Việt Nam Phật Quốc Tự là một ngôi chùa đẹp tại Bồ Ðề
Ðạo Tràng. Trong thời gian lưu lại Bodh Gaya, khi đã mệt mỏi sau một ngày
lang tháng khắp khu vực trung tâm thánh địa này, chúng tôi trở về ngôi
chùa Việt Nam với tâm trạng về lại nơi chốn bình yên gần gũi với mình.
Việt Nam Phật Quốc Tự tọa lạc trên một khu đất rộng khoảng 3 hecta, giữa
những khu ruộng đất bao la cách tháp Ðại giác và khu vực chùa các nước hơn
2 cây số về phía Tây Nam, tách biệt với khu thị tứ ồn ào. Từ ngoài lộ
chính dẫn vào chùa là đường đất y hệt như con đường quê, với bóng cây đầu
làng rợp mát và một cây cổ thụ xanh tươi trước chùa, cạnh cổng tam quan.
Người quét chùa kiêm làm vườn.
Người khéo chọn nơi đây để xây chùa là Thượng tọa Thích Huyền Diệu, nhà sư
trụ trì đồng thời là Chủ tịch Liên đoàn Phật giáo Thế giới tại Népal. Tu
sĩ Phật giáo 60 tuổi đời này trông nho nhã, có nụ cười dễ mến và luôn luôn
tự nhận mình là “người quét chùa kiêm làm vườn”, một danh xưng mà
ông yêu thích và tâm đắc.
Ông khiêm tốn khi nói về mình và những gì chúng tôi biết về ông chỉ là
những nét chấm phá trong một con người trải qua nhiều nỗi truân chuyên.
Quê ở Bến Tre, tên thật là Lâm Trung Quốc, được nương náu cửa chùa từ nhỏ,
ông tham gia phong trào Phật giáo chống chế độ Diệm hồi những năm đầu thập
niên 60. Trong vụ tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Ðức tại Sài Gòn năm
1963, ông có mặt trong những tu sĩ làm nhiệm vụ bảo vệ. Cái giá phải trả
sau đó là bị chính quyền trục xuất. Sang Pháp vừa làm việc để kiếm sống
vừa theo học tại Trường đại học Sorbonne ở Paris, ông tốt nghiệp Tiến sĩ
Sử học và trở thành giáo sư đại học ở nhiều nước. Khi còn đang ngồi ghế
nhà trường, ông từng hướng dẫn những chuyến du lịch hành hương lần theo
con đường của Ðức Thích Ca ngày xưa khi rời bỏ kinh thành cho đến lúc đắc
đạo.
Ðặt chân đến Bồ Ðề Ðạo Tràng lần đầu tiên vào năm 1967, lòng ông dâng lên
niềm xúc cảm vô hạn. Vùng đất thiêng liêng này sau mấy thế kỷ bị những
biến cố cực đoan hủy diệt gần hết những di sản quý báu nay đang được nhiều
nước - đặc biệt là các nước châu Á - góp sức phục hồi nhằm gìn giữ những
di sản vô giá của nhân loại. Thế mà Việt Nam, một đất nước có truyền thống
Phật giáo lâu đời không thua kém các nước lại không có một ngôi chùa trên
quê hương của Phật.
Kể từ đó trong lòng ông chỉ có một nguyện vọng tha thiết là xây dựng một
ngôi chùa tại Bodh Gaya để những người Việt mỗi khi đến chiêm bái thánh
địa này có nơi trang nghiêm thanh tịnh dừng chân trú ngụ. Mặt khác ông
cũng muốn giới thiệu giá trị văn hóa Việt Nam cho cộng đồng Phật giáo các
nước tại đây. Niềm mơ ước đó giúp ông bền chí vượt qua những năm tháng cực
kỳ khó khăn để biến ước mơ thành hiện thực. Cuối cùng ông mua được miếng
đất và lễ đặt viên đá đầu tiên cho ngôi chùa đã diễn ra vào ngày
24.05.1987.
Việt Nam Phật Quốc Tự được hình thành bàng những khoản tiền dạy học của
Thầy Huyền Diệu cùng với sự ủng hộ đóng góp của đồng bào và Phật tử khắp
nơi trên thế giới. Chùa các nước tập trung ở khu vực trung tâm Thánh địa
đều to lớn uy nghi với dáng dấp những đền đài như muốn biểu dương sức
mạnh. Riêng chùa Việt Nam do điều kiện tài chính hạn chế nên xây dựng
không to nhưng lại là ngôi chùa cao nhất ở Bodh Gaya. Ðứng trên tầng ba
của Chánh điện có thể nhìn bao quát được cả một quần thể không gian mà
dưới tầm mắt là những ngôi chùa các nước khác.
Vị tu sĩ lại quan niệm rằng một đất nước muốn được hưng thịnh và tiến bộ
thì tất cả mọi công dân đều phải đặt Tổ quốc và quyền lợi Tổ quốc lên hàng
đầu. Có Tổ quốc rồi mới có Phật giáo và sau hết mới đến ngôi chùa: đó
chính là ý nghĩa của tên gọi được đặt cho ngôi chùa Việt Nam đầu tiên trên
đất Phật: Việt Nam Phật Quốc Tự.
Sau hơn 15 năm trời đằng đẵng xây dựng, trải qua mọi gian lao khổ cực, bao
nhiêu lượt người đến rồi đi, đầu năm 2003 vừa qua lễ khánh thành chùa được
tiến hành trong niềm vui lớn lao của tăng ni Phật tử nói chung v à người
Việt Nam nói riêng. Từ nay ngôi chùa mang tên Việt Nam chính thức góp mặt
ở vùng linh địa Bodh Gaya.
Tham dự ngày vui này có đông đảo đại diện các tổ chức Phật giáo bạn tại Bồ
Ðề Ðạo Tràng như Nhật Bản, Myanmar, Trung Quốc, Tây Tạng, Népal, Thái Lan,
Sri Lanka... Ðặc biệt đoàn Phật giáo Hàn Quốc đến dự lễ bằng một máy bay
riêng và lưu lại tại khách sạn 5 sao Nikko để khỏi phiền đến nhà chùa đang
bị quá tải với số lượng gần 400 khách đổ về. Ngoài ra còn có sự hiện diện
của các hòa thượng, đại đức, tăng ni trong nước và hải ngoại, có cả nghiên
cứu sinh và sinh viên người Việt đang du học tại Ấn Ðộ và Phật tử Việt Nam
từ mọi nơi trên thế giới. Phật tử trong nước - nhiều nhất là đồng bào các
tỉnh phía Bắc - tề tựu về đây như một chuyến hành hương chiêm bái đất
Phật.
Riêng Thầy Huyền Diệu thì như trẻ lại 20 tuổi vì đã thực hiện xong tâm
nguyện.
Êm ả một ngôi chùa làng.
Từ cổng chính đi vào, hiện ra trước mặt chúng tôi là một công trình được
xây dựng kiên cố với hai mái cong vươn cao giữa những tàng cây mang đầy đủ
nét kiến trúc truyền thống Việt Nam. Ðây là nơi uy nghi nhất trong khuôn
viên chùa, cao 24 mét gồm ba tầng.
Tầng trệt là Pháp xá có đủ chỗ cho 30 vị khách tăng lưu lại mỗi khi đến
chiêm bái thánh địa. Tầng thứ hai dùng để trưng bày kinh sách, pháp khí
trong và ngoài nước. tầng thứ ba là nơi thờ Tam Thế Phật cùng chư vị Bồ
Tát.
Ðiểm độc đáo của Việt Nam Phật Quốc Tự là hậu tổ phía sau chánh điện có
bàn thờ tưởng niệm anh linh các vị anh hùng Tổ quốc Việt Nam.
Vào thời điểm chùa đang xây dựng một số thân hữu trong các tổ chức ở Nhật
Bản và Hàn Quốc muốn tặng chùa Việt Nam quả Ðại Hồng Chung, thế nhưng Thầy
Huyền Diệu đã từ chối. Trong suy nghĩ của ông chiếc chuông của ngôi chùa
Việt Nam phải được đúc từ Việt Nam, bằng đồng của Việt Nam và do chính
những người thợ Việt Nam thực hiện. Ông nói: một cái chuông được làm từ
trong nước như vậy đem qua Ấn Ðộ đánh lên mới thật linh th iêng và có ý
nghĩa. Thế là trong lần đầu tiên về nước sau hơn ba chục năm xa cách, ông
tìm đến Long Thành gặp một người thợ gốc Phường Ðúc ở Huế để đặt làm chiếc
chuông. Hiện nay nhà chùa đã có Ðại Hồng Chung nặng 2 tấn rưỡi, đường kính
1.5 mét dài 1.5 mét, cả hai đều mang đậm nét văn hóa đặc thù của Việt Nam.
Thật không sao diễn tả hết nỗi xúc cảm lớn lao của nhà chùa trong ngày đón
hai quả chuông mang tên Chuông Hòa Bình trải qua cuộc hành trình vạn dặm
đến với ngôi chùa Việt Nam tại đất Phật.
