TÌM
HIỂU VỀ GIỚI LUẬT (SÌLA)
TRONG PHẬT GIÁO
Thích
Quang Thạnh
Theo quan điểm Phật Giáo, trong tất cả
loại hữu tình chúng sanh, con người
luôn đóng một vai trò quan trọng trong
việc phát triển tâm linh (tu tập); vì
thế, mục đích của Phật Giáo là nhắm
vào đối tượng con người để hướng
dẫn họ có một cuộc sống hoàn toàn
chơn thiện mỹ, và trở thành người
có nhân cách đạo đức hoàn thiện.
Đồng thời, Phật Giáo luôn dạy cho họ
phương cách làm thế nào để sửa đổi
từ một con người có đức tánh xấu
thành một con người có đức tánh
tốt, từ đối tượng vô minh trở
thành một đối tượng trí thức, từ
một con người có tư tưởng tiêu
cực-bi quan-thụ động-và xấu
xa
trở thành con người có tư
tưởng tích cực-lạc quan-năng động-và
tốt đẹp.
Đạo đức Phật Giáo là lối sống luôn
mang lại an lạc và hạnh phúc cho con
người. Nó nêu bật vị trí quan trọng cao
tột của con người và chứng minh rằng
con người có khả năng đạt được
chơn giá trị đạo đức tối
thượng(giải thoát) nếu như vị ấy có
đủ ý chí vàsự nổ lực tự thân .
Đặc biệt, Đạo đức Phật Giáo là
lối sống cao thượng dạy con người:
Tránh làm các điều
ác, tu tập các việc lành, giữ tâm ý
trong sạch. Đó là lời dạy của chư
Phật.(To eschew all evils, to perform good
actions, and to purify ones mind. That is the
teaching of the Buddhas) (1)
Sống đạo đức có nghĩa là sống phù
hợp với việc làm thiện qua
Thân-Khẩu-Ý(Tam nghiệp), sự tuân thủ
giới luật(Sìla) là một trong những
phương pháp đạo đức Phật giáo huấn
luyện 3 nghiệp của con người loại trừ
các phiền não nhiễm ô ở đời, và
đạt được sự thanh tịnh về
thân-khẩu-ý của chính mình:
Người luôn thận
trọng lời nói, khéo phòng hộ tâm,
không phạm điều ác về thân, và giữ
các phương pháp tu tập này thanh tịnh;
sẽ chứng được đạo của Thánh nhân
dạy. (He who guards his speech, restrains his
mind, commits no wrong by his body, and thus keeps
these roads of action clean, will achieve the way
taught by the wise)
Bằng cách thực hành đúng đắn về
giới được đức Phật thiết lập,
hàng giả diệt trừ tất cả những
phiền não lậu hoặc: Tham-Sân-Si, bẻ gãy
những lạc thú trần tục, giải thoát
tất cả mọi khổ đau, và đạt đến sự
thanh tịnh 3 nghiệp(thân-khẩu-ý) cùng
với tâm và tuệ giải thoát. Về phương
diện thế gian, bất cứ xã hội hay một
tổ chức đoàn thể nào(như: trường
học, cơ quan, xí nghiệp, nhà máy
)
muốn ổn định trật tự xã hội và
hoạt động các công việc của đoàn
thể một cách có hiệu qủa cao, xã hội
hay đoàn thể đó phải tự ấn định cho
riêng nó những quy tắc hay điều luật
đối với kỷ luật tập thể. Mặt khác,
muốn thực hiện cuộc cách mạng đạo
đức xã hội và môi trường sống của
con người, điều trước tiên là phải
cải tạo tư tưởng đạo đức cá nhân
qua phương pháp tu tập và sự thực
hành giới. Điều này có nghĩa là nếu
con người muốn cải cách lại nền
đạo đức xã hội ngày càng trở nên
tốt đẹp mà không có sự chuyển hóa
đạo đức cá nhân bằng sự thạnh lọc
thân-khẩu-ý trở nên thanh tịnh, cuộâc
cải cách đó chỉ là sự cải tạo hình
thức bề ngoài mà thôi.
Theo lời dạy cơ bản của đức Phật,
sự tu tập giới là một sự biểu lộ
tình thương và lòng từ mẫn vô hạn
đối với tất cả chúng sanh. Lòng từ
bi của Phật giáo được biểu lộ không
chỉ riêng đối với tất cả nhân loại
mà còn được biểu hiện qua thái độ
Bất Hại(Ahimsà) đối với tất cả loài
thú vật và thảo mộc. Với từ ngữ
Bất hại(Ahimsà) không có
nghĩa là không va chạm. Nó có
nghĩa là không tàn phá và
không hủy diệt . Đó là một
thái độ truyền thống của đạo Phật
được bắt nguồn từ lời dạy của
đức Phật cách đây hơn 25 thế kỷ.
Thái độ này được biểu hiện qua các
nước Phật giáo bằng những phương
pháp đặc biệt như là: trồng cây để
che bóng mát ở 2 bên đường, trồng
các loại dược thảo khác nhau để
chữa bệnh, xây dựng các bệnh viện
dành cho người bệnh cũng như các
trạm thú y dành cho thú vật,
dưới
triều đại của vua A Dục vào khoảng 300
trước công nguyên (planting trees for shade
on two road-sides, planting various kinds of
medicinal trees for curing, and building hospitals
for the humans as well as clinics for
animals,ect
, under the reign of King
Asoka-300BC)
Đối với Phật giáo, con người thuộc
về tự nhiên, vũ trụ được hình
thành do các yếu tố nhân và duyên. Do
đó, con người được bao gồm trong
thiên nhiên và ngược lại. Nếu con
người cố ý hủy hoại tự nhiên,
điều đó có nghĩa là con người tự
phá hủy chính mình. Vì con người và
tự nhiên luôn ảnh hưởng qua lại và
mối liên hệ lẫn nhau. Để chứng minh ý
nghĩa này, nhà sinh thái học người Anh,
ông A.Macfadyen đã phát biểu rằng:
Sinh thái học tự nó liên quan đến mối
quan hệ qua lại giữa sinh vật sống, thảo
mộc, hoặc loài động vật, và môi
trường của chúng
(Ecology
concerns itself with the interrelationship of living
organism, plants, or animals; and their
environment
)
Mặt khác, theo quan điểm Phật Giáo, sự
đòi hỏi của con người tiếp xúc với
thiên nhiên giống như những chú ong
tiếp xúc với hoa ; dù hút mật hoa,
ong không bao giờ làm tổn hại hương
sắc của hoa : Như ong hút mật hoa ,
ra đi không làm hại hương và sắc, cũng
vậy bậc Thánh đi vào làng (As the
bee collects honey from flowers and departs without
doing any harm to their scent, so let a sage dwell in
the village) . Đó là nguyên tắc
sống đạo đức đối với các hàng
đệ tử Phật được biểu lộ bằng sự
tuân thủ giới luật (Sìla).
