật nhập diệt.
Ðức
Phật xuất hiện nơi đời có ảnh hưởng lớn lao và tốt đẹp đối với vận
mệnh nhân loại. Nhất là trong thời đại nhiều biến động tinh thần
và những đe doạ thường trực giữa người với người, giữa người với
thiên nhiên và môi trường sinh thái, thông điệp về lòng từ bi của
Ðức Phật là một phương thuốc điều trị tâm bệnh không thể thiếu.
Khi nào con người còn đau khổ, đạo Phật còn giữ vai trò phụng sự,
vì giáo lý nhà Phật giúp con người ý thức rõ hơn bản chất của sự
khổ, thúc giục con người tiến tu thoát khổ. Ðức Phật lịch sử đã
trở về quá khứ, nhưng trí tuệ và lòng từ bi của Ngài vẫn còn mãi
là tấm gương sáng tuyệt vời cho chúng ta noi theo.
Sau
khi Thái tử Tất-Ðạt-Ða đản sinh, vua cha Tịnh-Phạn triệu tập các
vị tinh thông tướng số đến tiên đoán vận mệnh cho Thái tử. Các vị
xem tướng xong, đồng tâu lên rằng: “Thái tử có đủ 32 tướng tốt của
một Bậc Ðại nhân, thật hiếm có trên đời. Ðây là những dấu hiệu báo
trước Ngài sẽ là Bậc vĩ nhân đệ nhất trong thiên hạ. Nếu Ngài làm
vua, sẽ là vị Chuyển luân Thánh vương; nếu xuất gia tu hành, Ngài
sẽ là Bậc Ðại Giác Ngộ”.
Trong mùa an cư cuối cùng, Ðức Phật báo trước sẽ lên cung trời
Ðao-Lợi thuyết pháp cho chư Thiên và Thánh mẫu Ma-Gia. Vua xứ
Kosala là Pasennadi, do lòng kính ngưỡng Ðức Phật, xin phép được
họa chân dung Ngài trước khi Ngài tạm rời nhân gian. Ðược Ðức Phật
chấp thuận, nhà vua thỉnh Ngài thọ trai tại hoàng cung; ở đây có
12 vị họa sư nổi tiếng cùng tề tựu để quan sát và vẽ lại chân dung
Ðức Phật. Tuy nhiên, sau đó tất cả các họa sư đều quỳ xuống xin
nhà vua tha tội, vì “Hình tướng Ðức Thế Tôn đẹp lạ lùng, chúng
thần sửng sờ chỉ ngắm nhìn suốt buổi mà không vẽ được nét nào cả”.
Ðức Phật nghe nói thương tình, cho in bóng mình lên nền nhà để các
họa sư đồ họa lại. Ðây là bức vẽ chân dung đầu tiên của Ðức Phật.
Về
sau, nhà vua lại truyền lệnh cho các thợ điêu khắc tài giỏi trong
nước tạc tượng Ðức Phật theo mẫu vẽ ấy. Nhưng không người thợ nào
dám nhận nhiệm vụ, vì “Sắc tướng Ðức Thế Tôn vạn lần cao quý, siêu
tuyệt trần gian; nếu không chuyển tải được những đức tướng ấy trên
tượng thì e đắc tội với Ngài”. Có một vị Thiên nhân chuyên về kiến
trúc tên Tỳ-Thủ Yết-Ma hóa thân làm thợ mộc, yết kiến nhà vua xin
nhận việc. Chỉ sau một ngày, vị Trời ấy đã tạc xong pho tượng Ðức
Phật bằng gỗ trầm hương, cao 7 thước mộc, mặt và tay chân đều màu
vàng tía. Nhà vua vừa trông thấy bức tượng, phát sinh đức tin
thanh tịnh, chứng Nhu thuận nhẫn, bao nhiêu nghiệp chướng phiền
não đều được tiêu trừ (kinh Ðại thừa công đức tạc tượng Phật - Ðại
chính Tân tu Ðại tạng kinh).
Các
tài liệu Phật học mô tả 32 tướng tốt của Ðức Phật có đôi chỗ khác
nhau, nhưng tựu trung có thể kể ra như sau:
1- Ðỉnh đầu có
nhục kế.
2- Tóc màu xanh
đậm, xoăn thành Vòng theo chiều bên phải.
3- Trán rộng và
bằng phẳng.
4- Khoảng giữa hai
chân mày có một sợi lông trắng mịn.
5- Mắt xanh biếc,
mi dài như mi ngưu vương.
6- Có đủ 40 răng.
7- Răng nhỏ và đều
khít.
8- Răng trơn láng,
trắng trong như ngọc.
9- Chân răng rất
sâu, không khuyết hở.
10- Lưỡi rộng và
dài, có thể chạm đến chân tóc trên trán.
11- Nước trong cổ
họng có vị ngọt thơm.
12- Quai hàm như
hàm sư tử
13- Giọng nói
trong ấm và vang xa như tiếng Phạm vương.
14- Thân hình thon
cao.
15- Da mịn màng,
màu như vàng ròng, bụi không thể bám vào.
16- Lông trên mình
màu xanh và mềm mại, đều xoay tròn theo chiều bên phải.
17- Mỗi lỗ chân
lông chỉ có một sợi lông mọc.
18- Bảy chỗ bằng
phẳng và đều đặn.
19- Nửa thân trên
như thân sư tử.
20- Không có
khuyết lõm giữa hai vai.
21- Hai tay buông
thỏng dài đến đầu gối.
22- Ðầu cánh tay
trắng tròn.
23- Ngón tay thon
dài.
24- Tay chân mềm
mại.
25- Lòng bàn chân
có đủ 1.000 xoáy trôn ốc.
26- Kẻ ngón chân
có màng da lưới.
27- Âm tàng như mã
vương.
28- Ðùi như lộc
vương.
29- Gót chân thon,
tròn đẹp.
30- Mắt cá chân
tròn, không lộ ra.
31- Mu bàn chân
cao và đều đặn.
32- Lòng bàn chân
bằng phẳng, có hình bánh xe.
Ðiểm
qua 32 tướng tốt để chúng ta có thể nhận diện nhân dáng toàn mỹ
của Ðức Phật. Thật ra, có một vài chi tiết khó hình dung nơi một
con người thời nay, như tướng lưỡi rộng dài quá mức hay màng da
lưới ở kẻ ngón; hoặc một số tướng tốt chỉ xuất hiện khi Ðức Phật
đã trưởng thành chứ không phải được mô tả lúc Ngài đang ở tuổi sơ
sinh, như tướng răng, giọng nói, thân hình... Tuy nhiên, chúng ta
không nên dùng ý thức phàm tình để xét đoán về một Bậc Thánh nhân,
vì đôi khi những chi tiết mô tả về Ngài có thể ẩn tàng một ý nghĩa
sâu xa nào đó. Ví dụ, tướng lưỡi rộng dài là kết quả bao nhiêu đời
kiếp Ngài không một lời nói hư dối; khối thịt vun trên đỉnh đầu
(nhục kế) là tướng của một người có trí tuệ tột đỉnh; lông trắng
giữa hai chân mày (bạch hào tướng quang) tượng trưng cho Trung
đạo, lìa sự cố chấp hai bên; lòng bàn chân có hình bánh xe biểu
hiện một sứ mạng cao cả là lưu truyền chánh pháp... Những tướng
tốt hy hữu ấy đã minh chứng bao nhiêu công đức tích lũy được trong
vô lượng kiếp tu hành của một Bồ tát Nhất sanh bổ xứ, chỉ còn một
đời ở cõi Ta-bà là thành tựu Phật quả.
Thân
tướng tốt đẹp cũng là sự thị hiện của Ngài, do chìu theo sự ưa
thích cái đẹp của chúng sinh. Khi mới tiếp xúc lần đầu, chúng ta
thường chú ý đến vẻ ngoài của người đối diện, sau đó mới tìm hiểu
về tính tình và đời sống nội tâm. Ðức Bổn Sư của chúng ta, với 32
tướng tốt và 80 vẻ đẹp thật toàn mỹ và phi phàm, đã khiến cho bất
cứ ai, khi vừa gặp Ngài đều sinh lòng quý kính. Ðây là điều kiện
thuận lợi để tiếp cận với người khác, sau đó Ngài mới tùy duyên mà
giáo hóa. Trong pháp hội của Ðức Phật, được nhìn dung mạo Ngài,
nghe giọng nói Ngài trầm hùng như tiếng sóng biển, tiếng chim
Ca-lăng-tần-già, toàn thể đại chúng đều sinh lòng kính tín, tâm
hoan hỷ thanh tịnh lạ thường. Nhiều người đắc quả vị Hiền Thánh
chỉ sau một lần được diện kiến Ðức Phật hoặc nghe Ngài thuyết
pháp.
Nhưng thân tướng đẹp đẽ vô song ấy, có phải không bao giờ đổi thay
hoại diệt? Trong kinh kể lại, một hôm Ðức Phật ngồi sưởi ấm dưới
nắng, Ngài A-Nan đến gần, buồn rầu thưa rằng “Bạch Ðức Thế Tôn,
làn da ánh như vàng ròng của Người nay còn đâu, chỉ có màu xám xịt
nhăn nheo của tuổi già”. Ðức Phật dạy: “Này A-Nan, đây là sanh
thân của Như-Lai, hữu hình ắt hữu hoại”. Thân xác do tứ đại hợp
thành, đủ duyên thì hiện hữu, hết duyên lại trở về cát bụi. Vô
thường có tha ai bao giờ? Vô thường là quy luật tất yếu của cuộc
sống, nhưng cũng là điều kiện cần thiết cho sự tiến hóa của vũ trụ
vạn loại. Hoa nở rồi tàn, rụng xuống thành rác, từ rác có cây khác
mọc lên, và hoa lại nở, tạo thành vòng biến chuyển không dừng trụ.
Sanh thân của Ðức Phật, dù đầy đủ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp cũng
do tứ đại duyên hợp tạm có, tồn tại trên thế gian trong 80 năm và
cũng chịu sự chi phối của luật vô thường, cũng ở trong vòng biến
chuyển của luân hồi sinh tử. Thế thì, ý nghĩa cao cả của sự tu
hành là Giác Ngộ - Giải Thoát phải được hiểu như thế nào?
Kinh
Phạm Võng Trường Bộ tập I, Ðức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo,
thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống
khác đã bị chặt đứt. Khi thân Như-Lai còn tồn tại, thì chư Thiên
và loài người có thể thấy thân ấy. Khi thân hoại mạng chung, thì
chư Thiên và loài người không thể thấy được”. Ðộng lực khiến tái
sanh vào kiếp khác là phiền não tham sân si đã bị chặt đứt thì dù
sanh thân còn tồn tại nhưng đã thoát khỏi vòng kiềm tỏa của luân
hồi. Chư Thiên và loài người chỉ có thể thấy được sanh thân của
Ðức Phật, tức thân có 80 vẻ đẹp và 32 tướng tốt, thân có sinh ra,
có bệnh tật, có già nua và có hoại diệt. Nhưng khi sanh thân không
còn nữa, thì mắt của Trời người không thể thấy Như-Lai. Bởi vì
Như-Lai chính là Pháp Thân vô tướng, là Thật tướng thường trụ.
Pháp thân vô tướng nên không bao giờ sinh diệt, vì không có chỗ
trụ nên thường hiện hữu khắp cõi Tam thiên, vắng lặng mà chiếu
soi, không thể dùng ý thức suy lường mà sẵn đủ nơi tất cả chúng
sanh. Ðức Bổn Sư đã nhận ra và hằng sống với tánh giác sẵn đủ ấy
nên Ngài là Phật; còn chúng sanh do quên tánh giác, mãi đuổi theo
trần cảnh, tạo nghiệp, nên vẫn còn lang thang trong sáu nẻo luân
hồi. Chư Phật thị hiện nơi đời cũng chỉ có một mục đích duy nhất
là chỉ cho chúng ta thấy và trực nhận tánh giác nơi mình, từ đó
gột rửa dần tập khí phiền não, cuối cùng thể nhập Pháp thân. Ðó là
ý nghĩa của sự tu hành, cũng là bản hoài của chư Phật, Chư Bồ tát.
Cuộc
đời của Ðức Bổn Sư, từ lúc còn trên ngôi vị Thái tử đã không màng
đến danh lợi hạnh phúc thế gian, đến khi thành đạo vẫn vì chúng
sanh giáo hóa suốt 45 năm ròng, là một cuộc đời vô cùng trong sáng
và đẹp đẽ. Ngài cũng là người, nhưng là một người phi thường từ
thể chất đến tinh thần, từ hình tướng đến tâm linh, từ trí tuệ đến
lòng từ bi ban rải bình đẳng đến chúng sanh vạn loại. Chỉ phác
thảo về những đặc điểm bên ngoài của Ðức Phật, cũng đủ cho chúng
ta phát khởi lòng tôn kính đối với Ngài - Bậc giáo chủ vĩ đại, Bậc
Tôn sư của Trời người, như kinh Nikaya viết: “Một chúng sinh duy
nhất, một con người phi thường xuất hiện trong thế gian này, vì
lợi ích cho số đông, vì hạnh phúc cho số đông, vì lòng bi mẫn, vì
sự tốt đẹp, vì lợi ích và hạnh phúc cho Chư Thiên và loài người!”
Những người con Phật chúng ta, muốn làm tròn chữ hiếu đối với Ðức
Bổn Sư, phải nguyện đời đời tinh tấn tu hành theo lời Ngài chỉ dạy
để cuối cùng, thành tựu quả vị Phật như Ngài!
Hàng năm, đến ngày mùng 8 tháng 12 âm
lịch, hàng Phật tử nô nức đón chào một sự kiện lịch sử: Ðức Phật
Thích Ca thành đạo. Có thể nói, đây là một ngày vô cùng trọng đại,
vô cùng thiêng liêng đối với tất cả những người con Phật, vì nếu
không có ngày này, sẽ không có Phật Thích Ca; và như thế, cũng
không có chánh pháp được lưu truyền và không có chư Tăng giữ gìn
mạng mạch Phật pháp.
Hòa với niềm vui
chung của muôn loài chúng sanh, hôm nay chúng ta cùng tìm hiểu về
ý nghĩa của ngày Phật thành đạo. Ðặc biệt, chúng ta cần biết rõ
chặng đường tu hành và nội dung tâm chứng Ðức Phật. Ngài đã trải
qua những phương pháp hành trì như thế nào, và cuối cùng thành tựu
đạo quả ra sao.
Hiểu rõ con
đường Ðức Phật đã đi, chúng ta sẽ theo lời dạy của Ngài, nỗ lực
công phu để có thể tự mình bơi lội trong mảnh đất tâm của chính
mình.
I- Con đường tìm đạo
1- Cầu học nơi các vị
Ðạo-sư:
Từ
khi còn ở trong cung vua, Thái tử Siddhatta đã được học hỏi nhiều
nhà tư tưởng lớn. Lúc đã vượt thành xuất gia, Thái tử trải qua
biết bao nhiêu gian khổ dầm sương dãi nắng, vượt núi băng ngàn, hy
vọng tìm được Minh sư giúp mình thoát khỏi luân hồi sinh tử.
Thái tử đã theo học với nhiều bậc ẩn tu, cùng công phu với
nhiều nhóm Sa-môn theo những phương pháp khác nhau. Từ đó, Ngài đã
am tường 62 kiến chấp của ngoại đạo, hiểu rõ tư tưởng của Lục Sư
ngoại đạo và Lục Ðại học phái. Ðáng kể nhất, Ngài đã được sự chân
truyền của Ðạo sư Alara Kalama, người chứng được địnhVô sở hữu xứ,
và Ðạo sư Uddaka Ramaputta, người chứng Phi tưởng Phi phi tưởng
xứ. Chỉ trong một thời gian ngắn, Ngài đã đạt được, chứng được
những gì hai vị Ðạo sư này đã chứng đạt.
Vô sở hữu xứ và Phi
Phi tưởng xứ là hai tầng cao nhất trong bốn tầng Trời Vô-sắc-giới. Từ thấp
lên cao gồm có:
- Không vô biên xứ:
Hành giả thấy bao nhiêu cảnh giới đều không thật, toàn bộ thế giới
chỉ là hư không, thân mình hòa tan trong hư không và tâm hoàn toàn
lặng lẽ như hư không. Vị ấy thấy tâm mình đồng nhất với không gian
vô biên, và hư không trở thành bản chất của toàn thể vũ trụ. Ðây
là tầng thiền định thứ nhất.
- Thức vô biên xứ:
Hành giả thấy hư không là cảnh giới bị biết và tâm thức là cái hay
biết. Vị âý đồng hóa đối tượng nhận thức là hư không với chủ thể
nhận thức là tâm thức của mình. Tất cả đều do tâm thức biến ra. Vị
ấy thấy tâm thức của mình là vô biên. Ðây là tầng thiền định thứ
hai.