Các tượng Phật của Việt Nam Phật Quốc Tự cũng là câu chuyện dài. Ðầu tiên
chùa có các tượng Phật bằng xi măng cốt sắt làm tại Thành phố Hồ Chí Minh
mang sang. Mẫu mã các tượng giống như hầu hết các ngôi chùa ở miền Nam với
nét mặt mang đường nét hao hao giống người Ấn Ðộ. Sau đó một số Phật tử
sang chiêm bái đất Phật đã đề nghị nhà chùa nên cho tạc tượng bằng gỗ sơn
son thếp vàng giống như những bức tượng ở các ngôi chùa miền Trung và miền
Bắc, dù trải qua hàng ngàn năm vẫn giữ nguyên dáng vẻ oai nghiêm. Thầy
Huyền Diệu rất tâm đắc với ý kiến này và thế là hiện nay ngôi chùa đã có
được các tượng Phật gương mặt rất Việt Nam, do chính đôi tay của các nghệ
nhân Việt Nam ở miền Bắc tạc nên.
Trong khi đang tiến hành việc tạc tượng Phật thì có người lại bàn: ngôi
chùa được xây dựng rất đẹp nhưng các cánh cửa lại quá đơn giản, chỉ làm
bằng gỗ thường lại không có hoa văn trang trí. Thế rồi họ đặt các nghệ
nhân Hà Nội làm một bộ cửa bằng gỗ lim với những hoa văn trang trí thật
sắc sảo đầy tính nghệ thuật truyền thống. Ðây là niềm tự hào của nhà chùa
và Thầy Huyền Diệu luôn tin tưởng rằng tất cả những điều này được thực
hiện là do sự sắp đặt của hồn thiêng sông núi.
Ngôi chùa này có nhiều cây cao bóng mát, không gian yên tĩnh cùng với
tiếng chim hót líu lo rất thích hợp cho việc tu tập và thiền định. Bên
trong chùa, dọc theo những con đường nhỏ quanh co uốn lượn là các loại cây
ăn quả của vùng nhiệt đới rất quen thuộc với người Việt như vải, mít, táo,
cam, chanh, bưởi, xoài (gồm 30 loại khác nhau), ổi xá lị (có đến 12 loại)
cùng nhiều loại cây trái khác.
Phía trước chánh điện và hai dãy phòng Pháp Xá, chùa có trồng nhiều loại
hoa kiểng được mang giống từ quê nhà sang như đào, mai vàng, mai chiếu
thủy, la, sứ, thiên lý... cùng các loại cây kiểng: tùng, trắc bá diệp,
sao, thông, tre, tầm vông, trúc, cau, phượng vĩ, điệp tây... Mặc dù cây
kiểng, hoa quả đã được trồng khá nhiều trong khuôn viên nhưng mỗi lần có
ai về thăm quê hương hoặc các Phật tử các nơi sang đây Thầy Huyền Diệu đều
nhờ mang thêm nhiều loại khác để giúp cho cây cảnh của chùa trở nên phong
phú. Khách hành hương đến đây sẽ cảm nhận được phần nào về thiên nhiên
Việt Nam trên mảnh đất trù phú của xứ Ấn Ðộ.
Thầy không chỉ mơ ước tạo cảnh thiên nhiên thuần túy cho chùa và môi sinh
mà còn hướng đến việc duy trì lịch sử Phật giáo qua những cây cỏ có liên
quan đến đời sống của Ðức Phật ngày xưa như cây Sê-sam, Long hoa
(Nagarsana), cỏ Cát tường, cây Diêm phù đề, cây Vô ưu, cây Sala, cây
Nimpa... được chăm sóc cẩn thận như giữ một di sản.
Hiện nay chùa đã hoàn thành xong phần cơ bản, chỉ còn một số công trình
nhỏ đang được tiếp tục thực hiện như Quan Âm đài có cấu trúc giống chùa
Một Cột nhằm giới thiệu văn hóa Phật giáo Việt Nam cho các nước Phật giáo
bạn và tháp Vạn Phật để thờ Xá Lợi Phật và 10.000 vị Phật. Sau khi hoàn
tất hai công trình này nhà chùa sẽ tiếp tục xây dựng gác chuông và gác
trống.
Thời điểm chúng tôi đến đây trong ngôi chùa rộng mênh mông chỉ vỏn vẹn có
vài người, ngoài Thầy trụ trì còn có một sư cô là Việt kiều sinh sống tại
Mỹ sang làm công quả và phụ trách cơm nước cho chùa. Nhân vật đặc biệt
khác là Jean Paul, một người Pháp tuổi trung niên vốn là chủ nhà hàng, do
chuyện buồn trong gia đình mà bán hết cả cơ nghiệp rồi kể từ đó anh lên
đường lang thang du lịch cùng trời cuối đất. Việt Nam Phật Quốc Tự là nơi
anh dừng chân làm công quả từ gần một năm nay, suốt ngày trông coi nhóm
thợ người bản xứ xây dựng một số công trình dở dang của chùa. Sáng sớm
cũng như buổi tối anh đều đặn lên chánh điện tụng niệm. Tuy không biết đọc
kinh nhưng anh vẫn ê a với tất cả lòng thành hệt như một Phật tử thuần
thành.
Ðã có không ít người trong nước ghé chùa lưu lại nhiều ngày trong những
chuyến hành hương chiêm bái đất Phật. Tuy chùa không có được phòng ốc đầy
đủ tiện nghi như khách sạn, không có những bữa cơm thịnh soạn như những
nhà hàng nhưng lại là nơi ấm áp tình nghĩa quê hương. Quà tặng ở đây
thường chỉ là chiếc lá bồ đề mà thầy trò của chàu chịu khó thức dậy thật
sớm đến tháp Ðại giác lượm đem về. Ấy vậy mà không phải lúc nào cũng có
sẵn, nhiều người phải chờ đợi mấy tháng trời mới nhận được quà tặng tâm
linh này từ ngôi chùa Việt Nam đầu tiên trên đất Phật.
VARANASI ^
Ngồi trên băng đá giữa vườn cây xanh mát của ngôi
chùa Việt Nam Phật Quốc Tự, chúng tôi hỏi thuê một chiếc xe sáu chỗ ngồi
khởi hành từ Bồ Ðề Ðạo Tràng đi viếng các thánh địa khác cũng tại bang
Bihar rồi thẳng qua biên giới Ấn Ðộ - Népal. Chủ xe là Raju Kumar người Ấn
vui tính và nói thạo tiếng Anh. Trong mấy ngày trên đất Ấn, chúng tôi được
dặn dò phải luôn luôn mặc cả mỗi khi di chuyển, hay mua sắm vì người địa
phương có thói quen nói thách với khách du lịch, đặc biệt tài xế đều xin
thêm chút ít tiền khi đến nơi dù trước đó đã thỏa thuận giá cả. Lần này
cũng vậy, Kumar ra giá 8.000 rupi cho chuyến đi bốn ngày dài hơn 600 cây
số và mô tả đủ thứ vất vả trên đường. Sau hồi lâu, hai bên thỏa thuận với
giá 6.000 rupi (tương đương 130 USD).
Năm giờ
sáng hôm sau, chiếc xe pick-up hiệu Omi do Ấn Ðộ và Nhật hợp tác sản xuất
đã có mặt trước cổng chùa. Ngày đầu tiên chúng tôi sẽ phải vượt qua con
đường dài 260 cây số đến thành phố Varanasi, nơi tạm dừng chân để viếng
Thánh địa Sarnath ở ngoại vi thành phố này. Kutmar cho biết phải khởi hành
thật sớm và nếu không gặp trở ngại dọc đường thì có thể đến nơi vào buổi
trưa.
Quả thật
trên đường đi xe thường xuyên bị kẹt mỗi khi qua các thị trấn đông đúc.
Hầu hết các xe chuyên chở công cộng Ấn Ðộ đều có đặt tượng thần với vòng
hoa ở phía trước tay lái, đó vừa là đức tin của tài xế đồng thời cũng là
cách tạo cảm giác yên lòng cho người ngồi trên xe đỡ phải căng thẳng vì
thói quen chạy bạt mạng của các bác tài xứ Ấn. Xe đang chạy ngon trớn bổng
thắng gấp vì một con mèo chạy ngang. Tài xế lập tức ngừng xe tắt máy, rồi
lát sau cho nổ máy lại tiếp tục lên đường: hóa ra đó là cách “xả xui”, coi
như bắt đầu một chuyến đi khác!
Một thoáng Varanasi
Chúng
tôi đến Varanasi - mà nhiều người Việt Nam thường nghe nói đến với cái tên
Ba la Nại - vào xế chiều. Ðây là một thành phố cổ được xây dựng từ 3.000
năm trước Công nguyên năm bên bờ sông Hằng và được xem là vùng đất thiêng
liêng nhất của Ấn Ðộ giáo. Chính vì thế, nhiều người Ấn làm ăn giàu có nơi
đất khách nhưng khi qua đời vẫn được con cháu mang về thiêu xác tại đây.