Trước khi thực hành giới luật Phật
Giáo, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu và
nghiên cứu về giới luật (Sìla) trong
Phật Giáo. Đó là đề tài mà người
viết muốn giới thiệu đến với quý
đọc giả.
I . NGUYÊN TỪ CỦA SÌLA
(Etymology of Sìla) :
1. Định nghĩa
về Sìla:
Từ Sìla không có nghĩa là
những điều luật, quy luật, hay những quy
tắc
buộc con người phải tuân thủ
như : trong nhà trường, cơ quan, các ban
ngành đoàn thể, các tổ chức xã hội,
hay ở các tôn giáo khác. Một vài học
giả đã giải thích Sìla với ý nghĩa
khác qua nhiều phương diện khác nhau như :
Về phương diện quy tắc và lòng từ,
Sìla có nghiã là: sự hướng
dẫn về tư cách đạo đức (guide for
behavior);
hoặc phép tắc để hành xử (rule for
action);
hay có nghĩa khác là lời dạy, mệnh
lệnh, sự ngăn cấm, quy luật,
v..v..(precept,
command, prohibition, dicipline, ect.) .
Về phương diện đạo đức,
Sìla có nghĩa là: giới hạnh (Virtue),
như tác giả B.Buddhaghosa đã định nghĩa: Giới
hạnh là gì? Đó là những trạng thái
bắt đầu bằng sự hiện diện củ Tư
tâm sở trong một con người xa lánh
việc Sát Sanh(không giết hại chúng
sanh),
v
v
; hoặc trong con
người thực hành viên mãn các học
giới (What is Virtue? It is the states
beginning with volition present in one who abstain
from killing living-beings,etc., or in one who
fulfils the practice of the duties).
Đặc biệt, về phương diện tu tập,
Sìla là từ ngữ của Pàli
được hiểu theo nhiều nghĩa như : việc
thực hành đạo đức, đức tính tốt,
đạo đức Phật giáo, và điều lệ về
đạo đức (moral practice, good character,
Buddhist ethic, and code of morality). Trong Từ Điển Sanskrit-Anh,
nó được định nghĩa như sau: Theo
từ ngữ Phật học Sanskrit, Sìla được
giải thích là: phong cách cư xử theo
đạo đức, là một trong 6 hoặc 10 pháp
Ba-la-mật; hoặc được giải thích là:
giới điều về đạo đức. Theo Phật
giáo, có 5 giới hay còn gọi là 5 phép
tắc cơ bản về phong cách đạo
đức (According to Sanskrit word of Buddhist
Sìla, it is explained as
Moral Conduct, is one of the six or ten
perfection or Pàramitàs ; or Moral
Precept. With Buddhism, there are five
fundamental precepts or rules of moral conduct).
Theo quan điểm người viết, mặc dù từ
Sìla thuộc Pàli và từ
Sìla thuộc Sanskrit có phần khác
nhau một chút về hình thức dấu, chúng
có cùng một nghĩa tương đồng và luôn
nhấn mạnh về phương cách thực hành
và ứng dụng về Sìla trong cuộc sống con
người, hầu mang đến cho họ một lối
sống hoàn toàn chơn thiện mỹ với niềm
vô biên an lạc và hạnh phúc tối
thượng. Theo quan điểm Phật giáo, Sìla
bao gồm 2 nghĩa: giới điều về đạo
đức (theo phương diện đạo đức),
và phong cách cư xử về đạo đức (theo
phương diện tu tập). Với nghĩa đầu
tiên, nó được xuất phát từ lời
dạy của đức Phật khuyên con người:
tránh ác làm lành, tu tập thân-khẩu-ý
thanh tịnh, diệt trừ tất cả những
phiền não tham-sân-si đưa đến sự an
lạc giải thoát cho chính mình. Với nghĩa
thứ hai, không những nó khuyên con
người qúy mến nhau, thương yêu nhau,
thông cảm cho nhau, đoàn kết và giúp
đở nhau; mà còn hướng dẫn con người
làm thế nào để tu tập Sìla(Giới)
thích nghi với mọi tình huống xã hội
hầu mang lại lợi ích, an vui và hạnh
phúc thật sự cho mình và người. Đây
chính là ý nghĩa Sìla tích cực và năng
động trong giới Phật giáo. Ý nghĩa Sìla
như thế mới có thể đóng góp vai
trò quan trọng của nó về phương diện
đạo đức trong cuộc sống con người và
cộng đồng xã hội ngày nay.
2. Những điều
luật của Sìla:
Như chúng ta biết rằng, cuộc sống của
các hàng đệ tử phật trong 5 chúng, như
là: Tỳ-kheo(Bhikkhus), Tỳ-kheo-ni(Bhikkhunìs),
Sa-di(Sràmaneras), Phật tử Nam(Upàsakas),
Phật tử Nữ (Upàsikas), được tuân
thủ những giới điều của Phật giáo.
Nền tảng cội nguồn của những quy điều
này truyền đến thế hệ chúng ta từ
một hình thức rất sớm với tên gọi
là Ba-la-đề-mộc-xoa(Pàtimokkha), và
được tập hợp lại từ những quy
điều tự viện khác nhau được bao gồm
trong Luật Tạng (Vinaya Pitaka).
Ba-la-đề-mộc-xoa có 2 phần
: một dành cho Tỳ-kheo bao gồm 227 giới, và một dành cho Tỳ-kheo-ni
bao gồm 311 giới. Mặt khác,
Ba-la-đề-mộc-xoa được phân chia thành 8
loại tội lớn nhỏ khác nhau dành cho Tỳ
kheo, và 7 loại tội cho Tỳ-kheo-ni(vì
không có 2 pháp Bất Định Aniyatà)
được trình bày tóm tắt như sau:
Số tt |
Các loại giới |
Tỳ-kheo |
Tỳ-kheo-ni |
1 |
Ba-la-di (Pàràjika:
Defeat Rules) |
4 |
8 |
2 |
Tăng
Tàn(Sanghàdisesa:Formal MeetingRules) |
13 |
17 |
3 |
Bất Định (Aniyatà:
Undetermined Rules) |
2 |
/ |
4 |
Xã đọa (Nissaggiyà
Pàcittiya: Forfeiture Rules) |
30 |
30 |
5 |
Tội Đọa (Pàcittiya:
Expiation Rules) |
92 |
166 |
6 |
Hướng Bỉ Hối
(Pàtidesaniyà: Confession Rules) |
4 |
8 |
7 |
Chúng Học (Sekhiya:
Training Rules) |
75 |
75 |
8 |
Diệt Tránh (Adhikarana
Samatha: Legal Question Rules) |
7 |
7 |
|
Tổng Cộng |
227 |
311 |
Đó là phần giới Pàtimokkha dành cho
Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni. Tiếp theo là phần
10 giới dành cho vị Sa-di(Sàmanera), đó
là tránh xa :
1. Việc
sát sanh (Destroying life)
2. Việc
trộm cắp (Stealing)
3. Việc
tà dâm (Impurity)
4. Việc
nói dối (Lying)
5. Việc
uống các chất say và rượu mạnh (Arrack
and strong drink and intoxicating liquors)
6. Việc
ăn phi thời (Eating at forbidden times)
7. Việc
ca múa hát xướng và xem nghe (Dancing,
singing music and seeing spectacles)
8. Việc
đeo tràng hoa thơm và thoa phấn sáp
(Garlands, scent, unguents, ornaments, and finery)
9. Việc
xử dụng giường cao và rộng lớn (The
use of the high or broad beds)
10. Việc cầm giữ vàng
bạc (Accepting gold and silver).
