Năm
1961, hai Thầy Huyền Vi và Thiện Châu đến Nalanda, và năm 1962 chúng tôi
cùng nhau tổ chức đi chiêm bái các Phật tích Ấn Ðộ.
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam
chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật
tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
Ði đến Phật tích quan trọng nào, chúng tôi cũng thay mặt toàn thể Phật
tử Việt Nam đảnh lễ cúng dường và cầu chúc Phật gia hộ cho Phật tử Việt
Nam và dân chúng Việt Nam sớm được thanh bình an lạc. Ði đến đâu, chúng
tôi cũng giới thiệu Phật tử Việt Nam, Phật giáo Việt Nam bằng những cuộc
nói chuyện, diễn giảng và tặng ảnh các ngôi chùa chính Việt Nam như
Thiên Mụ, Xá Lợi, Ấn Quang v.v...
Quyển "Ðường về xứ Phật" ra đời là để thực hiện mục đích thứ hai, giới
thiệu các Phật tích cho Phật tử Việt Nam và dân chúng Việt Nam. Chúng
tôi đã đi thăm các Phật tích sau đây: Vương-xá, với núi Linh Thứu, động
Kỳ-xà-quật, Trúc-Lâm tịnh xá, Bồ đề đạo tràng chỗ Ðức Phật đã thuyết
pháp lần đầu tiên, Song lâm với pho tượng đức Phật nhập Niết Bàn khổng
lồ, Lâm-Tỳ-ni ngôi vườn lịch sử đánh dấu nơi đức Phật đản sinh. Xá-vệ
chỗ đức Phật ở lâu nhất và thuyết những kinh rất quan trọng, Sanchi với
những tháp đồ sộ và cổ kính nhất, Ajanta, Ellora, những hang động Phật
giáo có những bích họa được cả thế giới kính phục, động Elephanta và
Kanheri, động sau này là động xưa nhất, chỗ tu hành thanh tịnh của chư
Tăng. Từ Kanheri chúng tôi về lại Cực Phật học Nalanda nơi mà có thời
hơn 10.000 tăng sĩ dự học, một Ðại học đường Phật giáo đã đào tạo ra
Ngài Huyền Trang người Trung Hoa, và Ngài Ðại Thặng người Việt Nam.
Chúng tôi cũng không quên nói đến Tân Phật học viện Nalanda chỗ chúng
tôi ở, nghiên cứu và dạy đạo Phật.
Mỗi Phật tích nào, chúng tôi cũng tả tỉ mỉ các di tích quan trọng, ghi
chép một vài nhận xét, cảm tưởng cá nhân, nhắc lại những tích truyện
quan trọng nhất trong khi Phật tại thế, tìm hiểu lịch sử Thánh tích ấy
và dịch những bài ký sự của hai Ngài Pháp Hiển và Huyền Trang, để mỗi
chương tả mỗi Thánh tích được linh động hơn, chúng tôi cho in rất nhiều
ảnh chụp tại chỗ, và những nhiếp ảnh viên cũng không ai xa lạ hơn là
những tác giả của tập ký sự này. Và như vậy độc giả sẽ có cảm tưởng và
cảm giác chính tự mình đích thân chiêm bái và viếng thăm các Phật tích
ấy.
Cùng đi với chúng tôi có vị sư người Ðức tên là Pàsadika, một vị sư có
rất nhiều cảm tình với Phật tử Việt Nam và rất ưa thích nghe chúng tôi
tụng kinh tiếng Việt Nam tại các Thánh tích. Vị này không những cùng với
chúng tôi chia ngọt sẻ bùi trong cuộc chiêm bái có tính cách lịch sử này
mà còn cộng tác với chúng tôi trong việc trước tác tập ký sự này nữa. Vì
vậy đặc điểm của tập "Ðường về xứ Phât" là một mục đích là để các Phật
tử Phật và tai nghe mắt thấy những Phật tích lịch sử này.
Tiếp theo lời giới thiệu, chúng tôi xin mời toàn thể Phật tử Việt Nam và
những người bạn của Phật tử Việt Nam cùng với chúng tôi đi chiêm bái các
Phật tích.
Sài gòn, ngày 22-7-1964
Thích Minh Châu
Phó Viện trưởng.
Viện Cao Ðẳng Phật học Sài gòn.
"Vui đẹp thay thành Vương Xá!.
Vui đẹp thay núi Linh Thứu!
Vui đẹp thay vườn Trúc Lâm!
Vui đẹp thay động Saptaparni!"
Lời đẹp thay động Saptaparni!"
(Lời Ðức Phật Thích Ca).