- Vô sở hữu xứ: Tầng
thứ ba, hành giả quán chiếu hư không là cảnh giới bên ngoài, tâm
thức là cảnh giới bên trong; cả hai đều không thật có. Như vậy,
không có một pháp nào thật sự hiện hữu, vì tâm ta như một đại họa
sư, vẽ ra tất cả mọi cảnh giới. Vị ấy thấu triệt tính cách hư giả
của vạn pháp nên buông bỏ cả đối tượng lẫn chủ thể nhận thức. Tuy
nhiên, vị ấy vẫn còn cái cảm giác biết được mình đang buông bỏ; mà
còn tri giác tức vẫn còn đối tượng của tri giác.
- Phi tưởng Phi phi
tưởng xứ: Ðây là tầng thiền định cao nhất của các Ðạo sư thời bấy
giờ. Hành giả biết rõ, tri giác, tức là tưởng, nếu không vượt
thoát được thì không đạt đến chân lý. Do vậy, vị ấy xả trừ tất cả
tưởng và nghĩ mình đã hoàn toàn giải thoát, chứng nhập Niết- bàn.
Ðây là một điều lầm lẫn lớn, vì hành giả mới loại trừ hết các
tưởng thô mà vẫn còn những tưởng vi tế. Vị ấy vẫn còn thấy mình có
chứng có đắc nên ngã tướng chưa đoạn tận, vì thế không thể nào
thoát khỏi vòng sinh tử.
Chỉ có Sa môn
Siddhatta Gotama mới có đủ trí tuệ để nhận ra rằng, nhận thức phi
thường của vị Ðạo sư bậc nhất là Uddaka Ramaputta vẫn chưa phải là
cảnh giới cứu cánh, chưa đáp ứng được mục đích tu hành của Ngài là
xa lìa khổ đau và thóat khỏi luân hồi. Vì thế, Ngài lại từ giã vị
Thầy ấy cũng như đã giã từ những người Thầy trước, dù vị Ðạo sư
già đôi phen khẩn khoản mời Ngài ở lại để cùng dẫn dắt đồ chúng.
Ở đây chúng ta thấy
rõ, trước khi xuất gia Thái tử Siddhatta đã định cho mình một mục
đích tối thượng: tìm bằng được một phương cách giải quyết vấn đề
sinh tử. Với lý tưởng ấy, Ngài từ bỏ mọi thú vui trần thế và cả
những danh lợi cùng niềm an lạc xuất thế, vì những điều vui ấy chỉ
là tạm bợ, chưa phải là rốt ráo giải thoát. Chỉ những người có lập
trường kiên định, có ý chí xung thiên và lòng từ bi vô hạn với
muôn loài chúng sanh, mới có thể quên mình, một lòng cầu đạo như
thế.
2- Sáu năm khổ hạnh:
Vì biết rằng không thể tìm cầu đạo vô
thượng từ bên ngoài, Sa môn Gotama quyết định không đi tham vấn
với vị Thầy nào nữa. Ngài tìm một nơi hoang vắng trong rừng sâu,
thực hành công phu khổ hạnh.
Trước đây, Ngài đã
đôi lần gặp những người tu theo phương pháp này. Các vị chủ
trương, muốn tâm được an lạc thanh tịnh thì phải chếâ ngự thân thể
không để cho ngũ dục lôi cuốn. Bởi vì, khổ đau phát sinh từ chấp
ngã; nếu thân xác vượt thoát được mọi cám dỗ trần tục thì ý thức
chấâp ngã không còn, đau khổ sẽ không có cơ hội hoành hành, con
người sẽ giải thoát khỏi phiền não. Do vậy, các vị tìm đủ cách để
hành hạ thân xác mình; hoặc mỗi ngày chỉ ăn vài hột mè, vài hột
cơm hay ăn phân trâu bò; hoặc đứng một chân giữa trời nắng; hoặc
quất roi vào thân cho chảy máu hay nằm lăn lộn trên gai; hoặc tọa
thiền và cố gắng nín thở hay đè nén vọng niệm ...
Thời gian công phu
khổ hạnh này, Sa-môn Gotama có bạn đồng tu là năm anh em Sa-môn
Kondanna (Kiều Trần Như), lúc trước cùng học với Ngài tại đạo
tràng của Ðạo sư Ramaputta. Với tài năng xuất cách và nghị lực phi
thường, Ngài luôn vượt qua các bạn đồng tu. Bây giờ cũng vậy, sự
thực hành khổ hạnh ép xác và sức chịu đựng ghê gớm của Ngài làm
năm anh em Kondanna khiếp đảm và kính phục vô cùng. Thân hình của
Ngài giờ chỉ còn da bọc xương; nếu ấn vào bụng, có thể sờ được
xương sống sau lưng; da không còn màu vàng sáng của vẻ đẹp ngày
nào mà chuyển sang khô xỉn do thiếu chất dinh dưỡng và lâu ngày
không tắm gội. Nhìn Ngài, không ai có thể tưởng tượng cái thây ma
biết cử động kia là một Thái tử với 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp. Chỉ
còn sót lại đôi mắt sáng như sao, giờ như hai viên ngọc long lanh
dưới đáy giếng sâu thẳm.
Sáu năm ròng rã trôi
qua, Sa-môn Gotama vẫn không tìm được đạo lý dù thân thể đã kiệt
quệ. Ngài thấy rõ rằng, sự thụ hưởng ngũ dục làm suy giảm giá trị
tâm linh, khiến con người mãi chịu trầm luân; ngược lại, sự hành
hạ xác thân cũng làm tâm trí ngu muội, vì thân và tâm là hai mặt
của một thực thể. Sống buông thả theo bản năng là một cực đoan,
chế ngự bạc đãi thân xác là một cực đoan thứ hai. Cả hai cực đoan
đều không phải là phương hướng đúng đắn để giải quyết vấn đề sinh
tử. Ngài quyết định đi vào Trung đạo: Bồi dưỡng lại sức khỏe, dùng
niềm an lạc do thiền định đưa đến làm thức ăn cho thân tâm; và
Ngài thực hành con đường nội nhiếâp, tự mình làm thầy cho chính
mình.
Khi uống bát sữa đầu
tiên của mục nữ Sujata, Ngài bắt đầu đoạn tuyệt với phương pháp
khổ hạnh, đồng thời lại phải chia tay với nhóm Sa-môn Kondanna. Năm anh em cho rằng
Ngài đã thối chí, không còn là người để họ trông cậy tin tưởng,
nên bỏ Ngài ra đi. Ngài buồn vì sự hiểu lầm này nhưng không giận
trách họ, dốc lòng hạ thủ công phu, mong có một ngày thành tựu đạo
quả sẽ tìm gặp và giúp họ tu hành.
II- Thành tựu đạo bồ
đề.
Sức khỏe được phục
hồi, trí óc trở lại minh mẫn, Sa-môn Gotama đến một gốc cây
Pippala bên dòng sông Neranjara (Ni-liên-thuyền), trải cỏ làm tọa
cụ. Ngồi vững chãi trong tư thế hoa sen, Ngài tuyên thệ một lời
sắt đá: "Ta ngồi nơi đây gia tâm thiền định, dù thịt nát xương
tan, nếu chưa chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ta quyết
không rời khỏi chỗ này!". Một lần nữa, Ngài vận dụng ý chí và nghị
lực siêu phàm của mình để độc lập tấn công vào những cõi miền
hoang sơ trong tâm thức.
Các kinh Ðại thừa
diễn tả: Khi sao Mai vừa mọc, Ngài hoát nhiên đại ngộ, và thốt lên
rằng: "Lạ thay! Tất cả chúng sanh đều có bản tâm thanh tịnh thường
nhiên, cớ sao cứ mãi đắm chìm trong luân hồi sinh tử?”. Do thấy
chúng sanh đều có Phật tánh bình đẳng cùng mười phương chư Phật,
nên sau khi thành Ðạo, Ngài đi khắp nơi giáo hóa suốt bốn mươi
chín năm ròng, không hề mệt mỏi. Sau này, Thiền tông chủ trương
"chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật" mà không qua thứ lớp
tu tập, có phải trung thành với kết quả chứng ngộ của Ðức Bổn Sư
không?
Riêng kinh A-Hàm mô
tả rất chi tiết quá trình chứng ngộ của Sa-môn Gotama. Trải qua 49
ngày đêm thiền định, Ngài lần
lượt chứng được từ Sơ thiền đến Tứ thiềân. Ðây là cảnh giới
thuộc cõi Trời Sắc giới, dành cho những người thoát ly ngũ dục và
chuyên tu Thiền định. Khác với cõi Dục giới chỉ có Thức mà không
có Ðịnh, và cõi Vô Sắc giới có Ðịnh mà không Huệ; cõi Sắc giới bao
gồm cả Ðịnh và Huệ, nên còn gọi là Cõi trời thiền. Cõi này vẫn còn
nằm trong tam giới nên chưa thoát khỏi luân hồi, gồm 4 tầng thiền
định từ thấp lên cao.
- Sơ Thiền (ly sanh
hỷ lạc): Do xa lìa ngũ dục nên đạt được trạng thái khinh an. Hành
giả vẫn còn ham muốn nhưng chỉ mong muốn những điều thanh cao, cho
nên còn gọi là Sơ thiền là Dục Thanh.
- Nhị Thiền ( Ðịnh
sanh hỷ lạc): Do tâm thanh tịnh, thường ở trong định nên phát khởi
niềm vui.
- Tam Thiền (Ly hỷ
diệu lạc): Hành giả lìa bỏ cái vui thô (hỷ) để đi sâu vào cảnh
giới thanh tịnh, phát sinh cảm giác diệu lạc.
- Tứ Thiền (Xả niệm
thanh tịnh): Do buông xả hoàn toàn nên được nhất tâm thanh tịnh.
Nếu có duyên với Ðại thừa, vị ấy ngộ được Chân tâm, lần lượt tu
tập theo các đạo quả Bồ-đề. Nếu không gặp Thiện tri thức, vị âý
lạc vào Tứ Thiền Không, an trú vào cảnh thanh tịnh ấy mà quên mất
Bổn tâm, diệt chủng Bồ-đề.
Trở lại con đường của
Sa-môn Gotama, vào đêm thứ 49 của giai đoạn thiền quán dưới cội
cây Pippala với lời tuyên bố sấm sét, và là đêm cuối cùng của
chặng đường ruổi rong tìm đạo.
An trú tâm vào giờ
phút hiện tại, Ngài bắt đầu phóng ánh sáng trí tuệ soi thấu vào
tận cùng ngõ ngách của tâm thức. Vào cuối canh ba, Ngài thấy rõ
những kiếp sống của chính mình đã trải qua từ vô thủy; trí huệ này
gọi là Túc mạng minh. Cuối canh tư, Ngài
thấy tất cả chúng sanh cùng khắp pháp giới, sau khi chếât lại theo
nghiệp thọ sanh nơi khác; thấy rõ ràng như người đứng trên lầu cao
nhìn xuống ngã tư đường. Cái thấy này gọi là Thiên nhãn minh hay Sanh tử
trí; do Ngài đã sống được với bản tâm thanh tịnh thường nhiên, vốn
trùm khắp vũ trụ vạn hữu, không có gì ra ngoài bản tâm.
Tiếp tục việc khám
phá
mọi bí mật của thân tâm và vạn pháp, đến canh năm Ngài thoát
khỏi Dục lậu, Hữu lậu vàVô minh lậu. Không còn Dục lậu, tâm Ngài
không tham đắm bất cứ dục lạc nào của trần thế. Không còn Hữu lậu,
Ngài không ưa thích bất cứ cảnh giới nào, dù là cõi Trời cao nhất
trong Tam giới. Không còn Vô minh lậu, Ngài phá tung được ngục tù
tối tăm ngàn đời, giam hãm chúng sanh trong si mê, phiền não, từ
đó mãi mãi tạo nghiệp và mãi mãi lăn lộn trong ba cõi sáu đường.
Chứng được Lậu tận minh, thành tựu Viên mãn giác, hoàn toàn đẩy
lùi tất cả lậu hoặc vô minh, Sa-môn Gotama trở thành Ðức Phật
Thích-Ca Mâu Ni, là bậc Thầy của muôn loài chúng sinh trong tam
giới. Bấy giờ là cuối canh năm của một ngày mùng 8 tháng chạp, năm
Ngài được 35 tuổi.
Và đây là khúc ca
khải hoàn của một người vừa đạt được chiến công oanh liệt nhấât -
chiến thắng chính bản thân mình. Sau khi thành Phật, Ngài đã dõng
dạc tuyên bố: “Ta đã được giải thoát, sanh đã tận, phạm hạnh đã
thành, việc làm đã xong, đã đặt gánh nặng xuống, không còn trở lui
trạng thái này nữa !". Ðã được giải thoát nghĩa là sáu căn không
còn dính mắc với sáu trần, khi đối duyên xúc cảnh không còn sanh
tâm khởi niệm. "Sanh đã tận" là vĩnh viễn không còn tiếp nối sanh
tử, hoàn toàn thoát khỏi lục đạo luân hồi. "Phạm hạnh đã thành" là
tâm Ngài không còn Dục lậu, Hữu lậu và Vô minh lậu. "Việc làm đã
xong" nghĩa là công phu đến đây đã hoàn toàn không còn khởi tâm
dụng công, là vô công dụng hạnh. "Ðã đặt gánh nặng xuống" là không
còn chấp thân năm uẩn này là tôi, của tôi và tự ngã của tôi. Theo
Kinh Pháp Cú, thân năm uẩn là gánh nặng. Còn chấp thân tâm này là
thật mình, ấy là còn mang gánh nặng trên vai. Người tu phải lần
lượt liệng bỏ hết đồ đạc trong gánh, liệng luôn quang gánh và đòn
gánh. Ðòn gánh đã liệng, đến cái tâm biết có người liệng và vật bị
liệng cũng phải quăng bỏ. Buông sạch đến tận cùng mới thấu triệt
tinh thần Vô ngã, ấy là đặt gánh nặng xuống rồi !
Câu cuối cùng của Ðức
Phật nghe như hồi kèn chiến thắng, như một khúc anh hùng ca:
"Không còn trở lui trạng thái này nữa !"
Vàng trong
quặng đã được tôi luyện thành vàng ròng không bao giờ trở lại tình
trạng quặng. Cũng vậy, người đã hoàn toàn dứt hẳn vô minh phiền
não, thì không khi nào còn bị vô minh che mờ Chân tâm hằng tri
hằng giác nữa. Do Ðức Phật đã giác ngộ hoàn toàn, viên mãn và tột
cùng, nên chúng ta tôn xưng Ngài là Bậc Toàn giác, Viên mãn giác
hay Cứu cánh giác. Chỉ có Ðức Phật, người thực hiện viên mãn hạnh
tự giác và giác tha, mới được đồng đẳng với chư Phật mười phương,
mang đầy đủ 10 pháp hiệu: Như Lai - Ứng Cúng - Chánh biến tri -
Minh hạnh túc- Thiện Thệ - Thế Gian Giải - Vô Thượng Sĩ - Ðiều Ngư
Trượng Phu - Thiên Nhân Sư - Phật Thế Tôn .
III- Những điều suy
gẫm:
Có thể nói, sự thành
đạo không những là thời điểm vinh quang, sáng chói nhất của một
người tu, từ lúc sơ phát tâm đến khi đạt cứu cánh; mà còn là một
sự kiện trọng đại, thiêng liêng đối với muôn loài chúng sanh.
Chúng ta đã theo dõi chặng đường tu hành của Ðức Phật, chúng ta
cũng thấy rõ những thử thách trở ngại và cả những lần thất bại của
Ngài.
Từ đó, chúng ta có thể suy gẫm để rút ra những bài học hữu
ích gì cho đời tu của chính mình?
Thứ nhất, từ lúc còn
là Thái tử sống trong nhung lụa cao sang và trong uy quyền tột
đỉnh, Ngài vẫn canh cánh bên lòng những nghi vấn không ai có thể
giải đáp được: Con người từ đâu đến, sau khi chết sẽ đi về đâu, và
có cách nào thoát khỏi cảnh sanh già bệnh chết? Những nghi vấn này
chính là động lực thúc đẩy Ngài rời bỏ cung điện, không nề gian
khổ, một lòng tìm đạo. Cũng vì những nghi vấn này mà Ngài quyết
định từ giã tất cả các pháp tu của ngoại đạo dù các vị Thầy đánh
giá Ngài rất cao, hoặc năm anh em Kiều Trần Như do hiểu lầm mà phỉ
báng Ngài. Người tu chúng ta, trước hết cũng phải định cho mình
một mục đích. Nếu chưa đạt được mục đích ấy, thì dù có danh vọng
quyền thế hoặc ai rẻ rúng khinh chê, chúng ta cũng không thối chí
ngã lòng.