Trong sự liên hệ về 10 giới này, tác
giả H. Kern đã đề cập về Sìla trong
cách diễn đạt khác. Ông viết: Tất
cả10 giới này buột các thành viên
trong Tăng đoàn tuân thủ, 5 giới đầu
dành cho Phật tử là tránh xa: (1)
việc sát sanh, (2) trộm cắp, (3) tà
dâm,(4) nói dối, (5) dùng các chất say; 5
giới sau tránh xa: (6) ăn phi thời, (7)
tham gia vào các trò chơi giải trí ở
đời, (8) dùng phấn sáp và hương thơm,
(9) nằm giường trang sức và rộng lớn,
(10) giữ tiền bạc.
Về phương diện khác, một số sách đã
được các tác giả đề cập về 10
giới theo một trật tự khác, ví dụ
như: trong quyển Đạo Đức Phật
Giáo của tác giả H. Saddhàtissa,
ông ta đã đổi lại vị trí của giới
thứ 8 sang vị trí của giớiù thứ 9 và
ngược lại. Hay trong sách giáo khoa
A Study of the Sphutàrthà
Srighanacarasangraha Tika của Giáo sư
Sanghasen Singh, ông ấy đã sắp xếp vị
trí của giới thứ 6 sang vị trí của
giới thứ 9 va ngược lại.
Chúng ta thấy rằng, tùy theo căn cơ cao
thấp của con người mà đức Phật
thiết lập ra các giới điều theo mỗi
mức độ khác nhau, nhằm giúp con người
dễ dàng tu tập tâm thanh tịnh trên
con đường tu tập phát triển tâm linh.
Mặc khác, dù giới luật (Sìla) có phân
chia thành nhiều loại khác nhau, 5 giới
đầu và 10 giới đầu vẫn là những
giới căn bản và chủ yếu cho tất cả
mọi người khi tu tập đạo đức tâm
linh; những giới khác được hệ thống
hóa một cách chi tiết từ những 10
giới căn bản này. Đăc biệt, 5 giới
đầu là nền tảng cơ bản
đạo đức chủ yếu trong sự tu tập
không những cho tất cả qúy vị Phật
tử, mà còn cho tất cả mọi người
trong xã hội nếu họ muốn tìm một cuộc
sống an lạc và hạnh phúc thực sự,
muốn thiết lập một xã hội có trật
tự, và muốn xây dựng một thế giới
hòa bình. Đó là nền đạo đức luân
lý cơ bản được đức Phật thiết lập
và hướng dẫn cho con người tu tập
đạo đức tâm linh với mục đích vì an
lạc và hạnh phúc cho mọi người trong
cuộc sống hiện tại cũng như ở tương
lai.
II. KHÁI NIỆM VÀ HIỆU
LỰC CỦA SÌLA (Concept and Effect of Sìla) :
1. Khái
niệm về Sìla:
Khi đề cập đến Sìla, đầu tiên chúng
ta cần nhận thức đúng đắn về khái
niệm của Sìla. Như được đề cập
về Sìla trong phần đầu giới thiệu, Sìla
không có nghĩa là những điều lệ hay
những quy tắc như ở: trường lớp, cơ
quan, xã hội, hay các tổ chức đoàn
thể
, nó cũng không có nghĩa là:
chấm dứt, hay ngăn cấm các hành vi bất
thiện như cắt đứt cây cỏ thảo
mộc
Sự tuân thủ Sìla trong đạo
Phật nhằm vào ý thức đạo đức cá
nhân hầu giúp con người giải thoát
tất cả những phiền não ô nhiễm và
khổ đau ở đời, mang lại cho họ một
cuộc sống hoàn toàn chơn thiện mỹ.
Đức Phật, Ngài nhận rõ hoàn toàn
sự đau khổ con người bắt nguồn từ
cội gốc phiền não Tham-Sân-Si; vì thế,
Ngài đã dùng phương tiện khéo léo
bằng cách thiết lập các giới điều
về đạo đức cho con người tu tập ý
thức cá nhân, và mang lại cho họ sự
an vui, hạnh phúc và giải thoát tâm.
Từ quan điểm này, chúng ta nhận thấy
Sìla trong Phật giáo được bắt nguồn
từ sự đau khổ của con người, nó chỉ
là phương tiện cho con người nương theo
để tu tập thoát khỏi mọi khổ đau khi
con người vẫn còn đau khổ. Vì vậy,
đứng trên phương diện giải thoát mà
nói, sự tuân thủ giới không là cái
gì cả, nó chỉ là phương tiện tạm
thời để gíup con người thoát khỏi
mọi khổ đau. Từ đây, ta có thể nói
rằng: Giới (Sìla) là cội gốc của sự
Giác ngộ, là nền tảng của Niết bàn,
là chiếc bè đưa người qua bể khổ,
là chiếc cầu nối liền với bờ Giải
thoát.
Mặt khác, sự thực hành Giới (Sìla)
có nghĩa là dạy con người làm thế
nào để tu tập đạo đức cá nhân,
làm thế nào để nhận rõ và thông
cảm nổi khổ của con người như của
chính mình. Hiểu được khái niệm này,
hành giả không những tu tập đạo đức
chính mình mà còn không gây đau khổ cho
mình và người khác trong cuộc sống
cộng đồng xã hội.
Từ sự giải thích ở trên về khái
niệm giới, chúng ta hiểu được rằng:
Giới trong Phật giáo là nhằm vào sự
giải thoát phiền não và sự tu tập
đạo đức cá nhân của con người; do
đó, sự tuân thủ giới luật (Sìla)
trong Phật giáo mang lối thực hành mới
mẽ, năng động và tích cực đối với
mọi người, mọi xã hội, và mọi thời
gian vì tính chất giải thoát của nó.
