Làm Chủ
Vận Mệnh
Thích Minh Quang
biên dịch
Ban Ấn Tống Giác Nguyên
129F/186/2 Bến Vân Đồn, P.4, Q.4, T.P. HCM (GP.117-88/XB/01.2001)
---o0o---
LỜI ĐẦU SÁCH
Làm Chủ Vận Mệnh là
sách ghi lại lời gia huấn của Viên Liễu Phàm đời Minh Trung Quốc, mục đích
dạy cho con ông là Viên Thiên Khải biết được chân tướng vận mệnh, phân
biệt tiêu chuẩn thiện ác, nắm vững phương pháp cải ác làm lành, cho đến
những ứng nghiệm của việc hành thiện, tích đức, khiêm tốn, v.v... Câu
chuyện này đều là người thật việc thật, và đạo lý nói đến được nghiệm
chứng bằng chính kinh nghiệm cải đổi vận mệnh của tác giả Viên Liễu Phàm.
Đây thật là một quyển sách quý, có ích cho thế đạo nhân tâm, chuyển hóa
lòng người, xây dựng xã hội an lạc.
Song
nguyên tác được viết bằng Hán cổ, không dễ gì cho người hiện nay đọc hiểu.
Cho nên vào năm đầu Dân Quốc, có Hoàng Trí Hải tiên sinh đã không ngại
khó, dùng tiếng Bạch Thoại chú giải tường tận, mục đích đại chúng hóa sách
này, khiến mọi người thấm nhuần pháp ích. Có thể nói, đây là việc làm khổ
nhọc với hoài bảo to lớn, công đức thật vô lượng. Bản chú giải của Hoàng
Trí Hải được truyền bá rộng rãi trong dân gian, với ưu điểm là nội dung
phong phú, tường tận. Song đó cũng là chỗ khuyết điểm của nó. Vì người
hiện nay không đủ kiên nhẫn và thời gian để đọc dài dòng, e rằng vì lý do
này sẽ ảnh huởng đến hứng thú đọc quyển sách quý, thì thật là điều đáng
tiếc.
Học Hội
Hoằng Pháp Liễu Phàm và Ban Ấn Tống Giác Nguyên nhận thức được điểm này,
nên đã phát tâm chỉnh lý, biên tập, phiên dịch và cho in ra, để giúp mọi
người dễ đọc dễ hiểu, sinh tâm hoan hỉ. Lại do các vị thiện tâm cùng góp
phần công đức, đọc thu thành băng ghi âm. Quyển sách này chính là bản căn
cứ cho phần ghi âm. Hy vọng rằng những ai được đọc, được nghe, sẽ học theo
tinh thần làm chủ vận mệnh của Liễu Phàm tiên sinh, cải đổi những điều
không tốt, và sáng tạo một tương lai xán lạn cho mình, cho quốc gia xã
hội, cho đến toàn thể nhân loại.
CHƯƠNG
MỘT
MÔN HỌC LẬP
MỆNH
Lập
mệnh chính là sáng tạo ra vận mệnh, không để bị vận mệnh trói buộc. Chương
Lập Mệnh này, chính là bàn đến cái học lập mệnh, giải giải đạo lý an thân.
Viên Liễu Phàm tiên sinh đã đem kinh nghiệm bản thân, cùng nhiều nghiệm
chứng trong việc cải đổi vận mệnh để dạy cho con trai. Ông muốn con trai
mình là Viên Thiên Khải không nên bó tay trước vận mệnh, mà phải gắng hết
sức cải đổi vận mệnh, bằng cách hành thiện, đoạn ác, như người xưa nói:
Đừng chê điều thiện nhỏ mà không làm, đừng khinh điều ác nhỏ mà làm.
Nếu làm được như vậy, nhất định sẽ cải đổi vận mệnh, như người xưa từng
nói: Đoạn ác tu thiện, dứt trừ tai ương, phước thọ miên trường. Đây
chính là nguyên lý cải đổi vận mệnh.
Ngàn người ngàn số mệnh, mỗi mệnh mỗi khác nhau. Viên Liễu Phàm đời Minh,
vận mệnh vốn bình thường, gặp được Khổng tiên sinh, đoán số đều trúng cả.
Chết yểu lại tuyệt hậu, công danh chẳng có đâu, do đời trước nghiệp sâu.
Suốt hai mươi năm dài, sống theo dòng nghiệp xoáy, đúng số mệnh chẳng sai.
Gặp thiền sư Vân Cốc, khai thị cho pháp lành, Viên Liễu Phàm cư sĩ, mới
chuyển đổi mệnh mình, mới chuyển đổi mệnh mình.
Cha
thuở nhỏ mất cha sớm. Bà nội bảo cha bỏ học, không nên đi thi đeo đuổi
công danh, mà đổi học ngành y làm thầy trị bệnh. Bà nội bảo: “Học nghề
thuốc vừa có thể kiếm tiền nuôi thân, vừa có thể cứu giúp người khác. Nếu
y thuật đến mức cao minh, cũng có thể trở thành y sư danh tiếng. Đây chính
là tâm nguyện của cha con khi còn sinh tiền”.
Về sau
cha ở chùa Từ Vân tình cờ gặp được một ông lão tướng mạo phi phàm, râu dài
phất phới, có vẻ tiên phong đạo cốt. Cha do đó cung kính vái chào. Ông lão
bảo: “Ngươi là người trong chốn quan trường năm sau có thể đi thi, bước
vào hàng trí thức cao, thế tại sao không chịu đi học?”
Cha trả
lời vì ý của bà nội muốn cha bỏ học để đeo đuổi ngành y. Kế đó cha lại hỏi
tính danh, nơi cư trú của cụ, cụ đáp: “Ta họ Khổng, người Vân Nam, được
chân truyền của Triệu Khương Tiết tiên sinh, người tinh thông về dịch số
Hoàng Cực. Tính theo số định, ta phải tuyền môn dịch số này cho ngươi”.
Do đó,
cha đưa vị tiên sinh này về nhà, thưa lại mọi việc với bà nội. Bà nội bảo
cha phải tiếp đãi cụ chu đáo. Lại còn dạy rằng: “Vi tiên sinh này tinh
thông dịch số vận mệnh. Vậy con thử nhờ cụ tính cho một quẻ xem sao. Thử
coi có linh nghiệm hay không”.
Kết quả
thật không ngờ, Khổng tiên sinh tính số mệnh cha, dù là việc nhỏ cũng vô
cùng chính xác. Cha nghe theo lời cụ, có ý định đi học lại, nên bàn với
người anh họ tên là Thẩm Xưng. Anh họ bảo: “Tôi có một người bạn thân
tên là Úc Hải Cốc mở lớp dạy học ở nhà Úc Hữu Phu. Tôi đưa cậu đến đó ở
trọ theo học, rất tiện”.
Từ đó
cha bắt đầu theo tiên sinh Úc Hải Cốc học tập. Một lần Khổng tiên sinh
tính số cho cha bảo: “Lúc ngươi chưa có công danh, còn là học sinh, thi
Huyện đứng hạng mười bốn, thi Phủ đứng hạng bảy mươi mốt, thi Đề Học đứng
hạng chín”.
Đến năm
sau, cha đi thi ba nơi, thứ hạng quả nhiên đúng như lời Không tiên sinh
nói. Khổng tiên sinh lại tính cho cha một quẻ kiết hung họa phúc suốt đời.
Cụ bảo: “Ngươi vào năm nào đó sẽ thi đậu hạng mấy, vào năm nào đó sẽ bổ
chức Lẫm sinh, vào năm nào đó lên chức Cống sinh, và năm nào đó được chọn
làm Huyện truởng một huyện thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Làm chức Huyện truởng được
ba năm rưỡi, bèn từ quan về quê. Vào giờ sửu ngày mười bốn tháng năm năm
mươi ba tuổi, ngươi sẽ từ trần tại nhà. Tiếc rằng số của ngươi không có
con trai”.
Những
lời này cha đều ghi lại, và nhớ kỹ trong lòng. Từ đó về sau mỗi khi thi
cử, thứ hạng đều đúng như lời Khổng tiên sinh đã đoán. Chỉ có điều cụ đoán
số thóc mà cha lãnh khi làm chức Lẫm sinh là chín mươi mốt thạch năm đấu,
sau đó mới thăng chức. Không ngờ khi mới nhận được bảy mươi mốt thạch
thóc, quan Học Đài là Đồ tông sư phê chuẩn cha được bổ chức Cống sinh. Cha
nghĩ thầm trong bụng: Khổng tiên sinh đoán số cũng có chỗ không linh
nghiệm.
Không
ngờ sau đó giấy phê chuẩn thăng chức của cha bị quan Học Đài thay thế là
Dương tông sư bác bỏ, không cho làm chức Cống sinh. Mãi đến năm Đinh Mão,
Ân Thu Minh tông sư xem thấy bài dự thi tuyển của cha, thấy không được
chấm đậu, nên lấy làm tiếc, than rằng: “Năm bài văn sách làm trong
quyển thì nàykhác nào tấu điệp dâng lên cho vua. Người có học thức như thế
này lẽ nào lại để cho mai một đến già?”
Do đó
ông dặn quan huyện đưa hồ sơ của cha lên chỗ ông, phê chuẩn cha bổ chức
Cống
sinh. Trải qua sự trắc trở này, cha huởng thêm một số thóc của chức Lẫm
sinh, cộng với bảy mươi mốt thạch thóc đã ăn khi trước, vừa đúng chín mươi
mốt thạch năm đấu. Sau khi xảy ra sự việc này, cha càng tin tuởng: Công
danh tiến thoái thăng trầm của một đời người đều do số mạng định sẵn. Sự
thành đạt đến sớm hay muộn, đều có thời gian nhất định. Do đó cha xem
mọi thứ bình thường, không còn có lòng tranh cầu gì nữa.
Khi
được tuyển làm chức Cống sinh, theo quy định phải đến trường Quốc Tử Giám
ở Bắc Kinh để học. Cho nên cha ở kinh thành một năm, suốt ngày ngồi yên,
không nói chuyện, cũng không khởi tư tuởng. Tất cả sách vở đều không xem
đến. Đến năm Kỷ Tỵ, cha trở về học ở trường Quốc Tử Giám tại Nam Kinh,
tranh thủ thời gian trước khi nhập học, đến núi Thê Hà bái kiến thiền sư
Vân Cốc. Ngài là một vị cao tăng đắc đạo.
Cha
ngồi đối diện với thiền sư trong một gian thiền phòng suốt ba ngày ba đêm,
không hề chợp mắt. Vân Cốc thiền sư hỏi: “Người ta sở dĩ không thể trở
nên thánh nhân chỉ vì vọng niệm trong tâm khởi lên không ngừng. Ngươi tịnh
tọa ba ngày, ta chưa từng thấy ngươi khởi lên một niệm vọng tuởng, đó là
vì sao?”
Cha
đáp: “Số mệnh của tôi đã được Khổng tiên sinh xem rõ rồi. Lúc nào sinh,
lúc nào chết, lúc nào đắc ý, lúc nào thất ý đều có số định sẵn, không cách
gì thay đổi được. Vậy cho dù có nghĩ tuởng mong ước cái gì đi nữa cũng vô
ích. Cho nên tôi chẳng thèm nghĩ tuởng, do đó trong tâm cũng không có vọng
niệm.”
Vân Cốc
thiền sư cười bảo: “Ta vốn cho rằng ông là bậc trượng phu xuất chúng,
nào ngờ chỉ là kẻ phàm tu tục tử tầm thường!”
Cha
nghe xong không hiểu, bèn thỉnh giáo tại sao lại như thế. Vân Cốc thiền sử
bảo: “Một người bình thường không sao tránh khỏi tâm ý thức vọng tuởng
xáo trộn. Đã có tâm vọng tuởng không dừng, thì phải bị âm dương khí số
trói buộc. Đã bị âm dương khí số trói buộc, sao có thể bảo là không có số
mệnh được? Tuy nói rằng có số, song chỉ người bình thường mới bị số mệnh
trói buộc. nếu là một người cực thiện, thì số mệnh không sao ảnh huởng
được đến anh ta.
Bởi
vì người cực thiện, cho dù số mệnh vốn có chú định phải chịu khổ sở, nhưng
nhờ làm được điều thiện cực lớn, sức mạnh của việc thiện lớn này, có thể
chuyển khổ thành vui, nghèo hèn đoản mệnh thành phú quý trường thọ.
Còn
người cực ác, số cũng không ảnh huởng được họ. Vì cho dù số mệnh họ chú
định được huởng phước, song vì họ gây tạo việc ác lớn, chính sức mạnh của
việc ác này khiến phước trở thành họa, giàu sang trường thọ trở nên nghèo
hèn chết yểu.
Số
mệnh của ông trong hai mươi năm được Khổng tiên sinh đoán trước, không
từng biết cải đổi một chút, trái lại còn bị số mệnh buộc chặt. Một người
bị số mệnh buộc chặt chính là phàm phu tục tử. Vậy ông không phải là kẻ
phàm phu tục tử hay sao?”
Cha hỏi
Vân Cốc thiền sừ rằng: “Theo như thiền sư nói, thì số mệnh có thể cải
đổi được chăng?”
Thiền
sư trả lời: “Mệnh do tự mình tạo, phước do chính mình tìm. Ta làm ác tự
nhiên bị tổn phước; Ta tu thiện tự nhiên được phước báo. Sách vở mà cổ
nhân để lại xưa nay, đã chứng minh tính chính xác của đạo lý này. Trong
kinh Phật nói: Muốn cầu phú quý được phú quý, muốn cầu con trai con gái
được con trai con gái, muốn cầu trường thọ được trường thọ.
Chỉ
cần tu tạo việc lành, thì số mệnh không sao trói buộc được chúng ta. Nói
vọng ngữ là đại giới của nhà Phật, chẳng lẽ Phật và Bồ tát lại lừa dối
chúng ta sao?”
Cha
nghe xong trong lòng vẫn chưa hoàn toàn minh bạch, mới hỏi thêm rằng:
“Mạnh tử từng nói: Bảo rằng cầu mà có thể được, là chỉ những gì ở trong
lòng ta có thể làm được. Nếu không phải là những gì ở trong lòng, thì làm
sao có thể nhất định cầu được? Ví như nói đạo đức nhân nghĩa, toàn là
những thứ ở trong tâm chúng ta, ta lập chí làm một người nhân nghĩa đạo
đức, thì tự nhiên trở thành người nhân nghĩa đạo đức. Đây là cái mà ta có
thể tận lực để cầu. Còn như công danh phú quý, là cái không ở trong tâm,
vốn ngoài thân chúng ta, nếu người khác chịu cho, ta mới có thể được. Còn
như người ta không chịu cho, ta không cách nào có được, vậy ta làm sao có
thể cầu?”
Vân Cốc
thien sư bảo: “Lời nói của Mạnh tử không sai, song ông giải thích lại
sai! Ông không thấy Lục Tổ Huệ Năng nói sao: Tất cả các loại phước điền
đều quyết định trong tâm chúng ta. Phước không lìa tâm, ngoài tâm không có
phước để cầu. Cho nên trồng phước hay gieo họa, đều do nơi tâm chúng ta.
Chỉ cần từ tâm mình đi cầu phước, không có gì mà không cảm ứng ra.
Nếu
biết từ tâm mình mà cầu, thì không những cầu được nhân nghĩa đạo đức trong
lòng, mà công danh phú quý bên ngoài cũng cầu được. Đó gọi là trong ngoài
đều được. Nói cách khác, dùng cách gieo trồng ruộng phước để cầu, thì nhân
nghĩa, phước lộc chắc chắn sẽ được.”
Một
người số mệnh có công danh phú quý, cho dù không cầu cũng có; còn như số
mệnh không có công danh phú quý, cho dù có cầu cũng vô ích.
Cho nên
chúng ta nếu không biết kiểm điểm xét lại mình, chỉ hướng ngoại tìm cầu
công danh phú quý một cách mù quáng, thì không chắc chắn có được, vì nó
còn lệ thuộc vào phước báo sẵn có của mình. Đó là khế hợp với ý hai câu
nói của Mạnh tử: “Cầu phải có đạo lý, còn được hay không là do số
mệnh”.
Phải
biết rằng, cho dù chúng ta cầu mà được, thì đó cũng là phước báo sẵn có
của chính chúng ta, mà không phải chỉ do cầu mà có hiệu nghiệm! Cho nên
cái gì đáng cầu mới cầu, mà không nên cầu một cách vô nguyên tắc, không có
đạo lý!
Nếu
như phước báo không có mà khăng khăng muốn cầu, thì không những công danh
phú quý cầu không được, mà còn do vì tâm tham cầu quá đáng, không có mức
độ, bất chấp thủ đoạn, nên đánh mất cả nhân nghĩa đạo đức trong tâm. Như
vậy chẳng phải trong ngoài đều mất cả sao? Vì vậy cầu mà không có đạo lý
là vô ích.
Cầu phú quý, được phú quý; cầu trường thọ, được
trường thọ; Cầu gái trai, được gái trai. Điều gì nguyện ước tất xong ngay;
điều gì nguyện ước tất xong ngay. Chỉ cần làm việc thiện, cầu ngay tại tâm
mình, tâm chính là ruộng phước, đó đạo lý nguyện cầu; tâm chính là ruộng
phước, đó đạo lý nguyện cầu!
Vân Cốc
thiền sư tiếp đó hỏi: “Khổng tiên sinh đoán số mệnh cả đời của ông như
thế nào?”
Cha
thuật lại tường tận những gì Khổng tiên sinh đã tính, vào năm nào thi đậu
hạng mấy, năm nào làm quan, bao nhiêu tuổi mất v.v... Vân Cốc thiền sư
bảo: “Ông tự suy xét sem, mình có thể thi đậu được công danh không? Có
thể có con trai hay không?”
Cha xét
lại những việc làm của mình đã qua, suy nghĩ rất lâu mới trả lời: “Tôi
không có phước tướng, nên biết phước báo không có bao nhiêu; lại không
biết tích công đức, làm việc thiện để vun bồi phước báo. Lại thêm tôi
không biết nhẫn nại, chịu gánh vác những việc phức tạp, nặng nề. Tôi lại
có tánh hẹp hòi, nóng nảy, ai làm gì sai không thể bao dung. Có lúc tôi
còn tự cao tự đại, đem tài năng, trí thức của mình ra lấn lướt người khác.
Tôi muốn làm gì thì làm, nói năng tùy tiện. Những biểu hiện trên là tướng
bạc phước, làm sao có thể thi đậu được công danh?
Sạch
sẽ là một đức tính tốt, song nếu quá mức sẽ trở thành tánh khí khó chịu.