Thứ hai, trong bất cứ
pháp tu nào, Ngài cũng vượt trội hơn các bạn đồng tu khác. Vì sao
được như thế?
Ngoài khả năng sẵn có
như thông minh và sức khỏe hơn người, Ngài còn có ý chí, nghị lực
và lòng kiên nhẫn vô bờ, từ đó đưa đến sự tinh tấn và sức chịu
đựng phi thường. Ðặc biệt là trong sáu năm khổ hạnh, mỗi ngày chỉ
ăn một hạt mè hoặc có ngày không ăn tí gì; có lúc đè nén đàn áp
vọng niệm bằng cách nín thở .....; dù thân thể hao mòn mà ý chí
vẫn xung thiên! Nếu chúng ta một lòng cầu đạo vô thượng, cũng phải
học theo gương Ðức
Bổn Sư, có ý chí sắt đá và lòng kiên
nhẫn trường kỳ, mà Hòa thượng Trúc Lâm gọi là "Tâm kiên cố và
trường viễn".
Thứ ba, khi đạt định
Phi tưởng Phi phi tưởng, tất cả mọi người đều cho rằng mình đã đến
chỗ rốt ráo giải thoát. Chỉ có Ngài bằng trí huệ siêu xuất mới
biết rõ tầng thiền định này vẫn còn nằm trong tam giới, vì thế
chưa ra khỏi sinh tử. Chúng ta ngày nay trong thời mạt pháp, ngay
cả Ðạo sư ngoại đạo chưa chắc đã gặp, huống nữa dễ được gần Hiền
Thánh sao? Nếu không có chánh kiến và chánh tín, dễ sa vào đường
lầm ngả rẽ. Cho nên, khi dụng công thiền tập, chúng ta phải kết
hợp tri thức Phật pháp với kết quả hành thiền, dưới sự dẫn dắt của
một vị Thầy có kinh nghiệm. Ðôi khi, tâm mới được đôi phần lặng
lẽ, chúng ta cứ tưởng mình đã xong việc. Ðó là chưa có mắt trạch
pháp, chỉ như một kẻ mù dẫn cả đám người mù cùng rơi xuống hố. Vị
Thầy có kinh nghiệm sẽ kịp thời xua tan những bóng mây chấp trước
về kết quả tu tập cho chúng ta, kết hợp với sự đối chiếu trên kinh
lục của Ðức Phật và chư vị Tổ sư, như thế đường tu của chúng ta
mới khỏi đưa vào ngả rẽ.
Thứ tư, con đường Ðức
Phật đã đi là con đường Trung đạo, sau khi rời bỏ hai cực đoan là
thụ hưởng dục lạc thế gian trong cung điện, và hành hạ xác thân
trong sáu năm khổ hạnh rừng
già. Chỉ khi đi theo Trung đạo, Ngài mới thể nhập được chân tâm và
thành tựu chánh trí. Chúng ta tu hành, biết thân này là hư giả, là
duyên sinh, nên không đam mê ngũ dục; nhưng cũng không vì
thế mà làm
thân thể tiều tụy hao mòn. Thân xác như chiếc bè đưa ta qua sông,
ta
không nên ngày đêm tô điểm sơn phết cho nó, nhưng cũng không
được phá hoại nó khi chưa đến bờ bên kia. Hơn nữa, thân và tâm có
liên hệ hỗ tương với nhau, nếu thân không mạnh khỏe thì làm sao
tâm trí có thể an định sáng suốt được?
Thứ năm, chúng ta tự
hỏi, Sa-môn Gotama thành Phật có phải do một đấng thần linh hay
Thượng đế nào ban cho? Ðây là một điểm rất quan trọng cho chúng ta
thấy rõ rằng, là Phật tử chân chính, chúng ta phải luôn luôn thực
hiện
đúng tinh thần "tự
thắp đuốc lên mà đi". Ðức Phật đã nói: "Ta học đạo không có Thầy".
Ngài thành Phật là do nỗ lực tự thân để chiến thắng giặc vô minh
phiền
não, không ai có thể giúp đỡ được cho Ngài. Chúng ta cũng
vậy, mỗi người tu đều phải độc hành độc bộ trên con đường phản
quan tự kỷ, tự mình nhận ra và sống với bản tâm thanh tịnh của
chính mình. Nếu ta không tự cứu
mình thì sẽ không ai cứu mình, và mình
cũng không cứu được cho ai; nếu mình không an lạc thì không thể
nào san sẻ được an lạc cho kẻ khác.
Ðiểm thứ sáu cũng rất
quan trọng và liên quan đến lối tu hành của
nhiều Phật tử. Từ khi sinh ra đến khi
nhập Niết Bàn, chúng ta thấy Ðức Phật hoàn toàn là một con người
thật sự, cũng nói năng sinh hoạt như chúng ta, cũng mang bệnh và
mắc nhiều tai nạn như bất cứ người nào. Chỉ khác người thường ở
chỗ, Ngài là người nhưng đã sạch lậu hoặc phiền não, là người
không nhiễm ngũ dục lục trần, là người nhưng đã tỉnh thức và muốn
giúp đỡ cho kẻ khác cũng được tỉnh thức như mình. Ðức Phật không
phải là một thần linh có quyền ban phước hay giáng họa cho ai.
Hiểu Ngài đúng đắn như thế, chúng ta sẽ noi gương Ngài và theo lời
Ngài dạy để tu hành, để có đời sống tỉnh thức thường trực như
Ðức Bổn Sư của chúng ta. Nếu chúng ta
nghĩ Ngài là đấng thần linh, đem lễ vật đến chùa cúng dường để cầu
Phật gia hộ mình mạnh khỏe, mua may bán đắt, con cái đỗ đạt...,
thì vô tình chúng ta hạ thấp giá trị của Ðạo Phật, vô tình biến
ngôi Già lam thành nơi buôn bán làm ăn. Ngôi Tam Bảo đúng nghĩa
phải là nơi có Phật, có Chánh pháp và có Tăng đoàn tu hành thanh
tịnh. Người Phật tử đúng nghĩa phải đến chùa học hỏi Phật pháp nơi
quí Tăng Ni; hiểu được Chánh pháp, phải áp dụng vào công phu tu
tập. Nếu chỉ hiểu biết suông mà không gia công tu hành thì chỉ như
người ăn bánh vẽ, không bao giờ no; hay người bệnh học thuộc lòng
toa thuốc mà không uống thuốc, thì không bao giờ hết bệnh.
Ðiểm cuối cùng là
phương pháp tu hành nếu muốn trở thành bậc vô Thượng Chánh Ðẳng
Chánh Giác. Ðức Phật đã từng nói: "Ta là Phật đã thành, chúng sanh
là Phật sẽ thành”. Bằng trí tuệ của một người đã giác ngộ viên
mãn, Ngài thấy tất cả chúng sanh đều có Phật tánh bình đẳng với
chư Phật mười phương, đó là chánh nhân thành Phật. Nếu chúng ta
theo đúng đường lối tu tập của Ngài, nhất định có ngày chúng ta sẽ
thành tựu Phật quả. Trong suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội cây
Pippala, Ngài đã tu tập thiền định, nhờ chánh niệm mà tâm được
thanh tịnh rỗng rang, nhờ quán niệm mà thấu suốt được thật tướng
của vũ trụ vạn hữu và ngộ được tự tánh bản lai của chính mình.
Ngài thấy vạn pháp đều bình đẳng trong tánh không - không nhưng
chẳng phải ngoan không nên là Chân Không; và từ Chân Không khởi ra
Diệu Hữu. Chân Không là thể, còn Diệu Hữu là dụng của Tự tánh, của
Chân tâm. Giác ngộ có nghĩa cao tột của nó là nhận ra và hằng sống
được với Chân tâm ấy. Vì ngộ được Chân tâm, Ðức Phật đã hoàn toàn
chấm dứt tất cả vô minh phiền não. Ngài như người đã tỉnh cơn đại
mộng, biết rõ bao nhiêu cảnh tượng buồn vui đổi dời trong vô lượng
kiếp chỉ là giấc mộng đêm qua. Kinh Pháp Cú 153 - 154 có ghi:
Trải qua bao kiếp
sống
Ta tìm mà chẳng gặp
Người xây cất nhà này
Khổ thay kiếp luân
hồi !
Người cất nhà đã lộ
Không còn cất nhà
nữa.
Tất cả rui mè gãy
Kèo cột cũng bị nát.
Tâm ta đại tịch diệt,
Ái dục thảy tiêu tan.
Bao nhiêu kiếp sống
lang thang trong vòng luân hồi vì không tìm được kẻ đã xây nhà năm
uẩn. Hôm nay, kẻ cất nhà đã lộ mặt, đó chính là vô minh tham ái,
là động lực tạo nghiệp để thọ thân sau. Khởi đầu, vô minh là chấp
cái thân tứ đại là mình, chấp cái tâm vọng tưởng lăng xăng là thật
mình; bây giờ biết rõ thân chỉ là giả hợp, vọng tưởng là sinh diệt
không thật có, chúng ta không chạy theo nó. Không chạy theo vọng
tưởng tức dừng được ý nghiệp, thì thân và khẩu còn cách gì tạo
nghiệp nữa? Khi tâm đã hoàn toàn thanh tịnh, ái dục hoàn toàn tiêu
tan do vọng tưởng không còn hoành hành trong tâm thức, ta có thể
tuyên bố, rui mè và kèo cột của căn nhà, tức thân và tâm của nhà
năm uẩn không còn cơ hội tái sinh.Vòng luân hồi sinh tử đã bị đoạn
trừ !
Như vậy, Ðức Phật nhờ
nỗ lực Thiền định mà thành đạo. Chúng ta là con Phật, nguyện sẽ đi
theo con đường của Ngài, để có một ngày cũng như Ngài, hát lên bài
ca chứng đạo. Thật ra, nếu tâm ta thanh tịnh thì Phật hiện diện
trong tâm ta; nếu tâm còn lậu hoặc phiền não thì Phật đã cách xa
ta ngàn trùng. Khi sống được với Phật tâm thanh tịnh của chính
mình, ta sẽ hiểu rõ lòng từ bi và trí huệ của chư Phật.
Nhân ngày Ðức Phật
thành đạo, không gì hơn là chúng ta phải biết được ý nghĩa của giờ
phút thiêng liêng, khi Ngài
triệt chứng dưới cội cây Pippala, đạt đạo quả vô thượng.
Chúng ta tôn thờ qui ngưỡng Ðức Phật cũng là trở về với nội dung
tâm chứng của Ngài. Muốn vậy, chúng ta phải biết rõ Ngài ngộ đạo
như thế nào, và bây giờ chúng ta nên dụng công ra sao. Ðức Phật
cũng là một chúng sanh, nhưng là một chúng sanh hy hữu, duy nhất
đã phá trừ tập khí phiền não đến tận gốc rễ, đã thoát vòng sinh tử
luân hồi, đã thể nhập thật tướng của vũ trụ vạn hữu. Chư Thiên và
loài người kể từ ngày Ngài thành đạo, đã thấm nhuần ơn pháp vũ của
Ngài. Chúng ta tuy sinh ra nhằm thời mạt pháp, nhưng
may mắn vẫn còn được nghe và được tu hành theo chánh pháp.
Mong rằng tất cả chúng ta cùng tinh tấn công phu, nỗ lực đẩy lùi
vô minh tập khí, can đảm vượt qua bao nhiêu ma chướng đến từ bên
ngoài và cả bên trong. Chúng ta cũng nguyện đem tất cả công đức tự
lợi và lợi tha của mình, hồi hướng cho chúng sanh cùng khắp pháp
giới, đều thành tựu Phật quả. Có như thế, chúng ta mới thật sự
kính ngưỡng tôn vinh Ðức Bổn Sư, mới có thể đền đáp ơn khó đền của
Ngài trong muôn một.
Ngày
mùng tám tháng chạp hàng năm, Phật tử vân tập về chùa dự lễ mừng
ngày thành đạo của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni. Nhưng khi được hỏi,
Ðức Phật đã đi theo lộ trình nào, nội dung tâm chứng của Ngài là
gì, Ngài thành tựu quả vị tột cùng ra sao, thì có nhiều người chưa
hiểu tường tận. Mà nếu chưa rõ con đường Ngài đã đi và đã đến
đích, làm sao chúng ta có thể đi theo Ngài, tu hành có kết quả?
Vì
thế, nhân ngày Ðức Bổn Sư thành đạo, chúng ta hãy cùng tìm hiểu
quá trình tu tập của Ngài trong suốt 49 ngày đêm thiền định dưới
cội cây Tất-bát-la, bên dòng sông Ni-liên-thuyền, cách đây hơn 25
thế kỷ. Từ đó chúng ta có thể rút ra những bài học bổ ích cho
mình, tinh cần bước theo dấu chân Ngài để đạt mục đích cuối cùng
của đời tu, là giác ngộ và giải thoát.
Lúc
còn ở trong cung vua, Thái tử Sĩ Ðạt Ta hưởng thụ mọi dục lạc, với
danh vọng quyền uy tột đỉnh. Ðối với người bình thường, không còn
gì hơn thế nữa. Nhưng đối với Thái tử, người đã có căn cơ tu hành
kỳ đặc, những thú vui trần thế chỉ là ràng buộc, là cạm bẫy chứ
không phải là hạnh phúc đích thực. Khi gặp các cảnh già, bệnh,
chết nơi cửa thành, Ngài suy gẫm về con người, về cuộc đời, thấy
rõ sự tạm bợ mong manh của kiếp sống. Ngài luôn bị dằn vặt bởi ba
câu hỏi lớn: “Con người từ đâu sinh ra? Sau khi chết đi về đâu? Có
cách nào thoát khỏi vòng sinh tử?”. Vì thế, bỏ lại sau lưng cung
vàng điện ngọc, vợ đẹp con xinh, rời cả phụ vương già yếu và di
mẫu kính yêu, Ngài vượt thành xuất gia, mong tìm đạo để cứu mình
giúp đời.
Trở
thành Samôn Cù Ðàm, Ngài tu học với các vị tiên nhơn, đạt các mức
thiền định Không Vô biên xứ, Thức Vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi
tưởng phi phi tưởng xứ, là những tầng thiền cao nhất lúc bấy giờ.
Nhưng Ngài chưa thỏa mãn với các trạng thái tâm chứng ấy, vì chúng
chưa giúp Ngài giải quyết hoàn toàn những vấn đề dằn vặt từ lâu.
Cùng với năm anh em Kiều Trần Như, Ngài thực hành pháp tu khổ
hạnh, tinh chuyên đến độ thân hình chỉ còn da bọc xương. Ròng rã
sáu năm trời, thể xác kiệt quệ, tinh thần u ám, Ngài vẫn không tìm
ra lối thoát.
Bằng
kinh nghiệm thất bại của bản thân, Sa-môn Cù Ðàm đã nhận ra rằng:
Ở cực đoan thứ nhất, đời sống lợi dưỡng và cám dỗ của ngũ dục
thường làm con người trở nên yếu hèn nhu nhược, làm cản ngăn tiến
bộ đạo đức tâm linh. Ở cực đoan thứ hai, quá khổ hạnh ép xác làm
thân thể hao mòn, sinh nhiều bệnh tật, ảnh hưởng không tốt đến
tinh thần. Thân và tâm là hai thành tố liên hệ chặt chẽ với nhau
trong một cơ thể con người. Nếu ăn uống điều độ, vận động hợp lý,
sức khỏe sẽ tăng tiến, tinh thần sáng suốt và tâm dễ an định khi
tọa thiền. Ngài nhớ ngày theo phụ vương dự lễ hạ điền, năm mới
chín tuổi. Nhìn thấy những con giun đất quằn quại dưới lưỡi cày,
lại bị chim sà xuống tha đi, Thái tử buồn bã đến ngồi dưới gốc cây
hồng táo, chiêm nghiệm về sự cạnh tranh sinh tồn và lẽ vô thường
của vạn vật. Trầm tư quán tưởng một thời gian kháù lâu, quên hết
quang cảnh chung quanh, vị Thái tử chín tuổi đã chứng được Sơ
thiền không mấy khó khăn. Trạng thái này, Ngài đã không tìm lại
được trong sáu năm đày đọa thân xác, chứng tỏ phép tu khổ hạnh
không đem lại kết quả thiết thực cho đời tu của Ngài. Vì thế, Ngài
quyết định theo con đường trung đạo: Ăn uống ngủ nghỉ vừa phải
theo nhu cầu tối thiểu của bản thân, đồng thời nỗ lực công phu
thiền tập. Ngài tự mình làm thầy cho chính mình, sử dụng niềm an
lạc do thiền định đưa đến làm thức ăn cho thân tâm.