Đó là khái niệm đúng đắn về
Giới(Sìla) trong Phật giáo được trình
bày như trên.
2.Hiệu lực
của Sìla:
Khi nghiên cứu về Phật pháp, chúng ta
nhận thấy lời dạy của đức Phật
luôn khuyên con người: tu tập đạo
đức cánhân, cư xử với nhau
bằng tấm lòng nhân ái và vị tha, sống
với sự bình đẳng-bác ái-độ
lượng-và khoan dung, không làm đau khổ
cho mình và người, xa lánh những phiền
não và lạc thú ở đời bằng sự tu
tập Giới hầu giải thoát khổ đau và
đạt được chơn hạnh phúc tối
thượng. Hơn nữa, sự tuân thủ giới
luật trợ giúp con người phát huy
lốisống mẫu mực, thành tựu ý thức
đạo đức cá nhân, và đưa con người
đến sự an lạc hạnh phúc và giải
thoát giác ngộ. Đặc biệt, giới Phật
giáo dạy con người nhận thức đúng
đắng về phong cách cư xử đạo đức
trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con
cái, giữa thầy và trò, giữa chồng
và vợ, giữa chủ và tôi tớ, và
giữa tình bạn với nhau như :
a. Giữa cha mẹ và con
cái
Đức Phật đã xác định và nhấn mạnh
về mối liên hệ của gia đình bằng cách
khuyến khích tất cả mọi người nên duy
trì mối quan hệ ràng buột gia đình với
nhau , sống với nhau bằng sự tôn trọng
nhân cách và được thể hiện qua trách
nhiệm và bổn phận của mình trong gia
đình. Ngài đã đưa ra 5 điều giới mà
người con cần phải tuân thủ:
· Cấp dưỡng cho cha
mẹ (Supporting his parets now).
· Thực hiện trách
nhiệm và bổn phận của mình đối với
cha mẹ (Performing duties incumbent on them).
· Duy trì nòi giống và
truyền thống của gia đình (Keeping up the
lineage and tradition of the family).
· Làm tròn công việc
ma chay đối với người đã khuất (Making
gifts in due course to the dead).
Ngược lại, cha mẹ phải
đối xử với con cái theo 5 điều :
·
Ngăn cản con cái làm những hành động
bất chính (Restraining him from evil action).
·
Khuyến khích con cái làm những việc có
đạo đức (Exhorting him to virtue).
·
Hướng dẫn cho con cái có nghề nghiệp
ổn định (Training him to a profession).
·
Sắp xếp việc cưới hỏi thích hợp cho
con cái (Arranging a suitable marriage for him).
·
Trao cho con di sản thừa kế đúng lúc (In
due time, hanging overhis inheritance)
b. Giữa Thầy và trò(19)
Mối quan hệ giữa thầy và trò được
đánh giá rất cao trong Phật giáo. Đức
Phật dạy 5 cách được ứng dụng cho
học trò đối với Thầy:
· Đứng dậy chào
Thầy (Rising from his seat in salutation).
· Hầu Thầy (Waiting upon
the teacher).
· Ham học (Desiring to
learn).
· Chăm sóc thầy chu
đáo (Rendering him personal service).
· Chú tâm mỗi khi nghe
lời dạy của Thầy (Paying attention when
receiving the teachers teachings).
Ngược lại 5 cách này,
Thầy giáo phải có 5 bổn phận đốivới
học trò:
· Dạy học trò những
điều mà Thầy đã được huấn luyện
(Training the pupil in that wherein the teacher has
been trained).
· Làm cho học trò nắm
chắc những điều đã được học (Making
the pupil hold fast that, which is well held).
· Dạy bảo học trò
hết lòng bằng kiến thức khéo léo của
mình (Thoroughly instructing the pupil in the lore
of every art).
· Nói tốt cho học trò
giữa những người bạn và đồng
nghiệp (Speaking well of the pupil among his
friends and companies).
· Bảo vệ sự an toàn
cho học trò trong mỗi phương diện
(Providing for his safety in every quarter).
c. Bổn phận chồng đối
với vơï
Để giữ được cuộc sống hạnh phúc
gia đình giữa chồng và vợ được lâu
dài, Đức Phật dạy 5 bổn phận của
người chồng đối với vợ:
· Tôn trọng nhau
(Respect).
· Lịch sự nhã nhặn
với nhau (Courtesy).
· Trung thành
(Faithfulness).
· Tôn trọng quyền làm
vợ (Hang over authority to her).
· Cung cấp cho vợ
những vật trang sức cần thiết (Providing
her with necessary adornment).
Ngược lại, vợ cũng phải
biểu hiện 5 bổn phận của mình đối
với chồng:
· Thể hiện tốt trách
nhiệm của mình đối với chồng (Well
performing her duties).
· Biểu hiện lòng mến
khách đối với dòng dõi giữa 2 gia
đình (Showing her hospitality to the skin of both
families).
· Trung thành
(Faithfulness).
· Giữ gìn kỷ lưỡng
tài sản của chồng (Well watching over the
husbands wealth)
· Khéo léo và linh
động thực hiện các việc kinh doanh.(Skill
and industry in discharging all her bussiness).
d. Bạn bè với nhau
Trong phần này, đức Phật đãđưa
ra 5 phương pháp để cư xử trong tình
bạn. Vị ấy phải tự mình làm tròn
trách nhiệm của mình đối với bạn theo
5 điều:
· Rộng lượng với
bạn (Generosity).
· Nhã nhặn với bạn
của mình (Courtesy).
· Có lòng nhân từ
(Benevolence).
· Cư xử với bạn
giống như cư xử với chính mình (Treating
them as he treats himself).
· Nói lời tốt đẹp
(Being as good as his word).
Ngược lại, người bạn
của vị ấy cũng đáp lại cho vị ấy theo
5 cách:
· Bảo vệ bạn khi bạn
không kịp đề phòng (Protecting him when he is
off his guard).
· Giữ gìn của cải cho
bạn (Guarding his property).
· Là nơi nương tựa
cho bạn trong lúc nguy hiểm (Becoming a refuge
in danger).
· Không từ bỏ bạn
trong lúc khó khăn (Not forsaking him in his
family).
· Quan tâm đến gia
đình của bạn (Showing consideration for his
family).
e. Bổn phận giữa chủ
đối với đầy tớ
Đức Phật dạy người chủ
phải cư xử với người đầy tớ của
mình theo 5 cách:
· Phân công việc phải
tùy theo sức khẻo và khả năng của
đầy tớ (Assigning their work according to their
strength and capabilities).
· Cung cấp đầy đủ
thức ăn và lương bổng cho họ(Supplying
them with food and wages).