Nên người xưa bảo: Chỗ nào nhiều phân rác, cây cối lại tốt tươi; nơi nào
nước quá sạch, tôm cá không thể sống. Tánh tôi thẳng thắn, trong sạch quá
mức, thành ra bất cận nhân tình. Đây là nguyên nhân thứ nhất tôi không có
con trai.
Vạn
vật phải nhờ vào ánh dương quang ấm áp, gió mưa mát mẻ thấm nhuần mới sinh
truởng được. Tánh tôi lại nóng nảy giận hờn, không có hòa khí tươi mát làm
sao có thể sinh được con trai? Đây là nguyên nhân thứ hai.
Nhân
ái là cội rễ của sự sống. Nếu tâm tàn nhẫn, không có từ bi thì khác nào
như
trái cây không
hạt, làm sao nảy mầm mọc thành cây khác? Cho nên người xưa bảo: Tàn nhẫn
là gốc của tuyệt tự. Tôi chỉ biết yêu tiếc danh tiết của mình, không chịu
hy sinh bản thân để thành toàn cho người khác, làm điều thiện, tích công
đức. Đó là nguyên nhân thứ ba tôi không có con trai.
Nói
nhiều dễ dàng hại đến khí. Tôi lại nhiều lời, nên thân thể không được khỏe
mạnh, làm sao mà có được con trai? Đây là nguyên nhân thứ tư tôi không có
con trai.
Người ta sống là nhờ tinh, khí, thần. Tôi thích uống rượu. Rượu làm tiêu
tấn tinh thần. Một người tinh lực không đầy đủ, cho dù sinh ra con trai
cũng không được trường thọ. Đây là nguyên nhân thứ năm tôi không có con
trai.
Người ta ban ngày không nên ngủ, ban đêm không nên thức. Tôi thường ngồi
suốt đêm, không chịu ngủ sớm. Đó là không biết bảo dưỡng nguyên khí tinh
thần. Đây là nguyên nhân thứ sáu tôi không có con trai. Ngoài ra còn có
nhiều sai lầm, không sao nói hết.
Vân Cốc
thiền sư bảo: “Ông như vậy không những không có được công danh, mà
nhiều thứ khác cũng không có được. Nên biết có phước hay không phước, đều
do tâm ta tạo. Người có trí tuệ biết rằng đó là tự mình làm, tự mình nhận
lấy kết quả. Người không hiểu biết, lại đổ thừa cho vận mệnh.
Ví
dụ như trên thế gian có người giàu sang, sản nghiệp ngàn lượng vàng, đó là
họ có phước báo ngàn lạng vàng. Người có sản nghiệp trăm lạng vàng, đó là
họ có phước báo trăm lạng vàng. Còn người nghèo cùng chết đói, là họ có
quả báo chết đói. Ví dụ như người lành tích đức, trời sẽ cho họ huởng phần
phước báo tương ứng; kẻ ác tạo tội, trời sẽ bắt họ chịu tai họa tương ứng.
Nói trời, là chỉ thiên lý, tức luật nhân quả tự nhiên, mà không phải có ai
ban phước hay giáng họa.”
Tiếp
theo là Vân Cốc thiền sư mượn cái thấy của người thế tục để khuyên cha
tích đức hành thiện: “Còn việc sinh con trai, giống như chúng ta gieo
hạt vậy. Nhân tốt sẽ gặt quả tốt, nhân xấu sẽ có quả xấu. Một người tích
chứa công đức được một trăm đời, thì có con cháu trong một trăm đời gìn
giữ phước báo của họ. Một người tích chứa công đức được mười đời, thì có
con cháu trong mười đời gìn giữ phước báo của họ. Tích chứa công đức được
hai ba đời, thì có con cháu trong hai ba đời giữ gìn phước báo của họ. Còn
người chỉ huởng phước trong một đời, đến đời sau lại tuyệt hậu, đó là vì
công đức tích chứa chỉ bấy nhiêu. Song tội nghiệp của người đó có lẽ lại
không ít!
Ông
đã tự biết khuyết điểm của mình, thì phải hết lòng hết sức cải đổi những
tính xấu, biểu hiện bạc phước khiến không được công danh và con trai đó.
Ông nhất định phải làm lành tích đức, đối với người hòa khí từ bi, bao
dung độ lượng và quý tiếc gìn giữ tinh thần của mình.
Hãy
coi tất cả những việc trước kia như hôm qua đã chết đi; còn những việc về
sau như hôm nay mới sinh ra. Biết sống trong hiện tại. Làm được việc này
là ông đã có một sinh mệnh mới. Đó là sinh mệnh nhân nghĩa đạo đức. Thân
huyết nhục của chúng ta còn có khí số nhất định; song còn sinh mệnh nhân
nghĩa đạo đức không bị số mệnh trói buộc, có thể cảm đến thiên lý. Thiên
Thái Giáp trong Kinh thư nói: Trời giáng xuống tai họa còn có thể tránh;
tự mình gây ra tai họa thì không thể tránh, ắt phải chịu khổ.
Kinh
thi cũng nói: Người ta phải thường xét nghĩ đến hành vi của mình có hợp
với đạo trời hay không? Nếu hợp đạo trời, thì phước báo không cầu cũng tự
nhiên đến. Cho nên phước hay họa đều là do mình.
Kinh Thư nói: Trời giáng họa tránh được; Mình gây
hoạ, khó tránh. Kinh thi nói: Thường phản tỉnh, xét lại mình, hợp hay
trái với đạo trời. Gặp phước hay gặp họa, tất cả là do ta. Tất cả là do
ta.
Khổng tiên sinh tính số cho ông bảo không có công danh, lại thêm không con
thừa tự. Tuy là bảo số trời định sẵn, song vẫn có thể cải đổi. Ông chỉ cần
mở rộng lòng đạo đức nhân nghĩa sẵn có, gắng sức làm lành, tích chứa âm
đức. Đó là ông tự mình tạo ra phước báo cho mình, người khác muốn cướp
giật cũng không được, làm sao mà không huởng được phước?
Kinh
Dịch cũng vì những người giữ lòng nhân đức mà tính trước nên đi hướng nào
sẽ kiết tường, tránh được những việc hung hiểm, những người hung hiểm,
những chổ hung hiểm.
Nếu
nói vận mệnh nhất định không thể thay đổi, thì làm sao có thể đến chỗ kiết
tường, tránh nơi hung hiểm? Chương mở đầu của Kinh Dịch đã nói: Gia đình
nào hành thiện, ắt sẽ dư nhiều phước báo, để lại cho con cháu. Đạo lý này
ông thực sự có tin không?”
Cha
tin lời Vân Cốc thiền sư, đảnh lễ tạ ơn và theo lời chỉ giáo. Cha đồng
thời đem những việc sai lầm tội lỗi lúc trước, không luận là lớn nhỏ nặng
nhẹ, ra trước Đức Phật phát lộ sám hối. Cha cũng làm một bài văn, trước
hết tỏ lòng nguyện cầu có được công danh, kế đó phát thệ nguyện làm ba
ngàn việc thiện, để đền đáp đại ân, đại đức của trời đất tổ tiên cha mẹ đã
sinh thành ra cha.
Vân Cốc
thiền sư nghe cha lập thệ làm ba ngàn việc thiện, liền đưa cho xem quyển
sổ ghi lại việc tội hay phước. Ngài dạy phải làm theo những lời dặn trong
đó. Phàm những việc làm của mình, không luận là thiện hay ác, mỗi ngày đều
phải ghi vào quyển sổ đó. Việc thiện thì ghi vào phần phước, còn việc ác
ghi vào phần tội.
Song
việc ác phải xem là lớn hay nhỏ, có thể dùng phần việc thiện đã ghi để
giảm trừ. Ngài còn dạy phải trì chú Chuẩn Đề, nhờ sức gia trì của chư Phật
để giúp nguyện ước sớm thành tựu.
Do đó
vận mệnh là tự mình tạo lấy. Nếu phân tách một cách tỉ mỉ để giảng, thì dù
giàu hay nghèo cũng không khác, đều phải làm theo đạo lý lập mệnh này. Khi
giàu không thể cậy tiền cậy thế hống hách, hiếp đáp người khác; mà phải
khiêm cung, chia sẻ giúp đở mọi người. Như vậy vận mệnh phú quý càng thêm
phú quý và có thể bảo tồn lâu dài. Khi nghèo vẫn giữ khí tiết, không làm
việc trái với lương tâm. Dù nghèo vẫn an phận thủ thường, làm một người
lương thiện. Như vậy mới có thể chuyển đổi vận mệnh bần cùng thành vận
mệnh phú quý. Cho nên, dù giàu hay nghèo đều phải bỏ ác làm lành, gieo
trồng ruộng phước.
Đoản
mệnh hay trường thọ cũng vậy. Không nên cho rằng mình vắn số, sống chẳng
bao lâu mà tranh thủ huởng thụ, mặc tình làm ác, vào đường đọa lạc. Nên
biết, vì nghiệp báo mình phải đoản mệnh, nên gắng sức làm lành, hy vọng
đời sau sẽ được trường thọ. Như vậy có thể đời này được sống lâu thêm.
Còn
người trường thọ cũng không nên ỷ lại mà mặc sức tạo ác, gian dối phạm
pháp, đắm mê tửu sắc. Nên biết trường thọ có được không dễ, nên biết phải
trân trọng, làm thêm điều lành để giữ gìn phước báo trường thọ này. Hiểu
được đạo lý này, mới có thể cải đổi đoản mệnh thành trường thọ; mệnh
trường thọ càng thêm lâu dài, càng thêm khỏe mạnh. Người ta sống trên đời,
việc hệ trọng nhất là sống và chết. Nếu có thể xem đoản mệnh và trường thọ
không khác, thì tất cả thuận cảnh, nghịch cảnh, giàu sang nghèo hèn, đều
bao quát trong đó.
Mạnh Tử
nói đến cái học về lập mệnh chỉ bàn đến đoản mệnh và trường thọ, mà không
nói đến giàu và nghèo, thành đạt và khốn cùng, cũng chính vì lý do này.
Vân Cốc
thiền sư lại bảo: “Mạnh Tử có câu “Tu thân để đợi đó”, là bảo: Tự mình
phải luôn luôn tu dưỡng đức hạnh, không nên làm ác gây tội dù là mảy may.
Còn như vận mệnh có cải đổi được hay không, đó là tùy thuộc việc tích đức
nhiều ít, hợp hay không hợp đạo trời.
Nói
đến chữ “tu thân”, là bảo sửa đổi những sai lầm, tội ác của chúng ta, như
uống thuốc trị bệnh. Còn bảo “đợi”, là chỉ phải đợi đến công phu tu thân
sâu dày, phước báo vun đắp đầy đủ, tội nghiệp tương ứng tiêu trừ, thì vận
mệnh sẽ tự nhiên chuyển đổi, trở nên tốt đẹp. Không nên có tư tuởng mong
muốn những gì vượt quá phận mình, để cho vọng tâm, dục tuởng làm mờ ám tâm
trí, mà phải giữ tâm bình thường, buông xuống mọi vọng niệm sinh diệt. Đến
trình độ này, đã đạt đến cảnh giới tâm như như bất động. Công phu này là
cái học chân chánh mà thế gian thọ dụng”.
Vân Cốc
thiền sư nói tiếp: “Hành vi của người bình thường tùy thuộc vào ý niệm.
Phàm việc gì còn khởi tâm phân biệt để làm thì không phải là tự nhiên, còn
có dấu vết. Ông hiện nay chưa thể đạt đến trình độ không động tâm. Khi ông
trì chú Chuẩn Đề không cần dụng tâm ghi nhớ, hay đếm bao nhiêu biến, cứ
niệm liên tục, không cho gián đoạn. Niệm đến lúc cực kỳ thuần thục, tự
nhiên miệng niệm mà tâm không cảm thấy niệm. Đó gọi là niệm mà không niệm.
Khi không niệm, trong tâm vẫn tự nhiên niệm. Đó gọi là không niệm mà niệm.
Niệm chú đạt đến trình độ đó, thì cả ba: người, chú và niệm đều hợp thành
một khối, không còn tạp niệm xen vào, như vậy không chú nào mà chẳng linh
nghiệm. Song công phu này, phải kinh qua thực hành, mới lãnh hội được.
Cha ban
đầu tên hiệu là Học Hải, song từ ngày đó trở đi đổi hiệu là Liễu Phàm. Bởi
vì sau khi hiểu rõ đạo lý lập mệnh, cha không muốn sống như kẻ phàm phu,
mà phát nguyện quét sạch kiến giải phàm phu, nên gọi là Liễu Phàm.
Từ đó
về sau, cả ngày cha đều chánh niệm tỉnh giác, cẩn thận từ lời nói, việc
làm cho đến ý nghĩ. Cha cảm thấy mình như thay đổi hẳn, trở thành con
người khác.
Lúc
trước cha sống tùy tiện, hồ đồ, không có kiềm thúc; đến nay trở nên cẩn
thận, cung kính, cảnh giác những điều bất thiện.
Cho dù
trong nhà, buổi tối không có ai đi nữa, cha cũng không dám tùy tiện, vì
biết có trời đất quỷ thần xét soi. Gặp người ganh ghét, hủy báng, cha vẫn
an nhiên, không chấp nhất, tranh luận với họ.
Năm thứ
hai sau khi tham kiến Vân Cốc thiền sư, cha đến bộ Lễ thi cử. Khổng tiên
sinh đoán số cha sẽ đậu hạng ba, không ngờ lại đậu được hạng nhất. Lời của
Khổng tiên sinh bắt đầu hết linh nghiệm. Khổng tiên sinh không nói cha sẽ
đậu cử nhân, song trong kỳ thi Hương mùa thu, cha lại thi đậu cử nhân. Đây
là do làm phước tích đức khiến số mệnh thay đổi. Vân Cốc thiền sư bảo:
“Vận mệnh có thể thay đổi”. Lời nói này đến nay đã được chứng
nghiệm, khiến cha càng thêm tin tuởng.
Cha tuy
sửa đổi lỗi lầm khá nhiều, song khi gặp việc nên làm, vẫn không thể chuyên
tâm nhất ý làm. Cho dù làm, vẫn còn miễn cưỡng, không được tự nhiên. Cha
phản tỉnh kiểm điểm, thấy lỗi lầm vẫn còn rất nhiều.
Ví dụ
như thấy việc thiện, tuy chịu làm, song không mạnh dạn nổ lực làm. Hoặc là
gặp lúc cứu người, trong lòng vẫn còn chần chờ, do dự, không kiến quyết
thực
hiện. Việc thiện
tuy tôi có thể miễn cưỡng làm được, song lại hay nói những lời lầm lỗi.
Khi tỉnh táo còn có thể tự chủ, song khi say rượu lại phóng túng, làm càn.
Cho nên cha tuy làm lành có tích chứa chút công đức, song lỗi lầm vẫn còn
rất nhiễu. Nếu lấy công đức để trừ đi lỗi lầm e còn chưa đủ. Thời giờ chỉ
luống uổng đi qua.
Từ năm
Kỷ Tỵ nghe lời khai thị của Vân Cốc thiền sư, cha phát nguyện làm ba ngàn
việc thiện, đến năm Kỷ Mão, đã hơn mười mấy năm mới hoàn thành ba ngàn
việc thiện này.
Lúc đó,
cha vừa cùng với Lý Tiệm Am tiên sinh từ Quan ngoại trở về Quan nội, chưa
kịp đem ba ngàn việc lành này ra hồi hướng. Đến năm Canh Thìn, cha trở về
phương Nam, mới thỉnh hai vị đại lão Hòa thượng đức độ là ngài Tánh Không
và Tuệ Không, mượn thiền đường Đông Tháp để hoàn thành tâm nguyện hồi
hướng này. Lúc đó, cha lại khởi lên tâm nguyện cầu sinh con trai, và phát
đại nguyện làm ba ngàn việc lành lớn. Đến năm Canh Tỵ sinh ra con, đặt tên
là Thiên Khải.
Cha mỗi
khi làm được một điều thiện đều ghi lại. Mẹ con không biết viết chữ, mỗi
khi làm được một việc lành, như cho người nghèo cơm ăn, hay phóng sinh
v.v... đễu lấy bút lông ngỗng, in một khuyên tròn màu đỏ lên lịch. Có lúc
một ngày in cả mười mấy dấu đỏ lên lịch, đại biểu cho ngày đó làm được
mười mấy việc thiện.
Như thế
mãi đến tháng tám năm Quý Mùi, mới hoàn thành ba ngàn điều thiện đúng như
nguyện. Cha lại thỉnh các vị như Hòa thượng Tánh Không v.v... về nhà làm
lễ hồi hướng. Đến tháng chín năm đó, cha lại khởi lên lời nguyện thi đậu
Tiến sĩ, và phát nguyện làm một vạn điều thiện để hồi hướng. Đến năm Bính
Tuất, lại thi đậu Tiến sĩ. Bộ Lại bổ cho cha làm chức Huyện truởng huyện
Bảo Để đương khuyết. Lúc cha làm huyện truởng huyện Bảo Để, có chuẩn bị
một quyển sổ kẻ ô để trống. Quyển sổ này cha gọi nó là Sổ Tay Trị
Tâm. Nói Trị Tâm là e tâm mình khởi lên tà niệm hay
ác niệm, dùng phương tiện này để đối trị.
Mỗi ngày thức dậy vào lúc sáng sớm, lúc thăng đường xét
xử, cha đều cho người để quyển sổ trị tầm này trên bàn làm việc. Mỗi ngày,
việc lành hay vie6.c ác dù là rất nhỏ cũng ghi vào đó. Bà nội thấy cha làm
việc thiện không nhiều, thường chau mày bảo: “Mẹ lúc trước ở nhà giúp
con làm việc thiện, cho nên lời nguyện ba ngàn việc thiện có thể hoàn
thành. Nay con phát nguyện làm mười ngàn việc thiện, trong nha môn thực
khó mà thực hiện được, biết đến bao giờ mới làm xong đây?”
Sau đó,
vào một đêm cha bỗng nằm mơ thấy một vị thiên thần xuất hiện. Cha bèn đem
việc khó mà hoàn tất mười ngàn việc thiện này thưa lại với thiên thần.
Thiên thần bảo: “Chỉ một việc ông làm Huyện truởng giảm thuế ruộng đất
cho dân là đủ để bù vào mười ngàn việc thiện”.
Thì ra lúc trước, ruộng của huyện Bảo Để mỗi mẫu đáng
lẽ phải thu thuế là hai đồng ba hào bảy xu. Cha cảm thấy nhân dân chịu
thuế quá nặng, nên thanh lý hết tất cả số ruộng trong huye6.n, mỗi mẫu chỉ
đóng thuế một đồng bốn hào sáu xu. Cha cảm thấy thật là lạ, tại sao việc
này thiên thần lại biết được. Vả lại cũng nghi ngờ, sao việc này có thể đủ
bù vào mười ngàn việc thiện?
