Du hành cuối năm
( ký sự về
khóa học Phật Pháp Úc Châu kỳ 1,
được
tổ chức tại tiểu bang New South Wales từ ngày 27-31/12/2001)
Thiện Anh Lạc
-o0o-
Từ lâu, tôi đã
nguyện sẽ dành tất cả
thì giờ nghỉ phép cho những chuyến đi hành hương, an cư kiết
hạ và tu học. Ðã lâu rồi, dễ chừng hơn tám năm
qua, tôi không có cơ hội đi tu học do giáo hội tổ chức vì
các Thầy còn bận rộn nhiều việc Phật sự tại trú xứ
mình.
Vào những tháng cuối năm ngoái, khi về chùa
Sám Hối, tôi thấy một yết thị thông báo năm nay giáo hội
sẽ tổ chức khoá tu bốn ngày tại Sydney. Lòng tôi mừng thầm,
muốn đi, nhưng lại chê ít ngày quá, làm sao tu đủ,
chưa ổn định, làm quen với môi trường xung quanh, đã phải
sửa soạn đi về rồi. Vì thế, tôi cứ lừng khừng, nửa muốn
đi, nửa không vì phải đi xa đến hơn hai ngàn cây số, chỉ
để tu học có bốn năm ngày, rồi sau đó lại về thì ... hơi
uổng công đi. Nhưng lạ kỳ làm sao, một khi tôi đã khởi
tâm niệm muốn đi tu học, là cứ bị ám ảnh ngày đêm,
bứt rứt không yên nếu không định
đi nữa, phải nghĩ đến mãi, nuôi
cho lớn mạnh ý nghĩ, phải thực hiện cho bằng được mới
yên.
Thế là tôi quyết định
đi Sydney tu học bốn ngày. Ðiều cần làm thứ nhất
là phải rủ bà con Phật tử đi đông
đông cho vui, chứ thui thủi đi một mình, kể cũng hơi buồn,
cô đơn đấy chứ, mặc dầu tôi rất ăn ý với câu:
Nhất bát thiên gia phạn (Bình bát cơm ngàn
nhà)
Cô thân vạn lý du... (Thân chơi muôn dặm xa)
Thế mà thực tế thì không mấy gì thích cô
thân vạn lý du cho lắm, nên biện hộ ngay bằng hai câu sau :
Ăn cơm có canh,
Tu hành có bạn ....
Ðến khi đi hỏi từng bà con Phật tử xem có
ai đi cùng không, thì chẳng có bạn nào chịu đồng hành đi
tu với tôi hết, ai ai cũng bận rộn chuyện này nọ trong mùa
này. Tôi hơi buồn và thất vọng, nhưng nhất quyết ra đi vì
đã quyết định rồi, không có gì lay chuyển tôi nữa, thế
là tôi tiến hành mọi việc. Bấy giờ, tôi không còn hy vọng
một ai đi với tôi nửa, nên tôi định
đi và về với Sư Ông để được ké việc đưa đón nơi phi
trường. Thế mà nhân duyên bất ngờ đưa
đến cho tôi trong kỳ thọ bát quan trai cuối năm. Sư Ông đã
kêu gọi Phật tử chúng tôi, đại diện cho chùa, đi
tu học cho đông đảo, nhân khi ngài thuyết Pháp, tôi thừa
dịp ấy, rủ bà con Phật tử mướn xe đi
cho đông và vui. Sau đó, khi gặp tôi, Sư Ông dạy tôi là phải
đi lên trên ấy tu học, tôi vâng dạ, y giáo phụng
hành. Từ đó, công việc đi du hành
đã trôi chảy, thông suốt, đủ thấy Sư Ông quá đức độ,
một lời nói của ngài thôi, là tất cả đều hoan hỉ,
y giáo phụng hành.
Thế là tôi đã có bạn đi
tu học. Xe của tôi có đến mười ba người kể cả Sư chú,
con nít có, trẻ trẻ có, sồn sồn có, nhưng không có
ông già, bà cả, vì xe hết chỗ. Số mười ba đã không mấy
gì làm may mắn theo pháp thế gian. Thế mà hôm trước khi đi,
một vị Phật tử vì vô tình, hay cố ý, đã phát ra một lời
thiếu từ bi làm tôi hơi sửng sốt:
- Ði làm sao mà giống xe chùa Phước Huệ hành hương năm
xưa thì đi (Ý nói xe bị lật khi
đi từ Melbourne đến Sydney) .
Tôi lúc ấy không giận dữ hay bất mãn, chỉ
hơi ngạc nhiên và hết ý kiến vì câu nói hàm hồ ấy. Tôi
có sức mạnh tự tin nơi tam bảo hộ trì, từ lòng chánh tín
nơi chính tôi, nơi những người cùng đi với tôi nên không hề
lo sợ, dường như được sự vô úy từ ơn trên che chở,
nên từ tốn trả lời:
- Không sao đâu, mình đi tu học mà
, sẽ có Long
Thiên Hộ Pháp che chở, em chắc chắn, bảo đảm là đi
đến nơi, về đến chốn, bình an, vô sự. Mọi người
đi về sẽ đều hoan hỉ trong chánh
Pháp.
Người ấy chỉ trề môi thay câu trả lời, tỏ
vẻ không tin tôi, tôi xá chào người ấy, A Di Ðà Phật - rồi
lẳng lặng bỏ đi.
Theo chương trình đã định, chúng tôisẽ khởi
hành lúc 10 giờ sáng ngày 24/12/2001 cho thong thả và mát mẻ.
Nhưng Sư chú phải đi làm lễ hoả táng vào buổi sáng cho một
người bị tử thương vì tai nạn xe cộ đột ngột xảy ra
khi xuyên tiểu bang nên chuyến đi bị chậm trễ. Ðến hơn 3
giờ chiều, xe mới lăn bánh, trực chỉ Sydney, bỏ
lại sau lưng những vị đang tiếc rẻ vì không được tham dự.