· Chăm sóc họ khi
bệnh hoạn (Looking after them in sickness).
· Thỉnh thoảng chia sẽ
cho họ những món ăn ngon (Sharing withthem
occasional delicacies).
· Cho phép họ nghỉ ngơi
đúng lúc (Granting leave at time).
Ngược lại, người tớ
phải thể hiện 5 bổn phận trách nhiệm
của mìng đối với chủ như:
· Thức dậy trước
người chủ của mình (Rising before the
owner).
· Đi ngủ sau chủ của
mình (Going to rest after the owner).
· Bằng lòng với công
việc được giao (Contenting themselves with
what is given to them).
· Làm việc hết lòng
(Well working).
· Làm tốt thanh danh
của chủ (Establishing a good reputation for the
owner).
Đặc biệt đối với Tăng-ni, bằng sự
tuân thủ giới tiểu-trung và giới đại
, vị ấy thận trọng những hành vi thiện
trong lời nói và việc làm của mình.
Sống trong sạch, phẩm hạnh tốt, phòng
hộ các căn, vị ấy chánh niệm tĩnh
giác. Vị ấy đạt được sự thanh tịnh
về thân-khẩu-ý (By the observance of Sìla
with the Culla Sìla(Minor Precepts, Majjhima
Sìla(Medium Precepts), and Maha Sìla(Major
Precepts), one encompasses himself with good deeds in
act and word. Pure are his means of livelihood, good
is his conduct, guarded the door of his senses, he is
mindful and seft-possessed. He attains the
purification of body-speech-and mind)(23). Với sự hòan hảo giới
hạnh, vị ấy tẩy trừ tâm tham ái, ác
ý, yếu ớt và biếng nhác, trạo cử
và hối tiếc, và tâm nghi ngờ (with
fulfilment of moral conduct, he purifies his mind of
lusts, of malevolence, of weakness and of sloth, of
flurry and reget, and of doubt). Khi 5 phiền não đã
được tẩy trừ, tâm vị ấy an tịnh
chứng và trú vào Tứ thiền. Sau đó,
tâm vị ấy hướng đến Thắng trí, và
chứng đắc Tam minh và Lục thông. Đây
là kết quả dị thục của đời sống Sa
môn trong cuộc đời.
Từ vấn đề được đề cập ở trên,
chúng ta có thể nói rằng: sự tuân
thủ giới là nhằm vào sự tẩy trừ
những hành vi bất thiện, xây dựng một
con người đạo đức và gương mẫu trong
xã hội, hình thành một xã hội hòa
bình và hạnh phúc cho con người. Đây
là nguyên tắc đạo đức cơ bản
được đức Phật thiết lập vì an lạc
hạnh phúc và giải thoát cho mình và
người trong cuộc sống hiện tại cũng
như trong tương lai.
3.Sự tu tập
Giới (Sìla):
Trước khi đề cập về sự tu tập
giới, chúng ta không quên đề cập đến
công năng và nhiệm vụ của nó. Nhiệm
vụ của giới gồm có 2 nghĩa: hành
động để chấm dứt tà hạnh và thành
tựu đức không lỗi nơi người có
giới. Bởi thế khi gọi là Giới, cần
hiểu rằng nó có nhiệm vụ chặn đứng
các tàhạnh là nhiệm vụ của nó theo
nghĩa hành động, và bản chất không
lỗi kể như nhiệm vụ của nó trong nghĩa
thành tựu. Vì ở đây, chính hành
động hoặc sự thành tựu được gọi
là nhiệm vụ. Còn công năng và lợi
ích của việc trì giới là phòng
phi chỉ ác(tức là ngăn chặn
những việc làm sai trái và đình chỉ
các việc ác. Chính nhờ hành trì đúng
đắn các giới điều đức Phật chế ra,
hành giả đạt được sự thanh tịnh về
thân-khẩu-ý và đạt được sự vô
uý).
Theo quan điểm của đạo Phật, Giới
được đặt trên nền tảng tình yêu
thương rộng lớn và lòng thương xót
đối với tất cả chúng sanh. Vì thế,
muốn thành tựu giới trọn vẹn, chúng
ta cần phải sống với sự chế ngự
của giới bổn Patimokkha, đầy đủ oai nghi
chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những
lỗi nhỏ nhặt. Nhờ vậy, 3 nghiệp
được thanh tịnh:
Thân khẩu ý thanh
tịnh, thị danh Phật xuất thế
Thân khẩu ý bất tịnh, thị danh Phật
diệt độ
Thân khẩu ý thanh tịnh tức là: thân
tránh xa những điều xấu ác như sát
sanh-trộm cắp-tà dâm
.; miệng không
nói dối, nói 2 lưỡi, nói lời độc
ác
; ý không móng khởi lên
tham-sân-si và tà kiến. Trong khi thực
hành giới , chúng ta cần nhất phải
giữ gìn thân và miệng bề ngoài cho
đúng với giới luật thì tâm trí bên
trong mới được trong sạch . Trong và
ngoài đều trong sạch, tức nhiên dung
nhiếp nhau từ chỗ mê đến chỗ ngộ .
Muốn đạt đến chỗ ngộ , hành giả cần
phải hướng về những giới điều như :
nhiếp luật giới, nhiếp thiện pháp
giới, nhiêu ích hữu tình giới( Tam Tụ
Tịnh Giới)
Nếu thực hành đúng
Giới học như trên , tức nhiên thân
tâm giải thoát được mọi sự ràng
buộc và không sanh khởi những hành vi
bất thiện. Nhờ có sức mạnh của việc
trì giới, chúng ta có thể vượt lên
sư chi phối của ngoại cảnh, của
nội tâm; hầu tìm đến sự an tịnh cho
chính mình ngay trong cuộc đời.
Trong thời đại hiêän nay, người đệ
tử Phật ( nói chung) và Tăng - Ni trẻ
(nói riêng) cần phải tu tập giới như
thế nào để hoà hợp với cuộc đời
khi chúng ta thực hiện nhiệm vụ Truyền
trì đạo mạch của đức Thế
Tôn ?
Trong kinh Kim cang, có câu :
Nhất thiết hữu vi
pháp Như mộng , huyễn, bào ảnh
Như lộ diệc như điển Ưng tác
như thị quán.
Thật vậy, vạn vật trên cuộc đời này
đều do các duyên hoà hợp mà sinh
khởi và hoại diệt khi duyên tan rã.