Đúng lúc đó có thiền sư Huyễn Dư từ núi Ngũ Đại đến
huyện Bảo Để. Cha thưa lại chuyện trong mộng với thiền sư, và hỏi có tin
được chuyện này không? Huyễn Dư thiền sư đáp: “Làm việc thiện phải có
tâm chân thành khẩn thiết, không thể giả dối qua loa, có tâm cầu báo đáp.
Như vậy cho dù một việc thiện cũng có thể bằng mười ngàn việc thiện. Huống
chi ông giảm thuế cho toàn huyện, nông dân toàn huyện đều huởng được ân
huệ này. Cả ngàn vạn người nhờ đó mà giảm đi nỗi khổ vì thuế má nặng nề,
đó thực là phước báo to lớn”.
Cha nghe xong lời dạy của thiền sư, liền đem tiền bạc
bổng lộc của mình ra, nhờ thiền sư cúng trai tăng mười ngàn vị trên núi
Ngũ Đài và hồi hướng công đức.
Khổng tiên sinh tính số mạng cho cha bảo năm năm mươi
ba tuổi phải gặp tai nạn. Cha tuy không có cầu trời cho sống thọ, song năm
năm mươi ba tuổi lại không có chút đau bịnh gì. Năm nay cha đã sáu mươi
chín tuổi rồi. Kinh Thư nói: Thiên đạo là điều người ta khó mà tin
được, mệnh của con người không có nhất định. Lại nói: Mệnh con
người không có nhất định, đều do tự mình tạo.
Những
lời này không sai chút nào. Cha do đó mới biết, phàm nói đến họa phúc, đều
do tự mình tạo ra. Đó là lời của Thánh Hiền. Còn như bảo họa phúc do trời
chú định, đó là lời nói của kẻ dung tục trên đời.
Đạo
trời khó thể tin, mệnh người không nhất định, mệnh người không nhất định,
họa phước vốn do mình. Nếu bảo trời chú định, là lời kẻ phàm dung, Thánh
Hiền đâu có dùng, Thánh Hiền đâu có dùng.
Vận
mệnh của Viên Thiên Khải con không biết rồi sẽ như thế nào. Song cho dù là
vinh hoa phú quý, con cũng phải giữ tâm như lúc thất chí nghèo hèn. Cho dù
gặp may mắn tốt đẹp, con cũng phải giữ lòng như lúc trắc trở khó khăn. Cho
dù trước mắt có dư ăn dư mặc, con cũng phải cần kiệm như lúc thiếu thốn
nghèo hèn. Cho dù được người ta yêu thích, kính trọng, con phải luôn khiêm
tốn, cẩn trọng. Cho dù gia thế có danh vọng đến đâu, con cũng phải thấy
mình thấp kém. Cho dù học vấn có cao thâm bao nhiêu, con phải thấy mình
còn thô thiển.
Sáu
cách suy tuởng này, là từ phản diện để nhìn vấn đề. Nếu biết khiêm cung
như vậy, đạo đức dần dần nâng cao, phước báo cũng tự nhiên tăng truởng.
Xa thì
con nên truyền nối và mở rộng đức khí của tổ tiên; còn gần thì phải biết
hiếu kính cha mẹ. Trên thì con nên báo đáp ân huệ của đất nước; còn dưới
thì phải tạo dựng hạnh phúc cho gia đình. Ngoài thì con nên cứu tế cấp nạn
cho người khác; trong thì con phải luôn đề phòng niệm tuởng tà ác.
Sáu
cách trên là từ chánh diện để khẳng định vấn đề. Nếu con thường phản tỉnh,
suy xét như vậy, nhất định sẽ trở thành bậc chánh nhân quân tử.
Người
ta mỗi ngày cần phải biết được lỗi lầm của mình, mới có thể sửa đổi mỗi
ngày. Bằng không, cứ ngỡ là mình không có lỗi lầm, không chịu tu sửa,
không làm sao tiến bộ được. Người xinh đẹp thông minh trên thế gian không
ít, song phần lớn lại không biết dụng công tu dưỡng đạo đức, không biết
dụng công xây dựng sự nghiệp, đều chỉ vì thói lần lữa qua ngày, đến đâu
hay đến đó, không có chí phấn đấu cầu tiến, mới làm lỡ cả một đời của họ.
Những lời Vân Cốc thiền sư dạy về đạo lý lập mệnh, thật
là tinh thâm nhất, chân chánh nhất. Cha mong con đọc và suy nghĩ kỹ, lại
phải tận tâm tận lực thực hành, quyết không để ngày tháng quý báu luống
qua vô ích!
CHƯƠNG HAI
SỬA ĐỔI LỖI LẦM
Người
ta không phải mới sinh ra đã là Thánh Hiền, nên làm sao tránh được gây tạo
lỗi lầm? Khổng tử nói: Có lỗi lầm không sợ sửa đổi, là việc lành không
gì lớn hơn. Cho nên, Liễu Phàm tiên sinh sau khi giảng đạo lý lập mệnh
xong, lại bàn đến phương pháp sửa lỗi. Ông trình bày một cách tường tận để
dạy con mình là Viên Thiên Khải. Lỗi lầm nhỏ còn phải sửa đổi, huống chi
là tội ác lớn, đương nhiên quyết không thể phạm.
Vào
thời Xuân Thu, các quan cao cấp của các nước thường đoán việc kiết hung
họa phúc của một người nào đó thông qua ngôn ngữ hành vi của họ, và kết
quả rất là linh nghiệm. Điều này có thể thấy được qua sách Tả Truyện
và Quốc Ngữ. Phàm những điềm báo kiết tường hay hung
hiểm đều do mầm mống trong tâm phản ứng ra ngoài. Những điềm kiết hung này
còn thể hiện qua cử chỉ của người đó nữa. Nếu một người nhân hậu, cử chỉ
của họ sẽ chững chạc; còn kẻ bạc bẽo, thì cử chỉ sẽ tùy tiện.
Người
sống nhân hậu thì thường được phước; kẻ bạc bẽo nhất định sẽ gặp họa.
Người bình thường thiếu hiểu biết, không đủ trí tuệ để xét thấy việc này,
nên bảo họa phước không nhất định, không sao biết trước được.
Một
người có thể sống hết sức thành thực, không một chút giả dối, thì tâm họ
khế hợp đạo lý. Do đó, nếu đem tâm chân thành ra đối đãi với người, thì
phước báo tự nhiên sẽ đến. Cho nên, xét một người nào đó, chỉ cần nhìn
thấy họ toàn làm việc thiện, thì biết trước rằng phước của họ sắp đến.
Trái
lại, xét một người mà thấy hành vi của họ toàn làm điều ác, thì biết rằng
họ sắp gặp họa. Người ta muốn tránh họa được phước, phải tự mình cải đổi
lỗi lầm trước khi làm thiện.
Phương pháp cải đổi lỗi lầm, trước hết là phải phát khởi tâm hổ nhục.
Chúng
ta nên suy nghĩ: Thánh Hiền đời xưa như ta không khác, đều là nam tử
hán, đại trượng phu. Thế tại sao các vị ấy có thể lưu lại tiếng thơm muôn
đời, làm gương sáng cho hậu thế; còn chúng ta lại luống qua một đời, hay
thân bại danh liệt?
Đó là
vì chúng ta quá đam mê huởng thụ, bị hoàn cảnh vật dục bên ngoài ô nhiễm,
lén làm những việc không nên làm. Càng ngày chúng ta càng trầm luân trong
bể dục, không khác gì cầm thú, mà tự mình chẳng biết chẳng biết chẳng hay.
Cái hổ
nhục trên đời không có gì lớn hơn như vậy. Mạnh tử nói: “Việc lớn nhất,quan
trọng nhất của một người không gì hơn chữ
nhục”.
Vì sao?
Vì hiểu được chữ “nhục” này, ta có thể sửa đổi được tất cả
lỗi lầm, trở nên Hiền Thánh. Nếu không hiểu được chữ “nhục”
này, thì sẽ phóng túng làm càn, đánh mất nhân cách, không khác gì cầm
thú. Những lời trên chính là bí quyết chân chánh để sửa đổi.
Phương phát thứ hai để sửa lỗi là phải khởi tâm lo sợ thận trọng.
Chúng
ta phải biết Chư Thiên Hộ Pháp luôn ở bên cạnh chúng ta. Chư Thiên Hộ Pháp
thấy được tất cả những hành vi của mình, nên ta không thể lừa dối họ được.
Chúng ta có thể giấu được mọi người làm điều sai trái, qua mặt pháp luật,
nhưng không sao qua mắt được Chư Thiên Hộ Pháp. Việc ác của chúng ta đối
với họ như soi kính, đều hiện ra rõ ràng không sót. Chúng ta cho dù dấu
kín được tội, song Chư Thiên Hộ Pháp nhìn thấy rõ tâm can phế phủ của
mình. Chúng ta khởi tâm động niệm như thế nào, các vị ấy đều biết rõ. Cho
nên, mình biết rõ tâm niệm hành vi của mình như thế nào, Chư Thiên cũng
biết rõ như vậy.
Nếu
chẳng may hành vi xấu xa của chúng ta bị người khác biết được, thì chẳng
phải mình mất hết giá trị, bị người ta xem thường phỉ nhổ hay sao? Cho
nên, ta lúc nào cũng phải có tâm lo sợ, thận trọng.
Cho
nên, gây tạo tội nặng sẽ rước lấy tai họa, gây tạo tội nhẹ sẽ tổn phước
giảm đức. Tội lỗi đối với thần minh, long thiên Hộ Pháp không sao che giấu
được, như vậy ta lẽ nào không biết sợ hay sao?
Chúng
ta chỉ cần còn một hơi thở, cho dù phạm tội lớn đến đâu, đều có thể sám
hối. Thuở xưa có người cả đời làm ác, đến khi lâm chung tỉnh ngộ ăn năn,
khởi lên niệm lành rất lớn, liền được an ổn vãng sinh.
Nói như
vậy có nghĩa, nếu người ta khi đối diện cửa ải tử sinh, chỉ cần thống
thiết, dũng mãnh khởi lên niệm thiện, ăn năn tỉnh ngộ, thì có thể rửa sạch
nghiệp tội tích chứa trong suốt trăm năm. Ví như hang tối ngàn năm, chỉ
cần thắp lên một ngọn đèn sáng, thì lập tức sẽ quét sạch bóng đen, chỉ còn
ánh sáng rỡ ràng. Cho nên, không luận làm ác bao lâu, nhiều ít như thế
nào, chỉ cần thống thiết ăn năn, sửa đổi lỗi lầm, nhất định sẽ được thanh
tịnh.
Tuy nói
có lỗi chỉ cần biết ăn năn cải đổi là được, song tuyệt đối không được vì
thế mà ỷ lại, cho rằng thường phạm lỗi không sao. Người như thế có tâm
phạm lỗi, tội càng sâu nặng hơn.
Trong
thế gian bất tịnh này, vạn vật đều huyễn hóa vô thường, tấm thân huyết
nhục này nay còn mai mất không sao liệu trước được. Chẳng phải một hơi thở
ra mà không hít vào là đã qua đời khác sao? Đến lúc đó có muốn sửa đổi lỗi
lầm cũng không sao kịp nữa. Khi cái chết đến mọi thứ đều bỏ lại, chỉ có
nghiệp tội đi theo chúng ta mà thôi.
Do đó,
kẻ làm ác báo ứng ở dương gian là phải chịu tiếng xấu trăm ngàn năm, cho
dù có con hiếu cháu hiền cũng không sao rửa sạch được vết nhơ này. Còn quả
báo đời sau là phải trầm luân trong địa ngục, chịu vô lượng vô biên khổ
não, đọa đày trong ngàn muôn ức kiếp. Lúc đó dù gặp được Phật, Bồ tát,
Thánh nhân, cũng không cách nào cứu chúng ta được. Như vậy há không đáng
sợ sao?
Thứ
ba là phát khởi tâm dũng mãnh tiến lên.
Người
ta sở dĩ làm lỗi mà không sửa đổi được là do tâm dễ duôi, lần lữa qua ngày
mà không chịu lập chí tiến thủ, dũng mãnh kiên quyết. Đây chính là nguyên
cớ đọa lạc, thối lui.
Phải
biết nếu muốn sửa đổi lỗi lầm nhất định phải lập chí kiên quyết, lập tức
cải đổi, quyết không nên chần chừ, do dự. Không nên ngày nay lại hẹn đến
mai, mai lại hẹn đến mốt, cứ thế kéo dài, lần lữa đến chết. Lỗi lầm nhỏ
hãy xem như gai đâm vào xương thịt, để lâu một ngày là nhức nhối một ngày,
nên phải gấp rút nhổ ra. Lỗi lầm lớn hãy xem như rắn độc cắn phải, để chậm
môt giây là nguy hiểm đến tánh mạng một giây. Như quẻ Ích trong
Kinh Dịch nói: Gió thổi sấm nổ, vạn vật sinh truởng, lợi ích
lớn lao như vậy. Đây là dụ cho người đổi ác làm lành, được ích lợi lớn
như vạn vật nhờ mưa thuận gió hòa mà sinh truởng tốt tươi.
Sửa lỗi
phải phát tâm, phát tâm là tâm gì? Một, tâm biết hổ nhục, hai, tâm biết sợ
tội, ba là tâm dõng mãnh. Đầy đủ ba tâm này, sẽ sửa được lỗi ngay, sẽ sửa
được lỗi ngay!
Một
người lập chí sửa đổi lỗi lầm, nếu có đầy đủ ba tâm hổ nhục, sợ tội và
dũng mãnh, thì có thể lập tức sửa được lỗi lầm; như lớp băng mỏng mùa Xuân
gặp phải ánh dương quang, lo gì không tan rã? Song sửa đổi lỗi lầm có ba
góc độ dụng công. Một là từ trên thực tế để sửa đổi. Hai là từ
trên đạo lý để sửa đổi. Ba là từ trên tâm niệm để sửa đổi. Do
ba cách dụng công khác nhau, nên kết quả cũng bất đồng. Trước hết, nói về
từ trên thực tế sửa đổi lỗi lầm.
Ví dụ
như hôm qua sát sinh, hôm nay chấm dứt không sát sinh nữa. Hôm trước nổi
giận mắng người, hôm nay bỏ qua không giận nữa. Đây là phương pháp chấm
dứt lỗi lầm không tái phạm, bằng cách sửa đổi lỗi lầm khi sự việc đã phát
sinh. Song sửa lỗi như vậy là miễn cưỡng dằn lòng, tuy qua được một lúc
song mầm mống lỗi lầm vẫn còn trong tâm. Chỉ cần có cơ hội thích hợp là nó
lại tái phát, đôi khi còn mãnh liệt hơn nữa. Người ta bảo tức nước vỡ
bờ là vậy. Nên đây không phải là phương pháp sửa lỗi lầm một cách
triệt để.
Thế nào
là dựa trên đạo lý cải đổi lỗi lầm?
Một
người lập chí sửa đổi lỗi lầm, trước khi ngăn giữ không làm một điều sai
quấy nào đó, phải hiểu rõ đạo lý tại sao ta không nên làm. Ví dụ như một
người đối với lỗi lầm của việc sát sinh, trước hết anh ta phải nghĩ rằng:
Đức hiếu sinh là đạo lý tự nhiên. Phàm là loài só sinh mệnh ai lại
chẳng tham sống sợ chết? Thế mà ta lại giết loài vật để nuôi thân mình,
thử hỏi trong tâm có yên ổn không? Những con vật mà ta cắt cổ, nhổ lông,
lột da, xào nấu v.v..., chúng phải chịu bao đau đớn khổ sở lúc lâm chung,
như vậy có phải tội lỗi lắm không? Ăn uống trên sự tướt đoạt sinh mệnh,
gây tạo khổ đau cho chúng sinh, song miếng ngon khi qua khỏi miệng lập tức
trở thành đồ dơ mà ai cũng nhờm, cũng gớm! Như Vậy có đang cho chúng ta vì
thế mà gây tạo sát nghiệp, chàđạp trên quyền được sống còn của sinh vật,
khiến phải chịu tội báo, tổn giảm phước đức không? Ăn chay đạm bạc, thực
ra cũng đủ no và dinh dưỡng.
Lại suy
nghĩ rằng: Phàm loài có sinh mệnh huyết khí đều có tri giác tánh linh.
Đã có tri giác tánh linh, thì có khác gì chúng ta đâu? Ngày xưa bậc Thánh
như vua Thuấn, nhờ đạo đức cao thượng mà được voi cày ruộng giúp, chim nhổ
cỏ giùm. Ta nay tuy chưa thể tu dưỡng được như người xưa, khiến loài vật
đến tôn trọng, thân cận, song cũng không thể tàn hại sinh mệnh của chúng,
khiến kết nên nhân duyên oán thù. Mối hận này đeo đuổi chúng ta đến lúc
nào mới hết?
Người
biết suy nghĩ như thế, không thể nào nuốt trôi những cá thịt trên bàn.
Ví dụ như tánh tình của ta của ta trước kia hay nổi
sân, nên suy nghĩ rằng: Ai cũng có điều tốt, ai cũng có chỗ xấu. Khi
gặp chỗ xấu của người, xét về tình lý,
nên thương cho họ, mà tha thứ chỗ xấu đó, vì chính họ cũng là nạn nhân,
chịu khổ não bởi thói xấu bản thân. Nếu có người ngang ngược, vô lý mạo
phạm đến ta, thì lỗi đó ở họ có dính dáng gì đến ta, vậy tại sao ta phải
nổi giận?
Lại nghĩ rằng: Trên đời này không có ai dám tự cho
rằng mình là hoàn hảo, không chút lỗi lầm. Một người cho rằng mình là hoàn
hảo, mới chính là kẻ ngu nhất. Trên đời cũng không có đạo lý nào dạy chúng
ta oán hận người xung quanh. Người càng có học vấn thì càng phải khiêm
tốn, nghiêm khắc với mình, khoan dung với người, sao lại oán hận người
khác?
Cho
nên, một người làm việc không được vừa lòng đắc ý, đều do đạo đức của mình
không tu dưỡng tốt, còn thiếu công đức, không đủ sức cảm động lòng người.
Vì vậy phải phản tỉnh, kiểm điểm lại mình, xem có chỗ nào có lỗi với người
không?
Người
có thể suy xét được như vậy, dụng công sửa mình, thì người khác phỉ báng
sẽ trở thành sự trui rèn, thành tựu phẩm cách cho ta, bằng những bài học
phản diện. Ta nên hoan hỉ tiếp nhận sự giáo huấn, phê bình của người khác,
còn oán hận điều gì?
Lại
nữa, nghe người khác nói xấu mà ta không nổi giận, dầu lời nói đó ác độc
đến đâu; khác nào như đem lửa đốt trời, hư không vẫn rỗng rang, không có
gì để cháy, lửa cuối cùng cũng tắt. Nếu người ta nghe người khác hủy báng
mà tìm cách biện hộ, thì khác nào như tằm nhả tơ, tự trói buộc lấy mình.