Tôi chặc lưỡi nói:
- Nếu biết thế, em đã đứng ra ghi tên tổ chức rồi.
Một vị trên xe nói:
- Ừ nhỉ, chắc mướn hai xe cũng đầy người. Thôi, để
năm sau vậy.
Nhờ ba cậu tài xế trẻ, trong đó có cả Sư
chú, nên hai bác tài xế già được miễn lái dài hạn. Xe chạy
thật êm. Nghỉ ngơi ăn uống ở
Renmark, sau đó, ở các trạm đổ xăng. Vì không mất
nhiều thì giờ ở dọc đường, nên chúng tôi đến tiểu
bang New South Wales vào sáng sớm ngày hôm sau. Vào đến thành
phố cũng hơn 10 giờ sáng, chúng tôi về nhà người quen để
nghỉ ngơi, làm vệ sinh cá nhân rồi trực chỉ chùa Nan Tien
ở Wollongong.
Ðang ở Adelaide, khí hậu mát lạnh, lên đến
đấy, nóng hơn 30 độ, lại thêm nạn cháy rừng nên
không khí thật mỏng, bụi làm mỗi người chúng tôi mệt
nhoài, hắt hơi liên tục, có vị còn bị sưng mắt. Trên xa lộ,
kẹt xe liên miên, xe nhích từng chút, từng chút một, thế
mà cũng lết đến nơi. Khi thấy được
mái chùa cong, ngói vàng cam rực rỡ, ai nấy đều ồ lên
một tiếng như thấy một vật gì thân thương
sau bao năm xa cách, lòng chúng tôi êm ã, mát dịu hẳn lại.
Phải khó khăn lắm, mới tìm được
chỗ đậu xe. Hôm nay là ngày lễ lớn của đạo Ky Tô,
thế mà bà con Phật tử viếng chùa đông nghẹt, tấp nập như
những ngày lễ Phật Giáo.
Dù là ngày lễ Giáng Sinh, chùa vẫn tổ chức
hội hè, đình đám thật xôm tụ, rôm rả. Xung quanh khuôn
viên chùa, các quầy thực phẩm được bày biện hấp dẩn,
chiên xào, nấu nướng ngay tại chỗ, có cả hàng bán đủ thứ
nước giải khát. Phía bên kia, có các quầy bán sách báo, tượng
ảnh, đồ chơi thắt bằng dây ngũ sắc màu sặc sở thu hút
nhãn quan, thị hiếu du khách. Có cả lớp dạy thắt nút
thành nhiều hình khác nhau, họ thắt cả những vật biểu tượng
cho mùa Giáng sinh để bán cho dân Úc.
Ðây không phải là lần đầâu tiên tôi viếng
chùa này, thế mà tôi vẫn bồi hồi,
cảm xúc đi hết điện thờ này đến điện thờ khác lễ Phật,
chiêm ngưởng tôn dung các ngài. Các bạn đi cùng với
tôi thì quá xúc động trước những cảnh tượng to lớn hùng
vĩ đến thế của ngôi đại tự. Chùa
xây cất theo lối Trung Hoa nên có những nét
kiến trúc thật đaàu7841?c thù của một dân tộc, từ
tượng Phật, Bồ tát đến những con
kỳ lân, con sư tử dường như tất cả đều nhập cảng từ
Trung Quốc hay Ðài Loan. Thăm viếng cảnh chùa trong chốc
lát rồi chúng tôi cũng phải từ giã, vì các cháu nhỏ đã mệt,
người lớn cũng đừ sau một đêm
ngủ gà, ngủ gật trên xe. Thế là tôi vẫn chưa bao giờ được
thoả mãn đi thăm viếng tất cả các
cảnh của chùa này.
Chúng tôi trở về Sydney. Trên đường
đi, chúng tôi thấy từng cụm khói đen từ trong rừng cây
khuynh diệp bốc lên cao và toả rộng trước mặt, xe vẫn
chạy thoải mái chứ không bị kẹt như lúc khởi hành, thì
ra ... chúng tôi đang đi trong khu cháy
rừng mà không biết ... từ hai bên bìa rừng, những ngọn
lửa táp ra phía bên ngoài trông thật nguy hiểm đáng sợ, rủi
ro, chỉ một nhánh cây to, bị cháy, rời cành, rơi vào xe
chúng tôi cũng đủ làm cho chúng tôi toi mạng, thế mà không
sao cả. Tôi vừa nhìn cảnh tượng hai bên, vừa lần chuổi
niệm Phật không dứt, niệm do thói quen, do một động cơ vô
hình thúc đẩy, niệm niệm liên tục thành
vô niệm, nếu không niệm, sao thấy thiếu thiếu điều gì.
Chúng tôi không sợ hãi chút nào cả, ngồi trong xe có máy lạnh,
tôi nghĩ đến những gia đình bị
cháy nhà trong dịp lễ Giáng Sinh này, những con thú rừng từ
to đến nhỏ đang bị thiêu đốt, phải
đau đớn mà chịu đựng một sức nóng khủng khiếp trước
khi lìa đời, đây đúng là hoả đồ trần gian, đâu cần tìm
nhà lửa trong kinh Pháp Hoa làm gì cho trừu tượng, mơ hồ.
Nơi đây chính là nhà lửa rồi, nằm trong nhà lửa vô an của
tam giới là dục, sắc và vô sắc. Vỉ thế, chúng
tôi phải đi lên đây tu học, tìm sự an tịnh nơi nội tâm,
tập sự buông bỏ để thoát ly ba cảnh giới ấy, thay vì
vui chơi hưởng thụ, vấn vương mùi tục lụy trần thế
trong mùa này.
Xe chúng tôi phải băng qua một đoạn đường
dài có đám khói dầy đặc. Không cò
n thấy gì trước
mặt, cảm giác là lạ khi tôi đã ngửi được mùi khói cây
rừng từ máy điều hoà không khí đưa lại ....Dù xe bật đèn,
cũng chẳng thấy gì trước mắt, thật là nguy hiểm đủ thứ
vì thiếu dưởng khí, không thấy đường
đằng trước, tính mạng như treo trên ngọn cây...Thế
mà rồi chúng tôi thoát nạn, về nhà yên ổn, thật là hú
vía.