Trong nước thì tín đồ Ấn Ðộ giáo đổ về hành hương bằng mọi phương tiện,
thậm chí lội bộ, có cả những người già đến đây sống những ngày cuối đời
mình với niềm tin rằng ai vĩnh biệt cõi đời tại vùng đất thánh này sẽ
thoát khỏi vòng luân hồi.
Trong
cuốn sách viết về hành hương đất Phật xuất bản năm 1997, tác giả Brij
Tankha đã giới thiệu Varanasi từng là một thành phố thương mại quan trọng
và là trung tâm về tư tưởng học thuật. Thành phố này cũng là nơi ghi lại
nhiều dấu ấn liên quan đến cuộc đời Ðức Phật. Một trong những giai thoại
là khi chuẩn bị tổ chức đám cưới cho Thái tử Tất Ðạt Ða, vua cha Tịnh Phạn
đã sai người đến đây mua lụa về may y phục cho cô dâu. Varanasi là thành
phố nổi tiếng về tơ lụa của Ấn Ðộ, một mặt hàng từ thời xa xưa đã được bán
đi khắp thế giới. Trong một cuộc đấu xảo, các nghệ nhân Varanasi đã làm
cho mọi người phải thán phục khi đưa chiếc sari rất dài của phụ nữ Ấn được
xếp vừa trong một hộp thuốc lá hoặc nằm gọn trong lòng bàn tay! Ngày nay
trên khắp phố phường tại đây, đầy dẫy các cửa hàng trưng bày rực rỡ với
sản phẩm chính là tơ lụa. Mặt hàng đặc sắc khác là các loại gia vị nổi
tiếng của người Ấn được bày bán trong các cửa hàng nhỏ n ồng nặc đủ thứ
mùi quyện lẫn với mùi hương trầm quen thuộc.
Trong
quyển ký sự của mình, ngài Huyền Trang - tức Ðường Tăng - đã mô tả thành
phố Ba La Nại khi dừng chân tại đây vào thế kỷ thứ 7: “dân cư đông đúc,
cây cối tốt tươi, ruộng nương sung túc, đền thờ Bà La Môn rất nhiều với
nghệ thuật điêu khắc và sơn phết vô cùng tráng lệ”. Bức tượng Phật
ngồi thuyết pháp với dáng vẽ hiền hòa và trang nghiêm mà ông từng chiêm
ngưỡng nay hãy còn và được trưng bày trong viện bảo tàng tại Sarnath.
Krishnamurti, vị đại sư Ấn Ðộ lừng danh thế giới, cũng đã chọn thành phố
này làm nơi thuyết giảng trong những năm cuối đời. Còn nhà văn nổi tiếng
người Mỹ Mark Twain (1835-1910), khi dừng chân tại đây trong một chuyến đi
vòng quanh thế giới, đã ca tụng rằng Varanasi vượt qua cả chiều dài lịch
sử, lâu đời hơn truyền thống, xa xưa và huyền thoại về bề dày văn hóa của
nó bao gồm tất cả những điều vừa nói.
Là đô
thị 5.000 năm, Varanasi vẫn còn nhiều con đường hẻm chật hẹp chỉ vừa cho
một người đi dọc ngang giữa các khu phố cổ, ngày nay được bảo tồn gần như
nguyên vẹn. Kiến trúc cổ gây ấn tượng đậm nét là những đền đài xây dựng
bằng đá trên bờ sông Hằng dọc theo các bến mà người Ấn gọi là Ghat. Quần
thể kiến trúc ấy mang đến cho du khách một hòai niệm sâu sắc, tưởng chừng
như thời gian đang quay ngược lại hàng ngàn năm.
Chiếc
Omi vất vả len lỏi trên những đường phố chật hẹp giữa dòng xe cộ như mắc
cửi, vượt qua những chiếc xe thồ chở những cô gái Ấn Ðộ trẻ đẹp mặc AÂu
phục, những phụ nữ Hồi giáo với y phục truyền thống một màu đen trùm kín
mặt. Xe đưa chúng tôi về một khách sạn trung bình ở khu trung tâm nhưng có
cái tên rất kêu “Vijay International” phòng ốc tươm tất với giá khá rẽ chỉ
250 rupi (khoảng 5 USD) một ngày.
Khu
trung tâm thương mại sầm uất của Varanasi nằm cách bến sông không xa, đông
đúc người mua kẻ bán từ sáng sớm đến giữa khuya. Ban đêm phố xá sáng
trưng, người ta chen chân trên những con đường không mấy rộng rãi. Bên
cạnh những cửa hàng tơ lụa vải vóc rực rỡ những đèn và màu sắc là rất
nhiều các quán ăn bình dân.
Bình
minh trên sông Hằng.
Tác giả
Nguyễn Tường Bách trong cuốn ký sự đường xa “Mùi hương trầm” đã
viết rằng: “Ðến Varanasi mà không đi thăm sông Hàng lúc mặt trời mọc là
xem như chưa đến”. Nhận định đầy sức thu hút cùng vài hình ảnh được
tác giả này mô tả đã gợi cho chúng tôi sự háo hức chờ mau đến sáng để
hưởng cảm giác ngắm cảnh bình minh trên sông Hằng.
Năm giờ
sáng, trời còn tối đen mà bến sông đã ồn ào những lời mời lôi kéo khách du
lịch và hét giá cao gấp năm, bảy lần. Chúng tôi may mắn gặp một ông lão
chèo thuyền khoảng 70 tuổi hiền lành chân chất bằng lòng chở đi với giá 50
rupi (hơn 1 USD) cho một người, thời gian khoảng một tiếng đồng hồ. Bước
chân xuống thuyền mưói nhận ra trên mặt sông đen như mực và yên lặng lúc
ấy chỉ có một chiếc thuyền với ba chúng tôi. Một bé gái trên chiếc ghe nhỏ
nhanh chóng cập vào mạn thuyền chào bán những chiếc đèn hoa có ngọn bấc
sáng lung linh. Chúng tôi nhẹ nhàng thả những chiếc đèn nhấp nhô trên mặt
nước như một lời cầu xin được an lạc. Chiếc thuyền êm đềm trôi trong khi
bầu trời dần hừng sáng. Nhìn lớp cát dưới dòng sông mà hơn hai ngàn năm
trước đây, Ðức Phật đã dùng để nói về một khái niệm so sánh “Hằng hà sa
số” (nhiều như cát sông Hằng), ngắm những tòa nhà đến tháp đồ sộ kiến
trúc kỳ vĩ trên bờ, ai mà chẳng thấy lòng bồi hồi, cảm giác như trong giây
phút được sống lùi lại nhiều thế kỷ.
Giờ đây
trên khúc sông ngắn này đã ngược xuôi nhiều chiếc thuyền chở đầy du khách
nước ngoài, có lẽ họ cũng đang chờ được ngắm cảnh mặt trời lên. Ðang lúc
chúng tôi còn ngẩn ngơ với cảnh vật thì ông lão chèo thuyền ái ngại cho
biết suốt mấy ngày qua trời đầy mây nên không thể nhìn thấy mặt trời vào
buổi sáng, điều ông nói khiến chúng tôi vô cùng tiếc rẻ.
Ông đưa
thuyền đến gần các bãi thiêu xác - tập tục mai táng đặc thù của Ấn Ðộ. Dọc
theo bến sông là những thuyền chở đầy ắp củi. Trên bờ bập bùng ánh lửa của
những dàn thiêu, gần đó là thân nhân người đã khuất đang trầm lặng và
trang nghiêm đứng nhìn lễ hỏa táng.
Các tín
dồ Ấn Ðộ giáo đã bắt đầu xuống tắm gội bên bờ sông. Những con người khỏe
mạnh thoải mái ngâm mình trong dòng sông đầy ô nhiểm, thành kính khấn
nguyện giữa đám đông ồn ào, những hoa đèn thanh khiết lững lờ trôi một
cách an nhiên giữa nhiều rác rưởi: tất cả cho thấy một sự tương phản sâu
sắc.
Chắc hẳn
dòng sông này ngày càng bị ô nhiễm do đã chứa đựng trong lòng nó không
biết bao nhiêu tro xác và chất thải trong sinh hoạt của con người. Ấy vậy
mà người ta vẫn ngày ngày ngụp lặn với niềm tin tuyệt đối sẽ được dòng
nước thiêng giúp cho họ lành bệnh, bình an và kéo dài tuổi thọ. Trong lúc
tín đồ Ấn Ðộ giáo dựa vào niềm tin tâm linh thì các nhà khoa học đã chứng
minh rằng sông Hằng có khả năng làm sạch chính mình, vì trong dòng nước có
những hóa chất cùng một số loại vi sinh vật mang tính kháng khuẩn rất cao,
có thể tiêu diệt đến 99% vi khuẩn có trong nước sông. Người ta từng thử
nghiệm bằng cách đổ chất dịch có nuôi cấy vi trùng dịch tả và bệnh lỵ vào
mẫu nước sông Hằng, vài ngày sau kết quả khảo nghiệm cho thấy toàn bộ vi
khuẩn đều đã chết.