Đó là tự mình chuốc lấy khổ. Cho nên, nổi giận không những vô ích mà còn
có hại.
Đó là
nói về hậu quả của nóng giận. Còn như những lỗi lầm và tội ác khác, cũng
nên y theo đạo lý này mà suy xét, thì tự nhiên sẽ không phạm phải lỗi
lầm.
Thế nào
là cải đổi lỗi lầm từ tâm niệm?
Người
ta gây tạo lỗi lầm vốn nhiều vô số, song tất cả đều từ tâm niệm mà ra. Nếu
tâm ta không động niệm, thì không có tạo ra bất cứ nghiệp gì. Như vậy lỗi
lầm từ đâu mà sinh? Phàm người ta thường có nhiều lỗi lầm như tham đắm nữ
sắc, danh tiếng, tiền của, hoặc hay nóng giận, v.v... Chúng ta không cần
tìm hiểu phương pháp để cải đổi từng lỗi lầm một, mà chỉ cần nhất tâm nhất
ý khởi niệm lành, làm việc thiện, lúc nào cũng chánh niệm hiện tiền, thì
không có ý niệm tà ác nào xen khởi, làm ô nhiễm tâm ta được.
Ví như
mặt trời soi sáng giữa từng không, tất cả những hắc ám đều không chỗ dung
thân. Đây chính là yếu quyết tu tâm, sửa lỗi chân chánh duy nhất. Phải
biết tất cả lầm lỗi tội ác đều do một tâm này gây tạo, nên chỉ cần ngay
nơi tâm này sửa đỗi lỗi lầm. Đây giống như trừ cây độc, phải đốn tận gốc,
trốc tân rễ, mới không sợ mọc trở lại, mà đâu cần phải chặt từng nhánh, bẻ
từng lá!
Phương
pháp cải đổi lỗi lầm cao minh nhất vẫn là tu tâm. Nếu biết tu tâm thì sẽ
lập tức khiến tâm thanh tịnh. Vì tất cả sai lầm đều do tâm khởi niệm bất
chánh mà ra. Nếu biết tu tâm, chánh niệm tỉnh giác, khi khi tà niệm vừa
khởi liền phát giác. Tà niệm ngay đó sẽ không còn, tâm trở lại thanh tịnh
bất động. Nếu ta không làm được như vậy, khi tà niệm khởi lên phát giác
muộn màng , và không đủ sức giác chiếu để khiến nó tiêu diệt, thì phải
dùng đạo lý để suy xét, thống trách, thì sẽ hóa giải được tà niệm đó. Còn
như không biết dùng đạo lý để suy xét thống trách, thì cố gắng dằn lòng,
tránh xa duyên phạm lỗi.
Cả ba
phương pháp này tuy có cao có thấp khác nhau, song đều có giá trị riêng,
và bổ túc cho nhau. Ta cần phải biết rõ mình, để có thể tùy cơ, tùy lúc
vận dụng cả ba phương phá một cách thích đáng tu sửa lỗi lầm, ắt sẽ công
hiệu. Song phương pháp tu tâm, chánh niệm tỉnh giác vẫn là chánh yếu,
không nên bỏ qua.
Lập chí
sửa đổi lỗi lầm cũng cần có trợ duyên để dễ thành tựu. Về phương diện thấy
được, đó chính là bạn tốt, khuyên bảo, nhắc nhở ta lúc hồ đồ, nông nổi. Về
phương diện không thấy được, đó là đối trước Phật, Bồ tát, chư thiên,
v.v... cầu chứng minh gia hộ, thành tâm sám hối, từ sáng đến tối không dám
buông lung. Như tôi đã từng sám hối bảy ngày, mười bốn ngày, cho đến một
tháng, ba tháng. Cứ sám hối như vậy nhất định sẽ có chứng nghiệm.
Sửa lỗi
phải phát nguyện, lại phải nhờ trợ duyên. Một mặt nhờ bạn lành, mặt khác
nhờ Bồ tát, để chứng minh gia trì. Phải một lòng một ý, sám hối mọi lỗi
lầm, sám hối mọi lỗi lầm.
Nói
chứng nghiệm của sự sám hối lỗi lầm là gì? Ví dụ như ta bỗng cảm thấy tinh
thần rất thư thới, trong lòng an vui, hay cảm thấy trước đây tối dạ, giờ
bỗng mở mang trí tuệ; hay dù là trong hoàn cảnh rộn ràng phiền phức, mà
tâm mình vẫn sáng suốt, tất cả đều thông tỏ. Hay lúc gặp phải kẻ oan gia
thù địch, có thể an ổn hoan hỉ, hóa giải cơn giận nỗi hận trong lòng. Hoặc
khi nằm mộng, mơ thấy ói ra thứ màu đen. Đây chính là những tư niệm tà,
tích chứa thành uế khí, trong mơ ói ra, thì tâm địa trở nên thanh tịnh.
Hay trong mơ trông thấy Phật, Bồ tát đến nâng đỡ, dắt dìu ta; hoặc thấy
mình bay lên không trung, tiêu dao tự tại. Hay mơ thấy các loại phan lọng
được trang sức bằng các loại châu báu nhiều màu. Những việc ít thấy ít
nghe như vậy, đều là những điềm tiêu trừ tội chướng trong quá khứ. Song
cũng không nên vì gặp được những điềm lành này, liền tự cho rằng mình có
sở đắc, tu hành hơn người mà khởi tâm ngã mạn, không chịu vươn lên, tiếp
tục nỗ lực.
Vào
thời Xuân Thu trước đây, quan đại phu nước Vệ là Cừ Bá Ngọc vào năm hai
mươi tuổi đã biết xét lại những lỗi lầm trong quá khứ của mình để kiểm
điểm, cải đổi. Đến năm hai mươi mốt tuổi, lại cảm thấy trước đây sửa đổi
lỗi lầm vẫn chưa triệt để. Đến năm hai mươi hai tuổi, nhìn lại năm hai
mươi mốt tuổi, vẫn giống như ở trong mộng. Cứ như vậy mỗi năm trôi qua,
mỗi năm lại sửa đổi lỗi lầm. Cho đến năm năm mươi tuổi, vẫn cảm thấy bốn
mươi chín năm qua mình vẫn lỗi lầm! Người xưa đối với việc sửa đổi lỗi
lầm cẩn thận coi trọng đến mức như vậy.
Đại phu
Cừ Bá Ngọc, người tài đức khiêm cung, hai mươi tuổi xét lỗi, mỗi năm đều
kiểm điểm, đến lúc tuổi năm mươi, vẫn thấy còn lầm lỗi. Sửa lỗi quan trọng
thay! Quan trọng thay!
Chúng
ta đều là kẻ phàm phu, lỗi lầm dẫy đầy, như lông trên mình nhím. Song ta
lại cảm thấy dường như mình không có lầm lỗi gì lắm. Đó là do ta hời hợt,
không biết phản tỉnh tự xét. Giống như con mắt có bịnh, không nhìn thấy
mình mỗi ngày đang tạo tội. Song một người làm lỗi tạo ác, đến một mức nào
đó sẽ có triệu chứng hiện ra. Như tâm tư hỗn loạn trệ ngăn, tinh thần suy
sụp, hay quên; hoặc việc không đáng phiền não lại cảm thấy vô cùng phiền
não; hoặc thấy người phẩm hạnh cao quý, cảm thấy hổ thẹn không vui; hay
nghe được những lời đạo đức quang minh chính đại, lại không thích; hoặc
đem ân huệ cho người, đối phương không nhận còn trở lại oán hận; hoặc tối
ngủ thấy những giấc mơ xấu đáng sợ; hoặc nói năng không thứ lớp, không
bình thường. Những hiện tượng bất bình thường như vậy, đều là biểu hiện
của việc làm ác.
Giả sử
có những hiện tượng như trên, ta phải đề khởi tinh thần, phấn phát hướng
thượng, sửa đổi những sai lầm cũ, mở ra con đường nhân sinh sáng tỏ cho
mình. Hy vọng mọi người không nên tự làm lỡ mình!
CHƯƠNG BA
TÍCH CHỨA PHƯỚC
THIỆN
Chương
trên đã giảng những phương pháp của đổi lỗi lầm. Nếu làm được như vậy, tự
nhiên có thể bảo đảm mệnh vận tốt đẹp không biến thành xấu, song vẫn chưa
đủ để cải đổi mệnh vận xấu trở nên tốt đẹp. BởI vì đờI này tuy ta không
phạm lỗi tạo ác, song đời trước ta có gây tạo tội ác hay không làm sao
biết được? Nếu đời trước phạm tội, đời này tuy không phạm, vẫn phải trả
báo của đời trước, vẫn gặp mệnh vận xấu ác. Vậy ta phải làm sao mới có
thể cải đổi vận mệnh xấu đây? Đó là không những phải cải đổi lỗi lầm, mà
còn phải tích chứa phước thiện, công đức, mới có thể khiến nghiệp tội đời
trước tiêu đi. Việc lành tích chứa nhiều, tự nhiên có thể chuyển đổi mệnh
xấu thành mệnh tốt, đồng thời cũng có thể nghiệm chứng được hiệu quả của
nó.
Khổng
tử tỉnh Sơn Đông, tích chứa phước thiện lớn, con cháu nhiều đời sau, vẫn
thịnh vượng không suy. Khổng Đức Thành tiên sinh, đời thứ bảy mươi ba! Đòi
thứ bảy mươi ba!
Kinh Dịch
nói:
Nhà tích chứa điều thiện, tự nhiên phước đức có dư. Trước đây có người
họ Nghiêm, định gả con gái của mình cho cha của Khổng tử, việc đầu tiên
là kiểm điểm những việc làm của nhà họ Khổng. Ông nhận thấy tổ tiên của họ
Khổng tích chứa phước đức rất nhiều và rất lâu, nên biết trước con cháu họ
Khổng sau này nhất định sẽ thành đạt lớn. Sau đó, quả nhiên sinh ra Khổng
tử. Lại nữa, Khổng tử khen sự hiếu thảo của vua Thuấn vượt hơn việc hiếu
bình thường. Khổng tử nói: “Lòng đại hiếu như vua Thuấn, không những tổ
tiên nhờ đó được huởng sự cúng tế của ông, mà con cháu nhiều đời cũng giữ
được phước lộc của mình, không bị thất bại”.
Nước
Trần vào thời Xuân Thu, chính con cháu vua Thuấn truyền lại, đủ chứng minh
con cháu đời sau của vua Thuấn thành đạt rất lâu! Cho nên, lời nói của
Khổng tử thật vô cùng chính xác.
Nay lại
đem những việc thực sự xảy ra trong quá khứ để chứng minh công đức của
việc tích chứa phước thiện. Có một người làm đến chức Thiếu sư, tên là
Dương Vinh, thuộc huyện Kiến Ninh tỉnh Phúc Kiến. Tổ tiên của ông làm nghề
chống thuyền đưa khách sang sông để kiếm sống. Có một lần, mưa xuống rất
lâu, sông suối ngập tràn, thế nước ào ạt, cuốn phăng nhà cửa của dân. Rất
nhiều người đã bị nước cuốn, số chết, số đang vật vã trong dòng nước xiết.
Những thuyền khác đều lo đi vớt của cải trôi theo dòng nước, chỉ ông cố và
ông nội của Dương Vinh lo đi cứu những người mắc nạn bị nước cuốn, mà
không vớt một món vật nào. Người trong làng đều cười chê, cho họ là ngu.
Đến khi cha Dương Vinh ra đời, sinh kế của gia đình lần lần khá giả. Có
một vị đạo sĩ nói với cha Dương Vinh rằng: “Cha và ông nội của ông tích
chứa được rất nhiều âm đức, con cháu nhất định sẽ thành đạt làm quan lớn.
Ông nên đem hài cốt cha mình an táng tại chỗ kia”.
Cha
Dương Vinh nghe xong, y lời đạo sĩ, đem hài cốt của cha và ông nội chôn
tại chỗ đại sĩ chỉ. Ngôi mộ đó, ngày nay mọi người đều biết là mộ Bạch
thố. Sau đó Dương Vinh ra đời, đến năm hai mươi tuổi thi đậu Tiến sĩ. Làm
quan mãi đến chức Thiếu sư thuộc hàng Tam công. Hoàng đế còn truy phong
cho cha, ông nội, ông cố của Thiếu sư chức tước như ông. Con cháu đời sau
của Thiếu sư vô cùng thành đạt, mãi cho đến ngày nay vẫn còn rất nhiều bậc
hiền tài.
Dương
Thiếu sư! Dương Thiếu sư! Ông cố, ông nội tích âm đức, tích âm đức. Lụt
lội chỉ lo cứu vớt người, của cải chẳng quan tâm. Người cười như thế là
khờ ngu! Đâu ngờ ngu mà được đại phước, được đại phước.
Dương
Tự Trừng người Ninh Ba Triết Giang ban đầu làm chức thư biện ở quan nha,
tâm vô cùng nhân hậu, nghiêm giữ pháp luật, làm việc công minh chánh trực.
Lúc đó quan huyện là người nghiêm khắc ngay thẳng, có một lần đánh một kẻ
tù phạm đến máu chảy đầy đất, mà vẫn chưa nguôi giận. Dương Tự Trừng lúc
đó quỳ xuống xin tha cho người phạm tội. Quan huyện bảo: “Ông xin tha
tội cho hắn vốn chẳng có gì đáng nói, song tên tù phạm này không tuân thủ
pháp luật, làm trái đạo lý, sao mà không giận cho được!”
Dương
Tự Trừng vừa dập đầu lạy vừa thưa: “Hiện nay trong triều, thật ra thị
phi khó định, quan trường toàn là việc tối tăm, tham ô hủ bại, đánh mất
lòng dân đã lâu. Nếu ngài thẩm vấn giả như tìm ra tội của phạm nhân thì
cũng nên đau lòng cho họ, thương họ không biết đạo lý, lầm phạm pháp luật,
mà không nên vì đó mà vui mừng. Nếu như có tâm vui thích tìm ra tội trạng
của phạm nhân, e sẽ dễ đưa đến xử án thiếu sót sai lầm. Nếu như ngài quá
nóng giận đánh đập khảo tra, e rằng phạm nhân do chịu không nổi sẽ nhận
tội bừa, làm oan uổng người ta. Ngay cả ưa thích tìm ra tội trạng của phạm
nhân còn không được, huống chi là nổi giận sao?”
Quan
huyện nghe xong lời nói của Dương Tự Trừng, vô cùng cảm động, lập tức dịu
sắc mặt, hạ cơn giận xuống.
Dương
Tự Trừng gia cảnh rất nghèo, song có người đem biếu cho món gì ông đều
không nhận. Gặp khi tù phạm đói khát, ông thường tìm cách kiếm thức ăn
biếu cho họ. Một hôm có vài tù nhân mới đến, vì đường xa không có ăn uống
nên vô cùng đói khát. Lúc đó nhà ông lại thiếu gạo, nếu đem đến cho tù
nhân thì người
nhà sẽ phải
chịu đói. Nếu chỉ lo cho mình, thì những tù nhân này đói khát thật đáng
thương. Không còn cách nào khác, ông bèn bàn cùng vợ. Vợ hỏi: “Những tù
nhân này từ chỗ nào giải đến?” Ông trả lời: “Từ Hàng Châu đến. Họ
dọc đường chịu đói, trên mặt xám xanh không còn chút máu. Lúc này dù có
một chút cơm thừa canh cặn, họ cũng hai tay bưng lấy ăn ngấu nghiến!”
Do đó,
hai vợ chồng bèn đem chút ít gạo còn lại trong nhà ra nấu cháo cho họ ăn.
Về sau,
hai người sinh được hai đứa con trai, đứa lớn tên Thủ Trần, đứa nhỏ tên
Thủ Chỉ, đều làm quan đến chức Nam Bắc Lại Bộ Thị Lang. Cháu nội lớn làm
đến chức Hình Bộ Thị Lang. Cháu nội nhỏ cũng làm đến chức Tứ Xuyên Án Sát
Sứ. Hai người con, hai người cháu đều là những quan lớn nổi tiếng. Hiện
nay có hai danh nhân là Sở Đình và Đức Chánh, đều là dòng dõi con cháu của
Dương Tự Trừng.
Tù nhân
khổ biết bao, khổ biết bao! Đã bị giam cầm lại thiếu ăn, trong lòng khổ
thống có ai hay. Có ai hay? Dương thư biện có lòng nhân hậu, vợ chồng đồng
tâm cứu giúp người. Nhà biết tích thiện phước có thừa, phước có thừa.
Vào
khoảng năm Chánh Thống vua Anh Tông triều Minh, có một người lãnh đạo thổ
phỉ tên là Đặng Mậu Thất làm phản ở tỉnh Phúc Kiến. Kẻ sĩ và dân chúng ở
nơi đó đi theo rất đông. Triều Đình bèn sai Trương Khải người huyện Ngân
làm chức Đô Ngự Sử đi dẹp loạn. Trương Khải dùng kế bắt được Đặng Mậu
Thất. Sau đó họ Trương lại phái Tạ Đô sự làm chức Bố Ty Chánh tỉnh Phúc
Kiến đi tróc nả những người tòng đảng. Nếu bắt được liền giết. Nhưng Tạ Đô
sự không chịu giết càn, sợ giết lầm người. Ông bèn cho đi tra tìm danh
sách đảng giặc, điều tra ra phàm không phải là tòng đảng, trên danh sách
không có tên, đều ngầm đưa cho họ một lá cờ trắng và hẹn rằng, khi quan
binh đến tra xét thì treo lá cờ trắng đó trước cửa, chứng tỏ mình là lương
dân vô tội. Đồng thời ông cũng cấm các quan binh không được giết bừa. Nhờ
biện pháp đó, có đến hơn vạn người tránh khỏi bị giết. Về sau con trai của
Tạ Đô sự là Tạ Thiên thi đậu trạng nguyên, làm quan đến chức Tể tướng.
Cháu nội của ông là Tạ Phi cũng thi đậu Thám Hoa, tức Tiến sĩ hạng ba.
Tướng
quân không giết bừa, đời sau con cháu được phát đạt. Tạ Đô sự, tâm từ bi,
cứu sống hơn vạn người, con cháu được hưng vượng, được hưng vượng!
Trong
huyện Bồ Điền tỉnh Phúc kiến có nhà họ Lâm. Truởng bối của họ có một bà cụ
thích làm việc thiện, thường dùng bột mì làm bánh biếu cho người nghèo.