Cơm tối xong, chúng tôi nghĩ ngơi một chút chờ
Sư chú đưa về chù
a Pháp Bảo vấn an Sư Ông chúng tôi.
Sư Ông rất vui mừng khi thấy chúng tôì đến nơi yên ổn,
bình an. Thượng Toạ trụ trì dạy bảo chúng tôi ngày mai đến
chùa dự buổi lể bế mạc khoá tu gieo duyên hai tuần. Chúng
tôi vâng dạ, cáo từ ,trả sự yên tĩnh lại các vị.
Sáng hôm sau, chúng tôi đến chù
a dự lễ
trong bầu không khí thật trang nghiêm, đầy
đạo vị. Các học viên đã tu hành thanh tịnh trong hai
tuần lể nên trên vẽ mặt và dáng điệu
mỗi người đều toát ra một nét thanh thoát, nhẹ nhàng, hoan
hỉ. Sau đó là bữa cơm trưa thân mật, chúng tôi dùng
qua loa rồi xin về sớm. Chúng tôi dành buổi chiều còn lại
đi thăm viếng một số chùa
quen thuộc và mua sắm để sữa soạn
cho chuyến đi tu học vào ngày mai. Có một số mới lên
đây lần đầu nên cần đi xem thành
phố, thăm bà con.
Ðúng mười giờ sáng ngày 27/12/2001, chúng
tôi đã có mặt tại chùa Thiên Ấn, bà con Phật tử họp mặt
đông đủ, có đến hơn một trăm vị
từ các chùa của các tiểu bang hay tại trú xứ vân tập
về. Ðúng mười giờ ba mươi, xe buýt đến
đưa các học viên lên trại. Trại nằm trên Blue
Mountain (Lam sơn) nên phải mất khoảng bốn mươi lăm
phút mới đến nơi. Ðây là nơi cắm trại của Hướng
Ðạo sinh Úc Châu của tiểu bang New South Wales. Có nhiều nhà
tiền chế vách tôn, trần tôn, cao lớn như những nhà kho, gồm
nhiều dãy giường hai tầng, nhà ngủ thông với nhà vệ sinh
nên không cần phải ra bên ngoài. Những dãy nhà này cách nhau
vài trăm thước, có nhà gần nhà bếp, phòng ăn, có nhà gần
phòng họp. Nhà này ngày nóng, đêm lạnh.
Quý Thầy khéo léo, sắp đặt biến phò
ng
họp thành chánh điện thờ Phật trang nghiêm, nhờ những
bình hoa lớn, cắm thật trang nhã, lư hương bóng loáng. Ở giữa
tường là hình đức Bổn Sư Thích Ca, chụp gương mặt hơi
nghiêng, ảnh trắng đen, tướng hảo lạ kỳ. Hình này, tôi
thường thấy trong các cuốn kinh nhật tụng đã hơn ba mươi
năm qua, nhưng chưa bao giờ tôi nhìn kỹ như hôm ấy. Ngày
hôm ấy, tôi mới được sống lại
để nhìn dung nhan Ngài thật kỹ giữa tranh tối, tranh
sáng của hai màu trắng đen, tôi chợt
thức tỉnh rằng đã bao năm qua, tôi chưa bao giờ được thấy
hình ngài, tướng hảo lạ kỳ, sống động,
từ bi tuyệt vời đến thế. Tôi thầm khâm phục nhà
nhiếp ảnh và điêu khắc nào đó, đã
hài hoà tạo nên một tác phẩm văn học,
nghệ thuật, đạo đức siêu việt xuất thần đến nổi rung
chuyển nội tâm tôi.
Còn đang loay hoay tìm chỗ nghĩ ngơi thì chúng
tôi phải tập họp lại để làm lễ khai giảng khoá học, lấy
bảng tên và phân chia khu ở, tìm tên mình để biết ngày chấp
tác. Vất vã lắm, chúng tôi mới tìm được cho mình một chỗ
nghĩ ngơi, vì là khách ở xa mới đến, nên còn ngơ ngác, bỡ
ngỡ, không biết tuân theo lịnh ai để
về đúng nơi nữa. Chúng tôi cứ phải dời hành lý từ
khu này sang khu khác khá gau go.
Dùng cơm trưa xong, chúng
tôi mới ổn định được chốn ở, nghĩ ngơi chút chút cho tỉnh
táo. Có linh tính, chúng tôi vẫn để hành lý trên xe
phòng đêm nay khi lửa cháy đến thì chỉ ... cuốn túi ngủ
mà chạy. Ðúng ba giờ chiều, Hoà Thượng Hội chủ ban cho chúng
tôi bài Pháp từ thật súc tích, đầy
đủ ý nghĩa khổ đau trong mỗi người chúng ta qua sáu căn bản
phiền nảo là tham, sân, si, mạn, nghi và ác kiến qua
sáu căn là mắt, tai, mủi, lưởi, thân, ý của ba thời quá
khứ, hiện tại, vị lai. Vì thế nên có chuổi tràng 108 hạt.
Lần từng hạt niệm hồng danh đức
Phật hầu đối trị căn bịnh ấy.
Xong bài thuyết Pháp, chúng tôi có chút thì giờ
thảnh thơi trước khi ăn tối nên đi dạo quanh vườn. Trời
mát lạnh, không khí trong lành, tôi thiền hành từng bước thảnh
thơi, ngắm mặt trời lặn đỏ ối thật kỳ lạ như một khối
lửa.