Nhờ
quyết định đúng đắn này, Samôn Cù Ðàm lấy lại được sức khỏe cho
thân xác và sự minh mẫn cho tinh thần. Ngài dành hết thì giờ và
tâm trí vào việc hạ thủ công phu, tọa thiền dưới gốc cổ thụ liên
tiếp trong 49 ngày đêm ròng rã, sau lời thề nguyền sấm sét: “Ta
ngồi nơi đây gia tâm thiền định, dù thịt nát xương tan, nếu chưa
chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ta quyết không rời
khỏi chỗ này”.
Ðầu
tiên Ngài chú tâm vào hơi thở, trong trạng thái giác quán (tầm
tứ), Ngài lìa cả năm dục. Tâm lần lần an định và phát sinh niềm
vui như đã đạt được trong buổi lễ hạ điền thuở trước. Ðây là mức
Sơ thiền, Ly sanh hỉ lạc, do lìa sự tham đắm ngũ dục nên được niềm
hỷ lạc trong thiền định. Tiếp tục bám sát hơi thở, đi sâu vào hơi
thở, Ngài đẩy lui tầm tứ. Tâm thanh tịnh trong mức định sâu, phát
khởi niềm vui vô biên của Nhị thiền, Ðịnh sanh hỷ lạc. Vào định
sâu hơn, Ngài nhận rõ rằng, niềm vui của thiền định ở những bước
đầu, tuy thù thắng hơn cái vui trần thế, nhưng nếu chấp trước vào
đó sẽ là chướng ngại trong công phu. Cho nên, Ngài buông xả cái
vui thô ấy, tiếp tục đi sâu vào cảnh giới thanh tịnh, hưởng được
cảm giác diệu lạc là niềm vui vi tế của Tam thiền, tức Ly hỷ diệu
lạc. Ðến khi thân tâm và hơi thở hòa nhập trong trạng thái nhất
như, Ngài buông xả hoàn toàn mọi ý niệm thế gian và cả những niềm
vui xuất thế. Ðược nhất tâm thanh tịnh, Ngài chứng tứ thiền là Xả
niệm thanh tịnh.
Bốn
cảnh giới từ Sơ thiền đến Tứ thiền, tuy là kết quả dành cho những
hành giả thoát ly ngũ dục và chuyên tu thiền định, nhưng vẫn còn
thuộc cõi trời Sắc giới, chưa thoát khỏi luân hồi. Chưa đạt đến ý
nguyện, Samôn Cù Ðàm vẫn kiên trì thiền định dưới cội cây Tất Bát
La ngày này qua ngày khác, dùng ánh sáng chánh niệm chiếu soi thân
tâm và toàn thể vũ trụ. Ðến đêm thứ 49, đêm cuối cùng của chặng
đường tìm đạo, sự kiên nhẫn phi thường và ý chí xung thiên của
Ngài đã được đền bù xứng đáng. Vào cuối canh ba, do chánh niệm
sung mãn đưa đến định lực mạnh mẽ và trí huệ siêu xuất, Ngài thấy
rõ những kiếp sống đã qua của mình trong vô lượng kiếp. Ðây là tuệ
giác đầu tiên trong đêm thành đạo, gọi là Túc mạng minh. Ðến cuối
canh tư, Ngài thấy tất cả chúng sanh trong khắp pháp giới, sau khi
bỏ thân này lại theo nghiệp thọ sanh nơi khác, mãi mãi không cùng
tận. Cái thấy này là Thiên nhãn minh hay Sanh tử trí, diệu dụng
của bản tâm thanh tịnh hằng giác hằng tri.
Vì
sao Sa-môn Cù Ðàm thấy rõ những kiếp quá khứ của mình và của chúng
sanh từ vô thủy, vượt xa tất cả những bậc đạo sư đương thời?
Khi
hồ nước đục ngầu, người đứng trên bờ không thấy gì ở dưới đáy hồ;
nhưng khi nước hồ trong vắt, tất cả động thực vật dưới ấy đều hiện
rõ. Hồ tâm của chúng sanh bị bụi phiền não tham sân si làm vẩn
đục, chỉ nhận được hiện tượng trước mắt và một phần nhỏ cảnh đời
đã qua của bản thân mình. Khi phiền não nhiễm nhơ dứt sạch, hồ tâm
trong sáng, hành giả thấy rõ ràng những sự kiện xảy ra từ vô lượng
kiếp quá khứ, không những của chính mình mà còn của toàn thể vũ
trụ và chúng sanh. Tâm của Ngài nhuần nhuyễn tịch lặng, cái thấy
của Ngài là do trực giác phóng xuất, nên không có gì ngăn ngại,
siêu vượt cả thời gian và không gian.
Tiếp
tục lặn sâu vào các cõi miền của tâm thức để khám phá hết những bí
mật ngàn đời của tự thân và vạn pháp, Sa-môn Cù Ðàm thoát khỏi Dục
lậu, Hữu lậu và Vô minh lậu, phá tan ngục tù vô minh tăm tối, quét
sạch tận cùng những phiền não lậu hoặc. Ánh sáng bừng lên, ngôi
nhà lập tức thoát khỏi bóng đêm vĩnh kiếp; ánh sáng giác ngộ chiếu
soi cùng khắp pháp giới, Ngài vĩnh viễn thoát khỏi phiền não vô
minh, vĩnh thoát sinh tử luân hồi! thành tựu Viên mãn giác, chứng
Lậu tận minh, Sa-môn Cù Ðàm thành Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, bậc
Chánh đẳng giác trên tất cả trời người và các đạo sư ngoại đạo.
Bấy giờ là cuối canh năm, lúc sao Mai vừa mọc, năm Ngài được 35
tuổi.
Trở
thành Bậc Giác ngộ, Ngài đã giải đáp được ba vấn đề trọng đại về
sinh tử đeo đẳng Ngài suốt bao nhiêu năm. Ðây là khúc ca khải hoàn
của một người vừa đạt được chiến công oanh liệt nhất - tự chiến
thắng chính mình: “Ta đã được giải thoát, sanh đã tận, phạm hạnh
đã thành, việc làm đã xong, đã đặt gánh nặng xuống, không còn trở
lui trạng thái này nữa. Như vậy, ta là Phật!” Vì không còn dính
mắc với sáu trần, tâm không khởi niệm khi đối duyên xúc cảnh, nên
ngài không còn tạo nghiệp để quẩn quanh trong vòng sanh tử. Tâm đã
sạch phiền não lậu hoặc, không còn chấp ngã và ngã sở, công phu
của Ngài đến đây đã hoàn tất và không bao giờ còn bị vô minh che
mờ tự tánh hằng tri hằng giác. Do sự giác ngộ của Ngài đã viên mãn
và tột cùng, nên Ngài là Phật !
Ðức
Phật lại nói: “Pháp này do ta chứng được thật là sâu kín, khó thấy
khó chứng, tịch tịnh cao thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ người
có trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này thì ưa ái dục, khoái ái
dục, ham thích ái dục, thật khó thấy được định lý Y tánh duyên
khởi pháp, thật khó thấy được định lý tất cả hành là tịch tịnh,
tất cả sanh y (ngũ uẩn) được trừ bỏ, ái được đoạn tận, ly dục, ái
diệt, Niết Bàn”. Nếu không có công phu thiền tập, không có những
giây phút trong trạng thái yên ổn vô tâm, ta sẽ không hiểu nổi
trạng thái tâm chứng của Ðức Phật. Chúng sanh mãi dong ruổi theo
trần cảnh, ham thích ái dục nên bị nghiệp lôi dẫn, không thể nào
thấy được định lý Y tánh duyên khởi pháp. Nhìn một cành hoa bằng
chánh niệm, ta thấy hoa do nhiều duyên hợp lại mà thành: hạt
giống, đất, nước, ánh sáng mặt trời..., nên nó là một pháp do
duyên khởi. Hoa còn duyên thì nở, hết duyên lại tàn. Nhưng dù tàn
hay nở, hoa vẫn không ngoài tự tánh chân như bất động. Các pháp
đều từ tự tánh bất sinh ấy mà sinh ra, từ tự tánh bất diệt ấy mà
diệt đi. Pháp có sinh có diệt, nhưng tự tánh của các pháp chưa
từng sinh diệt bao giờ. Tự tánh của các pháp là không, vì duyên
hợp nên tạm có, nên Sắc tức thị không - tinh thần của Bát Nhã. Và
vì các pháp hiện khởi từ tự tánh không, nên gọi là Y tánh duyên
khởi pháp.
Vì
sao “tất cả hành là tịch tịnh?” Các pháp luôn luôn biến đổi không
ngừng nên gọi là hành. Nhưng trong dòng luân lưu bất tận ấy, trong
cái sinh diệt vô thường ấy vẫn có một sát na bất động vĩnh hằng,
vẫn có cái chân thường hằng hữu. Các pháp dù đang sinh, vẫn không
ra khỏi thể bất sinh; dù đang diệt vẫn không ngoài thể bất diệt.
Các pháp trùng trùng duyên khởi, nhưng từ chỗ phi duyên mà khởi
các duyên, từ chỗ không mà thành có tướng. Ðây là điều rất sâu xa
huyền diệu và khó tin khó hiểu, chúng ta phải lắng sâu tâm thức,
an định trong thiền mới có thể nhận được đôi phần.
Ðức
Phật là bậc vô sư tự ngộ. Ngài đã từng bảo, Ngài thành tựu đạo quả
là do tự mình nỗ lực chứ không có thầy, càng không có một đấng
quyền năng nào giúp đỡ. Tinh thần tự lực của đạo Phật là một đặc
điểm hiếm có trong các tôn giáo, chứng tỏ những gì Phật dạy đều từ
chỗ Ngài thấy được, chứng được trong đêm thành đạo, chứ không do
suy diễn ước đoán. Khi tâm luôn an trú trong giờ phút hiện tại,
nhận biết mọi sự vật hiện tượng như chúng đang là, không khởi một
niệm phân tích hai bên (có - không, đẹp - xấu...), chúng ta sẽ có
cái thấy, cái biết như thật mà Ðức Phật gọi là Như thị tri - Như
thị kiến. Giác ngộ chính là lãnh hội thực tại bằng trực giác,
không qua trung gian suy luận phân biệt nhị biên; chính là kết quả
công phu nỗ lực tự thân, chứ không phải và không thể là sự ban ơn
của thần linh hay của chư Phật Bồ Tát.
Vậy,
học đạo là học những gì? Hành đạo, chứng đạo là hành và chứng được
gì? Ðức Phật trong suốt 49 ngày đêm, chỉ một bề chánh niệm tỉnh
giác soi rọi tất cả mọi ngõ ngách sâu thẳm của tâm, và quán niệm
tất cả những hiện tượng thành hoại sinh diệt của toàn thể vũ trụ
vạn pháp. Nội dung của chánh niệm là không để tâm dong ruổi về quá
khứ hay theo đuổi tương lai, mà luôn an trú vào hiện tại. Khi tâm
an định, bất động nơi đương xứ, một lúc nào đó ta sẽ chợt nhận ra
rằng: Học đạo là học nơi tâm, hành đạo và chứng đạo cũng ở nơi tâm
chứ không đâu khác. Ta cũng chợt nhận ra sát na bất động vĩnh cửu
chứa đựng muôn kiếp sinh diệt, một hạt bụi dung nhiếp tam thiên
đại thiên thế giới. Sát na và hạt bụi ấy chỉ có mặt nơi đương xứ -
tại đây và bây giờ. Nếu không có chánh niệm, nếu tâm không có mặt
ở thời điểm tại-đây-và-bây-giờ, thì không đạo có thể học, không
đạo có thể hành, không đạo có thể chứng. Ðây là điều thiết yếu và
cốt lõi của sự tu hành.
Nhân
ngày thành đạo của đức Bổn Sư, chúng ta noi theo gương Ngài, tự
mình thắp sáng ngọn đèn chánh niệm để thấy biết như thật mọi hiện
tượng sinh diệt của thân tâm và cảnh, từ đó nhận ra và sống với
bảm tâm thanh tịnh thường nhiên của chính mình. Có trí tuệ, tự
nhiên sẽ có tình thương bình đẳng đối với muôn loài chúng sanh,
chúng ta sẽ phát nguyện noi theo gương Ngài, đem chánh pháp làm
lợi ích quần sanh. Có trí huệ tất có từ bi, sau đó phát sinh hạnh
nguyện: ba đức tính này làm nên nhân cách của một bậc giác ngộ.
Khi tự giác - giác tha - giác hạnh đều viên mãn, bậc giác ngộ được
tôn xưng là Phật - Thế Tôn, và ngày thành đạo là dấu ấn quan trọng
nhất trong đời tu của các Ngài. Nếu chưa thành tựu đạo quả, các
Ngài chưa là Phật, chúng sanh cũng chưa thấm nhuần được ơn pháp
vũ. Cho nên có thể nói, không có ngày thành đạo thì không có Phật,
không có chánh pháp, không có chư Tăng Ni nối truyền mạng mạch
Phật pháp, cũng không có hàng Phật tử. Chúng ta chú trọng đến Tam
Bảo, đến sự hưng thịnh của đạo Phật thì thiết nghĩ, cần xem ngày
Ðức Phật thành đạo là ngày lễ lớn - nếu không muốn nói là ngày lễ
lớn nhất - trong tất cả các ngày kỷ niệm của tôn giáo chúng ta.
“Như
hoa sen đẹp đẽ và dễ thương không ô nhiễm bùn nhơ nước đục, giữa
chốn bụi trần Ta không vướng chút bợn nhơ. Như vậy, Ta là Phật”.
Ðây là khúc ca khải hoàn của một người vừa chiến thắng trận cuối
cùng trong cuộc trường chinh gian khổ, chiến đấu với kẻ thù phiền
não ngay trong chính bản thân mình.
Ðể
có một ngày vang lên khúc ca lịch sử ấy, Ðức Bổn Sư của chúng ta
đã phải trải qua sáu năm ròng rã nỗ lực công phu, không có một sự
hỗ trợ nào bên ngoài, không một năng lực siêu phàm nào ban phước.
Ðến khi sức cùng lực kiệt, Ngài hiểu rằng con đường mình đã theo
những người đi trước không giải đáp được vấn nạn lớn của đời mình,
là thoát ly sinh tử. Ngài quyết định tự mình làm thầy cho chính
mình, tự tìm cho mình một lối đi riêng. Sau khi dùng món ăn gồm
gạo và sữa do nữ thí chủ Sujàtà dâng cúng, sức khoẻ phục hồi. Ngài
trải qua bốn mươi chín ngày đêm hành trì dưới cội cây Tất Bát La
bên bờ sông Ni Liên Thuyền, cuối cùng thành tựu đạo quả vô thượng.
Nhân
kỷ niệm ngày thành đạo của Ðức Bổn Sư, chúng ta sẽ đi theo dấu
chân Ngài qua bảy tuần công phu ấy. Dĩ nhiên, đây chỉ là sự khảo
sát bên ngoài, còn những biến chuyển trong nội tâm Ngài thì làm
sao ta có thể hiểu thấu, như Kinh Lăng Già đã nói: “Cảnh giới tự
chứng của trí tuệ bậc Thánh, hàng phàm phu và Nhị thừa không thể
với đến được”.Tuy vậy, những gì gặt hái được khi tìm hiểu về con
đường tìm đạo và chứng đạo của Ngài, là những điểm sáng trọng yếu
để chúng ta noi theo trên bước đường tu tập.
1-Tuần thứ nhất:
Suốt
bảy ngày đêm, Ðức Bổn Sư ngồi bất động dưới cội cây Tất Bát La,
chứng nghiệm hạnh phúc siêu thoát. Một điều trong kinh không ghi
rõ, hạnh phúc này thuộc tầng thiền định nào trong Tứ Thiền Bát
Ðịnh. Ðến đêm cuối cùng, Ngài xuất thiền, ngồi suy niệm về mười
hai nhân duyên theo hai chiều thuận nghịch.
Suy
niệm theo chiều thuận, Ngài giải đáp được câu hỏi:“Vì sao có sanh
tử luân hồi?”. Do chúng sinh vô minh nên có hành nghiệp; không
biết tất cả các pháp đều là duyên hợp không thật có, nên khi tiếp
duyên xúc cảnh luôn sanh thức tâm phân biệt. Lúc lìa đời, theo
nghiệp thọ sanh vào bào thai gọi là danh sắc, bắt đầu một kiếp
khác. Con người khi sinh ra đã có đủ sáu căn (lục nhập), tiếp xúc
với sáu trần và dính mắc nên sinh những cảm giác (xúc sanh thọ).