Chỉ cần có người mở lời xin, bà liền biếu cho, không chút do dự. Có một vị
đạo sĩ mỗi sáng đều đến xin bà sáu bảy cái bánh. Bà lão cho suốt ba năm
chưa hề có lời phiền hà. Đạo sĩ biết bà có thành tâm làm việc thiện, nên
bảo: “Tôi ăn bánh của bà suốt ba năm, không biết làm sao để đáp ơn này?
Sau nhà có miếng đất trống, nếu sau khi mất, bà có thể an táng tại nơi đó,
sau này con cháu nhất định sẽ có quan tước, nhiều như một đấu mè.”
Về sau
bà lão qua đời, người con y lời đem chôn mẹ mình ở nơi đạo sĩ nói. Không
ngờ một đời nhà họ Lâm thi đậu có đến chín người. Sau này con cháu làm
quan nhiều đời, số lượng rất nhiều. Do đó tỉnh Phúc Kiến truyền tụng câu
nói: Nếu không có họ Lâm đi thi, thì không có thể có người trúng
tuyển! Ý nói, người họ Lâm đi thi nhiều, đậu cũng lắm.
Bà lão nhà họ Lâm, thích làm việc phước thiện,
thường làm bánh bột mì, biếu cho người nghèo ăn, biếu cho người nghèo ăn.
Tâm bố thí chí thành, thần tiên cũng cảm động, nhân nào quả như vậy, con
cháu đều làm quan, đều làm quan.
Cha của
quan Thái sử Phùng Trác Am lúc làm Tú tài ở trường Huyện, vào một buổi
sáng vô cùng lạnh lẽo, ông đang trên đường đi đến trường, bỗng trông thấy
một người nằm ngã trên tuyết, lạnh cóng sắp chết. Phùng tiên sinh liền cởi
áo khoác của mình ra mặc cho người đó, và đưa về nhà, cứu tỉnh. Sau đó,
Phùng tiên sinh nằm mơ thấy một vị thiện thần bảo: “Ngươi cứu một mạng
người hoàn toàn xuất phát từ tâm chí thành, cho nên ta phái Hàn Kỳ đầu
thai, làm con trai nhà ông”.
Về sau,
Trác Am sinh ra, được đặt tên là Phùng Kỳ. Thì ra Phùng Kỳ vốn là một vị
Tể tướng văn võ toàn tài triều Tống tên là Hàn kỳ tái sanh.
Phùng
tiên sinh, tâm từ bi, cứu mạng người, công đức lớn. Thành tâm thành ý cứu
mạng người, phước hơn xây dựng tháp bảy tầng, tháp bảy tầng.
Ở Đài
châu Triết Giang có một vị quan Thượng thư tên là Ứng Đại do. Ông thuở còn
trẻ từng ở trong núi tự học. Nơi đây ban đêm thường có loài quỷ tụ tập kêu
gào, mọi người đều sợ không dám ở, song Ứng Đại Do lại không sợ. Một đêm
nọ ông nghe hai con quỷ nói chuyện. Một con quỷ bảo: “Có một phụ nữ
chồng đi xa đã lâu chưa về. Cha mẹ chồng cho là con trai mình đã chết, nên
ép người con dâu đi cải giá. Song cô này lại muốn thủ tiết, không chịu,
nên định tối mai đến đây thắt cổ tự tử. Như vậy tôi có thể tìm ra người
thay thế”.
Ứng Đại
Do nghe được lời này, khởi lên tâm cứu người, nên ngầm bán đi miếng ruộng
của mình được bốn lạng bạc, vội viết một lá thư giả làm con trai của gia
đình đó, cùng với số bạc gởi đến nhà. Gia đình xem xong bức thư, tuy chữ
viết không phải của con mình, nhưng số bạc là thật, nên cuối cùng bán tín
bán nghi, vẫn hy vọng con mình còn sống, và không ép con dâu đi cải giá
nữa. Về sau con trai của họ quả nhiên trở lại, vợ chồng hòa hợp như xưa.
Lại nói
Ứng Đại Do sau khi cứu người phụ nữ đó xong, đêm sau ông nghe con quỷ đó
nói: “Tôi đáng lẽ có thể đã tìm được người thế thân, không ngờ lại bị
gã Tú tài này làm hỏng chuyện!”Con quỷ bên cạnh bảo: “Sao mầy không
hại chết tên đó!” Con quỷ đó trả lời: “Thiện thần thấy người này có
tâm từ làm việc công đức, nên ngày đêm bảo hộ, làm sao mà hại hắn được!”
Ứng
công sau khi nghe hai con quỷ nói, lại càng nổ lực phát tâm lành, công đức
cũng ngày một sâu dày. Khi gặp năm mất mùa đói kém, ông đều bố thí cơm gạo
cứu người. Gặp khi thân thuộc có nạn gấp, ông nhất định tìm cách giúp
người qua cơn khó khăn. Khi gặp kẻ oan gia, hay việc bất như ý, ông đều
phản tỉnh xét lại mình, tự trách, tâm bình khí hòa chấp nhận sự thật. Nhờ
đó con cháu của Ứng công nhiều người được công danh quan vị, mãi đến ngày
nay vẫn còn.
Chỉ cần
làm phước đức, cứu giúp cho mọi người, tự nhiên được thiện thần, đêm ngày
thường bảo hộ, thường bảo hộ.
Huyện
Thường Thục tỉnh Giang Tô có một vị tiên sinh tên là Từ Phụng Trúc, cha
của ông vốn rất giàu có. Gặp năm mất mùa đói kém, ông đều không lấy thuế
ruộng của tá điền. Điều này đã khiến các địa chủ khác học theo. Ngoài ra
ông còn đem lúa gạo cứu giúp người nghèo đói. Một đêm, ông nghe có tiếng
quỷ xướng lên trước cửa: “Trăm ngàn lần sự thật, trăm ngàn lần sự thật,
Tú tài nhà họ Từ, sắp thi đậu Cử nhân”.
Đêm nào
cũng có tiếng như thế vang lên trước cửa. Năm đó Từ Phụng Trúc đi thi
Hương, quả nhiên đỗ được Cử nhân. Cha của ông nhân đó rất vui, càng nỗ lực
làm các việc thiện, tích chứa công đức. Ông thường làm việc xây cầu, đắp
đường, trai Tăng, cúng dường Tam Bảo... Gặp người nghèo khó cơ nhỡ, ông
đều ra tay cứu giúp. Sau đó, ban đêm ông lại nghe có tiếng quỷ thần kêu
trước cửa: “Trăm ngàn lần thật, trăm ngàn lần sự thật, Cử nhân nhà họ
Từ, làm quan đến Khâm sai”. Sau này, Từ Phụng Trúc quả nhiên làm đến
chức Khâm sai tuần phủ miền Triết Đông và Triết Nam thuộc tỉnh Triết
Giang.
Huyện
Gia Hưng tỉnh Triết Giang có một vị họ Đồ, tên là Khang Hi. Ban đầu ông
làm chức quan chủ sự ở bộ hình, ban đêm ở trực trong ngục, xét hỏi cặn kẻ
phạm nhân. Nhờ vậy ông phát hiện ra nhiều vụ án oan khuất. Nhưng Đồ công
không cảm thấy mình có công lao, chỉ âm thầm đem những vụ án oan này tấu
trình lên quan truởng thuộc bộ hình xét xử.
Khi
phúc thẩm lần cuối trước khi hành hình, quan truởng bộ hình dựa vào những
tài liệu Đồ công cung cấp, tra hỏi xét xử đều đúng với sự thật. Do đó,
quan truởng mới tha tội cho những người mà trước đây vì chịu không nỗi
nhục hình đã khai nhận, song thực chất lại vô tội. Nhờ đó cứu được mười
mấy người.
Lúc đó
dân chúng trong kinh thành đều khen ngài Thượng thư bộ Hình sáng suốt minh
xét. Sau đó Đồ công lại dâng lên một bức tấu trình, thưa rằng: “Dưới
chân thiên tử còn có nhiều người bị oan khuất như vậy, huống chi là cả
nước rộng lớn, làm sao mà không có người bị oan khuất? Vì vậy, xin kiến
nghị mỗi năm phái một vị giảm hình quan đi các tỉnh tra xét kỹ lại sự thật
của các vụ án. Nếu quả như có tội, thì định tội cũng phải công bình; còn
như oan khuất, nên xét xử lại, giảm nhẹ hay tha bổng”.
Quan
Thượng thư bèn thay ông dâng sớ điệp đó lên vua. Vua cũng phê chuẩn cho
lời kiến nghị của ông, bèn phái giảm hình quan đến các tỉnh để thẩm tra.
Đồ công cũng ở trong đoàn thanh tra đó.
Một hôm
họ Đồ nằm mơ trông thấy một vị thần đến bảo: “Mệnh của ông lý ra không
có con trai, song nhờ ông nêu ra cách giảm hình án, hợp với lòng trời lòng
người,
nên ông sẽ có ba người con trai, sau này đều làm quan lớn “.
Không
bao lâu vợ của ông liền có mang. Về sau sinh ra Ứng Vẫn, Ứng Khôn, Ứng
Tuấn đều làm quan lớn.
Đồ Khang Hi, Đồ Khang Hi! Xét xử án tình rất phân
minh, không tham công, giải oan khuất, con cháu nhờ đức được quan chức,
được quan chức.
Có một
vị người Gia Hưng, tên Bao Bằng, hiệu Tín Chi. Cha của ông từng làm Thái
thú của phủ Trì Châu tỉnh An Huy, sinh ra bảy người con trai, Bao Bằng là
con út. Ông vào ở rể nhà họ Viên huyện Bình Hồ, thường qua lại với ông nội
con,
giao
tình rất thân. Học vấn của ông uyên bác, tài năng rất cao, nhưng mỗi lần
đi thi đều không đỗ. Do đó ông đối với Phật, Lão rất để tâm nghiên cứu.
Một hôm
ông đi chơi ở Mão Hồ, tình cờ trông thấy trong ngôi chùa làng vì tường
chùa hư hại, nên Thánh tượng Đức Quán Thế Âm trở nên trơ trọi lộ thiên,
mặc cho gió táp mưa sa. Lúc đó ông móc túi ra, có tất cả là mười lạng bạc
liền đem cúng cho vị trụ trì, nhờ tu sửa gian nhà thờ Đức Bồ Tát Quán Thế
Âm. Trụ trì nói với ông: “Sửa chùa là công trình lớn, tiền ít e không
đủ dùng, khó mà hoàn thành”.
Nghe
vậy ông lại lấy bốn xấp vải quý sản xuất tại Tùng Giang, và mở rương lấy
ra bảy chiếc áo mới đưa hết tất cả cho vị trụ trì. Những người theo hầu
thấy vậy khuyên ông không nên cho nữa. Nhưng Bao Bằng bảo: “Chỉ cần
Thánh tượng Đức Bồ Tát Quán Thế Âm không bị mưa ướt, thì thân này dù có
cởi trần cũng không sao!”
Trụ trì
nghe xong rơi lệ bảo: “Cúng dường tiền, vải, áo quần không phải khó.
Nhưng thành tâm đến mức này thật là hiếm có!”
Về sau,
điện thờ Quán Thế Âm Bồ Tát được sửa xong, Bao Bằng lại đưa cha mình đến
nơi đó thăm, và ở lại trong chùa. Đêm đó Bao Bằng nằm mộng, trông thấy Hộ
pháp trong chùa đến cám ơn, bảo: “Ông làm được công đức này, con cháu
nhiều đời của ông sẽ được quan chức, phú quý!”
Về sau
con của ông là Bao Biện, cháu là Bao Thánh Phương đều thi đậu tiến sĩ, làm
quan lớn.
Bao Tín
Chi, Bao Tín Chi, học vấn tài năng đều xuất chúng, tiếc rằng công danh lại
không trúng. Sau nhờ thành tín cúng Quán Âm, tu sửa chùa chiền phụng Thánh
tượng, nhờ vậy con cháu phước vô lượng, quan to lại kiết tường, quan to
lại kiết tường.
Huyện
Gia Thiện tỉnh Triết Giang có một người tên là Chi Lập. Cha của ông làm
chức Thư biện trong phòng hình sự huyện nha. Có một phạm nhân bị hại, mắc
tội oan, bị phán quyết tử hình. Thư biện họ Chi thấy tội nghiệp, tìm cách
xin quan trên giảm tội chết cho người đó. Người đó biết được lòng tốt của
ông, bèn bảo với vợ: “Lòng tốt của Chi công tôi cảm thấy rất hổ thẹn,
không cách chi báo đáp. Ngày mai bà hãy mời ông ta về nhà, xin làm thiếp
hầu ông. Ông ta nếu cảm động trước ân tình này, thì tôi sẽ có cơ hội được
sống”.
Vợ của
phạm nhân nghe xong, không có cách nào, chỉ đành vừa khóc vừa nhận lời.
Đến hôm sau, Chi Thư biện về quê, vợ của phạm nhân ra mời Thư biện uống
rượu, và đem ý chồng mình ra nói với ông. Nhưng Thư biện đã kiên quyết từ
chối.
Song
ông vẫn đem hết khả năng của mình ra tranh biện cho phạm nhân. Cuối cùng
vụ án được giải quyết, trả lại công bằng cho người phạm nhân bị oan.
Sau đó
phạm nhân ra ngục, vợ chồng hai người đến nhà Thư biện lạy tạ bảo:
“Ngài có đức độ sâu dày như vậy, hiện nay thật hiếm có người. Nay ngài
không có con trai, tôi xin dâng đứa con gái đến làm thiếp, lo việc hầu hạ
trong ngoài. Về tình về lý không có gì quá đáng”.
Chi Thư
biện nghe lời của ông xong, chuẩn bị lễ vật, rước người con gái đó về làm
thiếp, sau này sinh được một người con trai tên Chi Lập, mới hai mươi tuổi
đã đỗ đầu Cử nhân, làm quan đến chức thư ký Hàn Lâm Viện. Sau này con của
Chi Lập là Chi Cao, con của Chi Cao là Chi Lộc đều làm chức giáo thọ
trường huyện. Con của Chi Lộc là Chi Đại Luân cũng thi đậu tiến sĩ.
Chi Thư
biện, Chi Thư biện, nhân từ không nỡ để người oan, không cầu báo đáp giúp
cho người, do đó phước tự nhiên, phước tự nhiên.
Mười
câu chuyện kể trên, tuy mỗi người mỗi việc khác nhau, song tất cả đều là
làm việc thiện. Nếu phân loài kỹ hơn, làm việc thiện có thể phâm làm:
thật, giả, ngay thẳng, tà vạy, âm, dương, lớn nhỏ, khó dễ, v.v...
Mỗi
loại đều có đạo lý của nó, phải phân biệt rõ. Nếu chỉ lo làm việc thiện mà
không biết đạo lý làm việc thiện, dễ đưa đến khoe khoang, tự đắc, nhiều
khi lại không phải là làm việc thiện mà là đang tạo tội! Như vậy há không
phải cực nhọc
vô ích,
oan uổng lắm sao? Nay sẽ thuyết minh về đạo lý làm thiện nói trên.
Sao gọi là làm thiện có thật có giả?
Vào
thời Nguyên có mấy vị Nho học đi tham kiến Hòa thượng Trung Phong ở núi
Thiên Mục, hỏi rằng: “Nhà Phật nói thiện ác báo ứng như bóng theo hình,
vậy sao hiện nay có người làm thiện mà con cháu trái lại không hưng vượng?
Có người làm ác mà con cháu lại phát đạt? Vậy lời Phật nói về thiện ác
không chứng cứ!”
Hoà
thượng Trung Phong đáp: “Người bình thường bị kiến giải thế tục che
lấp, tâm sáng suốt chưa từng được tẩy gội. Vì pháp nhãn chưa mở, nên nhiều
khi họ cho rằng hành vi làm thiện đó là làm ác; hành vi làm ác lại cho là
làm thiện. Ta làm sai, nhiều lúc không biết tự trách mình điên đảo, lại
oán trời trách đất, bảo là báo ứng không đúng.
Mọi
người lại hỏi: “Thiện là thiện. Ác là ác. Sao lại có chuyện thiện ác
trái ngược?”
Hòa
thượng Trung Phong nói: “Làm việc lợi ích cho người gọi là thiện; làm
chỉ có lợi cho mình gọi là ác. Làm việc lợi ích cho người, dù là mắng
chửi, đánh đập, cũng là thiện; còn việc chỉ có lợi cho mình, cho dù cung
kính, lễ độ với người cũng gọi là ác. Cho nên, một người làm được việc
thiện, khiến người khác có được lợi ích gọi là việc công, cũng tức là việc
thiện chân thật; còn chỉ muốn mình được lợi ích, gọi là việc tư, tức là
việc thiện giả dối. Lại nữa, việc thiện xuất phát từ lương tâm, từ tâm từ
bi của mình gọi là chân thật; còn việc thiện nếu chỉ có hình thức, làm cho
người ta thấy mà thôi thì gọi là giả dối. Lại nữa, làm việc thiện không
cầu quả báo, không có chấp trước, đó là chân thật; song nếu chấp vào mục
đích nào, có tâm mong cầu quả báo để làm việc thiện, đó là giả dối. Những
việc làm thiện như vậy, mình phải cẩn thận suy xét mới được.
Sao gọi là ngay thẳng và tà vạy?
Người
ta hiện nay trông thấy kẻ cẩn thận, không cứng cỏi phần lớn đều khen người
đó là người lương thiện, và rất tôn trọng họ. Song Thánh hiền thời xưa,
lại rất quý trọng người có chí khí, quyết hướng đến trước, hoặc kẻ giữ
mình trong sạch, không chịu xu thời. Bởi vì hạng người này, mới có ý chí,
mới có can đảm gánh vác trách nhiệm, có thể dạy họ, khiến họ tiến bộ.
Còn như
những người xem có vẻ là người tốt, cẩn thận lại vô dụng, tuy ở trong
làng xóm mọi người ưa thích, song vì cá tính của họ yếu đuối, sống mặc
theo thế tục, không có chí khí, cho nên Thánh nhân bảo hạng người đó là
tên giặc làm hại đến đạo đức. Như thế mà xét, thì người phàm tục nói đến
quan niệm thiện ác, thật ra trái với lời của thánh nhân.
Người
phàm tục bảo là thiện, Thánh nhân lại cho nó là ác. Người phàm tục bảo là
ác, Thánh nhân lại cho nó là thiện. Từ phương diện này suy ra những việc
khác, người phàm tục thích, hay không thích cái gì cũng đều trái với Thánh
nhân. Thiện thần gia hộ người thiện, và nhân quả báo ứng đều khế hợp với
quan điểm Thánh nhân, song nhiều lúc lại không hợp với quan niệm của người
phàm tục. Cho nên phàm làm việc thiện, quyết không thể bị âm thanh, sắc
tướng mà mình ưa thích lợi dụng, nhắm mắt đi theo cảm giác. Cần phải sáng
suốt tư duy chỗ khởi tâm động niệm của mình, gội sạch những tâm niệm bất
chính, cầu danh, giả dối, trở lại tâm chí thành thanh tịnh.