Cơm tối cũng gần giống như cơm sáng, chúng
tôi ăn trong sự yên lặng chánh niệm tuy được quyền thì
thào chút chút. Quý Thầy cho biết hôm nay thì được, chứ ngày
mai phải vào khuôn khổ của thiền môn quy củ, nghĩa là ăn
quả đường, không khác gì ăn
trong im lặng nhưng phải quán tưởng sau khi đọc tam đề,
ngũ quán. Cơm chiều xong, chúng tôi được nghỉ ngơi nửa giờ,
sau đó lên thời khoá Tịnh Ðộ, rồi vào lớp học
giáo lý. Khoá học chia làm hai lớp, lớp một cho những ai chưa
biết chút gì về giáo lý Phật pháp,
lớp hai cho những vị đã thông hiểu kinh, luật, luận.
Tôi cùng các Phật tử đi chung một chuyến xe vào lớp một.
Hôm ấy học về đề tài ăn trai lạt (chay), thiết tưởng tôi
cần giải thích thêm ở đây là đúng chữ là ăn
lạt, ăn trai lạt chứ không phải ăn chay, và ăn mạng (sống
sinh vật) chứ không phải ăn mặn (mòi).
Ðang học say mê thì Thầy quản chúng vào cho
biết cảnh sát yêu vầu chúng tôi phải rời khỏi trại ngay
lập tức vì lửa đã cháy gần đến nơi, chỉ còn cách nơi
đây 10 cây số, gió lại thổi về hướng này. Bà con Phật tử
hốt hoảng chạy ùa ra ngoài hổn độn,
đến nổi quý Thầy phải trấn an là chưa có gì đâu.
Lớp tôi có nhiều vị lớn tuổi nên tôi chờ cho các vị ra
hết rồi mới đi. Cả đời tôi chưa
bao giờ đối mặt với cảnh tượng này nên tôi không
biết cảm giác lúc bấy giờ ra sao nữa, không sợ hãi, không
hoảng hốt, biết rõ mình sẽ thoát nạn, bình tĩnh đi
chung quanh trại để xem có ai còn sót lại và tìm đi
Sư Ông, Sư Chú chúng tôi. Nhưng tôi buồn man mác, buồn nhiều
nhất là khoá tu đầu tiên do giáo hội tổ chức đang
bị gián đoạn và giải tán, không hiểu có còn tiếp tục
được hay không? Tôi thầm cầu xin ơn trên gia hộ cho khoá học
sẽ được tiếp tục và hoàn tất viên mãn. Tôi không được
phép đi vòng vòng nữa mà phải trở vào xe gấp để
xe chúng tôi đi thu dọn đồ nhà bếp cùng những thứ lặt
vặt khác như chiếu, chuông báo hiệu.... Các vị Phật tử
trong xe, có vị cũng hơi mất bình tỉnh nên hối thúc Sư chú
quay về thành phố cho lẹ tạo nên bầu không khí trong xe hơi
xao động vì chúng tôi phải chờ Cảnh Sát mở đường.
Tôi nhức đầu, mệt mỏi, cố gắng tập trung vào câu
trì chú thường nhật quen thuộc. Thế rồi sau hai ba giờ chờ
đợi, xe buýt đã đến để đưa các
học viên về thành phố. Ngồi trên xe, tôi thấy thương
những bác lớùn tuổi phải tự lo toan cho chính mình, có bác
phải đi bằng khung chứ không phải bằng gậy, nhưng vẫn lên
tận núi để tu học, thật đáng phục,
bác treo lủng lẳng cái giỏ của bác trên khung đi và khập
khểnh bước từng bước một ra xe buýt. Có bác đi không nổi
nửa, phải nhờ hai anh thanh niên dìu hai bên ...
Ðám cháy này gợi cho tôi chiêm nghiệm ra một
điều suy tư nhỏ: "Dù chúng ta có nắm giữ những tiện
nghi cho mình nhiều đến đâu đi nữa
trong cuộc sống, tạm bợ vài ngày hay cả một đời,
thì khi ra đi, chúng ta cũng phải bỏ lại hết ." ....
Về đến chù
a Pháp Bảo hơn 11 giờ
khuya, quý Thầy ra lệnh giải tán và sẽ tập họp lại ngày
mai để quyết định. Tôi muốn ngủ
lại chùa để sáng tụng Lăng Nghiêm thì ngay lúc ấy, một
Phật tử đi cùng xe cũng ra rủ tôi ở lại để sáng công
phu, rồi sách hành lý tôi đi vào chùa, tạo thêm một sức mạnh
đẩy tôi phóng ra khỏi xe và nghỉ lại chùa Pháp Bảo. Tôi
nhất quyết không bỏ cuộc nếu quý Thầy không giải tán
khoá tu. Ðêm đầu tiên, tôi nằm đất, sao mà đau lưng quá
chừng hà, vừa lạnh, vừa muỗi đốt, sàn lại cứng, xoay
chiều nào cũng đau hết, ngủ không thẳng giấc, lạ chỗ
nên tôi thao thức gần như suốt đêm. Tuy vậy, tôi không mệt
vì tôi được nghĩ ngơi, thư dãn, điều hoà hơi thở. Tôi cầu
xin cho các vị cùng đi với tôi sẽ
trở lại đây vào sáng ngày mai, đừng
bỏ tôi nơi đây một mình.
Sau thời khoá Lăng Nghiê
m, chúng tôi
được chùa cho ăn điểm tâm, thời ăn sáng chưa xong, tôi đã
thấy các bạn hữu tôi đến đông đủ và đang nháy nhó,
nhìn tôi cười. Tôi mắc nghẹn, mừng quýnh lên, nước
mắt hơi ứa ra nơi khoé vì lời cầu xin của tôi được linh
ứng. Tôi thầm cảm ơn chư Phật, chư vị
Bồ Tát đã linh cảm gia hộ.
Phật tử tề tựu về chùa mỗi lúc một đông,
không có bao nhiêu vị bỏ cuộc nên quý Thầy chỉnh đốn lại
hàng ngũ và tuyên bố tiếp tục khoá tu trong tự viện Pháp Bảo.
Mọi người đều hoan hỉ đón nhận,
y giáo phụng hành. Dường như, ai cũng
mong mỏi được hoàn tất khoá tu học mới bắt đâu hôm qua.
