BẢY PHƯƠNG PHÁP
ĐI ĐẾN GIÁC NGỘ
(Thất giác chi)
THÍCH THIỆN BẢO
quang-khanh@hcm.vnn.vn
A. DẪN NHẬP
Giáo
lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm
giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi
những khổ đau trói buộc do chính con người tạo nên, và nó đã
trở nên một phương tiện, hay một phương pháp giúp cho mọi người
vượt khỏi những bế tắc trong đời sống mà con người gặp phải,
hay nói cách khác, giáo lý đạo Phật là những phương thuốc trị
những căn bệnh cho mọi người, chính vì thế mà chúng ta thường
nghe : "Chúng sanh đa bệnh, Phật pháp đa phương" (chúng sanh có
nhiều bệnh, Phật pháp cũng có nhiều phương thuốc trị cho nhiều căn
bệnh khác nhau). Thất giác chi là bảy phương pháp nhằm giúp cho
chúng sanh thoát khỏi những vọng niệm mê lầm để đạt sự tỉnh
giác trong đời sống.
B. NỘI DUNG
I- Định nghĩa
Thất
giác chi (Satta sambojjhanga) = The Seven factors of Enlightenment, còn gọi là
Thất bồ đề phần, Trung Hoa dịch là Giác đạo (con đường đưa đến
giác ngộ), một trong những thắng pháp (paramattha dhamma) của 37 phẩm
trợ đạo được Đức Phật đề cập ở phần Đạo đế. Thất giác
chi là bảy phương pháp tu tập nhằm giúp cho hành giả đạt được
giác ngộ, thành tựu đạo quả giải thoát.
II- Nội dung của Thất giác chi
1)- Trạch pháp giác chi (Dhammavicaya sambojjhanga) :
Trạch
là sự chọn lựa, pháp là pháp môn, trạch pháp là sự chọn
lựa pháp môn tu tập sao cho phù hợp với trình độ căn cơ của
chính mình. Nó còn giúp cho mọi người nhận thức một cách sáng
suốt để phân biệt, lựa chọn một cách chính xác những phương
thức khế hợp với chính mình, vì thế cho nên các vị Tổ sư
thường dạy : "Thuốc không có quý-tiện, lành bệnh là thuốc
hay, Pháp không có đốn-tiệm (mau, chậm), hợp cơ là pháp diệu".
Chọn được hướng để đi đúng với chánh pháp là chúng ta đã
thực hiện tinh thần trạch pháp giác chi. Trong kinh Sa Di Thập Giới
nói : "Cái khổ ở địa ngục, của con lừa, con lạc đà chở
nặng chưa phải là khổ, không tìm thấy được hướng đi mới thực
sự là khổ". Người muốn có một chánh tư duy (suy tư một cách
chân chánh) phải thực hành trạch pháp, vì chính đây là một
phương pháp phân tích, suy luận nhận chân các giá trị hiện thực.
Đạo Phật xem sự tự giác trong niềm tin phải được qua gạn lọc
của trí tuệ được gọi là chánh kiến (sự thấy biết một cách
chân chánh), điều này Đức Phật nói : "Tin ta mà không hiểu ta
là phỉ báng ta". Trong kinh Kamala (Tăng Chi I), Đức Phật nói :
"Đừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó thường nghe
nhắc nhở đến luôn. Đừng tin tưởng điều gì mà điều đó là
một tập tục đã qua cả ngàn xưa để lại. Đừng tin tưởng những
điều sáo ngữ hay bất cứ một điều gì mà người ta thường nói
đến nhiều quá. Đừng tin tưởng bất cứ điều gì, dù cho điều
đó là bút tích của thánh nhân xưa để lại bảo ta phải tin. Đừng
tin một điều gì dù điều đó ở dưới mãnh lực của ông thầy
hay nhà truyền giáo. Tất cả những sự thật, theo suy nghiệm riêng
của mình và sau khi xác nhận rõ ràng, phù hợp với lẽ phải, tạo
thành hạnh phúc riêng cho mình và hạnh phúc cho tất cả mọi người
thì chính đó là sự thật và ta cố gắng sống theo sự thật
ấy". Người xưa cũng thường dạy : "Thà ngàn năm không
ngộ, còn hơn một phút sai lầm". Tổ Lâm Tế nói : "Nhất
niệm hào ly, thiên địa huyền cách" (Một niệm lìa xa, đất trời
xa cách). Nếu chúng ta chọn sai con đường đi không đúng chánh pháp
thì muôn kiếp khó tìm lại được. Cho nên trạch pháp giác chi là
yếu tố để giúp người học Phật nhận thức một cách sáng suốt
tỉnh táo trên con đường chọn lựa pháp môn tu tập.