Khi
chúng tôi đang nghĩ rằng mình không có may mắn được ngắm bình minh trên
sông Hằng thì đột nhiên khung cảnh kỳ diệu ấy biện ra ngay trước mắt, như
món quà quý giá của trời đất ưu ái ban cho. Từ chân trời, vầng dương lừng
lững hiện ra, lộng lẫy một màu đỏ nhưng không hề chói chang, nên tất cả
mọi người đều hướng tầm mắt về khối cầu lửa sáng rực ấy để chiêm ngưỡng.
Hóa ra tín đồ Ấn Ðộ giáo gọi Varanasi là kinh đô ánh sáng chính là
vậy. Tại nơi con sông vươn ra phía biển Ðông này, họ có thể vừa ngâm mình
trong dòng nước thiêng liêng, vừa tận hưởng tia sáng đầu tiên trong ngày
mà Thần Shiva ban phát.
Cảnh
tượng rực rỡ của buổi bình minh trên sông Hằng suýt chút nữa làm chúng tôi
quên mất đã đến giờ phải từ giã Varanasi để lên đường, kịp qua Népal trước
giờ biên giới đóng cửa vào buổi tối.
CÂU-THI-NA nơi chốn yên bình.
^
Cách Varanasi không đầy tám cây số là Sarnath (Lộc
Uyển) một thánh tích ghi dấu lần đầu thuyết giảng đầu tiên của Phật Thích
Ca sau khi đắc đạo. Ngày nay Sarnath là một công viên rộng bao la, nơi duy
nhất trong ba thánh địa trên đất Ấn bán vé vào tham quan. xe chúng tôi
dừng lại bên ngoài một bãi đậu rợp bóng cây cổ thụ, bảng giá cổng vào
khiến hầu hết du khách nước ngoài khi đến đây cảm thấy như bị “móc túi”;
vé vào cửa cho người trong nước là 5 rupi còn người nước ngoài là 100 rupi
tức gấp đến 20 lần, mặc dù với số tiền này chỉ tương đương khoảng hơn 2 đô
la Mỹ mà thôi.
Lối xưa
vườn cũ.
Từ
thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, dưới triều đại vua A-dục (269-232), Lộc
uyển (Vườn Nai) là một thiền viện to lớn và uy nghi với nhiều cây cao bóng
mát thích hợp cho việc tham thiền đủ chỗ cho khoảng 1.500 tu sĩ đến tụ tập
hoặc nghe thuyết giảng. Từ thế kỷ thứ 5 đến thế kỷ thứ 7 sau Công nguyên
là thời đại hoàng kim của Sarnath, ấy vậy mà dấu vết còn lại của thiền
viện mênh mông với vô số giảng đường, trai phòng giờ đây chỉ là những bức
tường cao thấp nhấp nhô và các nền gạch hoang tàn.
Khi chúng tôi
đến vườn Lộc Uyển, nhiều đoàn hành hương gồm du khách người Nhật, Thái Lan và
nhóm tu sĩ người Sri-Lanka với y phục hoàn toàn màu trắng cũng đang có mặt.
Theo kinh sách
thì sau khi đắc đạo, Ðức Thích Ca băng rừng tìm về Sarnath gặp lại năm vị tỳ
kheo trước đây đã rời bỏ Phật vì không đồng tình với quyết định từ bỏ phương
pháp tu khổ hạnh của Ngài. Lần đó khi Phật trở lại Vườn Nai, năm người bảo nhau
không tiếp rước, nhưng khi tới gần thì họ bị thu hút bởi một mãnh lực lạ thường
toát ra từ dáng dấp, phong thái uy nghi của Ngài. Thế là cả năm người cùng chạy
đến cung kính tiếp đón, chia nhau nâng áo, cầm bình bát, dọn chỗ cho Phật ngồi.
Ðức Thế Tôn cho biết Ngài đã chứng ngộ được chân lý rồi thuyết giảng cho họ nghe
bài kinh Chuyển pháp luân nói về Bốn chân lý diệu kỳ (Tứ diệu đế) và dạy
rằng có hai điều cực đoan con người cần phải tránh xa, đó là hoặc một mực chạy
theo lạc thú hoặc hoàn toàn chối bỏ lạc thú. Các vị tỳ kheo ấy trở thành tăng
đoàn (sanghas) đầu tiên trong lịch sử Phật giáo. Sự tích này được mô tả qua quần
thể tượng tại vườn Lộc Uyển ngày nay gồm tượng Phật ngồi với hai bàn tay đặt
trước ngực trong tư thế bắt ấn, phía trước là năm vị tỳ keo đang cung kính cúi
đầu ngồi quây quần nghe thuyết giảng.
Khi đến đây
vào thế kỷ thứ 7, Huyền Trang đã nhìn thấy cột đá do vua A-dục cho xây mà ông mô
tả tỉ mỉ cao hơn 20 mét và sáng loáng như gương, trên đỉnh có hình bốn con sư tử
(ngày nay là quốc huy của nước Ấn Ðộ). Ðỉnh cột đá về sau đã được tìm thấy và
hiện được trưng bày trong bảo tàng ở Sarnath. Cột đá này - cũng như thiền viện -
đã bị con người đập phá tang hoang sau những biến cố tôn giáo vào thế kỷ thứ
13, nay chỉ còn lại chân cột cao hơn 1 mét. Người ta tin rằng khi đến nơi đây,
ai nhìn vào cột đá nầy mà thấy được bóng mình thì cầu xin điều gì cũng sẽ được
linh ứng.
Tại Sarnath
hiện nay vẫn còn tồn tại bảo tháp Dhamekh được xây dựng khoảng thế kỷ thứ 5, cao
13 mét đứng sừng sững giữa những bãi cỏ xanh tươi.
Cùng thời với
tháp Dhamekh là bảo tháp Dharmarajka mà bên trong có chiếc hộp bằng đá cẩm thạch
chứa đựng một phần xá lợi Phật, ngày nay chỉ còn lại nền đá hình tròn nhưng vẫn
được nhiều khách hành hương chọn ngồi thiền định. Vào cuối thế kỷ 18, tháp này
đã bị một vị thủ hiến của Ba-la-nại (Banaras, tên cũ của Varanasi) ra lệnh đập
phá để lấy gạch dùng vào việc xây dựng các công trình trong đó có ngôi chợ của
thành phố. Khi nhặt được hộp đá đựng tro cốt trong lòng bảo tháp, người dân địa
phương đã mang ra rải trên sông Hằng theo đúng phong tục của Ấn Ðộ giáo.
Tại Ba-la-nại
người ta cũng thường truyền tụng nhau như những câu chuyện về tiền thân Ðức Phật
trải qua nhiều kiếp mà một trong những kiếp đó là làm vua một đàn đông đúc
khoảng 500 con nai. Truyền thuyết kể rằng một hôm vị vua xứ Ba-la-nại sai thợ
săn vây bắt cả đàn nai, vua Nai - tức là tiền thân Ðức Phật - liền vào thành cầu
xin nhà vua tha cho thần dân của mình và hứa mỗi ngày sẽ cống nộp cho triều đình
một con nai. Một hôm có con nai cái đang mang thai đến gặp vua Nai khẩn thiết
xin cho hoãn ngày nạp mạng để chờ đến sau khi sinh nở, vua Nai động lòng trắc ẩn
bèn tình nguyện thế mạng. Nhà vua xứ Ba-la-nại biết chuyện xúc động bèn tha cho
loài nai và còn truyền lệnh không ai được phép giết hại một con nai nào cả.
Không biết truyền thuyết ấy thấm vào từ tâm con người như thế nào nhưng khi
chúng tôi đến đay chỉ trong thấy trong Vườn Nai năm xưa có một con nai duy nhất
ốm yếu với cặp mắt mờ đục nằm buồn rầu sau hàng kẽm gai. Nhìn cảnh tượng ấy ai
mà chẳng ngậm ngùi khi liên tưởng đến số phận đàn nai đông đúc thuở trước cũng
chẳng khác gì ngôi thiền viện mênh mông nay đã điêu tàn.
Nơi chốn
bình yên
Sau
khi cùng dòng người tham quan đi thiền hành ba vòng chung quanh tháp
Dhamek, chúng tôi lên đường đến Câu-thi-na (Kushinagar). Ðây là nơi Phật
viên tịch vào năm 483 trước công nguyên, thọ 80 tuổi.
Sau 45 năm
hành đạo, một hôm tại khu rừng thôn Trúc Phương gần thành phố Vaishali, Phật báo
trước với các tỳ kheo khoảng ba tháng sau sẽ đến thành Câu-thi-na thủ phủ của
tộc Malla - mà nhập niết bàn.