Ban tổ chức khoá học phân chia lại nơi chốn học tập, ngủ
nghỉ, vệ sinh và tiếp tục những nội quy khoá học,
chấp tác, ẩm thực .....
Thế là bánh xe Pháp bắt đầu quay lại trong
niềm mong mỏi của mỗi người con Phật
được nếm vị ngọt an lạc, giải thoát, được nhìn thấy
những vị sứ giả của Như Lai đang kề cận, gần gũi bên
mình để noi theo gương sáng của các ngài.
Giường ngủ tại chùa được nhường lại
cho các vị lớn tuổi, tôi ở lại nghỉ ở Thiền Ðường
cho khoảng khoát và đúng nghĩa "ăn
chay, nằm đất". Tuy vậy, thời khoá áp dụng còn
thoải mái hơn cả những ngày tôi 'thọ bát quan trai' .
Sáng năm giờ rưỡi thức dậy hô canh, niệm
Phật, tất cả học viên phải ngồi dậy để toạ thiền tại
chỗ, Thầy quản chúng niệm hồng danh đức Phật A Di Ð
à
và chúng tôi niệm theo đúng ba lần.
Sau đó ngồi thiền năm phút thay vì hai mươi phút.
Sáu giờ sáng là thời khoá công phu khuya tụng
Lăng Nghiêm, quý Thầy lưu lại chùa lên đông
đủ tạo nên bầu không khí trang nghiêm. Một thần lực
oai nghi qua những chiếc y vàng choé và những lời tụng chú
thật hùng mạnh. Thân tâm tôi nhất như hoà vào những câu
chú huyền diệu, những câu tán, tiếng trống, tiếng mõ hoà
âm nhịp nhàng làm tâm hồn tôi thanh thoát theo. Ðây là giờ
phút tôi thích nhất trong ngày, vì tôi rất thích chú Lăng
Nghiêm. Chú có khả năng giúp cho người
tụng nhiếp phục sáu căn và giữ chúng thanh tịnh suốt
ngày khi trì tụng liên tục mỗi sáng.
Bảy giờ ăn sáng, học viên ăn trong im lặng,
quán chiếu sau khi đã niệm Phật, tam đề – 1) Nguyện
dứt sạch các việc ác, 2) Nguyện làm tất cả các việc
lành 3)Nguyện độ tất cả chúng
sinh. Ngũ quán – 1) Kể công nhiều ít so chỗ kia đem đến 2)
Xét đức hạnh của mình đủ hay thiếu mà thọ của
cúng dường 3)Ngừa tâm xa lìa các tội lỗi :tham sân si là cội
gốc 4) Chính là vị thuốc hay để chữa bệnh khô gầy 5) Vì
muốn thành đạo nghiệp nên thọ thức ăn này. Ăn
xong, đã có ban hành đường dọn dẹp hết cho mình,
mình chỉ việc rời phòng ăn trong trật
tự, giữ im lặng tuyệt đối.
Học viên nào có tên trên bảng phải đi chấp
tác, không có tên thì làm gì cũng được.
Chín giờ rưởi, có kẻng báo vào lớp học
giáo lý, học cho đến mười một giờ.
Lớp một đông nên học trên lầu, lớp hai học ít hơn
nên ở dưới nhà. Quí Thầy dạy những bài căn bản Phật pháp
như tu hành cần ăn trai lạt (chay), sám hối, cầu an, cầu
siêu , cúng dường tam bảo.... Ðồng thời, học viên còn học
cách thức hộ niệm cho những người sắp lâm sàng, làm sao
trang nghiêm nơi thờ tự, thực hành nghi lễ ...Hiểu về những
câu đối thoại thiền cũng như thế nào là Tam đồ, bát nạn.
Chúng tôi học say mê đến độ quên
cả mỏi mệt khi ngồi dưới đất và quên luôn cả giờ
đã hết. Học viên nghe chăm chú tạo cho quí Thầy những hứng
thú khi giảng dạy, ấy thế mà thời gian quá ngắn để
truyền đạt tất cả những gì muốn nói ra đếnhọc viên.
Ðúng mười hai giờ, các học viên phải y áo
chỉnh tề vào phòng ăn chờ quý thầy vào sau. Qua nghi thức
cúng quả đường, phải niệm Phật,
tụng chú biến thực, cam lồ thủy chân ngôn, phải tam đề,
ngũ quán .... trước khi thọ trai. Khi thọ trai, ăn bằng thìa,
gắp thức ăn bằng đũa, cầm bát cho đến khi ăn xong mới
được buông bát xuống và uống nước phải chờ quí Thầy tụng
chú rồi mới được uống theo quí ngài ... Tuy gò bó nhưng
tôi thấy rất ích lợi vì giữ được
chánh niệm, oai nghi. Khi ăn, nhai nuốt chậm rãi, quán
chiếu sâu sắc giúp cho tôi thấy được
những nhân duyên khởi lên trùng trùng trong từng hạt gạo,
cọng rau, trái táo ... .
Ở thế gian, phần lớn ăn uống trong tranh luận,
lời qua, tiếng lại, đàn ca, múa hát, chỉ ăn như người gỗ,
người máy nê
n không nhìn thấy được bản chất thật
của vạn pháp qua từng bữa ăn, thức uống. Thọ thực xong,
chúng tôi theo quí thầy đi kinh hành, đó là vừa bước, vừa
niệm danh hiệu đức Phật A Di Ðà, đi hàng một từ
phòng ăn bọc ra ngoài vườn, ngang cửa chánh điêïn để vào
thiền đường. Vì đông học viên nên quí
thầy đi thành hình trôn ốc và kết thúc bằng những
hàng ngang đều tăm tắp. Các học
viên đi theo quí Thầy, đứng sau thành những hàng dọc
ngay hàng, thẳng lối thật trang nghiêm khi lễ Phật.