2)-
Niệm giác chi (Sati sambojjhanga) :
Niệm
là nhớ nghĩ, giác là sự tỉnh giác. Niệm giác chi là luôn luôn
nhớ đến sự tỉnh giác. Đây là phương pháp được Đức Phật
đề cập nhằm giúp cho con người phát triển tuệ giác, đồng thời
có công năng làm cho các vọng niệm không dấy khởi. Như chúng ta
biết, tạp niệm là nguyên nhân làm cho con người kinh nghi và thoái
hóa, nó là bước trở ngại đáng kể cho tuệ giác phát triển,
làm phân tán sức mạnh của tâm thức.
Trái
lại, chánh niệm giúp cho chúng ta nhận thức một cách rõ sự vật
hiện tượng qua các pháp vô thường, khổ, vô ngã trong đời sống,
những đổi thay của những dục niệm, cho chúng ta cái nhìn xét đoán
chuyển biến của tâm thức trong từng sát na sanh diệt, thấy rõ các
tà niệm, có nhận thức đúng đắn (chánh kiến) và nhờ đó chúng
ta nhận thức rõ sự thật của các pháp. Niệm giác chi giúp cho
chúng ta luôn tỉnh táo trong mọi hoàn cảnh khi đối diện với thực
tế của đời sống.
3)-
Tinh tấn giác chi (Virya sambojjhanga) :
Tinh
tấn giác chi là nỗ lực chuyên ròng hướng đến tỉnh giác để
loại trừ các tư hoặc, thực hành chánh pháp làm cho tuệ giác
được phát triển, dù chúng ta có một lý tưởng cao đẹp nhưng
thiếu chuyên chú, nỗ lực và bền bỉ (tinh tấn) thì khó thành tựu
được chí nguyện. Nhà triết gia Huxley đã nói : "Mục đích tối
cao trong đời người là sự hành động, không phải là sự hiểu
biết suông". Vì thế cho nên tinh tấn là yếu tố tối quan trọng
trong việc thực hiện lý tưởng giải thoát giác ngộ ; thiếu sự
tinh tấn, nỗ lực của tự thân để tạo thành sức mạnh nội tại
thì không thể chiến đấu chống giặc phiền não. Hình ảnh đầy sinh
động dưới cội cây bồ đề khi Đức Bổn Sư Thích Ca dùng bát
sữa của Sujàta, xong Ngài quăng bát đựng sữa xuống dòng sông Ni
Liên Thuyền và phát đại nguyện : "Dù thân ta có khô, máu ta
có cạn, nếu không thành đạo, ta nguyện không rời khỏi chỗ ngồi
này".
Qua
đó, chúng ta nhận thấy trong tu tập hay đời sống thường nhật của
con người, bao giờ sự thành công cũng dành cho những con người
siêng năng và chăm chỉ (tinh tấn), thiếu chuyên cần thì dù có
thông minh đến đâu cũng khó thành tựu được sự nghiệp. Đức
Phật dạy : "Hết ngày này qua tháng khác, hết giờ nọ sang giờ
kia, người thợ vàng phải nỗ lực công phu mới lọc được vàng
ròng. Con người muốn cho thân tâm trong sạch cũng phải cố gắng rèn
luyện như thế" (Pháp Cú).
4)-
Hỷ giác chi (Piti sambojjhanga) :
Hỷ
giác chi là sự vui có tỉnh giác, khi tu tập, chúng ta luôn luôn cảm
nhận niềm an lạ trong đời sống hàng ngày, không bị phiền não trói
buộc, tùy hỷ với những thiện pháp mà mọi người xung quanh đã
đạt được. Vì thế cho nên người tu tập phải biết khởi tâm hoan
hỷ trong mọi hoàn cảnh để vượt qua mọi chướng duyên, trở ngại
trên bước đường tìm cầu sự an lạc giải thoát. Nếu như trong
đời sống không có sự vui tỉnh giác thì việc tu tập của hành giả
khó mà đạt được cứu cánh của sự giác ngộ. Trong nền giáo
lý của đạo Phật, tâm hỷ là yếu tố cơ bản, có công năng
chuyển hóa và hóa giải các cấu uế phiền não, nó là nhân tố
giúp cho người thực hành pháp cảm nhận phấn khởi trên bước
đường tu tập, giúp cho hành giả có một niềm tin mãnh liệt để đi
đến thành tựu đạo quả Bồ đề. Mục đích chính của đạo Phật
là "chuyển mê khai ngộ, ly khổ đắc lạc" (chuyển sự mê
mờ làm cho chúng sanh giác ngộ, lìa khổ được vui).