Có cảm thọ tất có ái luyến đam mê, từ đó sanh tâm chấp thủ và muốn
chiếm hữu. Hữu là điều kiện thọ sanh trong ba cõi nên gọi là Dục
hữu, Sắc hữu, và vô sắc hữu, tạo nghiệp và lại theo nghiệp tiếp
tục vào vòng sanh tử (sanh). Có sanh lại có già chết (lão tử). Cứ
thế luân chuyển mãi không dừng. Toàn bộ sự đau khổ của thế gian
sanh khởi theo phương thức ấy, yếu tố trước là nguyên nhân của yếu
tố sau.
Muốn
đoạn trừ đau khổ ấy, phải đoạn trừ nguyên nhân. Suy niệm theo
chiều nghịch, Ngài thấy rõ rằng, nếu Vô minh diệt thì Hành diệt.
Tương tự cho các yếu tố khác, cho đến Sanh diệt thì Lão tử diệt;
nếu chặt đứt một mắc xích trong mười hai nhân duyên thì chấm dứt
luân hồi. Ngài đã trả lời câu hỏi thứ hai “Làm thế nào giải thoát
sanh tử?”. Từ đó những phương pháp công phu trong Ðạo Phật đều có
mục đích cuối cùng là giải thoát, và căn bản trên sự đoạn trừ một
trong những mắc xích quan trọng: hoặc đoạn trừ Vô minh, tức giác
ngộ bản tâm thanh tịnh; hoặc đoạn trừ vọng tưởng tức Hành diệt thì
Thức diệt, không còn tạo nghiệp; hoặc đoạn tận Tham ái thì Thủ Hữu
không còn...
Chấm
dứt tuần đầu tiên, Ðức Bổn Sư thấu triệt Lý Duyên Sinh, tức Tánh
Không theo tinh thần Bát Nhã hay Lý Trùng Trùng Duyên Khởi theo
tinh thần Hoa Nghiêm. Ngài tóm tắt bằng bốn câu kệ, nghĩa như sau:
Cái này có thì cái
kia có
Cái này không thì
cái kia không.
Cái này sanh thì
cái kia sanh
Cái này diệt thì
cái kia diệt.
2-
Tuần thứ hai:
Trong tuần này, Ðức Bổn Sư không toạ
thiền, Ngài đứng ra xa, lặng yên nhìn cây Tất Bát La không chớp
mắt.
Tư
thế đứng lặng yên, nhìn mãi cái cây đã che mưa đỡ nắng cho Ngài,
là một hình ảnh rất cảm động và có ý nghĩa giáo dục sâu xa. Bài
học thứ nhất là một bài học luân lý sinh động về lòng biết ơn và
đền ơn. Ðối với loài vô tình đã trợ duyên cho Ngài tu tập, Ngài
còn tỏ lòng tri ân như thế, huống chi giữa người với người, sao
không thể cư xử tốt đẹp có tình có nghĩa cùng nhau? Nếu không có
đạo đức làm người, thì làm sao nghĩ đến chuyện thành Phật tác Tổ?
Bài
học thứ hai, một người đã chứng nghiệm hạnh phúc xuất thế vẫn
không lãng quên thế giới hiện thực, không phá hoại các pháp thế
gian. Những bậc ngộ đạo vẫn ở trong cuộc đời nhiêu ích quần sanh,
vẫn toả sáng cho đời bằng nhân cách cao cả, bằng trí tuệ siêu xuất
và bằng đạo đức tuyệt vời của mình. Bởi vì, “Thật tế lý dịa bất
thọ nhất trần, Vạn hạnh môn trung bất xả nhất pháp”, đối với chân
lý tuyệt đối thì không thọ một mảy trần, nhưng trong muôn hạnh cứu
độ chúng sanh thì không bỏ một pháp nào.
Về sau, vua A Dục đã cho xây tại đây
một cái tháp kỷ niệm. Từ cây Tất Bát La này, nhiều nơi trên thế
giới đã đem giống về trồng để tỏ lòng tôn kính chiêm ngưỡng. Noi
gương Ðức Bổn Sư, những hàng môn đệ của Ngài nếu ngồi nghỉ dưới
một bóng cây, trước khi đi phải biết ơn cái cây đã cho mình bóng
mát.
3-Tuần thứ ba:
Chư
Thiên quan sát thấy Ðức Bổn Sư vẫn còn ở dưới cội cây. Các vị
không thể hiểu thấu tâm lượng của một Bậc giác ngộ, nên khởi tâm
nghi: “Chẳng biết Bồ Tát đã chứng đạt quả vị tột cùng chưa?”.
Ðức Bổn Sư lúc bấy giờ đã có thần
thông, biết rõ tâm niệm của chư Thiên, nên biến hoá một con đường
bằng ngọc báu trãi dài trên không trung, Ngài đi kinh hành trên
con đường đó trong suốt tuần lễ. Chư Thiên vô cùng vui mừng, mưa
hoa cúng dường, nhạc trời trổi lên tán thán ca ngợi Ngài không
dứt.
4-Tuần thứ tư:
Ngài bắt đầu suy niệm về những điểm
sâu mầu tinh tế của Tạng Luận, giáo lý vi diệu cao siêu của chư
Phật ba đời.
Nhìn
theo khía cạnh lịch sử, Ðức Phật Thích Ca thành đạo cách đây trên
hai mươi lăm thế kỷ. Nhưng đứng về phương diện tâm chứng, Ngài tu
Bồ tát đạo hành Bồ tát hạnh đã ba A-tăng-kỳ-kiếp. Do vậy, giáo lý
của Ngài đã cao tột, tất cả Tạng Luận Ngài đều thông hiểu và nhớ
rõ không sai sót một điều. Lúc này Ngài lắng sâu tâm thức, chiêm
nghiệm đến tận những chỗ thâm sâu tột cùng của giáo lý; và khi suy
niệm về Lý Nhân Quả Tương Quan, quyển thứ bảy của Tạng Luận, tâm
Ngài trở nên hoàn toàn thanh tịnh. Ngay khi ấy toàn thân Ngài phát
hào quang rực rỡ sáng chói với sáu màu: xanh dương, vàng, đỏ,
trắng, cam và một màu đặc biệt gồm năm màu trên pha lẫn lại.
5-Tuần thứ năm:
Trong tuần này, Ðức Bổn Sư lại toạ
thiền dưới cội cây và chứng nghiệm hạnh phúc giải thoát siêu thế.
Vào ngày thứ bảy, một vị Bà La Môn ngã mạn đến hỏi Ngài:
-
Này Tôn giả Cồ Ðàm, thế nào là một bậc Thánh nhân? Những điều kiện
nào làm ta trở thành bậc Thánh nhân?
Ngài
bình thản đáp:
-
Người nào xa lánh tất cả những điều xấu xa tội lỗi, không có tâm
ngã mạn, đã thanh lọc mọi ô nhiễm, thu phục sáu căn, thông suốt
mọi pháp học, chân chánh sống đời phạm hạnh, người ấy được tôn là
bậc Thánh nhân, người ấy không còn sự bồng bột, dù ở bất cứ nơi
nào trên thế gian.
Ðiều
kiện trở thành Thánh nhân, trước tiên là phải tránh xa những điều
bất thiện tội lỗi làm hại cho mình và cho người. Năm giới không
sát- không đạo - không dâm- không vọng- không tửu, dành cho hàng
cư sĩ tại gia chính là bước đầu căn bản của đạo đức làm người;
cũng nhân ý nghĩa xa lánh mọi điều xấu xa bất thiện. Hai điều kiện
đặc biệt trong lời dạy của Ðức Bổn Sư là thu phục sáu căn và không
còn sự bồng bột. Con người chúng ta, khi thấy sắc liền khởi niệm
phân biệt đẹp xấu, tai nghe tiếng liền có ý khen chê hay dở ...
Những ý niệm phân biệt ấy dẫn dắt chúng ta tạo nghiệp, quẩn quanh
trong sinh tử. Cho nên, sáu căn dính mắc sáu trần là nhân trầm
luân nơi ba cõi; nếu các căn vẫn tiếp xúc với trần cảnh mà không
khởi ý phân biệt, ấy là nhân giải thoát. Thánh nhân thu phục sáu
căn không phải quay lưng với trần tục, các Ngài vẫn đối duyên xúc
cảnh mà luôn an nhiên tự tại.
Vua
Trần Nhân Tông có bài kệ:
Niên thiếu hà tằng
liễu sắc không,
Nhất xuân tâm sự
bách hoa trung.
Như kim khám phá
Ðông hoàng diện,
Thiền bản đồ đoàn
khán truỵ hồng.
Nghĩa:
Thuở bé chưa từng
rõ sắc không,
Xuân về hoa nở rộn
trong lòng.
Chúa xuân nay bị
ta khám phá,
Chiếu trải giường
Thiền ngắm cánh hồng.
Thời niên thiếu bồng bột, chạy theo
cảnh sắc âm thanh bên ngoài, nên khi xuân về, ai cũng thấy lòng
rộn rã. Bậc Thánh nhân thấu rõ lý Ðạo, tâm bất động an nhiên trước
mọi thăng trầm thịnh suy của cuộc sống. Vì thế, dù hoa nở hay tàn
phai, “chúa xuân” vẫn vĩnh viễn thường còn.
6-Tuần thứ sáu:
Trời
bỗng nhiên tối sầm, giông bão nổi lên dữ dội, mưa trút xuống như
thác. Ðức Bổn Sư vẫn ngồi tĩnh toạ, thể nhập tự tánh thanh tịnh
bản lai.
Ngay
lúc ấy, Mãng Xà Vương Mucalinda xuất hiện, dùng thân quấn quanh
Ngài bảy vòng, rồi dùng đầu làm mái che mưa cho Ngài. Nhờ thế,
toàn thân Ngài đều được khô ráo ấm áp. Cuối tuần, trời lại quang
đãng. Mãng Xà Vương tháo mình trở ra, hoá thành một thanh niên
đứng chắp tay cung kính hầu Ngài.
Ðức
Bổn Sư đọc bài kệ:
Hạnh phúc cho
người đã tiếp cận chân lý, biết tri túc, sống ẩn dật.
Hạnh phúc cho
người có tâm thiện lành, nhu nhuyến với mọi chúng sinh.
Hạnh phúc cho
người vượt thoát mọi tham dục thế gian.
Hạnh phúc tối thượng cho người phá
được ngã chấp.
7-
Tuần thứ bảy:
Tuần
lễ quyết định này, Ðức Bổn Sư chứng nghiệm Quả phúc siêu thoát,
tức hạnh phúc của một Bậc Ðại Giác ngộ đã thành tựu quả vị Phật.
Cảnh giới này thật vô cùng siêu tuyệt, hạnh phúc này thật vô lượng
vô biên, không có một trí tuệ nào - kể cả trí tuệ của các hàng Bồ
Tát mà có thể suy lường nổi.
Trong đêm mùng 8 tháng chạp, đêm thành đạo của Ðức Phật, kinh chép
lại rằng: Vào canh ba, Ngài chứng Túc mạng minh, nhớ lại vô số
kiếp trước của mình một cách rõ ràng như nhớ chuyện hôm qua. Canh
tư, Ngài chứng Thiên nhãn minh, thấy muôn loài chúng sinh chết đây
sanh kia, lên xuống trong luân hồi lục đạo, rành mạch như người
đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường. Ðến canh năm, khi sao
Mai vừa mọc, Ngài chứng Lậu tận minh, hoàn toàn dứt sạch lậu hoặc
vô minh, thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni, Ðấng Tôn Sư của trời
người.
Và
đây là một trong những Phật ngôn đầu tiên, một bài ca chiến thắng
được tấu lên vào đêm huyền diệu ấy: “Ta lang thang trong vòng luân
hồi qua bao kiếp sống, tìm mãi mà chẳng gặp kẻ làm nhà. Khổ thay
kiếp sống cứ tái diễn mãi! Này hởi kẻ làm nhà kia! Nay ta đã thấy
ngươi rồi. Từ đây ngươi không thể làm nhà nữa. Ðòn tay ngươi đã bị
gãy, sườn nhà bị rã tan. Tâm ta đã tịch diệt hết các hành, tất cả
ái dục đều dứt sạch”. “Kẻ xây nhà” ngũ uẩn là ái dục, ái là sự yêu
thích ở cõi Sắc và Vô sắc, có tính cách tế vi; Dục là sự ham muốn
thô phù ở cõi dục. Chúng sinh do ái dục nên tạo nghiệp, quẩn quanh
trong sanh tử. “Ðòn tay” là Vô minh, “sườn nhà” là những phiền não
vi tế. Tất cả phiền não vô minh đều tận diệt, tất cả ái dục đều
đoạn trừ. Ngài triệt ngộ các hành Vô thường và các pháp Vô ngã,
chứng nhập Niết bàn thường trụ.
Như
vậy, Ðức Phật đã đạt đỉnh cao của trí ruệ xuất thế sau 49 ngày
công phu thiền định, nổ lực tự tu. Và bằng trí tuệ siêu xuất ấy,
Ngài đã truyền dạy cho đời rất nhiều phương pháp tu tập, tùy trình
độ và căn cơ của mỗi người, tựu trung chỉ nhằm một mục đích duy
nhất là ngộ nhập thể tánh bất sanh sẵn đủ. Cuộc đời của Ðức Phật,
từ lúc đản sanh đến khi thành đạo,là một tấm gương sáng tuyệt vời
về trí tuệ, nhân cách và đạo đức. “Ngài đã tạo dựng một hệ thống
triết thuyết vô cùng thâm sâu diệu mầu. Ngài là kết tinh của người
thiện trí, bởi vì đứng trên phương diện tri thức, đạo đức và tính
minh triết, chắc chắn Ngài là một trong những vĩ nhân cao thượng
nhất lịch sử”. Những lời tán thán như trên thật vô cùng tận, nhưng
ngôn từ nào diễn tả được lòng tôn kính ngưỡng vọng của chúng ta
đối với Ðấng Từ Phụ cao cả?
Ngày
Ðức Phật thành đạo là một ngày rất quan trọng đối với những người
con Phật, vì đó là ngày đánh dấu sự xuất hiện của Phật pháp trên
thế gian. Chúng ta kỷ niệm ngày này để chiêm nghiệm về con đường
tu tập của Ðức Phật, để nhớ nghĩ đến ý chí siêu tuyệt và nhân cách
vĩ đại của Ngài, để noi theo gương Ngài vững bước trên con đường
tu nhiều chông gai thử thách. Mong rằng tất cả chúng ta, bằng nổ
lực tự thân và lòng tin kiên định, sẽ có một ngày trọng đại như
thế trong đời.
Hơn
hai mươi lăm thế kỷ đã trôi qua, kể từ thời điểm trọng đại đánh
dấu chiến công lẫy lừng nhất trong lịch sử nhân loại. Môït con
người bình thường, qua quá trình chiến đấu với bản thân, đã tự
mình vượt thoát vòng kiềm toả của luân hồi sinh tử. Lời tuyên bố
đầu tiên của Ngài vào thời điểm ấy vẫn còn vang vọng cho đến ngày
nay và mãi mãi về sau, như một khúc ca khải hoàn chấm dứt cuộc
trường chinh bất tận chống giặc vô minh phiền não, đưa một người
từ thân phận chúng sinh lên địa vị một Ðấng siêu nhân, bậc Thầy
của Trời người. Cũng từ thời điểm ấy, Sa môn Cồ Ðàm được thế gian
tôn xưng là Ðức Phật - Bậc Giác ngộ tối thượng. Sự giác ngộ viên
mãn, vĩnh thoát sinh tử được gọi là Sự thành đạo; và đêm cuối cùng
dưới cội Tất–bát–la sau 49 ngày thiền định của Ngài, là Ðêm thành
đạo.
Phải
chăng suốt nhiều năm ròng rã trải qua biết bao khổ nhọc, Sa môn Cồ
Ðàm đã hướng về một cái đạo để tìm để học, và sau cùng có một cái
đạo để chứng để thành? Ðạo ấy từ đâu mà có, học từ đâu mà thành?
Hiểu cặn kẽ điều này, chúng ta sẽ rõ ý nghĩa cao cả của sự tu
hành, từ đó vững lòng tin vượt mọi gian nan thử thách, mạnh tiến
trên đường tu.
Những vấn nạn không thể giải đáp thôi thúc Thái tử Sĩ-Ðạt-Ta vượt
thành xuất gia, tựu trung gồm ba điều: “Con người từ đâu sinh ra?
Sau khi chết đi về đâu? Làm thế nào thoát khỏi luân hồi sinh tử?”.