Trong tập du
ký của mình, Huyền Trang khi đến viếng nơi này vào năm 637 đã mô tả chi tiét từ
căn nhà cũ của ông thợ rèn Kunda người đã cúng dường bữa cơm cuối cùng cho Phật,
đến cảnh rừng cây sala nơi có một tịnh xá bằng gạch với bức tượng Ðức Như Lai
trong tư thế nằm đầu hướng về phía Bắc, cũng như ngọn tháp nơi cử hành lễ hỏa
thiêu kim thân Phật.
Tịnh xá bằng
gạch nơi Huyền Trang nhắc đến ngày nay là mọt ngôi đền màu trắng được xây lại
vào năm 1956. Bên trong ngôi đền vẫn còn bức tượng Phật bằng đá hơn 6 mét mà
Huyền Trang đã trong thấy xưa kia. Bức tượng có tuổi thọ ít nhất từ thế kỷ thứ 5
này được nhà khảo cổ người Anh Alexander Cunningham tìm thấy lại vào năm 1876
khi khai quật đóng đổ nát của tịnh xá xưa kia, đoàn khảo cổ phát hiện nhiều bộ
hài cốt phủ phục trên bức tượng Phật nằm và người ta tin rằng đó là thi thể của
những tăng sĩ liều chết lấy thân mình che chở bức tượng thiêng liêng không cho
những kẻ cuồng tín hủy hoại.
Trong quyền
sách tựa đề “Truyện Phật Thích Ca Mâu Ni” được dịch ra nhiều thứ tiếng,
tác giả Nghiêm Khoan Hộ người Trung Quốc đã ghi rằng: “Sau khi Phật viên tịch,
xá lợi đầu tiên thuộc về tộc người Malla. Tuy nhiên vua các nước chung quanh
không đồng ý nên mang quân đến Câu-thi-na tranh đoạt. Sau đó nhà vua của Tiểu
vương quốc Ma-kiệt-đà (Magadha) là A-xà-thế (Ajatasatru) đã đứng ra hòa giải và
đi đến thỏa thuận chia xá lợi Phật ra cho tám nước mang về đặt trong bảo tháp
cung dưỡng”.
Chúng tôi lặng
lẽ bước vào ngôi đền, giữa không gian tĩnh lặng và trang nghiêm, tượng Phật nằm
thếp vàng với nét mặt thanh thản trong lớp áo cà sa quen thuộc. Chung quanh
tượng, nhiều khách hành hương thắp nến khẩn nguyện, một số người khác lấy những
vuông vải mang theo cung kính đắp vào than tưởng rồi xếp lại cẩn thận vào chiếc
túi nhỏ mang trước ngực.
Cùng với những
khách chiêm bái khác, chúng tôi đi chậm rãi từng bước quanh tượng Phật ba vòng
theo chiều kim đồng hồ, và cũng như tại những thách tích khác chúng tôi cảm nhận
trong lòng một niềm an lạc vô song.
Bên ngoài ngôi
đền đông đảo khách hành hương đang tụ tập, một số du khách người Nhật ngồi thiền
định rải rác đây đó trên những bãi cỏ. Chúng tôi tiếc nuối giã từ nơi đây vì còn
phải chạy đua với thời gian, vượt qua quãng đường hơn 200 cây số để kịp đến bên
giới Ấn Ðộ-Népal trước 9 giờ đêm, vì sau giờ này xe hơi không được qua biên giới
mà chỉ người đi bộ mới được vào đất Népal.
Lái xe có lẽ
cũng trong tâm trạng nôn nóng nên khi bóng chiều dần buông xuống thì anh bắt đầu
tăng tốc. Trời tối dần, chiếc xe phóng nhanh trên con đường không hề có ánh đèn.
Ðường ra biên giới được xem là an ninh tuyệt đối nhưng vẫn không làm cho chúng
tôi yên lòng vì vào giờ ấy có quá ít xe cộ di chuyển. Các bác tài xế ở đây có
cách lái xe đường dài đặc biệt là chạy gần như nghênh ngang giữa đường, vì thế
mỗi khi có xe người chiều phía trước chiếu ánh đèn pha chói mắt thì chúng tôi
luôn có cảm giác hai chiếc xe đang lao thẳng vào nhau. Chỉ đến khoảng cách thật
gần tài xế mới nhanh nhẹn bẻ tay lái tránh đường.
Xe đến nơi chỉ
vừa 15 phút trước giờ biên giới đóng cửa, chúng tôi vội vàng làm thủ tục ở Trạm
biên phòng Ấn Ðộ, chỉ mất khoảng 5 phút, rồi nhanh chóng đến trạm kiểm soát của
Népal gần kề. Các viên chức ở đây đón khách với thái độ thân thiện và chưa đầy
15 phút sau chúng tôi đã có visa nhập cảnh vào Népal sau khi đóng lệ phí 30
USD.
Từ đây đến
vùng Lâm Tỳ ni chỉ còn khoảng 20 cây số, chúng tôi thở phào nhẹ nhõm và tiếp tục
lên đường. Con đường dẫn đến ngôi chùa Việt Nam tại thánh địa này vắng tanh vắng
ngắt gợi lên một vài lo ngại, bởi vào thời điểm ấy đất nước Népal đang được
trong tình trạng chiến tranh. Hai tuần trước khi chúng tôi đến đây, báo chí quốc
tế đã đưa tin về những cuộc giao tranh giữa quân Chính phủ và lực lượng Mao-ít,
ngoài ra cũng vừa xảy ra vụ ám sát viên Cảnh sát trưởng Kathmandu ngay tại thủ
đô Népal.
Thời tiết
Népal mùa này còn rất lạnh nhất là về đêm. Trăng rằm dịu dàng phủ nhẹ một ánh
sáng thanh khiết xuống khu rừng Lâm Tỳ Ni - nơi hơn 2.500 trước Phật ra đời.
Khung cảnh ấy đã xua tan mọi lo âu của chúng tôi.
Mười giờ đêm,
chúng tôi vui sướng bước vào ngôi chùa Việt Nam ấm áp trước sự tiếp đón niềm nở
của thầy trò nhà chùa.
Mới bảy giờ sáng mà trong khuôn viên ngôi chùa Việt
Nam ở Lâm Tỳ Ni (Lumbini) đã rộn ràng khung cảnh của một công trường. Trên
mái cong của ngôi chánh điện, mấy người thợ làng nghề xứ Huế sang đây xây
dựng chùa đang cần mẫn lợp những viên ngói đỏ, bên dưới vài người lao động
bản xứ khuân vác vật liệu tới lui quanh các thảm cỏ xanh.
Huệ Dũng, một thanh niên đôi mươi người Hà Nội có gương mặt thanh tú, hơn
sáu tháng nay tình nguyện qua đây làm công quả, vui vẻ hỏi thăm chúng tôi
đêm qua có ngủ được hay không. Chúng tôi thú thật không thể ngon giấc vì
cả đêm cứ nghe văng vẳng vọng lại những âm thanh lạ lùng tựa như tiếng la
hét của bầy trẻ con đang chơi đùa. Huệ Dũng bật cười cho biết đó là tiếng
tru của bầy chó rừng đi kiếm mồi trong đêm và trấn an rằng không có gì
nguy hiểm, vì chưa bao giờ chúng rời khỏi lãnh địa ở trong khu rừng chối
cách chùa vài ba cây số.
Việt Nam Phật Quốc Tự tại Lâm Tỳ Ni tuy chưa hoàn thành nhưng đã cho thấy
một quần thể kiến trúc hài hòa. Trước khi vào chùa, khách hành hương phải
ngang qua cây cầu mang tên Thanh Tịnh ngụ ý nhắc nhở mọi người gột rửa
những vướng bận trong đầu để cho tâm hoàn toàn thanh thản. Bước vào cổng
tam quan, bên trái là chiếc cầu được thiết kế theo hình bản đồ Việt Nam có
khắc tên 61 tỉnh thành, phía dưới là một hồ nhỏ trồng nhiều sen và súng.
Qua khỏi một vườn hoa mọi người bắt đầu bước lên những bậc thang với hai
ngọn giả sơn đồ sộ hai bên, mang ý nghĩa như một hành trình vươn lên tầm
cao để đến được chánh điện.
Chánh điện có 3 tầng, tầng dưới dành để tàng trữ kinh sách, các phòng
nghiên cứu ở tầng giữa còn tầng cao nhất là nơi thờ Phật. Phía sau chánh
điện là hậu tổ, nơi thờ các vị thánh đệ tử và thánh tăng Phật giáo qua các
niên đại. Ðối diện bàn thờ Tổ là bàn thờ tưởng niệm anh linh các vị anh
hùng Tổ quốc Việt Nam.
Sau tòa chánh điện là dãy pháp xá gồm thư viện, phòng làm việc và phòng ở
dành cho các nghiên cứu sinh và học giả đến chùa tu tập. Một khu nhà văn
hóa hai tầng cùng với dãy pháp xá thứ hai cũng sắp hoàn tất trong khuôn
viên chùa hơn hai hecta.