Ra đi
Sáng
nay, ngày 11 tháng 10 năm 1962, chúng tôi thức dậy thật sớm sửa soạn
hành lý cho cuộc chiêm bái mà chúng tôi đã lo liệu hơn một tháng trời.
Trận bão lớn vừa qua làm cho đường sá hư hỏng nhiều. Không có xe hỏa, xe
hơi, nên chúng tôi phải dùng đến một phương tiện giao thông rất cổ kính:
xe ngựa. Chiếc xe ngựa trên đó có thầy Minh Châu, thầy Thiện Châu và
thầy Ghosananda người Cam Bốt, Thầy Pàsadika, người Ðức, vì bận chút
việc nên không thể cùng đi một lần: thầy sẽ gặp chúng tôi tại
Buddhagaya. Khởi hành vào lúc 8 giờ. Lướt qua những cánh đồng xanh rộng,
những xóm làng yên tĩnh, chúng tôi thấy như đang đi trên một con đường
quê nào ơ đất nước. Tiếng cọc cạch đều đều của chiếc xe làm chúng tôi
liên tưởng đến vó ngựa đi ra của Thái Tử Tất-đạt-đa, Rồi một niềm vui
tràn ngập trong lòng vì chúng tôi thấy mình làm một công việc đầy ý
nghĩa và hứng thú.
Tìm dấu người xưa
"Ðây là ngã ba Silao", thầy Ghosananda vừa đưa tay chỉ vừa nói:
- Tên "Silao" lấy từ "Silabhadra" (Giới Hiền) tên của ngài Viện trưởng
Ðại học viện Nalandà cũ và cũng là thân giáo sư của ngài Huyền Trang.
Xưa kia, đức Phật thường ghé lại đây để thuyết pháp cho dân chúng, trên
đường đi thành Vương xá đến Nalandà. Lúc bấy giờ tại đây có một phái
ngoại đạo. Ông thầy tên là Suppiya, vì thấy đức Phật được nhiều người
cung kính cúng dường nên chê bai, phỉ báng. Trái lại, người học trò tên
Brahmadatta thì ca ngợi, tán thán đức hạnh nghiêm tịnh của đức Phật. Khi
nghe lời phỉ báng, một số thầy Tỳ-kheo đã buồn giận, và trái lại họ sung
sướng khi được nghe những lời tán thánh đức Phật. Biết được việc ấy đức
Phật bèn khuyên: "Này các Tỳ kheo! Nếu gặp người dùng cách này nọ phỉ
báng, Như Lai, phỉ báng Chánh pháp và chư Tăng, các ông không nên vội
sanh lòng oán giận hay có ác ý thì tự các ông đã gặp người dùng đủ cách
khen ngợi Phật, Pháp và chúng Tăng, các ông cũng chớ vội lấy đó làm điều
vui mừng, kiêu hãnh, vì nếu các ông sanh tâm vui mừng kiêu hãnh, thì tự
các ông đã bị hãm hại rồi!". (Kinh Trường A-hàm, bản dịch của Thượng tọa
Trí Ðức).
Ðã chín giờ hơn nhưng trời vẫn còn mát mẻ. Nước trời, cây, cỏ đượm một
màu tươi đẹp êm dịu. Xa xa dãy núi Vương Xá ẩn mình sau màn sương bạc
như chứng kiến sự hướng về của đoàn người tin tưởng. Dọc đường thỉnh
thoảng chúng tôi phải xuống xe và giúp sức cho ngựa vượt qua những đoạn
đường khó. Từ Nalandà đến Vương Xá chỉ có 13 cây số, nhưng chúng tôi
phải mất hai tiếng đồng hồ mới đến được.
Lịch sử thành Vương Xá
Vương Xá (tiếng Ấn là Ràjagriha) là thành cổ nhất ở Ấn Ðộ. Theo tập
Ràmàyana, thành này do vua Vasu lập ra và đặt tên là Vasumati. Ðến đời
đức Phật, được gọi là Vương xa, vì rất nhiều cung điện được xây dựng tại
đây. Ràja nghĩa là Vương Griha nghĩa là Xá, gọi chung là Vương xá. Thành
này nổi tiếng khắp Ấn Ðộ vì là kinh đô xứ Ma-kiệt-đà. Theo ngài
Buddhaghosa (Phật Âm) thành này có đến 32 cửa chính và 64 cửa phụ. Sau
khi Vua A-xà-thế (Ajatasatru) xây thành Pàtaliputra bên bờ sông Hằng
(hiệ còn một vài di tích tại Patna, thủ đô của Bihar) thì thanh Vương xá
mất dần địa vị quan trọng.