Cho
nên, việc thiện nếu xuất phát từ tâm cứu người đó là ngay thẳng; còn như
ôm lòng cầu danh, lấy lòng người khác đó gọi là tà vạy; nếu xuất phát từ
tâm tôn trọng người khác, thì gọi là ngay thẳng; còn như có chút coi
thường, đùa bỡn đó là tà vạy. Những điều này phải suy xét rõ ràng.
Sao gọi là việc thiện có âm có dương?
Phàm
người làm việc thiện được người ta biết đến gọi là dương thiện;
làm việc thiện mà không người biết đến thì gọi là âm đức.
Người có âm đức, Long thần Hộ pháp đều biết và bảo hộ, phước đức tự nhiên
cũng đến. Người có dương thiện, mọi người đều biết, khen ngợi, huởng được
tiếng thơm trong đời. Song phải chú ý, tiếng khen trong đời dễ khiến lòng
người kiêu ngạo, thường gặp những tai nạn bất ngờ. Như một người không có
sai lầm gì lại bị oan uổng, vô duyên vô cớ bị người gán cho tiếng ác.
Nhưng có khi con cháu của họ lại được thành đạt. Cho nên dương thiện và âm
đức có sự sai khác vi tế, không thể không suy xét kỹ.
Sao gọi là
việc thiện có đúng có sai?
Vào
thời Xuân Thu thuở xưa, nước Lỗ có một luật định, nếu người nước Lỗ bị
nước khác bắt đi làm nô lệ, mà có ai dùng tiền chuộc ra, thì người đó có
thể đến quan phủ lãnh tiền thuởng. Song học trò của Khổng tử là Tử Cống
tuy giúp chuộc nô lệ ra, lại không chịu nhận tiền thuởng. Ông không nhận
tiền, chủ ý chỉ vì giúp người mà không phải vì tiền thuởng, vốn rất tốt.
Nhưng khi Khổng tử nghe được, không vui bảo: “Việc này Tử Cống đã làm
sai. Phàm Thánh Hiền làm việc gì phải nghĩ đến việc làm của mình sau này
sẽ ảnh huởng đến phong tục tốt đẹp. Như dạy bảo, dắt dẫn nhân dân trở nên
người tốt; mà không nên vì cá nhân mình cảm thấy thích là làm. Hiện nay
người trong nước Lỗ phần nhiều là nghèo. Nếu cho nhận tiền thuởng là tham
tài, thì người ta sẽ sợ mang tiếng tham tài, và không có tiền, nên không
chịu đi chuộc những người nô lệ. Như vậy e rằng sau này sẽ không có ai đi
chuộc những người bị bắt làm nô lệ đó!
Tử Lộ
thấy một người té xuống sông, liền cứu người đó lên bờ. Người đó đem một
con trâu đến biếu tạ Tử Lộ, Tử Lộ liền nhận. Khổng tử biết việc, rất vui
bảo: “Từ nay về sau, nước Lỗ sẽ có nhiều người chủ động cứu vớt người
rơi xuống sông!”
Qua hai
câu chuyện trên chúng ta thấy, nhìn theo con mắt thế tục, Tử Cống không
nhận tiền thuởng là tốt; Tử Lộ nhận con trâu là không tốt. Song không ngờ,
Khổng tử khen Tử Lộ, mà lại trách Tử Cống! Như vậy xem ra, muốn biết một
người làm việc thiện hay ác, không thể chỉ nhìn trên kết quả trước mắt, mà
phải xét đến hiệu quả lâu dài; không thể chỉ nghĩ đến ảnh huởng trong hiện
tại, mà phải xét đến việc đúng sai ở tương lai. Không thể chỉ luận cá nhân
đắc thất, mà phải nghĩ đến quan hệ đại chúng.
Hiện
nay làm tuy là thiện, song nếu lưu truyền về sau, có hại cho người, thì đó
cũng không phải là thiện. Hiện nay làm tuy không phải là thiện, song nếu
lưu truyền sau này, có thể giúp đỡ người khác, thì tuy dường như bất
thiện, mà thực ra là thiện. Đây chẳng qua chỉ nêu ra một việc để nói thôi,
những việc khác lại rất nhiều. Ví dụ như một người làm việc nên làm gọi là
nghĩa, song có lúc, việc nghĩa cũng sai lầm, trở lại là việc ác.
Ví như
người xấu ác có thể không cần phải khoan thứ, song nếu có người khoan thứ
cho họ, thì cũng không thể bảo đó là việc bất nghĩa. Song nếu khoan thứ
cho hắn, lại khiến hắn ta ỷ lại, làm nhiều việc ác hơn nữa, kết quả nhiều
người do đó bị hại, ta cũng vì thế mang tội. Chi bằng không khoan thứ, cho
họ sự cảnh cáo, khiến hắn không dám phạm tội thì tốt hơn. Không khoan thứ
là bất nghĩa; khiến
họ không
tái phạm là nghĩa. Đó gọi là việc nghĩa mà dường như bất nghĩa.
Lễ độ
là một đức tốt, mọi người nên học, nhưng cần có mức độ. Đối đãi người lễ
độ là đúng,
song nếu quá đáng, trở lại khiến người trở nên kiêu ngạo, hay thành
ra nịnh nọt, cúi lòn, thì là phi lễ.
Chữ tín
rất quan trọng, song phải xem tình hình. Ví dụ như vì giữ chữ tín nhỏ mà
làm lỡ việc lớn, trái lại làm mất đi chữ tín lớn, thì đó không phải là
tín.
Yêu
thương người vốn là lòng từ, song nếu yêu thương quá đáng, trở lại khiến
người ỷ lại, hư hỏng, thì đó không phải là lòng từ. Cho nên phải suy nghĩ
kỹ vấn đề này, phán đoán cẩn thận.
Sao gọi là công chánh và thiên lệch?
Tể
tướng triều Minh trước đây là Lã Văn Ý khi vừa từ chức Tể tướng về quê, vì
ông làm quan thanh liêm, công chánh, toàn quốc đều hết sức kính quý. Song
không ngờ có một người nhà quê sau khi uống rượu say, mắng Lã công. Song
Lã công không vì thế mà nóng giận, còn nói với người làm của mình: “Tên
này uống rượu say, không nên chấp nhất”.
Lã công
liền đóng cửa, không để ý đến. Một năm sau, tên này phạm tội chết bị đưa
vào ngục. Lã công mới hối hận bảo: “Nếu lúc đó dạy cho hắn một bài học,
đưa đến quan phủ trị tội, có thể trị tội nhỏ để ngăn tội lớn, thì đâu đến
đỗi có ngày nay hắn bị tử tội! Ta lúc đó chỉ vì không nỡ, mới tha, không
ngờ trở lại làm hại hắn!
Tên đó
ban đầu ngỡ là ngay cả mắng Tể tướng cũng không sao, nên mới tiếp tục phạm
tội, gây nên kết quả xử chết. Đó là ví dụ về người có tâm thiện mà lại làm
việc ác.
Cũng có
khi, có tâm ác mà làm việc thiện. Ví dụ như có một nhà giàu gặp năm đói
kém, người nghèo đói ban ngày cướp gạo ở chợ. Người nhà giàu bèn đi thưa
đến quan huyện. Quan huyện lại không chịu xử vụ này. Những người nghèo đó
càng lộng hành, ngang nhiên lấy của người. Do đó, người giàu bèn cho người
bắt giam tên đó lại. Những người khác thấy vậy không dám cướp giật nữa.
Nếu không làm vậy chợ búa sẽ loạn. Cho nên tuy thiện là công chánh, ác là
thiên lệch, nhưng cũng có trường hợp động cơ làm thiện mà bên ngoài làm
việc ác. Đạo lý này mọi người phải suy nghĩ kỹ.
Sao gọi là việc thiện phân nửa và trọn vẹn?
Kinh Dịch
nói:
Một người không tích thiện, thì không có danh tiếng tốt; một người không
tích ác, thì không có họa sát thân.
Kinh Thư
cũng
bảo: Tội ác của vua Trụ, đầy giống như xâu tiền đã xỏ đầy, như thùng đồ
đã hết chỗ.
Nếu ta
cố gắng để dành mỗi ngày thì nhất định sẽ có khi đầy. Nhà Thương từ khi mở
nước cho đến vua Trụ, tội ác tích chứa đã đầy, do đó không mấy chốc mất
nước. Nếu không chất chứa, thì sẽ không đầy. Cho nên nói tích thiện, tích
ác như chứa đồ. Đó là nói làm việc thiện phân nửa và đầy đủ.
Ngày
xưa có một cô gái nghèo đến chùa lễ Phật, chỉ có hai đồng tiền đem ra cúng
dường hết. Không ngờ vị Hòa thượng trụ trì lại đích thân đến trước Phật
hồi hướng công đức, cầu tiêu trừ tội chướng cho cô. Sau này cô ta được cho
vời vào cung làm quý phi. Sau khi giàu có, cô mang mấy ngàn lạng bạc đến
chùa cúng. Nhưng lần này Hòa thượng trụ trì lại sai đệ tử của mình hồi
hướng cho cô. Cô này không hiểu tại sao lần trước bố thí ít lại được Hòa
thượng trụ trì coi trọng, còn lần này lại không. Mới hỏi: “Con lần
trước chẳng qua chỉ bố thí hai đồng tiền, thầy lại đích thân hồi hướng.
Lần này con cúng dường hai ngàn lạng bạc, thầy lại không đích thân hồi
hướng cho con, không biết là vì lý do gì?”
Vị trụ
trì trả lời: “Trước đây con cúng dường tuy ít, song vô cùng chí thành
chí thiết, nên thầy nếu không đích thân hồi hướng e không xứng vớI tâm
thành này. Nay con bố thí tuy nhiều, song không chân thiết chí thành như
lần trước, cho nên thầy cho người hồi hướng thay cũng đủ!
Vì vậy,
hai đồng tiền bố thí vẫn kể là việc thiện trọn vẹn, hai ngàn lạng bạc vẫn
coi là việc thiện phân nửa.
Vào
triều Hán, đạo sĩ Chung Ly đem phương pháp luyện đơn của mình truyền cho
Lã Động Tân, có thể chỉ sắt hóa vàng, đem ra cứu giúp cho người nghèo. Lã
Động Tân hỏi Chung Ly: “Sắt biến thành vàng, xin hỏi bao lâu lại biến
thành sắt?” Chung Ly đáp: “Sau năm trăm năm, sẽ biến thành sắt”.
Lã Động Tân bảo: “Như vậy sẽ hại người năm trăm năm sau. Tôi không
muốn làm việc như vậy”.
Chung
Ly dạy Lã động Tân điểm sắt hóa vàng chẳng qua là muốn thử tâm của ông mà
thôi. Cho nên khi nghe Lã Động Tân nói như vậy, biết là ông có tâm lành
chân thật, mới nói: “Tu tiên phải tích chứa đủ ba ngàn việc công đức.
Ông nói
được
một lời như vậy thì ba ngàn công đức đã đủ”.
Đây chỉ
là một lời nói mà công đức viên mãn.
Lại
nữa, làm việc thiện không nên bao giờ cũng nhớ đến, cho là mình làm được
việc rất vĩ đại!
Nếu tâm được vô chấp như vậy, cho dù chúng ta làm
việc thiện gì bất luận lớn nhỏ, đều là công đức viên mãn. Còn như cả đời
cố gắng làm việc thiện mà cứ chấp tướng, chấp công, thì vẫn là việc thiện
không viên mãn.
Ví như
đem tiền ra giúp đỡ người, phải không thấy mình là người cho, đối tượng là
người nhận, và vật được cho quý giá như thế nào. Đó gọi là tam luân
không tịch. Mình, người, vật đều bất khả đắc, chỉ có nhất tâm
thanh tịnh. Nếu làm việc bố thí được như vậy, cho dù bố thí chỉ một đấu
gạo, cũng có thể gieo trồng công đức vô biên; cho dù bố thí một đồng, cũng
tiêu trừ được vô lượng nghiệp chướng. Còn nếu đem tâm chấp tướng, chấp
công ra bố thí, cho dù là bố thí hai mươi vạn lạng vàng cho kẻ nghèo, công
đức vẫn không viên mãn.
Sao gọi là việc thiện lớn, việc thiện nhỏ?
Trước
đây có một người tên gọi Vệ Trọng Đạt làm quan trong Hàn Lâm học viện. Có
một lần bị quỷ dẫn hồn đến địa phủ. Phán quan bảo Thư biện đem quyển sổ
ghi công tội của ông khi ở trên dương gian cho xem. Khi quyển sổ ác đem
đến, việc ác ghi nhiều đến đỗi chất đầy cả sân, còn ghi việc thiện chẳng
qua chỉ là một quyển sách nhỏ. Phán quan lại bảo đem hai loại sổ ghi thiện
ác đem cân xem bên nào nặng, bên nào nhẹ. Không ngờ, số lượng sổ ghi việc
ác tuy nhiều, song lại nhẹ hơn một quyển sổ ghi việc thiện!
Vệ
Trọng Đạt lúc đó hỏi: “Tôi chỉ có bốn mươi tuổi, lẽ nào lại phạm nhiều
tội ác như thế sao?”
Trả
lời: “Chúng sinh ở cõi trần, khởi tâm động niệm không chi là chẳng phải
tội, chẳng phải nghiệp. Đâu cần đợi đến có hành động làm mới gọi là tạo
tội?”
Vệ
Trọng Đạt lại hỏi quyển sổ ghi việc thiện kia là điều thiện gì? Phán quan
trả lời: “Vua từng có lần định xây cầu đá ở Tam Sơn là công trình rất
lớn. Người từng tâu sớ lên can ngăn việc này, để tránh làm khổ cho dân”.
Vệ
Trọng Đạt bảo: “Tôi có trình lên, song vua lại không nghe lời, vẫn cứ
tiến hành. Vậy việc tấu sớ của tôi cũng có giá trị sao?” Phán quan
bảo: “Vua tuy không nghe lời can gián, nhưng tâm lành muốn trăm ngàn
nhân dân của ông khỏi cảnh khốn cực, cũng đủ đã vô lượng. Nếu vua nghe lời
thì công đức đó càng lớn”.
Cho nên
lập chí làm việc thiện, mục đích là lợi ích cho nhân dân, đất nước, thì
việc thiện dù nhỏ, song công đức lại rất lớn. Giả sử chỉ vì lợi ích riêng
mình, thì việc thiện dù nhiều, mà công đức cũng chẳng bao nhiêu.
Sao gọi là việc thiện khó làm và dễ làm?
Bậc
tiên triết xưa bảo: “Khắc chế lòng tư dục của mình, phải bắt đầu từ nơi
khó trừ nhất ra tay”. Học trò của Khổng tử là Phàn Trì hỏi Khổng tử:
“Sao gọi là nhân”? Khổng tử trả lời: “Phải từ nơi khó ra sức”.
Khổng
tử nói nơi khó, tức là chỉ trừ đi lòng tư dục. Như Thư tiên sinh ở tỉnh
Giang Tây, ông dạy học ở nhà người được hai năm, dùng tất cả tiền lương
giúp đỡ cho một gia đình nghèo trả nợ, cứu cho họ khỏi cảnh bán vợ đợ con.
Lại như
Trương tiên sinh ở huyện Hàm Đan tỉnh Hà Bắc, ông trông thấy một nghèo đem
cầm vợ đợ con, song tiền thì tiêu xài hết cả. Nếu không có tiền đi chuộc
vợ con, e rằng họ sống cũng không được. Do đó ông đem hết số tiền mình
dành dụm trong mười năm ra chuộc lại vợ con cho người đó. Trương tiên sinh
và Thư tiên sinh thật là làm được việc thiện khó làm, những người khác khó
làm được như vậy.
Lại như
ở huyện Trấn Giang tỉnh Giang Tô có một vị họ Cận, tuy tuổi lớn mà không
có con trai. Một người hàng xóm nghèo đồng ý gả con gái của mình cho ông
làm thiếp, mong sinh cho ông được một mụn con trai. Song ông họ Cận này
không muốn làm lỡ tuổi xuân của cô ta, nên đã từ chối. Trước sắc đẹp mà có
thể nhẫn nại được thật là việc khó nhẫn, mà vị họ Cận này lại nhẫn được.
Đây là điều thiện khó làm. Những người nêu trên, xét lại cuộc đời của họ
và con cháu sau này, đều hạnh phúc, thành đạt mỹ mãn. Thế mới biết nhân
quả không có sai chạy.
Phàm là
người có tiền, có thế muốn làm công đức so với người bình thường dễ hơn
nhiều. Song họ lại không chịu làm. Đó gọi là tự làm lỡ mình, đánh mất cơ
hội tốt. Còn người nghèo cùng muốn làm phước thật là rất khó, song nếu họ
làm được mới thật sự đáng quý. Chúng ta sống ở đời, nếu gặp phải cơ duyên
nên tùy sức tùy phận giúp đỡ người khác. Có điều cứu giúp mọi người cũng
không phải là việc dễ dàng, và cách thức lại rất nhiều. Nay lược nêu ra
mười điều:
Một, giúp người làm thiện.
Khi thấy người có lòng lành, ta phải khuyến khích, giúp đỡ khiến cho tâm
lành của họ ngày càng tăng truởng. Người khác làm việc lành, sức không đủ,
làm không thành, ta phải trợ giúp khiến việc lành đó thành tựu. Đó là tùy
hỉ khuyến trợ việc thiện.
Hai, có lòng thương yêu kính trọng.
Chúng ta phải có lòng thương yêu kính trọng không những là người học vấn,
tuổi tác, vai vế lớn hơn mình, mà ngay cả người
nhỏ tuổi,
vai vế thấp, nghèo hèn, mình cũng phải bình đẳng quý trọng.
Ba, là thành tựu cho người.
Ví như có một người định làm một việc tốt, song chưa quyết định, thì ta
phải khuyên họ nên hết lòng hết sức làm. Lúc người khác làm việc lành, nếu
gặp chướng ngại, không thể thành công, thì ta nên tìm cách chỉ dẫn họ,
khích lệ họ khiến thành công, mà không được sinh tâm ganh tỵ đi phá hoại
họ.
Bốn, khuyên người làm việc thiện.
Gặp người làm việc ác, phải nói nhân quả cho họ nghe, làm ác nhất định gặp
ác báo. Gặp người không chịu làm việc thiện, hay chỉ làm những việc thiện
nhỏ nhoi, thì ta phải khuyên họ, khiến biết được làm việc thiện quyết định
có quả báo tốt đẹp, nên không những phải hoan hỉ làm, mà còn phải hết sức
làm.
Năm, cứu người khi nguy cấp.