Vùng đất bị lãng quên
Lâm Tỳ Ni thuộc quận Basti của Népal- nơi mà cách đây hơn 2.500 năm Phật
được sinh ra - nay vẫn là một vùng đất xanh tươi nằm dưới chân dãy Hy Mã
Lạp Sơn. Sử gia nổi tiếng thế giới Will Durant, trong tập Di sản phương
Ðông của bộ sách đồ sộ “Lịch sử văn minh”đã ghi lại về sự ra đời
của Ðức Phật như sau:
“Quốc vương Suddhodana (Tịnh Phạn) là một người thuộc giới thượng lưu của
thị tộc Gautama trị vì tiểu quốc Shakya (Thích Ca), đặt thủ phủ tại
Kapilavatsu (Ca-tì-la-vệ) ở chân núi Himalaya. Vào năm 563 trước Công
nguyên, hoàng hậu tiểu quốc này là Maya Devi khi gần tới ngày sinh nở đã
tâu với nhà vua xin được trở về quê nhà tại Devadha để sinh con đầu lòng
theo đúng tục lệ thời bấy giờ.
Khi đến khoảng giữa hai châu thành, ngang qua khu vườn Lâm Tỳ Ni nơi có
rất nhiều cây sala đang lúc hoa nở rộ rực rỡ, hoàng hậu ra lệnh dừng lại
để dạo cảnh và tắm mát tại hồ nước trong vườn. Ðến dưới gốc cây sala cổ
thụ to lớn, bà vói tay định vít một cành thì nhánh cây tự nhiên rủ xuống
đúng tầm tay và khi hoàng hậu vừa nắm lấy thì bổng chuyển dạ. Ðám hộ giá
vội vã giăng màn chung quanh và ngay lúc còn đang đứng, tay vẫn nắm cành
sala, hoàng hậu hạ sinh hoàng tử. Thế là việc trở về quê nhà không cần
thiết nữa và thị thần đưa hoàng hậu cùng hoàng tử trở về. Cả kinh thành mở
hội ăn mừng và vị hoàng tử được đặt tên là Siddhartha (Tất Ðạt Ða) có
nghĩa là người mang đến điều tốt lành với tên họ (thị tộc) là
Gautama (Cồ Ðàm). Về sau Ngài còn được gọi là Shakya-Mumi (Thích Ca Mâu
Ni) nghĩa là vị minh triết của tiểu quốc Shakya hay một tên khác là
Tathagata (Như Lai) nghĩa là người nắm được chân lý.
Cũng theo Sử gia Will Durant thì đó là những tôn danh người ta đặt cho
Phật chứ Ngài chưa hề có lần nào tự xưng như vậy.
Lâm Tỳ Ni đã sớm trở thành một nơi chốn hành hương. Vào năm 250 trước Công
nguyên, Hoàng đế Ashoka (A-dục) trong chuyến du hành qua những vùng thánh
tích Phật giáo khi đến nơi đây đã cho dựng một trụ cột với bức tường đá
bao quanh để ghi dấu chuyến viếng thăm của mình. Tại Lâm Tỳ Ni còn có đền
thờ Bà Maya được xây dựng khoảng thế kỷ thứ 3 trước công nguyên, bên trong
có phiến đá khắc họa sự tích Phật đản sinh. Vào thế kỷ thứ 7 khi Huyền
Trang đến Lâm Tỳ Ni, ông vẫn còn nhìn thấy trụ đá vua A-dục lúc ấy đã bị
gãy đổ phần trụ và mô tả: “Bức tường hầu như đổ nát còn trụ đá đã bị hư
hại ở phần đỉnh, không phải do thời gian mà do bị sấm sét từ miệng một con
rồng hung hãn thổi sập”. Sau đó không bao lâu Lâm Tỳ Ni chìm vào bóng
tối của quên lãng trong hơn mười thế kỷ.
Thánh địa hồi sinh.
Lâm Tỳ Ni bắt đầu phục hồi vào năm 1985. Khi một nhà khảo cổ người Ðức,
Tiến sĩ Alois FÜhrer,
trong một cuộc khai quật đã tìm thấy được cột đá của vua A-dục ngày xưa.
Sau bao thế kỷ bị chôn vùi trong lòng đất, lạ lùng thay dòng chữ ghi lại
sự kiện vị vua này đến viếng nơi này đã được viết bằng chữ Brahmi và
Prakrik trên thân trụ vẫn còn nguyên vẹn: “Do sự kiện Ðức Phật đã từng
đản sinh tại đây, vùng Lâm Tỳ Ni được miễn thuế và giảm mức lợi tức còn
một phần tám”.
Phát hiện có giá trị cực kỳ lớn lao của vị tiến sĩ khảo cổ học người Ðức
lúc ấy vẫn không giúp Lâm Tỳ Ni lấy lại tầm vóc lịch sử đích thực của
mình. Phải hơn 70 năm sau, một lần nữa nơi đây mới được thế giới chú ý đến
trong một chiến dịch quảng bá rầm rộ vào năm 1967, khi vị Tổng thư ký Liên
Hiệp Quốc lúc bấy giờ là Ngài U Thant (người Myanmar) đến viếng thánh tích
và tiến hành lễ khai mạc “Chương trình phát triển Lâm Tỳ Ni”.
Khoảng 13 quốc gia, trong đó có Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Ðộ, Mỹ... đóng góp
tài chính cho đề án qui hoạch tổng thể Lâm Tỳ Ni của vị kiến trúc sư Nhật
Bản là Giáo sư Kenzo Tange. Kế hoạch này bắt đầu tiến hành bằng việc xây
dựng Nhà bảo tàng, Trung tâm nghiên cứu Phật học tại đây và con đường dẫn
đến vùng Lâm Tỳ Ni.
Sẽ rất thiếu sót nếu đề cập đến sự hồi sinh của Lâm Tỳ Ni mà không nhắc
đến một con người suốt mấy chục năm qua đã kiên trì và âm thầm đóng góp
vào việc đem lại nhiều khởi sắc cho vùng này. Ðó là Thượng tọa Huyền Diệu,
vị sư trù trì “Việt Nam Phật Quốc Tự” tại Lâm Tỳ Ni.
Mọi việc bắt đầu từ năm 1987, khi một số môn sinh của ông đang làm việc ở
các cơ quan quốc tế sau nhiều năm kiên trì vận động đã tranh thủ được sự
chấp thuận của Quốc vượng Birendra và Thủ tướng xứ Népal cấp cho thầy
Huyền Diệu mảnh đất để xây dựng ngôi chùa Việt Nam tại Lâm Tỳ Ni. Một máy
bay được đưa sang đón ông tại Bồ Ðề Ðạo Tràng (Ấn Ðộ) về Kathmandu yết
kiến nhà vua, ngay sau đó lễ ký kết giao đất đã được tiến hành với các vị
đại diện Chính phủ Népal. Thầy Huyền Diệu quyết định chọn khoảnh đất gần
nơi Ðức Phật đản sinh, với ý nghĩ sau này sẽ thuận lợi cho Phật tử ngụ tại
chùa Việt Nam đi viếng thánh tích.
Song song với việc cất chùa - bằng tiền dạy học cùng những khoản đóng góp
của Phật tử khắp nơi trên thế giới - thầy Huyền Diệu cũng đã cùng với các
môn sinh đi đến một số nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc... thuyết
phục các chính phủ cũng như tổ chức tôn giáo các nước ấy nhanh chóng xây
dựng ngôi chùa tại Lâm Tỳ Ni với mơ ước hình thành một Liên hiệp quốc Phật
giáo nơi này. Chẳng những vậy, ông còn ra điều trần trước Quốc hội Népal
để tranh thủ Chính phủ nước sở tại cấp đất cho các ngôi chùa quốc tế xây
dựng tại đây, mà theo suy nghĩ của ông đó là cách tốt nhất để làm hồi sinh
vùng thánh địa.
Cho đến nay có tất cả 17 ngôi chùa và trung tâm văn hóa của các nước đã và
đang xây dựng tại Lâm Tỳ Ni, đây là một kết quả tốt đẹp đem lại niềm vui
lớn lao cho tất cả những người thiết tha đến sự hồi sinh của thánh địa
này.
Ngay từ khi ngôi chùa đầu tiên được xây dựng thì chung quanh khu vực Lâm
Tỳ Ni đã hình thành vài thị trấn qui tụ đông đảo người dân các nơi khác
đến sinh sống lập nghiệp làm cho nơi đây trở nên nhộn nhịp trù phú hơn. Sự
hiện diện của những ngôi chùa không những tạo thêm công ăn việc làm cho
người dân mà còn giúp cho ngành du lịch phát triển. Những hội nghị quốc tế
về môi sinh, văn hóa, tôn giáo thường xuyên được tổ chức tại đây đã mang
lại những nguồn lợi lớn cho người dân địa phương và uy tín quốc tế cho
Chính phủ Népal.