Những năm dài đi nhiều nơi, học nhiều thầy, tu nhiều cách, cuối
cùng Ngài hiểu rằng, phải tìm lời giải ngay tự thân. Bằng ý chí
sắt đá và nỗ lực phi thường trong 49 ngày đêm, Ngài hoát nhiên đại
ngộ vào đêm cuối cùng. Mọi thắc mắc ưu tư về những vấn đề trọng
đại liên quan đến cuộc đời và con người, bỗng dưng được giải bày
minh bạch, như ánh sáng mặt trời xua tan bóng đêm muôn kiếp.
Vào
canh ba của đêm thành đạo, Sa-môn Cồ-Ðàm chứng Túc mạng minh. Ngài
nhớ vô lượng kiếp về trước, mình đã sinh ở đâu, chết như thế nào,
rõ ràng như nhớ chuyện hôm qua. Câu hỏi “Con người từ đâu sinh
ra?” đã có câu trả lời rằng, sự luân hồi là bất tận, đã diễn ra từ
vô thủy và tiếp tục đến vô chung. Vào canh tư, chứng Thiên nhãn
minh, Ngài thấy muôn loài chúng sinh chết đây sinh kia liên tục,
quẩn quanh trong ba cõi sáu đường, tùy nghiệp nhân đã tạo. Như thế
Ngài đã tự mình giải đáp câu hỏi thứ hai: “Sau khi chết đi về
đâu?”. Và đến canh năm khi sao Mai vừa mọc, Ngài chứng Lậu tận
minh, giải quyết được vấn nạn lớn nhất: “Làm sao thoát khỏi luân
hồi sinh tử?”
Trong suốt 45 năm hành đạo, Ðức Phật đã chỉ dạy cho môn đệ những
điều Ngài nhận biết bằng trí tuệ siêu xuất của mình. Lời Ngài
tuyên thuyết về nhân sinh quan và vũ trụ quan cách đây hơn 25 thế
kỷ, đến giờ vẫn còn tuyệt đối đúng đắn, dù khoa học đã tiến những
bước rất dài. Và khoa học càng tiến bộ, lại càng chứng minh những
lời phật dạy là chân lý muôn đời. Bởi vì, chân lý ấy không phải
được ức đoán nhờ trí hữu sư, ý thức hạn hẹp vay mượn của phàm phu
mà phát xuất từ trí tuệ vô sư của một bậc Ðại Thánh, người đã nhận
ra một cách thấu thể toàn bộ bản chất của mọi sự vật hiện tượng.
Bài
thuyết pháp đầu tiên của Ðức Phật tại Lộc Uyển là Tứ Ðế, trong đó
Khổ đế là nỗi khổ dai dẳng của kiếp người. Khổ do thân là sinh già
bệnh chết; khổ do tâm là thương yêu phải xa lìa, oán thù mà gặp
gỡ, mong cầu không như ý; và khổ do năm ấm lẫy lừng. Biết rõ cuộc
đời là khổ, biết nguyên nhân của khổ (Tập đế) là Tham sân si, con
người phải tìm cách thoát khổ. Quả an lạc giải thoát (Diệt đế) chỉ
được hưởng khi ta theo đúng những phương pháp đoạn tận khổ đau
(Ðạo đế). Khổ Tập Diệt Ðạo là bốn sự thật có giá trị vĩnh cữu nên
là chân lý muôn đời.
Một
khía cạnh khác được Ðức Phật thấu triệt và khởi xướng là Lý Duyên
Sinh. Không một pháp nào có hình tướng mà không do những yếu tố
khác tạo thành. Một hạt bụi nhỏ cũng là tập hợp của nhiều phân tử;
mỗi phân tử lại được cấu tạo bởi nhiều nguyên tử. Bản thân nguyên
tử cũng gồm có nhân cùng các điện tử, và khi chia chẻ đến cùng cực
thì chỉ là hư không. Con người,sinh linh tối thượng trong vũ trụ,
chỉ do tập hợp của các tế bào mà bản chất cũng gồm nhiều yếu tố vi
tế. Cuộc sống đáo cùng chỉ là sự vay trả. Mượn tứ đại bên ngoài để
nuôi dưỡng tứ đại bên trong; vay trả thông suốt thì khoẻ mạnh, vay
trả bị trở ngại thì ốm đau. Ngay cả những tư tưởng tình cảm mà lâu
nay ta nhận lầm là tâm mình, cũng chỉ như dợn nước ngoài nắng, như
hoa đốm trong hư không, đủ duyên thì hiện, hết duyên lại biến,
sinh sinh diệt diệt không dừng.
Như
vậy, cả thân tâm cảnh đều do duyên hợp không thật có. Vì không
thật có nên không có ta thật (ngã), không có gì thật là linh hồn
của ta (tự ngã) và những sở hữu của ta (ngã sở). Vô ngã là chân lý
tuyệt đối mà Ðức Phật là vị Giáo chủ duy nhất tuyên xướng, đã chỉ
ra sai lầm 62 kiến chấp của ngoại đạo thời bấy giờ.
Tuy
nhiên, chúng ta có thể tự hỏi: Nếu tất cả đều không thật, thì rốt
cuộc người tu sẽ đạt được những gì? Như Ðức Phật, bao năm khổ công
tìm đạo, rồi thành đạo giáo hoá trong 45 năm, cuối cùng thân xác
cũng trở về cát bụi; còn chăng, chỉ là những viên xá lợi làm chứng
tích cho đời sau chiêm bái. Hóa ra Ngài cũng chẳng khác gì muôn
loài chúng sinh, và sự tu hành cũng là uổng công vô ích?
Thật
ra, thân xác hữu hình chỉ là thân vay mượn, vì vay mượn nên tạm có
mặt trong một thời gian; còn Pháp Thân chân thật thì không hình
tướng, không đến đi, không bao giờ sinh diệt. Ðó là tánh giác, là
bản tâm, luôn sẵn đủ nơi mọi chúng sinh; nhưng vì chúng sinh mê
lầm, mãi quay cuồng theo thức tâm phân biệt, từ đó tạo nghiệp
thiện ác, quẩn quanh trong luân hồi ba cõi. Như vầng trăng sáng bị
mây đen che phủ, chúng sinh bị vọng tưởng chi phối nên tánh giác
không thể hiển bày. Nhưng dù khuất sau đám mây, mặt trăng vẫn luôn
hiện hữu; chúng sinh vô minh nhận lầm ý thức lăng xăng là mình,
quên đi tánh giác, nhưng tánh giác vẫn chưa bao giờ vắng thiếu.
Phật và chúng sinh bình đẳng ở tánh giác, chỉ khác nhau ở Ngộ (trở
về sống trọn vẹn với pháp thân) và mê (quên mất pháp thân, đuổi
theo ngoại cảnh) mà xa cách muôn trùng!
Tóm
lại, quá trình Sa–môn Cồ–Ðàm đi tìm đạo tức tìm lời giải đáp cho
những vấn nạn lớn của cuộc đời và con người. Lời giải đáp ấy chính
là lẽ thật, là chân lý muôn đời không thay đổi: Do mê tự tánh nên
chiụ khổ đau phiền não, nếu sống với tự tánh chân thường là giải
thoát. Ði tìm chân lý tuyệt đối này là “tìm đạo”, thấy được chân
lý là “ngộ đạo“ và hằng sống với chân lý ấy là “thành đạo“. Chân
lý không phải tìm cầu ở nơi đâu, ở người nào, mà là xoay lại soi
sáng chính mình, tìm con người thật bất sinh ở ngay thân năm uẩn
sinh diệt, tìm tự tánh chân thường hằng hữu ở ngay những biến động
vô thường.
Khi
nào bặt dứt những vọng niệm phân biệt hai bên, dù vẫn đối duyên
xúc cảnh, vẫn biết rõ ràng các pháp, ta sẽ thấy sự thật luôn dàn
trải trước mắt ta trong từng giây phút. Không lầm chạy theo các
pháp sinh diệt, không lầm chấp những vọngï tưởng đảo điên là tâm
mình, hiểu rõ những gì có hình tướng đều là duyên hợp hư giả,
chúng ta sẽ an nhiên trước mọi đổi thay của hoàn cảnh và của lòng
người. Chúng ta không nhọc công sức vun quén cho bản thân và gia
đình mà biết mở lòng ra, xem tất cả mọi người đều bình đẳng với
mình. Ðược như thế ta không thể nào nhẫn tâm hại người hại vật để
mưu cầu lợi ích riêng tư. Ta sẽ có cơ hội thưởng thức vẻ đẹp kỳ
diệu của thiên nhiên, ta sẽ biết mỗi loài đều có tiếng nói riêng
nhưng cùng chung mong muốn: Ðược bình an phúc lạc. Và đến một thời
điểm nào đó khi đủ thời tiết nhân duyên, ta đột nhiên nhận rõ bộ
mặt xưa nay của chính mình.
Cầu
chúc tất cả chúng ta đều sẽ có một thời điểm trọng đại như thế
trong đời!
Một.
Hai. Ba... Mười! Trọng tài đã dứt tiếng đếm mà người võ sĩ đang
nằm trên sàn đấu vẫn chưa gượng dậy được. Không khí sau phút lặng
yên nín thở, bỗng vỡ òa những tiếng vỗ tay, la hét, hoan nghênh
người võ sĩ vừa hạ gục đối thủ bằng cú nốc-ao (knock-out) sấm sét.
Người chiến thắng vui cười hỉ hả với đám đông cuồng nhiệt vây
quanh, kẻ bại trận thất thểu lê từng bước rời khỏi đấu trường!
. .
. Tiếng còi của trọng tài chính vang lên chấm dứt hiệp hai. Cả
khán đài như rung chuyển vì sự phấn khích của hơn bốn vạn khán
giả. Lá cờ của nước chiến thắng phần phật tung bay. Cả đội bóng và
huấn luyện viên đang công kênh chân sút chủ lực, người vừa mang về
bàn thắng vàng làm nên chiến thắng chung cuộc. Ống kính camera đưa
nhanh một vòng và dừng lại ở góc sân: hình ảnh cận cảnh của khuôn
mặt thủ môn đội bạn, người bắt hụt trái bóng quyết định. Những
giọt nước mắt hiếm hoi lăn trên đôi má dạn dày sương gió, làm
người xem cảm thấy thắt lòng!
. .
. Những thước phim đang kể lại một trận thắng lẫy lừng của Ðại
Hãn Mông Cổ. Trên chiến trường, thây người ngựa ngổn ngang. Có
những xác người chồng lên nhau, tựa đầu vào nhau trong giấc ngủ
ngàn năm thân ái, dường như hận thù không còn tồn tại ở thế giới
bên kia. Một ngọn cờ gãy cán cắm chơ vơ cạnh một bánh xe gỗ dính
máu nằm lăn lóc trên đất, lá cờ phất phơ trước làn gió lạnh lùng.
Ðại Hãn cưỡi con ngựa chiến lông đen mượt, đầu ngẫng cao, mặt rạng
rỡ. Người chiến thắng bằng vó ngựa trường chinh, đang nuôi mộng bá
chủ thiên hạ, xây dựng “sự nghiệp thiên thu” trên những xác người.
***
Trong thế giới nhị nguyên chúng ta đang sống, có thành tất nhiên
có bại, có người chiến thắng phải có kẻ thất trận. Bên cạnh bài ca
khải hoàn của người nầy, cũng có những giọt lệ chiến bại của người
kia. Niềm vui chiến thắng nào cũng được xây dựng trên sự đau khổ,
thậm chí trên tính mạng tài sản của kẻ khác. “Nhất tướng công
thành vạn cốt khô”. Một viên tướng sau trận công thành, hàng vạn
bộ xương khô sẽ là chứng nhân lịch sử.
Nhưng niềm vui chiến thắng có bền vững mãi không? Người thắng trận
có thật sự là người hạnh phúc?
Trong những cuộc so tài trên sàn đấu, trong vận động trường và cả
trong chiến trường, sự chiến thắng cũng chỉ có tính nhất thời.
Danh tiếng của người thắng trận chỉ tồn tại trong thời gian họ còn
duy trì được ngôi vị. Sau thời gian ấy, họ sẽ bị chìm vào quên
lãng, vì thay vào đó đã có những tên tuổi khác sáng chói hơn. Trên
trường chính trị càng khắc nghiệt hơn, chạy đua giành chiếc ghế
cao nhất nước là một cuộc thi vô cùng gian khổ. Bao nhiêu công
sức, tiền bạc, mưu trí đổ ra lúc vận động tranh cử; đến khi đắc cử
rồi, đâu phải được an hưởng vinh hoa phú quí, trái lại còn phải
làm việc cật lực, chịu bao điều tiếng khen chê của công luận. Ðể
rồi sau nhiệm kỳ ngắn ngủi 4-5 năm, nhìn lại chỉ còn le lói một
dấu vết của hào quang đang tàn lụi!
Như
vậy, những chiến công theo ý nghĩa thế tục đều được xây dựng trên
sự khổ đau - khổ đau cho người thua cuộc và cả cho người chiến
thắng. Bởi vì, mọi sự đấu tranh trên đời đều phát xuất từ lòng
tham: tham danh, tham lợi, tham sắc... Tham cho cá nhân mình, cho
người mình thương và cho tập thể mình đang sinh sống. Vì tham nên
không từ một thủ đoạn nào để dành phần thắng về mình, vì tham nên
khi đạt được điều mong muốn, lại ước muốn nhiều hơn. Ước vọng dần
dần được nuôi lớn nhờ những lần thành công, trở thành cao vọng, và
cuối cùng là cuồng vọng điên rồ. Thành-Cát-Tư-Hãn ở phương Ðông,
Napoléon và Hitler ở phương Tây là những nhân vật một thời lừng
lẫy, vì cuồng vọng bá chủ thiên hạ nên đành chịu chết thảm, lại
còn lưu xú vạn niên. Chưa nói đến những người chẳng hề bại trận
trước đối phương, lại không thể giữ mình trước ánh mắt mỹ nhân, để
đến nỗi thân bại danh liệt. “Nhất tiếu khuynh nhân thành, Tái tiếu
khuynh nhân quốc”. Nụ cười của người đẹp có thể làm nghiêng thành
đổ nước. Những thiên tình sử Trụ Vương - Ðắc Kỷ, Lữ Bố - Ðiêu
thuyền, César - Cléopâtre như những bài học về kẻ chiến thắng
người khác mà không tự thắng lòng tham của chính mình.
Cách
đây hai mươi lăm thế kỷ, có một vị Thái tử đang độ tuổi thanh
xuân, sống trong hạnh phúc cao sang, trong sự quý kính của triều
thần, đột nhiên vượt thành bỏ trốn. Dân chúng bàng hoàng, phụ
vương tuyệt vọng, người vợ trẻ biếng ăn bỏ ngủ, ôm con thơ làm
kiếp vọng phu. Có lẽ nào như thế? Thái tử là người tài đức vẹn
toàn, phong thái siêu tuyệt, văn võ hơn người. Ngay lần thi đấu
tại nước láng giềng, Ngài đã vượt qua bao nhiêu anh tài, trở thành
người xuất sắc nhất, được quốc vương ban gả cô công chúa cưng quý
của mình. Ngài đã thành công trên mọi lĩnh vực, đã hưởng thụ mọi
lạc thú trên đời; vậy Ngài còn mong cầu điều gì mà hy sinh tất cả,
một mình sống đời tu sĩ nơi rừng núi thâm u?
Chỉ
có Thái tử tự biết, mình chưa đúng nghĩa là Người chiến thắng.
Ngài không hiểu từ đâu mình sinh ra, lúc chết đi về đâu, tại sao
phải chịu cảnh sinh già bệnh chết, và có cách nào thoát khỏi vòng
sinh tử? Ðó là những câu hỏi lớn mà chỉ có Ngài mới biết đặt ra và
tự tìm lời giải đáp, vì trong sách vở, trong kiến thức Ngài thu
thập được từ những vị thầy lỗi lạc, không đâu có thể trả lời.
Trong những năm ròng rã tìm thầy học đạo, Thái tử - giờ thành
Sa-môn, đã nhiều phen chiến đấu với những chướng ngại bên ngoài và
bên trong thân tâm. Có lẽ nhiều phen Ngài nhìn lại đời mình, tự
hỏi việc làm của mình có đúng đắn không? Có lẽ một lúc nào đó, nỗi
đau khổ chưa tìm được hướng đi, đồng thời ùa đến, nhận chìm Ngài
trong cùng cực của tuyệt vọng. Sự đấu tranh nội tâm thật là mãnh
liệt, nhưng rồi Ngài vẫn vượt qua được, cố gắng vươn lên, tiếp tục
thực hiện chí nguyện lớn nhất của đời mình. Ngài đã chiến thắng
tất cả, để cuối cùng hát lên khúc ca khải hoàn: “Ta đã được giải
thoát, sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc làm đã xong, đã đặt
gánh nặng xuống, không còn trở lui trạng thái nầy nữa!.” Ðó là
cuộc đời tu hành của Thái tử Sĩ-Ðạt-Ta ngày xưa và Ðức Phật Thích
Ca Mâu Ni của ngàn đời sau.