Giờ chỉ tịnh, nghỉ trưa dài khoảng hai giờ
hơn, học viên có thể nghỉ ngơi, thiền hành hay tranh thủ
đi tắm, giặt vì chỉ có ba phòng tắm nữ cho số lượng trên
một trăm học viên ưu bà di nên phải chực sẳn để
có cơ hội đến phiên mình. Thế mà đâu cũng vào được
đấy yên lành. Trước giờ vào lớp học 15 phút, có tiếng
kẻng báo thức.
Ba giờ rưởi chiều học giáo lý đến năm giờ,
đó là
giờ buồn ngủ nhất, vậy mà tôi không thấy ai
ngủ gục hết, tất cả học viên trong lớp đều
học tập hăng say, ngồi nghe chăm chú như buổi sáng, tuy thế
ngồi đôi khi thay đổi vì không quen ngồi dưới đất.
Chúng tôi có gần một
giờ để chờ cơm chiều, trời chiều mát, vườn chùa đẹp,
nhiều hoa thơm, cỏ lạ, cây cảnh quê nhà như hoa Ngọc
Lan, hồ sen hồng nên các học viên ngồi hóng mát rải rác khắp
nơi xung quanh chùa. Còn trên những lối đi lát gạch trong
chùa, Thầy trồng nhiều loại Phong Lan khác nhau, có những
giò Lan được treo lên cao, có những giò được
hạ xuống đất, điểm thêm nhiều loại hoa khác nhau trong chậu,
trong đó, có cả Quỳnh Hương thơm ngát, các học viên
ngồi tản mát trên những băng dài dọc theo tường nhà bếp,
bàn luận chuyện Phật Pháp, ôn lại bài vở đã nghe qua. Chim
hót líu lo khắp nơi như cùng chia sẽ niềm hân hoan với các
học viên tại đây. Ôi cần chi chờ cõi Tịnh Ðộ xa vời nơi
Phương Tây, ngay tại chùa Pháp Bảo đây
đã là cõi tịnh độ rồi nếu khi ấy tâm ta tự tại,
nhẹ nhàng.
Sáu giờ ăn cơm chiều, cũng phải tam đề,
ngũ quán, ăn trong chánh niệm, ăn xong ngồi chờ quí Thầy
dùng xong mới được rời phòng ăn, y như buối ăn sáng và
trưa vậy. Ðó là Thiền Môn Quy Củõ, vào nhà chùa, phải biết
có trật tự trên dưới, vào trước các Thầy và ra sau các vị.
Tập lâu ngày, tính tình sẽ dần dần thuần thục, biết
kính trên, nhường dưới, sống hài hoà trong tinh thần đạo
pháp, trong mọi hoàn cảnh cho dù ở trong gia đình, chùa, hay
ngoài đời xả hội sẽ đem lại lợi
ích lớn lao.
Bảy rười lên Thiền đường dự thời khoá
Tịnh Ðộ hay sám hối nếu vào ngày mười bốn. Tôi ít khi
nào được tụng kinh chung với nhiều Thầy như thế nên thấy
hạnh phúc, sung sướng vô tả khi nhìn thấy một hàng y vàng
ngay phía trước và giọng tụng kinh trầm bổng lên xuống, nhịp
nhàng theo tiếng mõ, tiếng chuông . Ôi thiêng liêng cao cả
làm sao lời kinh, câu kệ âm vang, chấn động cả mười
phương thế giới.
Tám rưởi học giáo lý đến mười giờ. Cuối
ngà
y rồi, lẽ ra phải mệt mõi, uể oải ngồi nghe, nhưng
cả hội trường im phăng phắc, các học viên vẫn nhất tâm
ngồi nghe các Thầy giảng không chớp mắt như đang thấm nhuần
những vị ngọt từ giọt nước cam lồ, nhỏ xuống, thấm sâu
vào từng mảnh đất tâm cằn cổi, khô khan.
Mười rưởi hô canh, học viên phải nhanh
chóng về nơi nghỉ, ngồi thiền, niệm
Phật, sau đó năm phút, ba tiếng kẻng báo hiệu giờ chỉ tịnh,
đi ngủ. Nhưng đã có mấy ai chịu ngủ liền đâu, học viên
vẫn thì thầm, chuyện trò to nhỏ cho đến
gần nửa đêm mới dứt, làm Thầy giám thị và quản
chúng đôi khi phải ...thở dài, từ bi thông cảm .
Vào hai ngày cuối tuần, số Phật tử về
chùa tham dự đông hơn, lên đến gần
hai trăm vị, thế mà sinh hoạt vẫn đều đặn, hài
hoà, không có gì chướng ngại, tuy phòng ăn
hơi chật nhưng rồi cũng dung chứa được hết quí Thầy và
số lượng đông học viên.
Thời khắc như thế
đều đặn được hai ngày, ngày thứ ba cũng thế, duy
chỉ có buổi chiều sau khi dùng cơm, không có tụng kinh hay
giáo lý chi cả. Quí Thầy dành trọn buổi tối cho thời Pháp
đàm, tham vấn, văn nghệ. Phật tử góp
phần văn nghệ thật hào hứng, quý Thầy cũng đóng
góp nhiều tiết mục thật đặc sắc.
Tôi thì ..... không được hưởng trọn vẹn
niềm vui, vì sau bữa cơm chiều, Thượng Toạ trưởng ban tổ
chức đã giao cho tôi một trách nhiệm nặng nề là đại diện
cho các học viên đứng ra phát biểu cảm tưởng. Tôi như
người mất hết hồn vía khi nghe như vậy, tôi tài hèn, sức
kém, đâu thế nào qua một đêm mà có thể ‘nặn óc’ viết
ra một bài cảm tưởng rồi đọc, phát
biểu trước gần hai mươi vị Thầy, gần hai trăm học viên
và ống kính thu hình ... eo ơi, ghê quá, hãi hùng quá ...