Lâm Tỳ Ni hôm nay
Vào tháng 2 Lâm Tỳ Ni vẫn còn lạnh, buổi tối nhiệt độ xuống dưới 5 độ còn
ban ngày thì trung bình 20 độ. Chúng tôi lưu lại đây chưa đầy 48 tiếng
đồng hồ nên chỉ có một buổi tham quan thi trấn Bhairahawa và dành trọn một
ngày viếng thăm Khu vườn thiêng Lâm Tỳ Ni cùng chùa chiền của các nước.
Tuy trong vùng đã xuất hiện một vài khách sạn và nhà nghỉ, như khách sạn
Nhật Bản với kiến trúc mang đậm phong cách xứ mặt trời mọc hay khu nhà
nghỉ của Sri Lanka dành cho khách hành hương. Lâm Tỳ Ni ngày nay vẫn chưa
mang dáng dấp của một khu du lịch hấp dẫn, do vậy hầu hết du khách đến đây
đều lưu lại vùng Sunauli h ay Bhairhawa cách thánh tích khoảng hơn 20 cây
số.
Chỉ mất hơn nữa giờ xe hơi chúng tôi đã đến thị trấn này. Ðường sá
Bhairahawa còn chật hẹp nhưng khách sạn, cửa hàng internet và hàng quán
tương đối tiện nghi. Ðặc biệt thị trấn này có một sân bay nội địa nối với
thủ đô Kathmandu của Népal. Có lẽ đây là nơi duy nhất trên thế giới mang
đến cho con người những tiện ích vật chất cụ thể qua những từ ngữ đầy màu
sắc tôn giáo, chẳng hạn như quốc lộ Tất Ðạt Ða (Siddhartha
Highway), khách sạn Niết bàn (Nirvana Hotel) hay Hãng máy bay
Ðức Phật (Buddha Air). Quả là sống ở trần gian mà cứ tưởng như lạc vào
cõi Phật!
Khu vườn thiêng (The sacred Garden) tọa lạc ở vùng cực Nam của Lâm Tỳ Ni
là một không gian rộng lớn rợp bóng mát nhiều cây cổ thụ. Khi chúng tôi
đến đây, đền thờ Hoàng hậu Maya Devi đang được UNESCO trùng tu.
Kế bên đền thờ Hoàng hậu Maya là trụ đá vua A-dục cao hơn 7 mét, bao bọc
chung quanh là một hàng rào sắt. Chúng tôi theo chân những khách hành
hương thành kính đi thiền hành mấy vòng quanh trụ đá uy nghiêm có tuổi thọ
trên 20 thế kỷ, ngắm nhìn những dòng chữ lịch sử được khác cách đây hơn
2.250 năm mà trong lòng dâng lên một niềm xúc cảm.
Một di tích quan trọng khác hơn đây là hồ Pushkarni, nơi Hoàng hậu Maya đã
tắm trước khi lâm bồn mà cũng là nơi hoàng tử Tất Ðạt Ða được tắm lần đầu
tiên sau khi được sinh ra. Hồ này được xây lại vào năm 1933 với hình
vuông, trong khi theo các nhà khảo cổ thì hồ nguyên thủy có hình tròn hoặc
hình chữ nhật.
Cách Khu vườn thiêng chưa đầy một cây số là ngôi chùa Myanmar rộng lớn gồm
năm khu vực điện thờ và pháp xá cùng với ngọn tháp vàng rực rỡ uy nghi.
Chùa Hàn
Quốc thì được xây dựng mà khi hoàn thành sẽ có chánh điện rộng lớn chứa
đến 3.000 người và pháp xá đủ chỗ cho 500 người lưu lại. Gần ấn tượng hơn
cả là chùa Trung Quốc được xây dựng theo mô hình Thiếu Lâm tự thu nhỏ mà
hầu hết nguyên vật liệu và nhân công được đừa từ Bắc Kinh sang. Bên trong
ngôi chùa rộng lớn sạch bóng là những hành lang dài lát đá cẩm thạch đẹp
đẽ dẫn đến những dãy điện thờ ngang dọc, điều này giải thích tại sao Chính
phủ Trung Quốc phải tốn kém đến hơn 5 triệu đô la để xây dựng ngôi chùa
này. Tại Lâm Tỳ Ni còn có các chùa Ấn Ðộ, Nhật Bản, Tây Tạng, Sri Lankar,
Thái Lan...
Hai ngày lưu lại Lâm Tỳ Ni là quá ít nhưng không còn cách nào khác hơn
theo chương trình chúng tôi phải có mặt tại Kathmandu - thủ đô Népal - để
kịp chuyến bay hàng tuần về Bangkok vào ngày thứ Bảy. Nếu đi xe đò từ
Bharahawa đến Kathmadu chỉ mất khoảng 200 rupi Népal (tương đương 3 USD)
trong khi vé máy bay giá lên đến 81 USD. Tuy nhiên e ngại phải vượt đèo
ban đêm trong một đất nước đang có chiến tranh, chúng tôi đành chọn cách
đi tốn kém hơn nhưng cũng an toàn hơn.
Trưa hôm đó, sư cô Huệ Ðức - một Việt kiều tại Úc sang chùa làm công quả -
ân cần chuẩn bị bữa cơm chay thật tươm tất tiễn khách. Chúng tôi từ giã
mọi người lên đường với tâm trạng áy náy như vừa bỏ lại sau lưng những
người bạn đơn độc trong ngôi chùa Việt Nam mênh mông vắng lặng.
Phi trường Bhairahawa - cách Lâm Tì Ny khoảng hơn 20 cây
số - mỗi ngày có ba chuyến bay đến thủ đô kathmandu của Nepal. Sân bay nội địa
này có lẽ thuộc vào loại nhỏ nhất mà chúng tôi đã từng đi qua với một nhà ga
không quá 200 mét vuông và việc kiểm tra hành lý hoàn toàn thủ công. Trước khi
vào phòng cách ly, hành khách sắp hàng nam một bên nữ một bên để được khám xét.
Hành khách nam đã vào cả bên trong, riêng phòng dành cho phụ nữ vẫn đóng cửa im
ỉm. Anh nhân viên an ninh sân bay tất tả đi tìm người đồng nghiệp của mình đang
bận đi chăm sóc ba đứa con có lẽ sinh năm một mà đứa lớn nhất mới khoảng 5 tuổi.
Chị vội vã chạy vào phòng làm nhiệm vụ khám xét qua loa các nữ hành khách rồi
lục tìm hộp mực, cẩn thận hà hơi lên con dấu trước khi đóng vào thẻ lên máy bay
cho khách. Xong việc chị lại chạy ra ngoài chơi đùa với các con.
Hãng hàng
không mang cái tên đáng kính “Ðức Phật” sử dụng loại máy bay nhỏ 19 chỗ ngồi.
Chuyến bay của chúng tôi bị trễ một tiếng đồng hồ, gấp đôi thời gian bay từ
Bhairahawa đến Kathmandu. Nhưng rồi thời gian trễ nãi ấy được đền bù bằng sự
xuất hiện của một nàng tiên trên máy bay Ðức Phật với nụ cười duyên dáng. Cô
tiếp viên người Nepal xinh đẹp của Hãng hàng không Buddha Air khá vất vã trong
25 phút của chuyến bay. Hành khách an vị vừa, nàng tiên đã tươi cười mang đến
một cái khay trên đó có nhiều viên kẹo xanh xanh đỏ đỏ cùng những miếng bông gòn
nho nhỏ xinh xinh: một thứ để ngậm miệng còn thứ kia để nhét vào lỗ tai. Ðợt
phục vụ thứ hai là món ăn tinh thần gồm mấy tờ báo tiếng Anh. Kế đến là hai đợt
mang thức uống, cô cầm một chai Coca Cola loại lớn cùng chồng ly giấy ân cần rót
cho từng vị khách. Sau đó xuất hiện với chai nước tinh khiết mời mọc lần nữa.
Một lúc sau nàng tiên quay lại để thu hồi các ly giấy bỏ trong cái bao nylon lớn
mà cô cầm bằng cả hai tay. Ðợt cuối cùng cô vừa thu xong mấy tờ báo thì cũng là
lúc máy bay chuẩn bị hạ cánh xuống thung lũng Kathmandu, bên dưới là núi đồi với
những dãy ruộng lúa nằm trên bậc cấp.
Chuyến bay qua núi
Nepal có điều
kiện thiên nhiên thật đa dạng - đặc biệt là dãy Himalaya kì vĩ nhất thế giới nằm
ở phía Bắc - với khí hậu lục địa, nhiệt độ trung bình trong năm rất thấp do ảnh
hưởng của độ cao. Bức tranh nhân chủng học ở đất nước này vô cùng phong phúc với
36 dân tộc sử dụng 70 thứ ngôn ngữ và thổ ngữ khác nhau. Nepal lại có đến 10 di
sản văn hóa thế giới được UNESCO thừa nhận.