***
Chúng ta có thể đúc kết những chiến
công của Ðức Bổn Sư như sau, để làm bài học cho đời tu của chính
mình:
Một
là, sự dằn vặt trong tâm Ngài khi còn ở cung son. Một bên là cuộc
sống tột đỉnh quyền uy với hạnh phúc gia đình hoàn hảo, một bên là
lý tưởng cầu đạo vô thượng. Trong nhiều ngày đêm, nội tâm Ngài là
một trường tranh đấu, nhất là khi nghĩ đến phụ vương già yếu và
người vợ trẻ hiền thục, sẽ cô đơn đau khổ biết chừng nào nếu Ngài
ra đi? Chữ hiếu chữ tình đều không trọn, có thể hi sinh tình riêng
mà hoàn thành đạo nghiệp được chăng? Câu trả lời xin hẹn ở tương
lai, nay nhất quyết quay lưng với ngũ dục. Như thế, Ngài đã chiến
thắng trận đầu, một trận tuyến vô hình với những viên đạn bọc
đường, sức cám dỗ mãnh liệt mà không mấy ai thoát nổi.
Hai
là, sự khó khổ về vật chất và nỗi cô đơn hiu quạnh trong rừng sâu.
Từ mức độ cao tột về vật chất và lừng lẫy về danh vọng, không qua
một giai đoạn chuyển tiếp nào, đột nhiên Ngài tự nguyện rơi xuống
mức tận cùng của cuộc sống: làm một Sa-môn không tên tuổi, sống
qua ngày bằng những bát cơm tín thí. Ðường đi thì gian nan diệu
vợi, hướng đi chưa phân định rõ ràng, Ngài như người trong bóng
tối mò mẫn từng bước độc hành độc bộ. Có lúc nào Ngài thấy lòng
chùng xuống, nhớ những ngày êm ấm thuở xưa mà hối tiếc về sự phiêu
lưu táo bạo của mình? Chúng ta chỉ biết, Ngài vẫn tiếp tục con
đường đã chọn, đi không mệt mỏi dù không rõ bao giờ mới đến nơi.
Một lần nữa, Ngài lại chiến thắng.
Ba
là, khi đến cầu đạo với Tiên nhân Uất-Ðầu Lam-Phất (Uddaka
Ramaputta), chỉ một thời gian ngắn Ngài đã học xong tất cả tinh
hoa của thầy. Giá như người khác, đã có thể tại đây an thân lập
mệnh, cùng thầy “chia nửa tòa ngồi” để được người đời tôn kính.
Nhưng riêng Ngài, tự thấy quả vị Phi tưởng Phi phi tưởng xứ chưa
phải là cứu cánh giải thoát, vì còn trong vòng kềm tỏa của luân
hồi. Ngã phàm đã dứt, ngã Thánh cũng phải xa lìa. Ngài mạnh dạn
dứt áo ra đi sau khi từ biệt vị thầy khả kính. Sự xả ly những quả
vị đạt được không phải là điều dễ dàng trong tâm thức hành giả,
cho nên lần chiến thắng nầy thật vô cùng vẻ vang.
Bốn
là, lúc nhận thấy pháp tu khổ hạnh không đưa đến giác ngộ giải
thoát, Ngài quyết định theo con đường trung đạo. Sự khinh chê từ
bỏ của những người từng tôn kính Ngài hết mực, đối với người đời
hẳn là vết thương lòng đau đớn không gì sánh nổi. Chỉ riêng Ngài
tự biết sự lựa chọn của mình là đúng đắn, nhưng không nên biện
bạch mà chỉ nên trả lời bằng kết quả tu hành. Ngã chấp đã buông
nên không động tâm đối với tình cảm của người khác, pháp chấp cũng
buông nên không dính mắc với một pháp nào. Ngài chiến thắng trên
cả hai mặt trận ngã & pháp, hiểu rằng chính mình là vị Thầy thực
sự của mình. Từ đó mới có lời thề sấm sét dưới cội Tất-bát-la: “Dù
thịt nát xương tan, nếu chưa tìm được đạo vô thượng, ta quyết
không rời khỏi chỗ này!”
Trận
chiến thứ năm, trận cuối cùng, cũng là trận chiến quyết định của
Người chiến sĩ Vĩ đại. Bốn mươi chín ngày đêm thiền định, một mình
đối diện với chính mình, tâm Ngài chuyển biến ra sao, đấu tranh
với những cám dỗ Ma Vương thế nào, chỉ có Ngài hiểu thấu. Chúng ta
chỉ biết rằng, khi sao Mai vừa mọc vào đêm 49, Ngài hoàn thành đạo
nghiệp. Ðối thủ lần nầy của Ngài - và của tất cả chúng sanh - là
Quỷ vô thường, là vòng xóay luân hồi, là ma trận sinh tử. Chỉ có
Ngài là người duy nhất chiến thắng, nên đây là chiến công oanh
liệt nhất. Và cũng vì thế, Ngài trở thành Bậc Ðại Giác Ngộ, Bậc
Thầy của ba cõi Trời người. Cũng vì thế, đêm cuối cùng nầy được
gọi là Ðêm Thành đạo, đêm khai sinh của Phật Bảo, tiền đề cho Tam
Bảo sau nầy.
Câu
chuyện đời của Ðức Bổn Sư như một trường thiên tiểu thuyết, mà
người văn sĩ, dù tài hoa đến bậc nào cũng không thể tưởng tượng
được hết. Vậy mà, đó lại là sự thật, vì Ðức Phật Thích-Ca-Mâu-Ni
là một nhân vật lịch sử. Ngài cũng là con người bằng xương bằng
thịt như mọi người, nhưng Ngài phi thường ở ý chí nghị lực, ở lòng
thương bình đẳng vô bờ đối với chúng sanh. Bằng nghị lực phi
thường và tâm từ bi cao tột ấy, Ngài đã chiến thắng mọi cám dỗ của
ngũ dục bên ngoài và phiền não tham sân si bên trong tự thân, cuối
cùng vĩnh thoát sinh tử. Chiến công nầy không làm ai đau khổ,
không gây tổn hại tính mạng tài sản của ai; mà trái lại, mang đến
an lạc hạnh phúc cho con người, mang tình thương vô ngã vị tha
chan rải khắp cùng pháp giới. Chiến công nầy không chỉ có giá trị
trong một thời gian nhất định, mà vĩnh viễn làm lợi ích cho chính
mình và cho chúng sanh vạn loại. Trên tất cả, trận thắng cuối cùng
của Ðức Bổn Sư chỉ rõ cho con người thấy rằng, mỗi chúng sanh đều
có mầm mống giác ngộ, đều có khả năng giải thoát. Chỉ có Ðức Phật
mới tuyên bố tất cả chúng sanh đều có đức tướng Như Lai, chỉ có
đạo Phật mới đặt mọi loài ngang hàng với vị Giáo Chủ. Bởi vì, bằng
trí tuệ vô sư xuất thế, Ngài thấy chúng sanh bình đẳng nhau ở Tánh
giác. Ðây là cái thấy như thị, cái thấy không còn kẹt vào tứ tướng
ngã nhân chúng sanh thọ giả, cái thấy thấu suốt tột cùng bản chất
của muôn sự muôn vật.
Những người con Phật chúng ta, theo gương sáng của Ðấng Từ phụ,
không cầu hơn thua phải quấy, không màng sự đấu tranh để gây đau
khổ cho mình và cho người. Chúng ta chỉ nguyện, luôn xoay lại soi
sáng chính mình, luôn chiến đấu với lũ giặc phiền não tự tâm, biết
chế ngự ngũ dục thế gian, thắp sáng trí tuệ nhận rõ thân-tâm-cảnh
đều do duyên hợp giả có. Biết tất cả các pháp đều vô thường hư
dối, nhưng trong đó vẫn có một điểm linh quang thường hằng bất
biến, luôn tĩnh lặng mà chiếu soi, luôn tịch tịnh mà sáng ngời. Ðó
là Phật tri kiến, là Bản lai diện mục, là Ðức A-Di-Ðà Vô lượng
quang Vô lượng thọ Vô lượng công đức. Nhận ra Tánh giác sẵn đủ và
hằng sống với Tánh giác, hành giả chiến thắng được kẻ thù Tam độc
ngay chính bản thân, chiến thắng cả Quỷ Vô thường, chặt đứt mắc
xích của vòng luân hồi sinh tử. Ðó mới thật là chiến thắng tuyệt
đối, vĩnh cửu, mới thật sự đem lại lợi ích cho mình và cho tất cả
chúng sanh. Người chiến thắng ấy mới thật sự là Bậc đáng được Trời
người cúng dường tán thán, mới không cô phụ bản hoài của chư Phật
và tánh linh của chính mình!
Một
lần nọ, Tôn giả Xá Lợi Phất cung kính đảnh lễ Ðức Phật Thích Ca và
bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Chư Phật khắp mười phương, ở cả ba
đời quá khứ - hiện tại - vị lai, không ai có trí tuệ và sự chứng
đắc siêu việt bằng Thế Tôn”. Ðức Phật Thích Ca trả lời: “Này Xá
Lợi Phất, đừng nói quá lời như thế. Tất cả chư Phật đều bình đẳng
ở trí tuệ, từ bi và hùng lực”.
Theo
tinh thần này, vị Phật nào cũng có đầy đủ những đức tính và đặc
điểm như Ðức Bổn Sư của chúng ta. Sở dĩ chúng ta thường thờ phụng
xưng tán Ðức Phật Thích Ca hơn các vị Phật khác, vì chúng ta đang
nằm trong vòng pháp hóa của Ngài, vì cõi Ta-bà đang có túc duyên
được Ngài làm Giáo chủ.
Những đức tính và đặc điểm hình thành nhân cách của một vị Phật
đều được ghi chép đầy đủ trong các văn hệ Phật giáo Nam tông và
Bắc tông. Trong đó có mười danh hiệu, thường gọi là Thập hiệu Như
Lai, là những danh hiệu cao quý để tôn xưng những bậc đã thành tựu
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chỉ riêng các vị Phật mới đủ Thập
hiệu, vì mỗi danh xưng tượng trưng một đức tính cao cả, một đặc
điểm siêu tuyệt, mà ngay những vị A-la-hán hay các hàng Bồ-tát
cũng không thể sánh bằng.
1-
Như Lai:
Trong các kinh luận, danh hiệu Như Lai được hiểu theo bốn nghĩa
chính:
1-
“Nói sao làm vậy, làm sao nói vậy”: Nghĩa này thường được đề cập
trong Luận tạng Nam tông. Ðức Phật luôn luôn Hạnh-giải tương ương,
lời nói luôn đi đôi với việc làm. Do vậy, lời dạy của Ngài có sức
thuyết phục rất cao; và nhiều khi không cần dùng ngôn từ, hành
động cử chỉ của Ngài cũng là những bài học quý giá cho các hàng
môn đệ.
2-
“Từ Như mà đến, rồi lại trở về Như”: “Như” là thế giới lý tưởng
bất động, không khổ đau phiền não. Vì lòng từ bi, chư Phật thị
hiện đến cõi Ta-bà này, giáo hóa chúng sanh (Lai). Khi hết duyên,
các Ngài lại trở về thế giới lý tưởng ấy. Chúng sanh thì khác, do
nghiệp mà đến rồi lại theo nghiệp mà luân hồi trong sáu nẻo.
3-
“Như Lai là nghĩa Như của các pháp” (Như Lai giả, thị chư pháp như
nghĩa): Các pháp vốn không có tâm phân biệt, vì tự thân của chúng
là Chân như. Chúng ta khi tiếp xúc với vật, liền khởi niệm chia
chẻ phân ranh đẹp – xấu, rồi khen – chê, ưa – ghét; ưa thì muốn
chiếm hữu, ghét lại muốn xa lìa. Từ đó, tạo nghiệp ở ý, rồi phát
ra miệng nói thân làm. Thật ra, tự tánh của các pháp không thể
dùng văn tự để diễn bày, mà chỉ bằng trí tuệ thực chứng của Bậc
Giác ngộ mới thấu triệt. Và chính vì thẩm thấu vào thực tại tự
thân mầu nhiệm của vạn pháp, các Ngài thấy rõ tất cả pháp đều là
Phật pháp, đều là Chân như.
4-
“Không từ đâu đến, chẳng đi về đâu, nên gọi là Như Lai” (Vô sở
tùng lai, diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai): Ý nghĩa này rất sâu xa
khó hiểu nếu chúng ta chưa có khái niệm về Lý Bất nhị của nhà
Phật. Phiền não và giải thoát, Ta-bà và Tịnh-độ thật sự chỉ là hai
mặt tối - sáng của cùng một thực thể. Vì tự thân của các pháp là
Chân như, vì tất cả pháp đều là pháp thân thường trụ - không hình
tướng mà trùm khắp và hằng tri hằng giác, nên không đến không đi,
không sanh không diệt. Nhận ra pháp thân thường trụ và sống trọn
vẹn bằng thân- tướng-không-tướng này, đó là sự giác ngộ tột cùng
và viên mãn.
Kinh
Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp Giới có một đoạn nói về Như Lai: “Ðức
Như Lai chẳng phải đi, vì đã diệt hẳn thời gian không gian. Ðức
Như Lai chẳng phải đến, vì thể tánh vô sanh. Ðức Như Lai chẳng
phải sanh, vì pháp thân bình đẳng. Ðức Như Lai chẳng phải diệt, vì
không có tướng sanh. Ðức Như Lai chẳng phải thiệt, vì an trụ pháp
như huyễn. Ðức Như Lai chẳng phải vọng, vì lợi ích chúng sanh. Ðức
Như Lai chẳng phải dời đổi, vì vượt khỏi sanh tử. Ðức Như Lai
chẳng phải hư hoại, vì tánh thường chẳng biến đổi. Ðức Như Lai một
tướng, vì đều rời ngôn ngữ. Ðức Như Lai vô tướng, vì tánh tướng
vốn không”
2-
Ứng cúng:
“Ứng cúng” có nghĩa “Xứng đáng được
cúng dường”. Ðây là danh hiệu tôn xưng những vị đã sạch lậu hoặc
phiền não, là phước điền của thế gian. Các bậc Bồ-tát, A-la-hán
cũng được tôn là Ứng Cúng, nhưng đối với chư Phật, ý nghĩa này cao
cả hơn. Một bài kệ xưng tán Ðức Thích Ca có đoạn:
Công viên quả mãn
Viên chứng Bồ đề
Trục loại tùy hình
Tế độ quần sanh.
Công hạnh của Ngài đã thành tựu viên
mãn, sự giác ngộ đã toàn diện toàn triệt. Khi muốn giáo hóa chúng
sanh, Ngài thị hiện bằng hình thức tương ứng để dễ bề tiếp cận và
nhiếp phục. Nhưng dù ở hình thái chúng sanh nào, Ngài cũng nổi bật
nhất, tài giỏi nhất, hoàn mỹ về mọi phương diện, nên luôn luôn
được tôn kính quý trọng, xứng đáng được cúng dường.
3- Chánh biến tri:
“Chánh” là chân chánh; “Biến” là cùng khắp; “Tri” là sự thấy biết.
Chánh biến tri là sự thấy biết như thật về tất cả các pháp trong
cùng khắp pháp giới. Ðây là khả năng của một bậc Ðại Giác ngộ,
bằng tuệ giác Bát-nhã thấu triệt thật tướng của vũ trụ vạn loại.
Sự thấy biết này không qua suy luận phân tích của ý thức nên không
hề sai lạc và không bị ảnh hưởng bởi không gian và thời gian.
Sau
bốn mươi chín ngày đêm thiền định dưới cội cây Tất-bát-la, Ðức
Phật Thích Ca thấy rõ mọi pháp đều là tập hợp của các nhân và
duyên. Không có pháp nào tự nó hình thành, mà phải nhờ những pháp
khác không phải nó, với những điều kiện nhất định nào đó, mới có
thể tạo nên nó. Ví như cái bàn, phải nhờ sự tập hợp của gỗ, đinh,
công người thợ... sắp xếp phân bố theo một cách thức nào đó, mới
được tạo dựng theo hình thức hiện có. Suy xét đến tận cùng, nó
không có thực thể, chỉ là tạm có do các duyên hợp lại. Vì thế, tự
tánh của nó là không. Tánh Không là tánh bình đẳng của tất cả các
pháp, cũng là thật tướng của toàn thể vũ trụ nhân sinh, mà chỉ
những bậc thực chứng qua công phu thiền quán mới thấu triệt được.