Tôi đ
ã làm việc này khi đi Ấn Ðộ, cũng
được chỉ định vào giờ
chót nên tôi biết rất là khó khăn, nan giải, khi ấy, ít Phật
tử nhưng nhiều Thầy Cô hơn nhưng tôi chỉ là kẻ lạ. Tôi
đã đứng phát biểu cảm tưởng trong hội trường khách sạn
trước mặt tất cả mọi người và ống kính, nhờ ơn trên
giúp đỡ, tôi đã thành công
viên mãn. Nhưng ở đời, dễ gì được thành công mãi mãi?
Tôi suy nghĩ kỷ rồi rụt rè lên xin Thầy cho con miễn, vì
con ở tỉnh nhỏ lên thành phố lớn tu học, ở Sydney, thành
phố lớn, có rất nhiều nhân tài ẩn danh. Nhưng Thầy dạy
cho tôi là phải ‘y giáo phụng hành’ , không được cãi lại
Thầy, nên tôi sợ ngoan ngoãn tuân theo lời Thầy.
Hôm sau, ngày cuối tôi bận bù đầu, phải
thi cử mà chưa dò bài vì tôi có tên trong ban ẩm thực phải
nấu cơm. Tôi rất sợ thi nên viện lẽ với Thầy là tôi phải
viết bài tác bạch vào máy vi tính, Thầy đâu
có cho tôi miễn phần đó, Thầy lùa tôi vào phòng thi.
Phòng thi không nghiêm trọng và kinh khiếp như những kỳ thi
ở đại học nên tôi hơi an tâm làm bài và tạm thời quên
bài tác bạch trong giây lát.
Thi xong, tôi còn chút thì giờ viết lại bài
tác bạch sau khi Thầy Quảng Hoà đã ‘kiểm duyệt’, cũng
nhờ Thầy Phổ Huân viết vào máy vi tính dùm tôi một đoạn
nên tôi yên tâm phần nào. Chỉ còn cần thực hành, đọc cho
trơn tru là đủ, tuy mình viết ra, đó
là tác phẩm của mình, nhưng vẫn cần đọc lại cho
mượt mà, xuôi vần, êm tai.
Tôi lại được hân hạnh trao thê
m một
trọng trách quan trọng khác là tác bạch cúng dường tịnh tài
lên quí Thầy. Lần này tôi đở sợ nên rất hoan hỉ vâng lời
Thầy.
Cúng quả đường, thọ trai xong, các vị đi
kinh hà
nh lên Thiền Ðường, còn lại ban chúng tôi phải
dọn dẹp, rửa chén bát, gần xong thì được Thầy gọi lên
dự lễ bế mạc. Tôi buồn man mác vì mới họp mặt đây,
giờ đã chia tay trong khung cảnh trang nghiêm, trong tình
thương, thông cảm, cùng một tầng số tâm tư khắc khoải được
giải thoát giữa những người con Phật khắp bốn phương về
đây quy tụ. Ð?y là một mái ấm đại
gia đình của những người con Phật. Một gia đình tâm
linh cao quý không dễ gì tìm được
giữa đời sống xa hoa, vật chất ở Hải Ngoại này.
Lễ bế mạc đã được mở đầu với kết
quả kỳ thi của hai lớp một và hai, đọc tê
n những
thí sinh ưu tú, phát chứng chỉ tu học cho mỗi học viên, điểm
hay nhất của khoá học làm tôi tâm đắc là học viên nào cũng
có chứng chỉ, trong chứng chỉ không hề ghi
kết quả, xếp hạng kỳ thi để thể hiện sự bình đẳng.
Kế đến là đạo từ của quý Thầy. Rồi đến phiên tôi đại
diện cho tất cả học viên , ra phát biểu cảm tưởng. Tôi
biết tôi đang lãnh một trách nhiệm thật cao cả, danh
dự, thiêng liêng, tôi phải cố gắng hết sức mình để làm
sao không phụ lòng tín nhiệm của quí Thầy.
Trước ảnh đức Phật Thích Ca và
quí
Thầy, sau lưng tôi là hơn một trăm học viên, trước ống kính
thu hình, thu thanh, đang chú mục đến
một mình tôi, tôi biết đây là giờ phút quan trọng,
tôi phải thực hành cho nghiêm chỉnh. Tôi niệm thầm hồng
danh đức Quán Thế AÂm để cầu gia
bị, cúi lạy tam bảo ba lạy rồi quỳ xuống từ tốn đọc
bài phát biểu cảm tưởng như sau:
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu
Ni Phật.
-Kính bạch Hòa Thượng Hội
chủ, Kính bạch chư tôn Ðức Tăng
Ni lãnh đạo Giáo Hội.
-Kính bạch Thượng Tọa
Trưởng Ban Tổ chức Khóa Học và chư tôn đức
Tăng Ni trong Ban Tổ Chức, Ban Chức sự, Ban Giảng huấn của
---Khóa Tu học,
-Kính thưa quý vị pháp hữu
Phật tử đồng tu.
Sau đây, chúng con đại diện
cho các học viên, có đôi lời cảm tưởng về những ngày
tu học vừa qua.
Kính bạch chư tôn đức,
Chúng con thiết nghĩ: ‘Con
người có hai phần là tâm linh và thể xác’. Phần thể xác
một ngày kia sẽ bị hũy hoại . Phần tâm linh trường tồn mãi
mãi, cho dù thể xác không còn.
Phật tử
có hai gia đình là huyết thống và tâm linh.
Gia đì
nh
huyết thống gồm có tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh chị em.
Gia đì
nh
tâm linh gồm có mái chùa, chư Phật, chư Bồ Tát, chư Tăng
Ni, huynh đệ.
Năm nay, chúng con câu hội về
đây từ khắp các tiểu bang để tạ
o
nên một đại gia đình tâm linh,
trong 4 ngày ngắn ngũi. Tuy chỉ 4 ngày thôi, nhưng công năng
tu học đã làm cho " lòng đất nở hoa", từ những
cụ già sáu mươi, bảy mươi đến những em bé mới bảy tám
tuổi. Chúng con sống những ngày tu học tại chùa còn hơn sống
100 năm trên trần thế mà chưa
tỏ ngộ đạo mầu !!!