Các pháp đều không trường tồn, luôn
sanh diệt diệt sanh, sanh sanh diệt diệt,
sanh để rồi diệt, diệt để rồi sanh
cứ như thế luôn đổi thay biến
hoá từ tình trạng này sang tình trạng
khác. Chúng như chiêm bao, như huyễn hoá,
như bọ bào, như bóng nắng, sương mai,
như điện chớp
nên gọi là vô
thường, giả tạm, không thật có
Người học cần phải biết phân biệt
như vậy mà quán sát rằng : con người
do Thất đại (Địa, Thủy, Hoả, Phong,
Không, Kiến, Thức) giả hợp mà thành.
Hay nói khác, do duyên của 5 Uẩn (Sắc,
Thọ, Tưởng, Hành, Thức) giả hợp mà
thành một con người, mọi sự vật trên
cuộc đời đều do Tứ Đại (Đất,
Nước, Gió, Lửa) giả tác thành mà
hiện hữu. Tất cả luôn bị sức búa
của thời gian tàn phá, tiêu diệt và
hủy hoại theo quy luật tất yếu của cuộc
sống . Dòng đời luôn vận chuyển theo
thời gian mà thay đổi, sanh diệt và
không bao giờ đứng yên một chổ. Mọi
thứ trên cuộc đời đều phải vận
động để tiến hoá, đấùu tranh để sinh
tồn. Vì vậy Đức Phật đã từng nói :
Tất cả những lời dạy của
Ngài như ngón tay chỉ mặt trăng .
Chúng ta chớ lầm tưởng ngón tay là
cứu cánh, nó chỉ là phương
tiện để chỉ cho mọi người hướng
đến mặt trăng mà thôi! Mọi giáo
điều của Ngài chỉ là phương tiện để
giúp cho con người nương theo đó vượt
thoát mọi khổ đau, hầu hướng đến
sự an lạc giải thoát cho chính mình.
Cũng vậy, giáo điều của Phật chỉ tạm
chế ra khi có người trong Tăng đoàn
phạm lỗi , nếu không ai có lỗi thì
Ngài không chế. Do đó, giới điều của
Phật chỉ là phương tiện làm cho con
người thuần thục về tư tưởng, về
lối sống và ứng xử với nhau một
cách tốt đẹp. Nếu con người vốn
thuần thục trong giới, họ trở thành
những người mẫu mực, chân chánh,
thân tâm luôn thanh tịnh thì cần gì phải
giữ gìn giới điều. Khi cây chưa bén
rễ, chúng ta cần phải có hàng rào
(giới) để ngăn cản loài chó, gà
không bươi phá. Khi nó bén rễ, phát
triển cao lớn, cfnh lá sum xuê thì dù cho
không có hàng rào chăng nữa, gà chó
cũng chẳng làm tổn ại gì đến cây.
Trong tạng kinh Phật giáo đức Phật có
đề cập đến 5 sự lợi ích cho người
trì giới và sống đúng giới luật:
a. Tiền
của dồi dào qua công việc làm đứng
đắn (Acquirement of great wealth through his
industry and of strong rectitude)
b. Tiếng
lành đồn xa (Good report of him are spread
aboard)
c.
Khi vào trong bất kỳ hội chúng nào ,
hoặc xã hội, hoặc giới thượng lưu,
hoặc giới Bà la môn, hoặc gia chủ,
hoặc những thành viên trong cộng đồng
tôn giáo (Sa môn)
tâm vị ấy không
sợ hãi và bối rối. (His entering into
whatever society, Nobles, Brahmins, Householders, or
members of a religious order,etc., with his confident
and self-possessed mind.)
d. Chết
không sợ hãi (Death without anxiety)
e. Sau
khi chết, vị ấy được thác sanh
vào cõi thiên giới (Rebirth into some happy
state in heaven after death)
Và ngược lại, đức Phật cũng đề
cập 5 sự hãm hại và mối nguy hiểm
đến với những ai không tuân thủ
giới :
a. Tài
sản bị hao hụt ( Falling from great property
through sloth and devoid of rectitude)
b. Tiếng
ác đồn xa (His evil repute gets noised abroad)
c.Khi vào trong bất kỳ hội
chúng nào, hoặc xã hội, hoặc giới
thượng lưu, hoặc giới Bà la môn, hoặc
gia chủ, hoặc những thành viên trong
cộng đồng tôn giáo (Sa môn)
tâm
vị ấy luôn sợ hãi và bối rối. (His
entering into whatever society, Nobles, Brahmins,
Householders, or men of a religious order,etc., with
shy and confused mind)
d. Chết
với tâm đầy sợ hãi (Death with full
anxiety)
e. Sau
khi chết, vị ấy bị thác sanh vào cõi ác
thú (Rebirth into some unhappy state of suffering
or woe after death)
Nói tóm lại, người Tăng Ni trẻ chúng
ta sống trong một thời đại văn minh
tiến bộ , cần phải hiểu biết thâm sâu
về sự tu tập giới. Chúng ta không nên
đóng kín những giới điều của Phật
trong một khuôn mẫu nhất định mà phải
dùng trí quán sát Tuỳ Duyên Bất
Biến trong khi tu tập . Dẫu biết
rằng giới lànền tảng của trí tuệ,
là thềm thang của sự giải thoát, là
cửa ngõ của Niết Bàn; song chúng ta
phải biết thực hành giới trong từng
hoàn cảnh, tình huống khác nhau khi tu
tập; miễn là tâm hồn định tĩnh, không
tham đắm với ngoại cảnh xung quanh. Giống
như cây to lớn phải nảy cành thay lá
nhưng không bao giờ rời gốc của nó.
Chúng ta cũng vậy, luôn uyển chuyển về
sự tu tập giới trong từng hoàn cảnh
thích hợp với mình không nên quá khắc
khe hoặc phóng khoáng trong việc tu tập
giới. Chủ yếu là làm sao thân tâm
chúng ta được an tịnh, tướng mạo đoan
trang trong một thái độ thoải mái, lịch
lãm. Có như vậy, ta mới hoà nhập vào
lối sống cuộc đời một cách dễ dàng
khi hoá độ. Tinh thần này đã được
các vị thiền sư, tổ sư vận dụng nó
làm kim chỉ nam trong qúa trình
hành đạo, cũng như ngài Tùng Thẩm
Pháp sư vì muốn khai ngộ cho đệ tử mà
tự tay mình bóp chết con mèo trước
mặt các hàng đệ tử với một tâm
trạng lắng đọng vô tư; như vậy đối
với ngài có sát sanh chăng? Ngài Thiền
Lão Thiền sư làm cố vấn, ngài Thảo
Đường làm quốc sư, ngài Đỗ Thuận
Thiền sư được vua Lê Đại Hành mời
vào cung bàn luận việc chính trị ngoại
giao của nước nhà
Như vậy, các
ngài đã tham đắm danh lợi, hoặc mất
tính chất một tu sĩ, hay phá giới chăng?