4-
Minh hạnh túc:
“Minh” là trí tuệ, là Trí đức. “Hạnh” là công hạnh độ sanh, là
Hạnh đức. Một vị Phật luôn đạt đến viên mãn cả hai lĩnh vực Trí và
Hạnh một cách hoàn hảo, tạo nên nhân cách kỳ vĩ của các Ngài.
Tinh
thần này được tượng trưng bằng ba hình ảnh chúng ta thường thấy
thờ ở các chùa: Chính giữa tôn trí tượng Ðức Phật Thích Ca, bên
phải là Bồ-tát Văn Thù, bên trái là Bồ-tát Phổ Hiền. Bồ-tát Văn
Thù tượng trưng trí tuệ vô sư, còn gọi là Bát-nhã trí hay Căn-bản
trí, tức trí tuệ do công phu tu hành mà có. Bồ-tát Phổ Hiền tượng
trưng hạnh nguyện cứu độ tất cả chúng sanh hữu duyên. Ðức Phật
Thích Ca, từ thế giới lý tưởng đến cõi Ta-bà giáo hóa chúng sanh,
cần được sự phò tá của hai vị Ðại Bồ-tát. Bởi vì chúng sanh cang
cường khó điều phục, tham đắm ngũ dục mà quên tánh giác sẵn có của
chính mình, nếu không đầy đủ trí tuệ và lòng từ bi thì Ðức Phật
khó bề tiếp độ muôn loài.
5-
Thiện thệ:
“Thiện thệ” có ba ý nghĩa:
1)
“Thiện” là khéo, “Thệ” là đi qua. Ðức Phật là bậc Ðại Giác ngộ đã
khéo qua bờ bên kia, tức bờ giải thoát. Ngài không còn bị chi phối
bởi quy luật sinh tử, chỉ vì nguyện lực cứu độ quần sanh nên thị
hiện đến cõi Ta-bà. Kinh Hoa Nghiêm nói, thế giới Ta-bà được tạo
dựng do thần-lực-hải của chư Phật, nguyện-lực-hải của chư Bồ-tát
và nghiệp-lực-hải của chúng sanh.
2)
Thiện thệ là khéo đi qua và khéo an trú vào các Tam-ma-đề sâu xa,
phát sinh trí tuệ nhiệm mầu. Tam-ma-đề là Ðịnh. Từ Ðịnh phát khởi
trí huệ. Lộ trình Giới – Ðịnh – Huệ là lộ trình giác ngộ giải
thoát mà người tu chúng ta phải cần hiểu rõ và trải qua.
3)
Thiện thệ còn gọi là Thiện khứ, Thiện giải, Hảo thuyết. Thiện khứ
là khéo đi luôn qua bờ giác, không trở lại bờ sinh tử. Thiện giải
là khéo hiểu biết về tất cả pháp thế gian. Hảo thuyết là thuyết
pháp một cách vi diệu, có thể thuyết phục được mọi tầng lớp dân
chúng. Trong Kinh mô tả giọng nói của Ðức Phật Thích Ca hùng hồn,
vang xa có sức chấn động như tiếng hải triều âm, hội chúng đông
đảo hàng ngàn người vẫn nghe rõ ràng lời dạy của Ngài. Ðặc biệt là
bài thuyết pháp nào của Ðức Phật cũng đều có sức lôi cuốn, làm
chấn động tâm thức người nghe, từ lúc bắt đầu, rồi đoạn giữa cho
đến đoạn cuối cùng (gọi là Sơ thiện, Trung thiện và Hậu thiện).
Thính chúng nghe Ngài thuyết giảng, nhiều người đã giác ngộ và đắc
Thánh quả ngay tại pháp hội.
6-
Thế gian giải:
“Giải” là hiểu biết. “Thế gian giải” là hiểu biết rành rẽ tất cả
các công việc, sinh hoạt của thế gian. Ðức Phật tuy sống trong môi
trường thanh tịnh của người xuất gia, nhưng Ngài thông hiểu cặn kẽ
và dạy bảo rất kỹ càng cho giới cư sĩ tại gia thuộc mọi giai cấp
trong xã hội, từ cách cư xử giữa cha mẹ, vợ chồng, cha con, bè
bạn, cho đến phương pháp mưu sinh; từ cách trị dân cho đến đường
lối ngoại giao với các nước láng giềng... Có thể nói, Ðức Phật là
người thông thái uyên bác và đa tài đa năng bậc nhất trên cõi đời
này. Vì sao nói như thế? Các học giả, các nhà khoa học hàng đầu
thế giới được người đời kính trọng vì kiến thức bác lãm. Nhưng
thật ra, các vị chỉ có sự hiểu biết tường tận trong phạm vi chuyên
môn của mình. Khoa học ngày càng tiến bộ, mức độ chuyên khoa hóa
ngày càng thâm sâu, thì mỗi nhà nghiên cứu lại càng phải đầu tư
trí tuệ vào một lĩnh vực duy nhất nào đó. Trong các lĩnh vực khác,
họ chỉ hiểu biết rất ít, hoặc hoàn toàn không hiểu biết gì cả. Chỉ
có Ðức Phật, với trí tuệ siêu tuyệt, Ngài rành rẽ mọi phương diện
từ vũ trụ đến nhân sinh, từ con người đến xã hội, từ sinh hoạt thể
chất đến nhu cầu tinh thần. Ngài lại biết cách hòa đồng vào các
tầng lớp dân chúng, nói tiếng nói của địa phương, tôn trọng phong
tục tập quán của người bản xứ, dần dần khiến mọi người tin phục,
tu theo đường lối của Ngài. Nhà Phật chủ trương “bất biến – tùy
duyên”. Bất biến là yếu chỉ công phu phải luôn phù hợp với chân lý
tuyệt đối. Tùy duyên là uyển chuyển theo đối tượng, tùy trình độ
căn cơ của từng người mà có phương tiện giáo hóa thích hợp. Tinh
thần tùy duyên càng được thực hiện trọn vẹn khi người thầy càng
thông hiểu thế sự, càng có kiến thức quảng bác về thế giới và xã
hội chung quanh.
7-
Vô thượng sĩ:
Vô
thượng sĩ là người trí thức cao tột, là bậc Thầy không ai sánh
được. Danh hiệu này chỉ dành tôn xưng Ðức Phật.
Bài kệ xưng tán Phật có
bốn câu như sau:
Thiên thượng thiên hạ vô như Phật
Thập
phương thế giới diệc vô tỉ
Thế
gian sở hữu ngã tận kiến
Nhất
thiết vô hữu như Phật giả.
Tạm dịch:
Trên dưới trời chẳng ai bằng Phật
Mười
phương thế giới không ai hơn
Chính con nhìn khắp thế gian này
Tất
cả không ai như Ðức Phật.
Vì
sao Ðức Phật có trí tuệ siêu xuất không ai có thể so sánh nổi? –
Kiến thức của thế gian là sự gom góp vay mượn từ bên ngoài, từ
kinh nghiệm của người khác, nên chỉ có tính cách tương đối và thay
đổi theo thời gian – không gian. Trí tuệ của Bậc Giác ngộ là trí
không nhờ người khác mà được, chỉ do công phu thiền định phát
sinh, nên thấu triệt và trùm khắp mọi sự vật hiện tượng. Bằng tâm
định tĩnh nhưng hằng giác, Ðức Phật đã thấy – chứ không phải suy
luận – tận cùng bản chất các pháp, nên những lời dạy của Ngài đều
là chân lý muôn đời, bất di bất dịch.
Nhà
đại bác học của thế kỷ 20, Albert Einstein, đã nói: “Ðạo Phật
không cần thay đổi để phù hợp với sự tiến bộ của khoa học, vì Ðạo
Phật chính là khoa học”. Thật ra, Ðạo Phật không chỉ là khoa học
tự nhiên vì khám phá được bí mật của kiếp người, mà còn có tính
siêu nhiên vì giáo lý của Ðạo Phật không bị quy luật đào thải của
cuộc sống ảnh hưởng đến. Những nhận định của vị Giáo chủ Ðạo Phật
về thế giới vạn hữu, trải qua hơn 2.500 năm vẫn còn giữ nguyên giá
trị. Và khoa học càng tiến bộ, càng minh chứng rằng sự thấy biết
của Ngài quả là minh triết, độc nhất vô nhị. Cho đến ngày nay, khi
khoa học đã đoạt quyền tạo hóa bằng phương pháp thụ tinh trong ống
nghiệm và sinh sản vô tính, vẫn không thoát khỏi Lý duyên sinh của
Ðạo Phật. Ðiều đó chứng tỏ rằng, dù tri thức thế gian đã lên đến
đỉnh cao, vẫn chỉ mới đi được một bước đầu tiên trên lộ trình tâm
linh trong nhà Phật.
8-
Ðiều ngự trượng phu:
“Ðiều ngự” có nghĩa là điều phục ngự
chế. “Trượng phu”, về hình tướng thì chỉ phái nam, về nội dung là
nói chung những người có tâm hồn quảng đại và có ý chí xuất trần.
Danh hiệu này dùng tôn xưng Bậc trượng phu có khả năng điều phục
ngự chế phiền não vô minh cho tất cả chúng sanh.
Chúng ta tôn vinh Ðức Phật là Bậc
trượng phu, vì Ngài có đủ ba đức tính Ðại trí – Ðại bi – Ðại hùng,
kết thành nhân cách vĩ đại của một vị Phật. Ðại trí là trí tuệ vô
sư siêu tuyệt thế gian (Bát Nhã); Ðại bi là lòng thương chúng sanh
vô hạn, ra vào sáu nẻo không biết mệt mỏi để cứu độ muôn loài; Ðại
hùng là sức mạnh tinh thần vô biên, chiến thắng hết thảy nội ma và
ngoại ma, trong đó những ma chướng bên trong là hung hãn và khó
trị nhất.
Bài sám Quy mạng có bốn câu đề cập
đến danh hiệu này:
Quy
mạng thập phương Ðiều ngự sư
Diễn dương thanh tịnh vi diệu pháp
Tam
thừa Tứ quả giải thoát Tăng
Nguyện tứ từ bi ai nhiếp thọ.
Tạm
dịch:
Quy
y Ðiều ngự khắp mười phương
Diễn
bày pháp vi diệu thanh tịnh
Chúng sanh chứng Tam thừa Tứ quả
Nguyện các Ngài từ bi thương xót.
“Tam thừa” là Thanh văn – Duyên giác
và Bồ-tát thừa. “Tứ quả” là bốn quả vị của Thanh văn, gồm
Tu-đà-hoàn (Sơ quả), Tư-đà-hàm (Nhị quả), A-na-hàm (Tam quả) và
A-la-hán (Tứ quả), nhờ tu pháp Tứ Diệu Ðế mà chứng ngộ. Chúng sanh
nhờ Ðấng Ðiều ngự khắp mười phương hoằng truyền chánh pháp, một
lòng quay về nương tựa các Ngài tu tập, chứng các quả Thánh, giải
thoát phiền não và ra khỏi nhà Tam giới.
9-
Thiên nhơn sư:
Ðức Phật là bậc Thầy vĩ đại của Trời
và Người. Trong kinh có kể, Ngài thường hóa thân lên các cõi trời
thuyết giáo cho chư Thiên. Trong pháp hội của Ngài ở thế gian,
giữa chúng Tỳ kheo và cư sĩ, thường có chư Thiên hiện diện để bảo
hộ Ngài và cùng nghe pháp.
Ðối
với loài người, Ðức Phật dạy rất đầy đủ về kiến thức thế gian và
xuất thế. Không những Ngài chỉ bảo kỹ càng về cách đối nhân xử
thế, cách sinh sống làm ăn, Ngài còn dạy cho người tu về công phu
hành trì để được giác ngộ và giải thoát sinh tử. Giáo lý của Ðức
Phật ghi lại trong tạng Kinh là một gia tài đồ sộ truyền thừa biết
bao đời, đến nay vẫn còn phù hợp với thời đại. Ngài quả thật là
một bậc Thầy chuẩn mực mà sinh động. Chuẩn mực vì lời dạy của Ngài
phù hợp với chân lý tuyệt đối – tức khế lý; sinh động vì khế cơ
khế thời, tùy đương cơ tùy thời đại mà sáng tạo nhiều phương tiện
thích hợp. Phật giáo Ðại thừa theo tinh thần nhập thế, đưa tư
tưởng đạo Phật hòa quyện vào nhân gian; người tu làm tròn bổn phận
đối với đời mà vẫn vui với đạo. Từ đó, tất cả mọi người, dù thuộc
dân tộc nào, sống ở thời đại nào, cũng đều hưởng lợi lạc, khi thâm
hiểu giáo lý Phật-đà và tu hành theo chánh pháp.
Thiên nhơn chi Ðạo sư
Tứ
sanh chi Từ phụ
Ư
nhứt niệm qui y
Năng
diệt Tam kỳ nghiệp
Xưng
dương cập tán thán
Ức
kiếp mạc năng tận.
Ðức Phật là Bậc Thầy của Trời người,
là Ðấng cha lành của bốn loài noãn – thai – thấp – hóa sanh. Chỉ
một niệm qui y, chúng sanh đã có thể diệt được nghiệp chướng của
ba a tăng kỳ kiếp. Chúng ta nương theo Ngài tu hành, tinh tấn
không lười mỏi, nhất định sẽ thành tựu đạo quả không nghi. Ðức
Phật là vị cha lành của chúng sanh, vì nhờ Ngài mà chúng sanh có
thể thoát được nỗi khổ lớn nhất – nỗi khổ trầm luân trong ba cõi
sáu đường. Do đó, chúng ta ca tụng xưng tán Ngài bằng bao nhiêu
lời, trong bao nhiêu kiếp, cũng không cùng tận.
10-
Phật Thế Tôn:
Phật: Nguyên ngữ tiếng Phạn là Buddha; Trung Hoa phiên âm là Phật
Ðà, dịch nghĩa là Giác giả tức Bậc Giác ngộ. Việt nam ta theo đơn
âm, gọi tắt là Bụt (từ chữ Buddha) hoặc Phật (từ Phật Ðà).
Thế
Tôn: Bậc tôn quý của thế gian. Ðức Phật đáng được người đời tôn
kính bậc nhất, vì Ngài không còn vô minh phiền não, có trí tuệ
siêu phàm và lòng từ bi vô hạn, là người dẫn đường cho tất cả
chúng sanh đến bến bờ an vui giải thoát.
Danh
hiệu này chỉ dành tôn xưng chư Phật. Bởi vì, nói về đoạn ly phiền
não, giải thoát sanh tử (Ðoạn đức), thì các vị A-la-hán cũng tương
đương với chư Phật. Nhưng về Trí đức tức chỗ giác ngộ tột cùng, và
Hạnh đức là công hạnh giáo hóa chúng sanh trong vô lượng kiếp, thì
không ai có thể ngang hàng với Phật. Vì thế, chúng ta còn tôn xưng
Ngài là Bậc Toàn giác, Viên mãn giác, Diệu giác, Cứu cánh giác, vì
Ngài đã giác ngộ đến chỗ toàn triệt, viên mãn, vi diệu và tột
cùng. Chúng ta cũng nên biết rằng, tuy Ðức Phật Thích Ca lịch sử
đã nhập diệt hơn 2.500 năm, nhưng đến hôm nay, Ngài vẫn thị hiện ở
các cõi để tiếp tục độ sanh. Và các vị Bồ-tát hóa thân, vẫn lăn
lộn vào sáu nẻo luân hồi, tùy duyên hành hạnh lợi tha, tuyên dương
chánh pháp. Có điều, các Ngài không bao giờ để lộ cho ai biết mình
là Phật, là Bồ-tát.
Học
hiểu về ý nghĩa của Thập hiệu Như Lai, chúng ta càng hết lòng quý
kính ngưỡng mộ đối với chư Phật, đặc biệt đối với Ðức Bổn Sư của
chúng ta. Bởi vì, càng hiểu rõ về mười danh hiệu, chúng ta càng
thấy Ngài thật vĩ đại, thật đáng tôn thờ và đáng là người dẫn
đường cho tất cả chúng sanh. Hết lòng quy ngưỡng Ðức Phật, chúng
ta cũng hết lòng quy ngưỡng chánh pháp do Ngài thuyết ra, như
chiếc phao cứu hộ những kẻ sắp chết chìm giữa biển cả vô minh; hết
lòng quy ngưỡng chư Tăng, những sứ giả Như Lai nối truyền mạng
mạch Phật pháp. Từ đó, chúng ta nguyện phát tâm Bồ đề, trên cầu
Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh; nguyện dâng hiến toàn bộ tâm ý
mình cho sự nghiệp của Ðức Phật – sự nghiệp giáo hóa chúng sanh,
hoằng truyền chánh pháp.
Ðại phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh – Tập 4 trang 351 – HT
Thích Trí Tịnh dịch.