Ðức Phật đến thành Vương Xá nhiều lần. Trước khi Ðắc đạo, đức Phật có
đến khất thực xung quanh thành. Ðược biết Ngài là Thái tử của dòng Thích
Ca, Vua Tần-đà-ta-la (Bimbisara) mời Ngài bỏ đời sống tu hành để trị vì
một phần đất của nước Ma-kiệt-đà. Ngài đã từ chối nhưng hứa sau khi đắc
đạo sẽ trở về giáo hóa, như sự thỉnh cầu của nhà Vua. Ðức Phật thường ở
nhiều nơi trong thành này. Chỗ Ngài thích nhất là núi Linh-Thứu
(Gridharakuta) Ngài cũng thường ở Trúc Lâm tịnh xá (Veluvana).
Sau khi gởi hành lý trong chùa Miến Ðiện chúng tôi lần lượt thăm các
thánh tích sau đây:
1. Trúc Lâm tịnh xá (Veluvana).
2. Ngôi nhà lá (Pippalaguha).
3. Nơi kết tập kinh điển lần thứ nhất, động Saptaparni.
4. Suối nước nóng.
5. Núi Linh Thứu (Gridharakuta).
1. Trúc Lâm tịnh xá
Trước hết chúng tôi đến Trúc-lâm, một khu tịnh xá rộng lớn gần thành
Vương-Xá, do Vua Tần-bà-ta-la cúng hiến cho Phật và chúng Tăng. Hiện này
cũng chưa biết chắc Trúc Lâm tịnh xá nằm vào chỗ nào. Trước đây, vùng
này là một vùng hoang dại. Sau khi khảo cứu nhiều tài liệu, Chính phủ Ấn
mới cho rào một khoảng đất khá rộng gần chùa Nhật Bổn và chỗ này được
xem là Trúc Lâm tịnh xá. Trong khu vườn này cây cối được sửa sang ngay
thẳng, hoa lá tươi xanh, có nhiều bụi tre già lớn ở phía trong. Có lẽ vì
thế mà được gọi là Trúc Lâm tịnh xá. Một hồ nhỏ, nước trong xanh,
nghiêng mình soi bóng những hàng cây, được xem là hồ Kalandaka, nơi Ðức
Phật thường tắm. Ngài Huyền Trang có nói đến hồ này trong ký sự. Bên hồ
có một tượng Phật đứng trong một ngôi tháp trống vuông do Chính phủ Ấn
dựng lên để kỷ niệm. Ngài Huyền Trang còn cho biết thêm rằng Trúc Lâm
tịnh xá cách cửa thành phía Bắc độ một dặm. Rất nhiều khóm tre mọc khắp
vùng, đức Phật ở nhiều tháng tại tịnh xá này. Sau đây là một vài bộ kinh
được Phật thuyết tại đây: Mahàkassapa, Mahamoggallana và
Mahacun-dabhojihangasutta. Chính ngài Mục-kiền-liên thệ thế trước tinh
xá sau khi bị ngoại đạo ám sát, và đặc biệt được đức Phật chỉ cho một
chỗ để xây dựng một ngôi tháp thờ Ngài.
Sau khi lễ Phật và dạo quanh hồ, chúng tôi tất cả cùng đến nghỉ mát dưới
một gốc cây. Ðã trưa nhưng chúng tôi chẳng muốn trở về vì không muốn rời
bỏ cảnh sắc thanh tịnh và nhiều đạo vị này.
2. Ngôi nhà đá Pippalaguha
Cơm nước và nghỉ ngơi xong, chúng tôi tiếp tục chương trình vào lúc 2
giờ 30 phút. Chúng tôi đi thẳng lên ngôi nhà đá. Nói rằng ngôi nhà, chứ
thật ra chỉ là một cái nền chung quanh có lan can. Có lẽ trước kia chỉ
là cái nhà gác, nhưng sau có các thầy tu thiền nên trở thành một Thánh
tích. Dưới nền nhà là hang Pippala, mà kinh điển Pali có nói đến. Hang
này nằm về phía Ðông ngọn đồi Vaibhàra. Hang đã mất vẻ thiên nhiên vì bị
chất đá chung quanh, cao độ bốn thước, dài độ 26 thước. Tương truyền
ngài Ca Diếp ở tại hang này và một hôm Ngài đau nặng được đức Phật đến
đây thuyết pháp Thất Bồ Ðề phần. Sau khi nghe thuyết pháp Ngài liền lành
bệnh. Chúng tôi nghỉ lại đây trong vài phút để ngắm toàn cảnh thành
Vương Xá rồi lại tiếp tục leo cấp đê lên động Saptaparni, nơi 500 vị
A-la-hán kết tập kinh điển lần thứ nhất.