Là đời hậu tấn, chúng ta phải noi theo
tinh thần của các vị tiền bối, luôn
phóng khoáng trong một trật
tự nề nếp khi tu học giới mà
không chấp chặt ở một giới điều
nào cả. Điều quan trọng nhất là luôn
duy trì và giữ vững thân tâm mình
được thanh tịnh, an lạc; chánh niệm tĩnh
giác trong khi đi-đứng-nằm-ngồi-nói
năng-cư xử
một cách lịch thiệp,
ôn hoà và nhã nhặn. Như vậy, ta đã
biết tực hành giới một cách trọn
vẹn. Chúng ta đừng qua niệm rằng: giữ
giới tức là mắt thấy sắc không nhìn,
tai không dám nghe tiếng, mũi không dám
ngửi mùi hương, lưỡi không chịu nếm
hương vị, thân không dám va chạm, ý
không dám suy nghĩ; đó là những
người giữ giới theo sự cố chấp trong
từng giới điều. Là con người, lẽ dĩ
nhiên chúng ta luôn cần những món ăn
vật chất để nuôi cơ thể và những
cuộc vui giải trí hầu làm thoải mãn tinh
thần của con người khi mệt mỏi. Song,
là một tu sĩ Phật giáo, chúng ta phải
ăn uống như thế nào để khỏi bị bội
thực; tiếp xúc với ngoại cảnh như
thế nào hầu không bị ô nhiễm, tham
đắm và đừng để mọi người chê bai.
Đó mới là người biết sống, biết tu
trì giới luật trọn vẹn của Phật. Đạo
Phật chúng ta luôn luôn hoà mình vào
cuộc đời, mãi mãi là bông sen mang
hương thơm đến cho đời và mọi người
mà không bị tổn hại đến hương sen. Vì
vậy, hoa sen là một hình ảnh tượng
trưng cho tinh thần nhập thế của Đạo
Phật, tượng trưng một lối sống
tuỳ duyên bất biến của
người tu sĩ trong thời hiện đại với
sứ mạng :
Truyền trì đạo
mạch, tục diệm truyền đăng, xiển dương
Chánh pháp, lợi lạc quần sanh, báo
Phật ân đức trên tinh thần
Đạo pháp Dân tộc
CNXH.
Hương Chiên đàn Già la
Hương Sen và Vũ quý,
Ngần ấy loại hương vị Không
sánh bằng Giới hương
(Sandalwood or Tagara, a lotus flower or a vasiki,
Among these kinds of perfume, the perfume of
virtue is unsurpassed )
Hay: Ít giá trị hương này
Hương già-la, chiên đàn,
Chỉ hương ngườiđức hạnh Tối
thượng toả thiên giới
(Scanty is the scent that comes from Tagara and
sandalwood but the perfume of those who possess
virtue rises up to the gods as the highest.)
III. KẾT LUẬN: (Conclusion)
Đề tài : Tìm
hiểu về Giới Luật (SìLa) trong Phật
giáo. Là một phần nhỏ trong phạm vi
Tạng luật Phật giáo, vì thế theo phạm vi
của đề tài, người viết không thể
diễn đạt toàn bộ Tạng luật một cách
chi tiết, mà chỉ đề cập một phần nhỏ
trong phần luật mà thôi. Đó là sự
nghiên cứu về: Nguyên từ Sìla (định
nghĩa và giới thiệu các giới điều
của Sìla) , cũng như đề cập đến khái
niệmvà hiệu lực của Sìla trong sự tu
tập .
Như trên đã đề cập, Sìla
của Phật giáo luôn dựa trên đạo
đức (morality) và lòng từ (compassion) .
Sự tuân thủ giới luật (Sìla) là nhằm
vào sự tu tập ý thức đạo đức cá
nhân hầu làm cho con người thoát khỏi
mọi khổ đau ở đời . Vì thế, đức
Phật đã sử dụng nhiều phương tiện
thiện xảo bằng cách tạm thiết lập các
giới điều cho các đệ tử tuân hành
hầu mang lại sự an lạc và hạnh phúc
cho con người.
Mặt khác, Sìla của Phật
giáo được bắt nguồn từ nỗi đau khổ
của con người. Có nghĩa là sự tuân
thủ giới luật (Sìla) không là gì cả ;
nó chỉ là những phương tiện tạm thời
hầu giải thoát con người từ những
phiền não vô minh và tham ái, đạt
được sự thanh tịnh thân và tâm (giác
ngộ giải thoát) .
Sống trong thời đại văn
minh tiến bộ, chúng ta cần phải hiểu và
thực hành giới(sìla) một cách chính
xác trong khi tu tập. Có nghĩa là chúng ta
không nên cố chấp vào những giới
điều của Phật như là một khuôn khổ
ấn định không bao giờ thay đổi, mà
hãy quan sát nó bằng trí tuệ sâu xa
của chính mình trong khi tu tập giới. Mặc
dù Sìla là nền tảng của trí tuệ, là
thềm thang của sự giải thoát, là cách
cửa của sự Niết bàn, chúng ta phải
nhận thức như thế nào khi tu tập giới
trong nhiều điều kiện và hoàn cảnh
khác nhau với tâm an tịnh của chính mình.
Hay nói cách khác vị ấy nên uyển
chuyển để tu tập giới trong những tình
huống thích hợp với chính mình và
không nên giữ một thái độ quá khắc
khe hoặc quá lỏng lẻo trong khi tu tập
giới. Dĩ nhiên, là một con người,
chúng ta cần phải thưởng thức những
món ăn ở đời để giữ gìn thân
thể và vui chơi nhiều trò chơi giải trí
để thoải mái tinh thần; Nhưng điều quan
trọng là chúng ta ăn uống như thế nào
để không bị bội thực, và làm thế
nào để thưởng thức những thú vui
ở đời mà vẫn luôn giữ tâm an tịnh
và giải thoát. Đó làngười biết
tuân thủ giới luật một cách đúng
đắn và hợp lý.
Hương các loài hoa
thơm Không bay ngược chiều gió,
Nhưng hương người đức hạnh
Ngược gió khắp tung bay,
Chỉ có bậc Chân nhân Toả khắp
mọi phương trời
(The scent of flowers does not travel against the
wind, nor that of Sandalwood, or of Tangara and
Malika flowers. But the fragance of good people
travels even against the wind, a good man pervades
every quarter)
Đặc biệt chúng ta nhận
thấy rằng : Bất kỳ xã hội nào muốn
phát triển và tồn tại lâu dài trong
cuộc đời cần phải có những con
người xã hội đứng đắn. Con người
xã hội đứng đắn là con người hoàn
hảo về ý thức đạo đức cá nhân
với sự vắng mặt của tham sân si ở
nội tâm . Sự tuân thủ giới luật
không phải là một cái gông cùm áp
đặt con người làm điều này không
làm điều kia, nó chỉ giúp cho con người
quay về với ý thức đạo đức cá
nhân của chính họ và diệt tận mọi
phièân não khổ đau. Con người sống
trong sự thực hành giới có nghĩa là
sống trong ý thức đạo đức của chính
mình vì thế, mục đích của giới trong
Phật giáo là giáo dục con người trở
thành người xã hội gương mẫu, người
lý tưởng , và người hoàn hảo trong
xã hội .