Nơi chốn A Lan Nhã, nơi rừng
núi bao la, cỏ cây tươi mát tạo cho chúng con dịp rũ áo
phong sương, quay về lại chính mình.
Môi trường thiên nhiên
thanh tịnh giúp cho chúng con thư thái tâm hồn, thư dãn thể
xác hầu quên đi những tháng ngày bận rộn nơi đô thị hồng
trần.
Chúng con đang lội ngược dò
ng
nước nên bị thử thách cam go: Ngay trong ngày đầu,
những cơn cháy rừng đã gây chướng ngại khiến phải
trở về chốn già lam Pháp Bảo.
Dù bị trắc trở chúng con
không hề thối bồ đề tâm. Về gần
đô thị lại tạo thêm cơ hội, nhân duyên cho những vị
không đi được trọn khoá, vẫn có
thể vào chùa tham dự được vài ngày cuối tuần. Ðó
cũng là một thuận duyên lớn lao cho các vị thiếu phương tiện
nhưng muốn tu học. Thành viên gia đình lên đến gần 200 vị.
Khung cảnh tự viện gồm có
tượng các vị Phật, Bồ Tát, đã
nhắc nhở chúng con tu theo hạnh nguyện các Ngài; có hồ sen
thơm ngát để chúng con gieo hạt từ hoà, chờ ngày đơm hoa,
kết trái.
Có các thầy để chúng con
chiê
m ngưởng, học, nghe và
tuân hành.
Mặc dù phương tiện sinh hoạt
quá tải, nhưng sống trong pháp lục hòa nên chúng con sống an
nhiên tự tại, tu học thật tinh tấn.
Chúng con đã
hưởng trọn những cơn mưa pháp trong suốt thời gian này. Nhờ
những trận mưa rào, hạt giống Phật đã từ từ nẩy mầm
trong tâm thức, trên mỗi khuôn mặt đại
chúng, niềm hoan hỉ an lạc đã hiển lộ, toát ra bên
ngoài một nét nhu nhuyễn, tự tại, tuy chúng con phải ăn
chay nằm đất.
Nhờ chư Phật, Bồ Tát,
Long Thiên Hộ pháp gia hộ, chúng con vẫn khoẻ mạnh, vui vẻ,
hài hoà cho đến ngày cuối.
Quý thầy đã
từ bi, thương xót cho chúng con nên không quản ngại đường
xá xa xôi, bỏ những công việc đa đoan nơi trú xứ để đến
đây dìu dắt chúng con trên con đường
đi lên chánh giác. Chúng con xin thành tâm tri ân chư vị
Hòa Thượng, Thượng Tọa, Ðại Ðức, Tăng Ni cùng ban ẩm thực
đã hết lòng lo lắng cho chúng con trong suốt thời gian qua.
Chúng con nguyện sẽ đem về nơi tiểu bang chúng con những lời
quý Ngài giảng dạy, để những vị không có nhân duyên đi
tu học có thể học hỏi thêm, đồng thời, khuyến khích các
vị trở thành một thành viên gia đình trong tương lai.
Chúng con ngưỡng mong các vị
Hòa Thượng, Thượng Tọa, Ðại Ðức, Tăng
Ni từ bi gia hộ cho đại gia đình tâm linh này được
duy trì, đoàn tụ mỗi năm và sẽ lớn mạnh, trường tồn mãi
mãi trong tương lai.’
Tôi phải vén khéo bài phát biểu trong vòng mười
phút, nhưng bài trên ngắn gọn nên chưa đến
mười phút, tôi đã kết thúc và lui về chỗ ngồi.
Sau đó, Tôi cù
ng hai em Phật tử ở
chùa Phổ Minh lên cung kính cúng dường tịnh tài lên quí Thầy
với bài tác bạch ngắn gọn như đã ví chúng tôi là những
gã cùng tử găp được ông Cha lành
dìu dắt trên con đường chánh giác, sống trong thiện pháp lạc
trú, hiện tại nhiệm màu. Ðể tỏ lòng hiếu thảo của
chúng con đối với đấng Cha hiền,
chúng con có chút tịnh tài kính dâng lên người Cha thân
yêu. Xin Cha từ bi, hoan hỉ nạp thọ cho chúng con được ơn
triêm công đức.
Buổi lễ kết thúc trể hơn dự tính một giờ,
vào lúc bốn giờ , quí Thầy và các học viên nhanh chóng thu
dọn hành lý trở về. Khung cảnh chia tay bao giờ cũng buồn
hơn vui, nhất là vào buổi chiều cuối năm 2001, chúng tôi cũng
từ giã, cám ơn quý Thầy và bà con Phật tử rồi ra xe về
nhà người quen nghĩ ngơi.
Chuyến du hành đã kết thúc bằng chương trình
thăm viếng một số tự viện ở Canberra và Melbourne. Lúc đi
thì vui, khi khoá tu đã kết thúc, không còn ai muốn đi
đâu nữa nên chúng tôi về lại Adelaide sớm hơn dự tính.
Qua chuyến du hành, chúng tôi đã hiểu và gần nhau hơn trong
đạo pháp để rồi hẹn hò nhau sẽ
tổ chức đi một chuyến tu học nữa khi nào giáo hội
tổ chức vào cuối năm nay. Tôi và các bạn vẫn còn hưởng
niềm vui này và nhắc đến mãi mỗi khi gặp lại nhau ở
chùa thọ bát hay sám hối. Tôi chỉ thầm mong rằng sẽ được
“hữu cầu, tất ứng” như năm vừa qua.
Chỉ có trí tuệ mới là sự nghiệp quan trọng
và trường cửu trong đời tôi qua bốn
câu:
"DUY TUỆ THỊ NGHIỆP".
Adelaide
13/01/2002
TAL
--- o0o ---
| Mục lục Tác giả |
Cập nhật ngày:
14-01-2002