Người ta thường thích trên gấm thêm hoa, song lại thiếu tinh thần biếu
than mùa tuyết lạnh. Đây là nói người khá giả quyền thế thì lắm người xu
phụ, còn kẻ nghèo hèn lại không ai quan tâm. Cho nên, khi chúng ta gặp
người đang lúc nguy hiểm khó khăn, khẩn cấp nhất mà kịp thời giúp đỡ, ra
tiền ra sức đưa họ vượt khỏi cảnh khó, có thể nói là công đức vô lượng.
Song phải cẩn thận đừng để khỏi tâm ngạo mạn.
Sáu, làm việc lợi ích lớn.
Việc lợi ích lớn, cần người có năng lực lớn mới làm được. Người có năng
lực lớn, cũng nên làm việc lợi ích lớn cho nhân quần xã hội. Ví dụ như:
làm hệ thống thủy lợi, cứu giúp khu thiên tai hỏa hoạn. Song có khi không
cần phải có năng lực lớn cũng làm được việc lợi ích lớn. Như chỉ cần thấy
bờ đê có lỗ mọi nhỏ, nghĩ đến bờ đê có thể vì lỗ mọi này mà đưa đến vỡ lở,
làm rất nhiều sinh mạng và tài sản bị đe dọa, nên phát tâm lấp lại. Đây
tuy là việc làm nhỏ song lợi ích lại rất lớn.
Bảy, xả tài sản làm việc phước.
Tục ngữ nói: Người ta vì tham tiền tài mà chết. Người đời lòng luôn
yêu tiếc tiền bạc, tài sản. Tiền của càng nhiều càng tốt, có ai lại bỏ của
cải ra giúp cho người khác? Cho nên, có thể bỏ tiền bạc ra cứu giúp người
khác, đối với người bình thường đã là việc rất khó, đối với người nghèo
cùng còn khó và đáng quý hơn nhiều. Nếu nói theo nhân quả, có xả mới có
được, không biết xả bỏ sẽ không được. Làm một phần thiện, thì được một
phần phước báo. Cho nên không phải e ngại rằng, mình xả tài vật ra cứu
người, sẽ khiến cho đời sống của mình trở nên bần cùng.
Tám, hộ trì Chánh Pháp.
Pháp đây là chỉ pháp tắc chân lý, đạo lý làm người. Bất cứ đạo lý gì chúng
ta cũng phải suy gẫm xem nó có hợp với chánh đạo hay không? Có làm hại cho
thế đạo nhân tâm hay không? Nếu là tà giáo có hại, nhất định phải cấm chỉ.
Còn như là Phật pháp chánh tri kiến, khuyến hóa chỉ đạo lòng người trở về
nẻo chánh quang minh, xây dựng phong tục tốt đẹp cho xã hội, thì ta phải
hết lòng hộ trì. Nếu có ai phá hoại, ta cũng phải dũng cảm đứng ra bảo vệ
chân lý, không để chánh pháp suy tàn.
Chín, kính trọng bậc tôn truởng.
Phàm là người học vấn sâu, kiến thức rộng, vai vế lớn, tuổi tác cao hay có
chức vị đều là bậc tôn truởng. Chúng ta phải kính trọng, không được coi
thường hay vô lễ.
Mười, yêu tiếc sinh mệnh của chúng sinh.
Phàm là loài có sinh mạng, không luận trùng kiến, chúng đều có tri giác,
biết đau khổ, tham sống sợ chết. Cho nên chúng ta phải yêu thương, sao lại
có thể tàn sát để ăn? Có người bảo: “Những con vật này sinh ra để cho
con người ăn”. Nói như vậy không đúng. Đây chẳng qua là lời của kẻ
tham ăn bịa đặt ra.
Mười
điều nói ở trên chỉ là đại khái. Sau đây sẽ nêu ra ví dụ giảng rộng.
Sao gọi là giúp ngưòi làm việc thiện?
Ngày
xưa, vua Thuấn triều Ngu khi chưa làm vua, ông trông thấy những người đánh
cá tuổi trẻ ở bên hồ Lôi Trạch đều chọn nơi nước sâu để đánh bắt; còn
những người già sức yếu, thì đánh bắt ở nơi cạn nước chảy xiết.
Nơi cạn
nước chảy xiết, cá không tụ tập, nên ít cá hơn nơi nước sâu. Như vậy chỗ
cá nhiều đều bị những người tuổi trẻ chiếm cả.
Thuấn
trông thấy việc này, trong lòng rất thương những người lớn tuổi sức yếu.
Ông mới nghĩ ra một cách giúp đỡ những người già yếu này. Ông cũng đi đánh
bắt cá với mọi người, tuy là tuổi trẻ, ông lại không giành chỗ nước sâu cá
nhiều, mà lại nhường cho người khác. Đi đâu ông cũng khen ngợi tán thán
những người biết nhường. Nhờ đó đã gián tiếp nhắc nhở những người trẻ tuổi
biết xét lại, cảm thấy hổ thẹn. Không đầy một năm, mọi người đều biết
nhường chỗ có cá nhiều cho người già yếu.
Câu
chuyện của vua Thuấn chẳng qua dùng để khuyên người đời biết nhường nhau,
mà không phải nói bắt cá là tốt. Thực ra, sát sinh là tội lớn, không thể
vi phạm. Vua Thuấn lấy mình làm gương, từ từ cảm hóa người khác, bỏ ra mất
một năm mới có kết quả, thật là dụng tâm hết mực.
Chúng
ta hiện nay sống trong xã hội có nhiều hiện tượng bại hoại, thói xấu, muốn
làm người thật rất khó. Cho nên, người khác có gì không bằng mình, không
nên đem sở trường của mình ra lấn lướt người khác. Người khác có gì thua
kém mình, cũng đừng đem ra so với người. Mình cho dù có tài ba thông minh,
cũng phải giấu đi, như ngu si kém cỏi.
Nhìn
thấy lỗi lầm người khác, tạm thời che giấu, cho họ có cơ hội cải đổi,
ngoài ra khiến họ biết e ngại không dám làm quấy nữa. Còn nếu ép bức người
thái quá, đến bước đường cùng, họ sẽ làm liều, không còn e dè gì nữa.
Nếu
thấy người khác có việc gì hay, dù nhỏ cũng phải học hỏi; có việc gì tốt,
dù nhỏ cũng phải ghi nhớ. Không nên có thành kiến, tự cho là phải, mà phải
biết học hỏi cái hay của người, khen ngợi, tuyên dương những điều tốt đẹp
của kẻ khác. Trong cuộc sống hàng ngày, phàm nói ra hay làm việc gì, đều
phải vì lợi ích mọi người, mà không nên xuất phát từ ý tuởng tự tư tự lợi.
Nếu lập được nguyên tắc sống này, tự mình tuân hành và khiến người cùng
tuân hành, thì đó mới là nhân vật vĩ đại, có độ lượng vì tất cả mọi người
mà không có chút riêng tư.
Sao gọi là có lòng ái kính?
Quân tử
và tiểu nhân chỉ xem bề ngoài rất dễ lầm lẫn. Bởi vì, kẻ tiểu nhân thường
giả dạng quân tử, làm bộ nhân nghĩa. Song trong lòng của người quân tử và
tiểu nhân lại khác xa trời vực, một đàng là thiện, một đàng là ác, rõ ràng
như đen trắng trái nhau. Cho nên Mạnh tử nói: “Quân tử khác với tiểu
nhân là ở chỗ tâm niệm”. Tâm niệm của người quân tử là thương yêu,
kính trọng người. Người ta có kẻ sang người hèn, kẻ thân người sơ, kẻ
thông minh người ngu độn, kẻ đạo đức người hạ lưu, song tất cả đều có sinh
mệnh, có máu thịt, có tri giác không khác, nên phải bình đẳng kính yêu.
Kính yêu mọi người tức là kính yêu hiền thánh. Vì sao như vậy?
Vì lẽ
Hiền Thánh đều hy vọng mọi người trên đời đều có thể an cư lạc nghiệp,
sống hạnh phúc an lạc. Cho nên, chúng ta kính yêu mọi người, khiến họ an
lạc hạnh phúc, đó là thay thế Hiền Thánh khiến thế giới an lạc hạnh phúc.
Sao gọi là thành tựu cho người?
Ví dụ
nói, một khối đá bên trong có ngọc, nếu vứt bỏ lăn lóc thì không khác gì
ngói gạch không chút giá trị. Nếu gọt đẽo khối đá đó, khiến ngọc bên trong
hiển lộ, sẽ trở nên vật báu hiếm có.
Người
ta cũng vậy, đều nhờ sự dạy bảo nhắc nhở mới nên người. Cho nên thấy ai
làm được việc gì tốt, biết lập chí hướng thượng, thì ta nên chỉ dẫn, cất
nhắc, khen ngợi, khích lệ người đó, khiến họ trở nên nhân tài hữu dụng cho
xã hội. Nếu có ai đổ oan, thì phải biện giải oan khúc cho họ, chia sẻ
những lời ác ý, hủy báng.
Phải
khiến họ có thể lập thân trong xã hội, mới gọi là tận tâm sức của ta.
Người lành được người hiền minh yêu mến bao nhiêu, thì kẻ ác thù ghét bấy
nhiêu. Cho nên xưa nay tiểu nhân đố kỵ quân tử, kẻ ác thù ghét người lành
là việc thường xảy ra.
Trong
cùng một làng xóm, người lành thì ít, kẻ ác lại nhiều. Vì vậy người lành
thường bị kẻ ác hãm hại, khó mà có được chỗ đứng. Huống chi kẻ hào kiệt đa
số tánh tình cương trực, không a dua, lại không chú ý ra vẻ bên ngoài.
Những kẻ phàm tục, tầm nhìn cạn cợt, chỉ thấy bên ngoài, liền đặt điều thị
phi, tùy tiện phê bình. Cho nên kẻ hào kiệt làm việc thiện dễ thất bại,
người lành cũng hay bị người hủy báng.
Gặp
những trường hợp đó, chỉ có nhờ vào các bậc truởng thượng đạo đức, mới có
thể khiến người ác cải tà quy chánh, bảo vệ giúp đỡ người lành, khiến họ
thành công. Công đức phá dẹp tà ác, hiển phát chân chánh như vậy, thật to
lớn nhất.
Sao gọi là khuyên người làm lành?
Ai sống
ở đời mà không có lương tâm? Song do vì tham cầu danh lợi, đeo đuổi vật
dục nên mê mờ đi lương tâm, bất chấp thủ đoạn, trở nên sa đọa. Cho nên qua
lại với người, phải chú ý đến tư tuởng hành vi của họ, thấy hơi có biểu
hiện sa đọa liền nhắc nhở, cảnh giác, khiến họ thức tỉnh ăn năn. Như đánh
thức người trong cơn ác mộng, chúng ta phải thức tỉnh kẻ đang bị trói buộc
trong lưới phiền não, khiến họ thoát ra, được an lạc mát mẻ.
Lấy ân
huệ để đối đãi với người như vậy thì công đức sẽ vô lượng vô biên. Thuở
xưa Hàn Văn Công từng bảo: “Dùng miệng khuyên người chỉ trong nhất
thời, nghe qua dễ quên, lại ở nơi khác không thể được nghe. Dùng văn tự
khuyên người có thể lưu truyền vạn thế và truyền bá khắp nơi”. Cho
nên, làm việc thiện trong đó có lập ngôn khuyên người, là việc làm công
đức vô lượng.
Ở đây
nói dùng lời nói và văn tự khuyên người làm lành có vẻ như còn vướng mắc
vào hình thức. Song thực ra, công năng của nó thực vô cùng to lớn, có thể
cải hóa lòng người, thay đổi hoàn cảnh.
Chúng
ta khuyên người làm lành phải khuyên cho thích đáng, tùy đối tượng, trường
hợp. Nếu gặp kẻ cố chấp không nghe, ta nên tùy duyên, đừng miễn cưỡng vô
ích. Nếu ta cố nói, đó gọi là làm lỡ lời, nhiều lúc giáo đa thành oán. Còn
người
biết lắng nghe,
tiếp thu, đáng khuyên mà ta lại không khuyên, đó gọi là làm lỡ người.
Không luận là lỡ lời hay lỡ người, đều chứng tỏ ta không đủ trí tuệ phân
biệt, phải tự mình cẩn thận kiểm thảo. Như vậy mới tránh khỏi lỡ lời lỡ
người.
Sao gọi là cứu người trong cơn nguy cấp?
Người
sống ở đời nhiều lúc gặp phải cảnh hoạn nạn khốn khổ. Khi gặp người trong
cảnh đó, ta phải xem nỗi khổ của họ là nỗi khổ của mình, tìm cách cứu
giúp. Ta xem họ gặp phải cảnh oan khuất thế nào, hoặc dùng lời nói để bênh
vực, biện minh lẽ công bằng cho họ, hoặc dùng mọi cách để cứu giúp họ ra
khỏi cảnh khổ. Thôi tử ở triều Minh từng bảo: “Ân huệ không phải ở nơi
lớn nhỏ, chỉ cần gặp người đang cơn nguy cấp, ra tay cứu giúp là được”.
Lời nói này thực xuất phát từ tâm của bậc nhân giả!
Sao gọi là làm việc lợi lớn?
Làm
việc lợi lớn là lợi ích cho số đông, ví dụ như đào kinh dẫn nước tưới
ruộng, hay đắp đê để đề phòng lũ lụt, xây cầu khiến đường xá lưu thông,
tiện việc đi lại, cho cơm cháu cứu giúp người đói khổ, không ai cứu giúp.
Khi gặp
cơ hội làm những việc như trên, phải khuyên bảo mọi người đồng lòng góp
sức góp tiền để chung sức hoàn thành. Cho dù có người ngấm ngầm phỉ báng,
xúc phạm, ta cũng không nên vì sợ những lời đàm tiếu vô cớ đó mà không dám
làm. Ta cũng không nên vì sợ hiềm nghi, cực khổ, người khác ghét ganh mà
từ chối không làm.
Sao gọi là bỏ tiền bạc làm việc phước?
Trong
nhà Phật, bố thí đứng đầu mọi việc thiện. Nói đến bố thí, là nói đến xả
bỏ. Nếu có thể xả bỏ được mọi việc, thì sẽ khế hợp được bản tâm của Phật.
Người
hiểu rõ được đạo lý sẽ biết xả bỏ được mọi thứ, ngay cả mắt tai mũi lưỡi
thân ý. Như Đức Phật Thích Ca trong nhân địa hành Bồ Tát đạo, đã từng xả
thân cho cọp đói ăn là một điển hình. Trong sáu căn đã xả, ngoài sáu trần
sắc thinh hương vị xúc pháp cũng xả. Làm được như vậy, thì thân tâm thanh
tịnh, không có phiền não, không khác chư Phật Bồ tát.
Nếu
không xả được như vậy, thì ban đầu tập xả bỏ tiền tài. Người đời thường
xem trọng miếng ăn cái mặc như mạng sống. Cho nên bố thí tiền bạc cũng vô
cùng quan trọng. Nếu có thể khẳng khái xả bỏ tiền bạc, đối với bản thân có
thể dẹp trừ tâm ích kỷ, đối với người có thể cứu giúp qua cơn cấp nạn.
Song
không dễ dàng gì coi nhẹ tiền bạc. Lúc ban đầu bố thí khó tránh khỏi có
chỗ miễn cưỡng. Song chỉ cần thường làm việc bố thí, trong lòng sẽ tự
nhiên cảm thấy an vui, có ý nghĩa, không có việc gì là không thí xả được.
Làm được việc bố thí sẽ dễ giúp cho tâm tham lam, tự tư của ta tiêu trừ,
cũng như hóa giải được sự chấp trước và keo bẩn tiền bạc.
Sao gọi là hộ trì Chánh Pháp?
Pháp là
con mắt trí tuệ hướng dẫn nhân loại trên nẻo đường nhân sinh từ xưa đến
nay, cũng là tiêu chuẩn chân lý. Nếu không có Chánh Pháp, làm sao giúp cho
con người được trở nên tốt đẹp? Làm sao có thể giúp cho chúng sinh thoát
ra rừng rậm u mê, tháo gỡ ràng rịt trói buộc? Làm sao có thể đưa hữu tình
giải thoát thế giới uế trược, ra khỏi biển khổ luân hồi sinh tử? Tất cả
đều nhờ vào Chánh Pháp, mới có đường sáng để đi.
Cho nên
chúng ta đối với chùa chiền, tượng Phật Bồ tát, kinh điển, di huấn đều
phải kính trọng. Nếu có hư hỏng phải tu bổ, chỉnh lý. Chánh Pháp của Phật,
phải hoằng truyền sâu rộng, khiến mọi người coi trọng, mới có thể báo đền
ơn Đức Phật.
Sao gọi là kính trọng bậc tôn truởng?
Cha mẹ,
anh chị trong nhà, vua quan trong nước, cho đến người tuổi tác, đạo đức,
chức vị, kiến thức hơn ta đều phải tôn kính.
Trong
nhà phụng dưỡng cha mẹ, phải có tâm biết ơn, kính yêu, hiếu thuận sâu xa,
mặt luôn tỏ ra hòa nhã, ôn thuận, lời nói nhẹ nhàng, lễ độ. Ta phải thường
thường tập theo hạnh này, lâu ngày trở nên thói quen, thành ra tánh tình
tốt đẹp. Đây chính là hòa khí, phương pháp căn bản để cảm động lòng trời.
Đối với
xã hội quốc gia phải tôn kính những người lãnh đạo đất nước, phàm làm
việc gì phải theo luật pháp, đừng cho rằng người ta không biết mà mặc tình
vi phạm. Xét xử một người phạm tôi, không luận là tội nặng nhẹ, đều phải
điều tra rõ ràng cẩn thận, công bình chấp hành pháp luật. Không nên cho
rằng cấp trên không biết mà làm mưa làm gió, oan uổng người ta.
Tôn
kính các cấp truởng quan là qui phạm từ xưa. Ai làm tròn được chữ trung
chữ hiếu, con cháu sẽ được phát đạt, cho nên phải cẩn thận tuân hành.
Sao gọi là yêu tiếc sinh mệnh?
Người
ta sở dĩ được gọi là người, là nhờ có lòng trắc ẩn. Cho nên Mạnh Tử nói:
“Ai không có lòng trắc ẩn thì không thể gọi là người!”
Cầu
lòng nhân chính là cầu tấm lòng trắc ẩn này, tích đức cũng chính là tích
chứa tấm lòng trắc ẩn. Cho nên có lòng trắc ẩn là có nhân, có đức; không
lòng trắc ẩn là không nhân nghĩa, đạo đức. Sách Châu Lễ bảo:
Mỗi năm vào tháng Giêng, khi các loài gia súc đang có mang, thì không
được giết con cái để cúng tế. Đây là vì sợ sát hại đến con vật khi còn
trong bụng mẹ.