Vai trò của giới Phật
giáo là làm cho con người giải thoát
tất cả mọi ràng buộc ở đời cũng
như cải tạo những hành vi bất thiện
mà con người gây ra trong xã hội. Khi con
người sống trong giới (Sìla) và thân
tâm trở nên an tịnh không còn phiền
não tham sân si, xã hôïi trở nên an
bình, không còn những vấn đề sát sanh,
trọm cắp, v.v.; hoặc xung đột, thù oán
cũng như những vấn đề xuống cấp đạo
đức cá nhân. Về quan điểm môi
trường sinh thái, con người xã hội
không những giữ gìn môi trường, cây
cối, thảo mộc, đường xá sạch và xanh
; mà còn bảo vệ và chăm sóc chúng
bằng ý thức đạo đức của chính mình.
Kết quả là xã hội và môi trường
sinh thái ngày càng phát triển và tồn
tại lâu dài từ trong ánh mắt và trái
tim của chúng ta. Đối với giáo dục,
giới Phật giáo có một nền giáo dục
tâm lý vượt hẳn trên nền giáo dục
ở đời vì tính siêu việt của nó .
Điều này có nghĩa là giới Phật giáo
có một phương pháp giáo dục tuyệt
vời diệt tận mọi phiền não hầu mang
lại an lạc hạnh phúc tối thượng cho con
người. Từ quan điểm này, vai trò của
giới Phật giáo có sự đóng góp to
lớn đói với sự phát triển xã hội
hiện nay trong nhiều phương diện khác nhau.
Bên cạnh , vì tầm quan
trọng về vai trò của giới (Sìla) trong
giai đoạn hiện nay, người viết chỉ hy
vọng rằng chúng ta nên có những công
trình nghiên cứu rõ ràng về giới của
Phật giáo qua hai quan điểm Nam truyền và
Bắc truyền Phật giáo, hoặc nên có
sự nghiên cứu nghiêm túc về Sìla
dựa theo lời dạy nguyên thủy của
đức Phật mà không dựa theo tư tưởng
của các trường phái khi các nhà học
giả Phật giáo muốn thực hiện công
trình của mình . Tại sao? Vì mỗi trường
phái đều có những khái niệm về Sìla
riêng biệt và khác nhau; do đó,
nguyên từ của Sìla ngay càng xa rời
với ý nghĩa nguồn gốc của nó , cũng
như mất đi vai trò quan trọng của nó
trong cuộc sống con người hiện nay.
Ta có thể nói: với tính
uyển chuyển năng động và tích cực
của việc thực hành Sìla, giới Phật
giáo luôn thích nghi với mọi tình huống
hoàn cảnh xã hội, và luôn hiện hữu
trong cuộc đời như là một sự cần
thiết của xã hội ngày nay. Có như vậy
đạo Phật mới đứng vững và hiện
hữu được lâu dài ở mọi thời gian
và không bao giờ bị mai một, như lời
phát biểu của cựu thủ tướng Srilanka
Bandaranaike đã nhấn mạnh:
Phật giáo sẽ
trường tồn như mặt trời, mặt trăng
và loài người hiện hữu trên mặt
đất; vì Phật giáo là tôn giáo của con
người, của nhân loại nói chung
(Buddhism will last as long as the sun and moon last
and the human race exists upon the earth, for it is
the religion of man, of humanity as a whole)
Bibliography
I. PRIMARY SOURCES:
1. Rhys
Davids, T.W. (trans), Sacred Books of the
Buddhists: Dialogues of the Buddha, and F.Max
Muller (ed), vol. II, part I, the fifth edition
reprinted, Oxford: P.T.S., 1992.
2. Rhys
Davids, T.W and C.A.F. (trans), Sacred Books
of the Buddhists: Dialogues of the Buddha, vol.
III-IV, part II-III, the fourth edition reprinted,
Oxford: P.T.S., 1989.
3. Horner,
I.B. (trans), The Book of the Discipline -
Vinaya Pitaka, vol. III, Oxford: PTS, 1993.
4. Rhys
Davids, T.W., and Hermann Oldenberg (trans), The
Sacred Books of the East: Vinaya Texts, and F.
Max Muller (ed), vol. 13, Delhi: Motilal Banarsidass
Publishers Pvt. Ltd., 1996.
5. Buddhaghosa,
B. The Path of Purification, trans. by
Đànamoli, the 4th edition, Sri lanka : Buddhist
Publication Society, 1979.
II. SECONDARY SOURCES:
1. Vincent
A. Smith, The Edicts of Asoka, Delhi:
Munshiram Manoharlal Publishers Pvt. Ltd., 1992.
2. Edward J.
Kormondy, The Concept of Ecology, 3rd edition,
Delhi: Prentice - Hall of India Pvt. Ltd., 1994.
3. Kern, H.,
Manual of Indian Buddhism, Delhi: Motilal
Banarsidass, 1989.
4. Prof.
Sanghasen Singh, A Study of the Sphutàrthà
Srighanaca-rasangraha Tika, Delhi: Buddhist Text
Society, 1975.
5. Saddhàtissa,
H., Buddhist Ethics: Essence of Buddhism,
London: George Allen and Unwin Ltd., 1970.
6. Nikunja
Vihari Banerjee (trans), The Dhammapada,
Delhi: Munshiram Manoharlal Publishers Pvt. Ltd.,
1989.
III. DICTIONARIES:
1. Rhys
Davids, T.W., and William Stede, Pali -
English Dictionary, Delhi: Motilal Banarsidass
Publishers Pvt. Ltd., 1997.
2. Monier -
William, M. Sanskrit - English Dictionary,
Delhi: Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd.,
1999.
3. Cowie,
A.P. (chief-editor), Oxford Advanced
Learners Encyclopaedic Dictionary, London:
Oxford University Press, Oxford, 1992.
4. Paul
Procter (chief-editor), Cambridge International
Dictionary of English, London: Cambridge
University Press, Cambridge, 1995.
5. William
Edward Soothill and Lewis Hodous (compilator), A
Dictionary of Chinese Buddhist Terms, Delhi:
Motilal Banarsidass, 1997.
Delhi,
ngày 20/02/2001
-- o0o --
| Mục lục tác giả|
Cập nhật ngày: 01-09-2001