Mặc dù đất
nước Nepal đang trong tình trạng chiến tranh, nhưng mấy ngày lưu lại đây chúng
tôi chỉ thoáng cảm nhận không khí này khi nhìn thấy một chiếc máy bay quân sự
nằm phơi mình bình yên ở phi trường Kathmandu và sau đó gặp một chiếc xe chở đầy
binh lính chạy giữa đường phố của thủ đô.
Chiếc taxi đưa
chúng tôi từ sân bay đến trung tâm thành phố phải len lõi giữa dòng xe cộ đông
đúc trên những con đường không được bằng phẳng và khá chật hẹp. Kathmandu được
xây dựng từ thế kỷ thứ X là thành phố của đền đài có kiến trúc đa dạng, các viện
bảo tàng lịch sử tự nhiên với những bộ sưu tập vô cùng phong phú cùng các khu
bảo tàng thiên nhiên. Thành phố rộng chưa đầy 200 dặm vuông này có nửa triệu
người sinh sống, mật độ tập trung các công trình tôn giáo dày đặc đến độ người
ta ví von rằng Kathmandu có đền thờ nhiều như nhà ở và tượng thánh thần nhiều
như con người ở đây.
Kathmandu là
trung tâm văn hóa và chính trị của Nepal, với cung điện hoàng gia ở khu trung
tâm thành phố, bao bọc chung quanh là một quần thể những đền đài phần lớn bằng
gỗ. Ðây là một thành phố du lịch, tôn giáo và thể thao, đặc biệt môn thể thao
leo núi lôi cuốn nhiều du khách phương Tây.
Chúng tôi tìm
đến khu phố (....) nghĩa là thành phố sùng đạo được xây dựng vào năm 889 là nơi
tập trung nhiều đền đài của cả Phật giáo lẫn Ấn độ giáo với những kiệt tác về
nghệ thuật và kiến trúc của Nepal. Tại đây, mỗi công trình xây dựng đều đượm màu
tôn giáo và mỗi tảng đá đều có lịch sử riêng của nó. Bhaktapur cũng là trung tâm
điểm của hành hương tín đồ Ấn Ðộ giáo.
Một cuốn sách
hướng dẫn du lịch của Nepal xuất bản năm 2002 đã ghi lại nhận xét của E.V.
Powell - Nhà Ðông phương học lỗi lạc đồng thời cũng là một nhà du lịch nổi tiếng
thế giới - về thành phố này như sau: “Những ngôi chùa ở Cung điện mùa Hè của Từ
Hy Thái hậu tại Bắc kinh. Những công trình kiến trúc bằng đá ven bờ sông Hằng ở
Varanasi, các đền chùa của Thái Lan, nghệ thuật chạm khắc ở Ðế Thiên Ðế Thích,
đền thờ Shinto ở Nhật Bản..., Bhaktapur mang một chút dáng vẻ của tất cả những
cái đó mà thực ra lại không
giống bất cứ nơi đây có giá trị ngang bằng với việc tham gia nửa vòng
trái đất. Tại thung lũng đáng nhớ này, nghệ thuật, tăng sĩ và thợ thủ công đã
cùng nhau làm nên một công trình tuyệt tác. Những kiến trúc sư tài ba của Phật
giáo và Ấn Ðộ giáo đã gặp gỡ trong việc tạo nên vẻ nguy nga tráng lệ của những
đền đài, tượng đá với chạm khắc vô cùng tinh xảo đến từng chi tiết mà không nơi
nào có thể sánh kịp”.
Lang thang qua
những đường phố lát đá xưa cũ, ngắm nhìn những đền thờ xây dựng bằng đá hoặc
bằng gỗ cổ kính, trong một thoáng chúng tôi tưởng chừng như mình đang sống lùi
lai hàng mấy trăm năm.
Dưới chân
núi tuyết.
Từ giã
Bhaktapur, chúng tôi háo hức tìm đến Nagarkot, địa điểm lý tưởng nhất để ngắm
nhìn dãy Hy Mã Lạp Sơn. Nagarkot ở miền cực Ðông của thung lũng, cách thủ đô 32
km và ở độ cao 2.190 mét, do vậy mà nhiệt độ tại đây thấp hơn ở Kathmandu.
Nagarkot trước
đây là một ngôi làng khiêm tốn cùng với vài ngôi đền, nay đã mọc lên nhiều khách
sạn nhỏ đúng tiêu chuẩn quốc tế đón du khách đến đây thư giãn và ngày ngày chiêm
ngưỡng dãy núi tuyết vạn niên. Nagarkot có một trại lính, do vùng này có vị trí
chiến lược trên đỉnh cao với tầm ngắm rõ nét 360 độ khắp chung quanh nên lực
lượng quân sự đã hiện diện tại đây từ nhiều thế kỷ qua. (Ðịa danh Nagarkot xuất
phát từ ý nghĩa này vì từ KOT có nghĩa là pháo đài, công sự). Ðiểm đặc biệt
những người lính gác chỉ nhận xét người bản xứ đi ngang qua khu vực này còn du
khách nước ngoài thì họ không hỏi đến.
Khu nghỉ mát
xinh đẹp và đầy đủ tiện nghi mà chúng tôi lưu lại một đêm có tên là Manda với
giá 16 USD một ngày. Từ trên khu đỉnh đồi của khu resort có thể phóng tầm mắt ch
iêm ngưỡng cả một dãy núi tuyết nhấp nhô đẹp lạ thường trong sắc cầu vồng huyền
ảo của buổi hoàng hôn. Nhiệt độ tại đây xuống chỉ còn 2 độ vào ban đêm nên ai
cũng ngại đi ra ngoài, vì vậy khách sạn phục vụ buổi ăn tối cho khách trong
phòng ngủ ấm cúng.
Chúng tôi rất
hạnh phúc trải qua buổi sáng cuối cùng của chuyến du lịch cùng Thượng tọa Huyền
Diệu và đệ tử của thầy là Trịnh Ngọc Phụng, một kỹ sư chuyên về phần mềm vi tính
ở Úc, trẻ tuổi đẹp trai sang đây làm công quả tại chùa Việt Nam. Cả hai đến
Kathmandu tối hôm qua.
Bữa điểm tâm
được dọn trên sân thượng, chúng tôi vừa đón bình minh vừa ngắm dãy núi tuyết
hiển hiện rực rỡ ngay trước tầm mắt. Cảnh núi non bao la nơi đây đem lại cho con
người một cảm giác tự do thật lớn lao, không còn vướng bận đến những ràng buộc
nhỏ nhoi và quên đi mọi lo toan cuộc sống. Sự hùng vĩ và uy nghi của những ngọn
băng sơn dường như mang lại cho con người một niềm kính sợ khi cảm nhận uy lực
của nó tràn ngập trong lòng. Có lẽ chính vì vậy mà trong suy nghĩ của những
người thiên về tâm linh họ không bao giờ có tham vọng lên lên đỉnh cao để chinh
phục. Mỗi khi đến viếng các ngọn núi thiêng của dãy Himalaya - chẳng hạn như
ngọn Kailas (Ngân sơn) ở Tây tạng - khách hành hương chỉ đi vòng chung quanh, mở
lòng ra để đón nhận cái thần của núi tràn ngập tâm hồn và chiêm nghiệm bản
thân).
Chín giờ sáng,
chúng tôi lưu luyến ngắm nhìn lần cuối dãy núi tuyết trắng xóa một màu và thầm
nói lời từ biệt. Từ đây chúng tôi đi thẳng ra phi trường để kịp đáp chuyến bay
quá cảnh sang Bangkok trước khi về Việt Nam.
* * *
Do nghề nghiệp
mà chúng tôi có hàng bao nhiêu chuyến đi không thể nhớ hết. Có chuyến đi không
để lại dấu ấn gì, lại có những nơi thậm chí chỉ vài tuần lễ đã quên mất là mình
từng đi qua. Vậy mà lần này chúng tôi biết chắc rằng những kỷ niệm trong chuyến
đi hành hương tìm về đất Phật sẽ mãi mãi là dấu ấn sâu đậm không bao giờ phai
nhạt trong tâm tưởng.
Xin cám ơn bạn
đọc đã cùng đi với chúng tôi một đoạn đường trong hành trình tìm về những giá
trị xa xưa. Cũng phải đến lúc chia tay, giờ đây chúng tôi xin nói lời tạm biệt
và hy vọng sẽ lại có dịp gặp gỡ nhau trong một chuyến ngao du thú vị khác.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 8
năm 2003
---o0o---
Chân
thành cảm ơn Nhạc sĩ Võ Tá Hân đã gởi tặng phiên bản điện tử tài liệu này
để bổ sung những phần thiếu sót mà trước đó Đạo hữu Nguyên Trang đã đánh
máy lại từ Tạp Chí Kiến Thức Ngày Nay , Số 459-->465 /2003. (
Thích Nguyên Tạng, 4-2004)
---o0o---
Vi tính: Nguyên Trang; trình bày: Nhị
Tường
Cập
nhật : 01- 4 -2004