Mạnh tử
nói: “Quân tử tránh xa nhà bếp”. Ý nói là để bảo toàn lòng trắc ẩn
của mình. Cho nên, có thuyết không ăn ba thứ thịt, đó là:
thấy con vật bị giết, nghe tiếng kêu lúc bị giết, và nghi người khác vì
mình mà giết. Người sau muốn học theo lòng nhân của người trước,
nếu không thể tức thời trường trai, thì cũng có thể học theo cách trên,
chỉ ăn ba thứ thịt thanh tịnh, không để tổn đến lòng từ bi.
Theo
Phật pháp, tất cả loài súc sinh đều do đời trước gây tạo tội nghiệp nên
phải đầu thai làm súc vật để trả nghiệp, nghiệp hết lại sinh làm người.
Nếu lại biết tu hành, vẫn có thể thành Phật. Cho nên, ta ăn thịt loài súc
vật cũng chính là ăn thịt chư Phật đời vị lai. Lại nữa, tất cả chúng sinh
trong quá khứ từng là cha mẹ, anh em, chồng vợ, quyến thuộc lẫn nhau, nên
ta ăn thịt chúng sinh cũng chính là ăn thịt cha mẹ, anh em, chồng vợ,
quyến thuộc của mình trong đời quá khứ.
Ta nay
ăn thịt chúng sinh tức là đã kết nghiệp oán thù, sau này phải đọa làm loài
súc sinh, bị ăn nuốt trở lại. Nếu ta biết quán xét những đạo lý trên, thử
hỏi còn lòng dạ nào sát sinh, ăn thịt? Lại nữa, thịt cá có ngon cũng chỉ
qua miệng là hết, khỏi cổ đã biến thành đồ bất tịnh, sao ta lại tham chút
vị giác đó mà gây tạo nghiệp tội nặng nề? Ăn để mà sống, không phải sống
để mà ăn, cho nên rau cải, thực vật cũng đủ qua ngày.
Ngưòi
chưa thể bỏ ngay được việc ăn thịt, cũng phải lần lần giảm bớt, đến khi ăn
chay hoàn toàn. Như vậy lòng từ bi sẽ gia tăng mỗi ngày.
Ăn
chay, chủ yếu là vì tránh sát sinh, nuôi dưỡng lòng từ bi. Cho nên ta phải
tôn trọng, bảo vệ mạng sống của mọi loài, cho dù là trùng kiến nhỏ nhoi.
Ngay cả mặc những đồ tơ lụa, được dệt bằng tơ tằm cũng phải nên tránh.
Ngay cả chén cơm ta ăn hàng ngày, cũng phải trải qua quá trình cày cuốc
vun trồng, nấu nướng, trong đó có biết bao côn trùng đã chết để nuôi mạng
sống cho ta. Nghĩ đến điều này, ta phải quý tiếc cơm gạo, không được phung
phí, coi thường. Ai phung phí coi thường cơm gạo thức ăn, tức đồng với tạo
tội sát sinh không khác. Còn như trong cuộc sống hàng ngày vô ý lỡ sát
sinh, hay giẫm đạp lên loài trùng kiến thì không biết nhiều đến số bao
nhiêu. Cho nên phải cẩn thận tránh được nhiều chừng nào tốt chừng nấy.
Tô Đông
Pha từng có câu thơ:
Vì
thương chuột đói, chừa cơm lại
Sợ
thiêu thân chết, chẳng thắp đèn!
Thật là
nhân hậu biết bao.
Việc
thiện thật vô cùng vô tận, không nói sao cho hết được. Chỉ có thể lược nói
mười việc thiện như trên. Chỉ cần chúng ta nổ lực hành thiện, tùy chỗ tùy
duyên, thì công đức sẽ vô lượng.
Cứu
giúp người nguy khó, cách thức có rất nhiều, nói đơn giản mười điều: một,
giúp người làm thiện; hai, giữ lòng yêu kính; ba, thành tựu cho người;
bốn, khuyên người làm lành; năm, cứu người nguy cấp; sáu, làm việc lợi
lớn; bảy, xả tài làm phước; tám, hộ trì chánh pháp; chín, kính trọng tôn
truởng; mười,
yêu tiếc sinh mạng.
CHƯƠNG BỐN
HỌC ĐỨC KHIÊM
TỐN
Ở
chương ba đã bàn đến phương pháp tích thiện, chương này sẽ nói đến cách
làm người. Sống trong xã hội, ta không thể không qua lại tiếp xử với người
khác. Cho nên cách làm người cũng phải hết sức chú ý. Trong cách làm
người, điều quan trọng là khiêm tốn. Người khiêm tốn, nhất định sẽ được
nhiều người ủng hộ và tín nhiệm. Lại nữa, người biết khiêm tốn, có thể học
hỏi để đổi mới mỗi ngày. Không những tiến bộ về mặt học vấn, kiến thức, mà
phương diện đạo đức, ứng xử, v.v... cũng không ngừng tiến bộ. Cho nên tất
cả lợi ích, đều nhờ đức tính khiêm tốn mà có.
Chương
này bàn về những lợi ích của đức khiêm tốn, cũng như những ứng nghiệm mà
đức tính này đem lại. Kính mong mọi người suy xét cẩn thận, đừng xem qua
loa, nhất định được lợi ích lớn.
Kinh
Thư nói: Tự mãn sẽ tổn hại, khiêm tốn được lợi ích. Lời xưa thật đúng
thay, lời xưa thật đúng thay.
Quẻ
Khiêm trong Kinh Dịch nói: Trong đạo lý của trời,
không luận việc gì, nếu tràn đầy sẽ tổn giảm, còn khiêm hư sẽ được lợi
ích. Trong đạo lý của đất, không luận vật gì, nếu sung mãn sẽ tổn hại,
không thể tốt đẹp mãi; còn nếu khiêm hạ sẽ được thấm nhuần không khô kiệt,
giống như chỗ đất thấp sẽ có nước chảy đến, làm đầy nơi khiếm khuyết.
Trong đạo lý của quỷ thần, phàm kiêu ngạo tự mãn sẽ khiến bị hại, khiêm
tốn sẽ khiến được phước. Còn trong đạo lý của người, ai cũng chán ghét kẻ
kiêu ngạo tự mãn, yêu quý người khiêm tốn hạ mình.
Như
vậy, trời đất quỷ thần và con người đều coi trọng khiêm hạ. Sáu mươi bốn
quẻ trong Kinh Dịch nói đến đạo lý biến hóa trong trời đất âm dương, dạy
cho ta phương pháp làm người. Trong mỗi quẻ đều có kiết có hung. Quẻ hung
cảnh giác răn người bỏ ác làm lành; quẻ kiết khích lệ người mỗi ngày một
tiến bộ; chỉ có quẻ khiêm, hoàn toàn là việc kiết tường. Kinh Thư
cũng nói: Tự mãn sẽ gặp tổn hại, khiêm tốn sẽ được lợi ích.
Tôi
nhiều lần đi thi cùng với các bạn học, mỗi lần đều nhận thấy những thư
sinh nghèo khi sắp thành đạt, trên nét mặt của họ đều hiện ra vẻ khiêm
cung, an ổn rõ ràng.
Năm Tân
Hợi, tôi đến kinh thành đi thi hội. Quê Gia Hội của tôi số người cùng đi
thì có khoảng mười người, trong đó Đinh Kính Vũ là người trẻ tuổi nhất lại
vô cùng khiêm cung. Tôi bảo với Phí Cẩm Pha cũng là người cùng đi thi:
Đinh Kính Vũ năm nay nhất định thi đậu. Phí Cẩm Pha hỏi: Làm sao mà
biết? Tôi bảo: Chỉ có người khiêm tốn mới được huởng phước báo.
Ông nhìn xem trong số mười người chúng ta, có ai thành thật trung hậu,
khiêm nhường như Kính Vũ không? Có ai cung kính, hòa thuận, cẩn thận như
Kính Vũ không? Có ai bị nhục mạ, hủy báng mà vẫn im lặng như Kính Vũ
không? Một người làm được như vậy, thì trời đất quỷ thần sẽ bảo hộ cho họ,
sao lại không thành đạt?
Sau đó
quả nhiên Kính Vũ thi đỗ.
Năm
Đinh Sửu tôi ở chung với Phùng Khai Chi tại kinh thành, trông thấy ông ta
rất khiêm tốn, nét mặt luôn tỏ ra hòa nhã, không có chút kiêu ngạo, hoàn
toàn thay đổi so với tính khí ông ta lúc nhỏ. Ông ta có một người bạn tánh
tình chánh trực tên là Lý Tề Nghiêm thường phê bình ông ngay trước mặt.
Mỗi khi như vậy, Phùng Khai Chi đều hòa nhã tiếp thu lời phê bình của bạn,
không hề phản đối một câu. Tôi bảo với Phùng Khai Chi: “Một người được
huởng phước, phước đức đó nhất định có nguyên nhân của nó; một người gặp
họa, tai họa đó nhất định có nguyên nhân của nó. Chỉ cần tâm của ta khiêm
tốn, trời sẽ gia hộ. Ông năm nay nhất định sẽ thi đỗ”.
Sau đó
quả nhiên Phùng Khai Chi có tên trên bảng vàng.
Năm
Nhâm Thìn tôi vào kinh ra mắt vua, trông thấy một thư sinh tên Hạ Kiến,
khiêm tốn nhúng nhường, không có một chút kiêu ngạo. Khi trở về tôi bảo
với bạn bè: “Phàm trời muốn cho người nào được thành đạt, thì trước hết
khiến người đó phát trí tuệ. Trí tuệ này khiến họ tự nhiên từ giảo hoạt
trở nên thành thật, từ phóng túng tự biết ước thúc. Hạ Kiến ôn hòa đôn hậu
đến mức như vậy, chứng tỏ đã phát trí tuệ, trời nhất định sẽ ban phúc cho
ông”.
Sau đó
quả nhiên Hạ Kiến thi đậu.
Giang
Âm có một thư sinh, tên là Trương Úy Nghiêm, học vấn uyên thâm, văn chương
xuất sắc, rất nổi tiếng trong giới thư sinh. Trong kỳ thi Hương năm Giáp
Ngọ, ông ta ở nhờ trong chùa đợi kết quả thi. Đến khi công bố kết quả,
không ngờ lại không có tên ông. Ông không phục, mắng quan giám khảo là
không có mắt, không thấy được chỗ hay trong văn của mình. Lúc đó có một vị
đạo sĩ đứng bên cạnh mỉm cười. Trương Úy Nghiêm bèn đem cơn giận của mình
trút sang đạo sĩ. Đạo sĩ lại nói: “Văn của ông nhất định không hay!”
Trương
Úy Nghiêm càng nóng giận bảo: “Ông không có xem văn của tôi, sao lại
biết nó không hay?” Đạo sĩ trả lời: “Tôi thường nghe người ta bảo:
Làm văn quan trọng nhất là ở chỗ tâm bình, khí hòa. Nay thấy ông nóng giận
mắng quan giám khảo, chứng tỏ trong tâm vô cùng bất bình, tánh khí nóng
nảy, thử hỏi như vậy văn làm sao mà hay được?”
Trương
Úy Nghiêm nghe xong không thể không phục, trở lại thỉnh giáo vị đạo sĩ.
Đạo sĩ nói: “Muốn thi đậu công danh, bản thân ông nhất định phải cải
đổi”. Trương Úy Nghiêm hỏi: “Số mệnh đã như vậy, làm sao mà thay
đổi?”.
Đạo sĩ
bảo: “Tạo ra số mệnh tuy rằng ở nơi trời, song quyền thay đổi lại ở
nơi ta. Chỉ cần ông chịu khó làm việc thiện, tích âm đức, thì có việc
phước gì mà không cầu được?”. Trương Úy Nghiêm bảo: “Tôi là một thư
sinh nghèo, biết có thể làm được việc thiện gì đây?” Đạo sĩ nói:
“Làm việc thiện, tích âm đức đều xuất phát từ tâm. Chỉ cần tâm ta chí
thành làm việc thiện, là công đức vô lượng vô biên. Như khiêm tốn cũng là
một việc thiện, mà không phải bỏ tiền ra làm. Ông sao lại không biết phản
tỉnh, thấy khả năng của mình còn kém, trở lại mắng giám khảo bất công?”
Trương
Úy Nghiêm nghe lời đạo sĩ, từ đó về sau dẹp bỏ tâm kiêu mạn, chú ý ước
thúc lấy mình, mỗi ngày đều gắng công làm lành, tích âm đức. Đến năm Dinh
Dậu, một hôm ông nằm mơ trông thấy đến một nơi nhà cửa to lớn, nhìn thấy
một danh sách thi đậu, trong đó còn nhiều chỗ để khuyết. Ông không hiểu
mới hỏi người bên cạnh: “Đây là cái gì?”. Người đó trả lời: “Đây
là danh sách thi đậu năm nay”.
Trương
Úy Nghiêm lại hỏi: “Sao trong danh sách lại có nhiều chỗ để khuyết?”.
Đáp: “Cõi âm đối với những người đi thi ba năm xét duyệt một lần,
phải là người không có lỗi lầm, tích chứa âm đức mới có tên trong sổ này.
Như phần trước trong danh sách để trống, đó là tên của những người lẽ ra
thi đậu, song do vì phạm phải tội lỗi nên bị xóa tên”. Kế đó lại chỉ
một hàng trong danh sách nói: “Ông ba năm nay rất chú ý việc ước thúc
bản thân, không có phạm lỗi, có lẽ sẽ bổ khuyết vào chỗ này. Hy vọng ông
tự biết trân trọng, đừng phạm sai lầm”.
Sau đó
trong kỳ thi Hội, quả nhiên họ Trương được trúng tuyển hạng thứ một trăm
lẽ năm.
Qua
những chuyện đã xảy ra ở trên, chúng ta biết rằng xung quanh đều có quỷ
thần giám xét hành vi của mình. Do đó, việc lành lợi ích cho người phải nổ
lực làm; việc ác tổn hại đến người phải cố gắng tránh. Cho nên tất cả
thiện ác, lành dữ đều do ta quyết định. Lòng mình giữ lương thiện, ước
thúc mọi hành vi bất thiện, không đắc tội với quỷ thần trời đất, và khiêm
tốn không kiêu ngạo tự mãn, chính là căn bản của phước đức. Còn những
người kiêu ngạo, nhất định không phải là bậc khí lượng to lớn dài lâu, cho
dù họ có thành đạt cũng chỉ một thời, không cách gì huởng phước lâu dài.
Người không khiêm tốn, không chịu học hỏi và cũng không ai thích dạy bảo
cho họ.
Khiêm
tốn vô cùng quan trọng, có thể giúp ta học hỏi được bao điều hay lẽ phải.
Người khác có gì hay, có việc gì thiện liền theo học, được việc lành vô
cùng vô tận. Nhất là trong việc tu dưỡng đạo đức, khiêm tốn đóng một vai
trò quan trọng hàng đầu.
Long
thần hộ pháp ở bên ta, lành dữ ta làm khó dấu qua; khiêm tốn học điều lành
lẽ phải, tự nhiên phước đức sẽ hằng sa, tự nhiên phước đức sẽ hằng sa!
Cổ nhân
có câu: Cầu công danh được công danh, cầu giàu sang được giàu sang.
Người có chí lớn như cây có rễ, sẽ sinh ra cành lá, hoa trái.
Muốn
thành tựu được chí lớn, người ta phải tâm tâm niệm niệm khiêm tốn, có việc
gì lợi ích cho người, dù nhỏ mảy may, cũng ra sức làm. Như vậy sẽ tự nhiên
cảm động đến trời đất.
Làm
phước hoàn toàn ở nơi ta. Chỉ cần ta quyết tâm làm là được. Những người
mưu cầu công danh hiện nay, thật ra không có quyết tâm, hằng tâm, chân
tâm, mà chỉ tùy hứng, tùy tiện trong nhất thời. Mạnh tử nói về Tề Tuyên
Vương:
“Đại
vương yêu thích âm nhạc, nếu yêu thích đến đúng mức thì có thể khiến vận
mệnh nước Tề hưng thịnh. Nhưng đại vương yêu thích âm nhạc chỉ vì tìm cầu
niềm vui cho cá nhân mà thôi. Nếu đại vương biết đem tâm tìm cầu niềm vui
cho riêng mình, mở rộng ra, khiến có thể cùng nhân dân chia sẻ niềm vui,
khiến mọi người được vui, thì lo gì vận mệnh nước Tề không hưng thịnh?”
Tôi
nghĩ việc cầu công danh đạo lý cũng như vậy. Phải thực hiện việc cầu công
danh này dựa trên tâm tích đức hành thiện; đồng thời phải gắng hết sức
mình làm, thì vận mệnh và phước báo đều do ta quyết định.
Thưa
các bạn, xem hoặc nghe xong sách
Làm Chủ Vận Mệnh
này, trong tâm bạn chắc có nhiều xúc cảm, được lợi ích không nhỏ. Đây là
một quyển sách cảm động và thanh tịnh hóa lòng người. Về mặt văn chương,
quyển sách này tuy bề ngoài dễ hiểu, song thực ra, trong đó chứa đựng biết
bao triết lý nhân sinh sâu xa, cần phải dụng tâm thể nhận, mới thấy được
giá trị của nó.
Cho nên
kính mong các vị, nghe xong hãy nghe đi nghe lại nhiều lần, đọc xong hãy
đọc đi đọc lại nhiều lượt, để củng cố, tăng truởng tín tâm, học theo gương
của Liễu Phàm tiên sinh, bỏ ác làm lành, tu nhân tích đức, để cải đổi mệnh
vận xấu ác, khổ đau, thành mệnh vận tốt đẹp, hạnh phúc cho mình.
Tương lai thật ra ở trong tay chúng ta. Không luận về mặt học
nghiệp, sự nghiệp, gia đình ... cho đến trở thành Thánh Hiền, đều dựa trên
căn bản này mà thành tựu mỹ mãn.
Vì lợi
ích cho số đông, sách Làm Chủ Vận Mệnh này không giữ bản quyền, cho nên
rất mong mọi người cùng phát tâm in ấn, sang băng ghi âm để kết duyên lành
cùng đại chúng trong xã hội. Mong rằng nhờ đó sẽ khiến lòng người trở nên
lương thiện, mọi người biết sống một nếp sống đạo đức tốt đẹp. Nếu biết
học theo đây không làm các việc ác, gắng sức làm điều lành, thanh tịnh tâm
ý mình, thì cá nhân sẽ thăng hoa, gia đình sẽ mỹ mãn, xã hội sẽ an định,
đất nước sẽ an vui và thế giới sẽ hòa bình.
Hết
---o0o---
Đánh máy: Thành Bửu
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật
ngày: 01-09-2005