5)-
Khinh an giác chi (Passaddhi sambojjhanga) :
Khinh
có nghĩa nhẹ nhàng, an là an ổn, khinh an giác chi là trạng thái nhẹ
nhàng an lạc tỉnh giác trong đời sống, luôn luôn thư thái do đạt
được niềm hỷ lạc thanh tịnh của các pháp thiện. Nó có công
năng làm cho các phiền não trói buộc bị tiêu trừ và đối trị
những bất thiện tâm sở làm dao động bất an. Khi người tu tập
đạt được khinh an sẽ cảm nhận một trạng thái nhẹ nhàng, ví như
người bị bệnh qua được cơn đau lâu ngày hành hạ cơ thể. Do đó,
họ có thể vững bước trên con đường đi tới đích vì đã đạt
được sự nhẹ nhàng của tâm.
Trong
kinh A Hàm kể một pháp thoại : Có một vị Tỳ kheo đang ngồi tĩnh tọa
trong rừng bỗng nhiên tâm hoan hỷ phát sanh thốt lớn lên : "Ôi,
hạnh phúc quá. Ôi, hạnh phúc quá...". Những người bạn đồng
tu ngồi bên cạnh nghe được liền đem bạch lại với Phật. Đức
Phật nhân câu chuyện đó giảng cho mọi người nghe và hỏi vị Tỳ
kheo kia nguyên nhân vì sao khi tĩnh tọa lại phát ra những lời như
thế ?
Vị
Tỳ kheo bạch Phật : "Trong lúc ngồi thiền đạt được trạng thái
an lạc, cảm nhận thân tâm được nhẹ nhàng, con có thốt ra những
lời đó vì trước đây con làm quan trong triều, có đầy đủ cao
lương mỹ vị, kẻ hầu người hạ nhưng không ngày nào con cảm thấy
yên tâm, luôn luôn lo sợ bị người khác chiếm lấy quyền lực,
địa vị của mình, đối với nhà vua thì sợ bị khiển trách do kẻ
sàm tấu tâu lên. Trái lại từ khi con vào đây sống với đời
sống phạm hạnh, con thấy không bị những bất an sợ hãi lo lắng như
ở triều đình, nên khi ngồi tĩnh tọa dưới gốc cây, con cảm nhận
có một niềm an lạc khinh an (nhẹ nhàng) hạnh phúc tràn ngập trong
lòng nên con thốt lên những lời như thế".
6)-
Định giác chi (Samadhi sambojjhanga) :
Định
là samadhi, là giữ tâm an trụ vào một điểm, một đối tượng,
không cho tâm phan duyên phóng đi nơi khác. Định giác chi là tâm
luôn luôn an định tỉnh giác, không bị chi phối bởi phiền não vọng
tưởng và các duyên bên ngoài tác động vào tâm thức. Chúng ta
biết giáo lý đạo Phật là giáo lý nội quan, cho nên việc thực
hành chánh định không thể thiếu trong đời sống của người con
Phật. Mục tiêu của đạo Phật là giúp con người quay lại tìm về
chính mình, nhận chân giá trị của mọi giá trị không có giá trị
nào bằng giá trị nơi từng con người, vì chính hạnh phúc hay khổ
đau đều do con người tạo nên. Cho nên Đức Phật từng nói : Con
người là tối thượng. Việc tu tập để tâm định không có nghĩa
là để biết người khác, tìm tòi "soi căn, soi kiếp của người
khác", hay để có thần thông, phép lạ trị bệnh chữa tà, sai
khiến quỷ thần, những điều đó trái với tinh thần đạo Phật.
Trái lại, định của Phật dạy là để chữa căn bệnh vọng tưởng
chạy theo cảnh duyên bên ngoài, không nhận chân được giá trị của
nguồn hạnh phúc của chính mình, đây thực sự là điểm khác biệt
của đạo Phật với các tôn giáo khác.
7)-
Xả giác chi (Upekkhà sambojjhanga) :
ả
là upekkhà, do hai từ gốc upa là đúng đắn, chân chánh, vô tư, và
ikkha trông thấy, nhận thức, suy luận. Vậy, upekkhà là trông thấy
đúng đắn, nhận định chân chánh, hoặc suy luận vô tư, không luyến
ái, không ghét bỏ, không ưa thích cũng không bất mãn. Kinh Jãtaka
nói : "Trong hạnh phúc, trong phiền não, lúc thăng, lúc trầm, ta
phải giữ tâm như đất. Cũng như thế, trên đất, ta có thể vất
bất cứ vật gì, dầu chua, ngọt, sạch, dơ, đất vẫn thản nhiên, một
mực trơ trơ. Đất không giận cũng không thương". Dùng tuệ quán
đối trị với chấp thủ của tâm, không để cho bóng dáng của vọng
tưởng lưu lại nơi tâm thức, luôn luôn để tâm đạt được sự
an tịnh, đó là chúng ta thực hành tâm xả. Không một đối tượng
nào có thể làm cho người có tâm xả bị lay chuyển. Thuận và
nghịch cảnh không làm cho người có tâm xả cảm thấy bất an trước
những thuận nghịch của ngoại duyên. Bát phong không làm cho người
thực hành pháp xả bị cuốn theo. Người thực hành tâm xả không
chấp thủ vào các pháp mình đã tu, đã đạt được. Kinh Kim Cang
Sớ nói : "Người tu tập phải như thuyền qua sông, khi thuyền đã
cập bến, nếu ta không bỏ để lên bờ thì đừng hòng đi đến
đâu và biết được gì".
IV- Một số ý niệm khi thực hành pháp giác
chi
1)-
Khi thực hành trạch pháp giúp cho người con Phật nhận thức một
cách độc lập, tự do, tự chủ, có tỉnh giác, không bị những tín
điều, giáo điều, những xu hướng ỷ lại vào những quyền năng
thần lực gia hộ, phù trì, làm đức tin bị mù quáng, thủ tiêu hết
mọi ý chí suy tư tự chủ cá nhân của con người.
2)-
Con người luôn luôn bị những tà niệm, tạp niệm chi phối không
giữ được chánh niệm, phân tán sức mạnh nội tại, làm tiêu tan
ý chí với những hoài nghi tìm cầu viển vông không thiết thực.
Thực hành niệm giác chi là chúng ta đã điều chỉnh tâm sinh lý về
mặt tự thân.
3)-
Thực hành pháp tinh tấn giác chi là chúng ta loại trừ tính biếng
nhác, do dự và bất nhất trong đời sống khi gặp nhiều chướng
duyên trắc trở. Có thể nói tinh tấn là yếu tố phát triển đức
tính kiên trì giúp cho con người thành công trên bước đường lập
nghiệp.
4)-
Những lo âu phiền muộn là nguyên nhân gặm nhấm thiêu đốt con
người trở nên héo tàn theo thời gian, cho nên người ta thường
nói : "Nụ cười hơn mười thang thuốc bổ". Thật vậy, ứng
dụng hỷ giác chi là chúng ta có nụ cười trong tỉnh thức. Ngài
Dhammanda nói : "Bí quyết của một đời sống hạnh phúc và thành
công là cố gắng làm những điều đáng làm trong hiện tại không lo
âu,tương lai không phiền muộn về quá khứ".
5)-
Mọi sự chấp trước bất an, sợ sệt đều là những nguyên nhân
làm cho thân tâm chúng ta nặng nề không thoải mái trong đời sống,
bực dọc trong sinh hoạt. Thực hành khinh an giác chi là chúng ta có
một thân tâm nhẹ nhàng, trút bỏ gánh nặng của lo âu, sợ hãi.
Thảnh thơi tự tại ung dung trong công việc là chúng ta đã thể hiện
người con Phật hưởng được pháp vị của Phật.
6)-
Oán thù, chiến tranh, tranh chấp quyền lợi hơn thua, phải quấy làm
khổ mình, khổ người. Mọi sự đổ vỡ hạnh phúc, bạn bè thân
thuộc, trong gia đình đều bắt nguồn từ nguyên nhân không làm chủ
được tâm. Hành pháp định giác chi là người con Phật học pháp
làm chủ mình, phát triển sức mạnh tinh thần, không bị những tác
duyên bên ngoài sai khiến.
7)-
Những đố kî, ganh ghét, bỏn xẻn đều bắt nguồn từ chỗ thiếu
tâm xả mà ra, cho nên phiền não khổ đau cũng từ nơi đất này
phát sinh trổ quả. Thực hành xả giác chi là chúng ta đã mở rộng
lòng từ, buông xả, tiêu trừ hết mọi tâm lý nhỏ hẹp, ích kỷ,
đập tan tường thành cá nhân chủ nghĩa. Vì thế cho nên muốn cho
đời sống của mình và người có hạnh phúc an vui, phải thực hành
xả giác chi : chỉ có lòng thương yêu chân thật đặt trên tư
tưởng bình đẳng mới đem lại ý nghĩa cho cuộc sống.
C. KẾT LUẬN
Qua
những yếu tố trên, cho chúng ta một nhận thức : chỉ có con đường
thực hành bảy phương pháp đưa đến giác ngộ (Thất giác chi) mới
đem lại đời sống an vui hạnh phúc, thoát khỏi khổ đau mà Đức
Phật đã tuyên bố : "Nước của bốn biển chỉ có một vị duy
nhất, đó là vị mặn của muối ; giáo pháp của Như Lai cũng thế,
chỉ có một vị, đó là vị giải thoát".
-- o0o --
| Mục lục tác giả|
Cập nhật ngày: 01-10-2001