3. Nơi kết tập kinh điển
Ðường lên động Saptaparni cao thật là cao, cao và xa hơn đường lên động
Huyền Không (Ngũ Hành Sơn, Ðà Nẵng). Chúng tôi nghỉ chân và uống nước
đến hai lần để lấy thêm sức; thế mà thầy Ghosananda vẫn phải ở lại tại
một ngôi đền Ấn giáo. Trời đã về chiều. Vài con vượn ngồi trên nóc đèn
lặng nhìn cảnh vật trước khi màn đêm buông xuống. Một con lông trắng và
lớn nhảy xuống dọa chúng tôi, những người đến khuấy động chúng.
Hiện nay, động Saptaparni chưa được biết đích xác ở chỗ nào. Vì có hai
thuyết đều được xem là có lý: ông John Marshall cho là một chỗ xa hơn về
phía Bắc; tại đó hiện có một ngôi nhà bằng đá bị đổ nát. Chỗ này xa và
không có đường đi đến. Ông Aurel Stain cho là bốn động về phía ngoài đồi
Vaibhàra, từ ngôi đền Thắng luận sư đi xuống. Cả hai đều là những nhà
khảo cổ trứ danh. Thuyết sau được Viện Bác cổ thừa nhận. Chúng tôi chỉ
đến chỗ sau. Ðây là một dãy rộng, gồm có bốn động nhỏ, không sâu lắm,
đường vào trong gập ghềnh và tối đen. Mỗi động chứa được 40 người, nhưng
phía ngoài có đá lơm chơom bô choài xuống. Vì thế, có người nói rằng
động xưa kia rộng ra đến phía ngoài nhưng nay đã bị sập nên nhỏ như vậy.
Khi trở về, chúng tôi không quên vào xem các ngôi đền Thắng luận sư. Có
một ngôi đền được dựng lên ngay trên nóc Saptaparni. Một vài ngôi khác
được làm sát bên ngôi chùa cũ có những tượng Phật bằng đá vẫn còn gắn
chặt trên tường, nhưng đã bị đập nát mũi, tai, chân, tay. Thật là đau
đớn, buồn tủi cho Thánh địa hoang vắng này. Chúng tôi không hiểu tại sao
người ta lại có thể nhẫn tâm lấn hại Phật giáo, một đạo rất giàu lòng từ
bi.
4. Suối nước nóng
Chúng tôi gấp gáp trở về vì trời đã gần tối, nhưng vì quá mệt mỏi nên
chúng tôi ghé lại suối nước nóng để tắm cho khoẻ. Ðức Phật có nói nhiều
lần về suối này trong khi thuyết pháp. Có lẽ thỉnh thoảng đức Phât cũng
có đến tắm tại suối này. Xưa kia có một ngôi chùa gọi là Tapodàràma gần
suối này. Nay không còn nữa mà chỉ thấy toàn là Ấn giáo, được lập ngay
trên các vòi nước và hồ tắm. Nước vừa nóng chảy từ trong núi ra vừa được
chuyển thành nhiều vòi để cung cấp cho nhiều hồ tắm. Trên mỗi vòi có mộ
tượng thần Ấn giáo. Một hồ nước khá nóng để cho những người tắm có thể
ngâm mình lâu hơn. Nhiều người mắc bệnh ngoài da hoặc bệnh tê thấp đều
đến tắm để chữa bệnh. Mùa đông dân chúng đến tắm rất đông. Ðang mệt mà
tắm thì thấy khoẻ liền. Dựng lên ngôi đền Ấn giáo trên suối nước này, ai
đó đã biết lợi dụng thiên nhiên để lôi cuốn lòng tin của những người
thiếu lý đoán.
Trên đường về chùa Miến Ðiện, chúng tôi định ghé lại thăm chùa Nhật Bản
trong chốc lát thôi. Nhưng rồi hợp cảnh, vui tình, chúng tôi ở lại đây
một đêm. Chùa ở vào một nơi rất thanh tịnh. Tiếng trống công phu hòa với
giọng tụng kinh trầm bổng của các thầy Nhật Bản làm sống lại trong lòng
chúng tôi hình ảnh, âm thanh của những buổi công phu mai chiều ở đất
nước. Ðại đức trụ trì đón tiếp chúng tôi một cách niềm nở. Ở đây chỉ có
hai thầy. Họ thuộc về tông Nhựt Liên. Câu tụng niệm thường xuyên của họ
là câu "Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh". Ðể kỷ niệm nơi đức Phật đã
thuyết kinh Diệu Pháp Liên Hoa, họ làm Chùa tại đây. Hai thầy tu hành
một cách khắc khổ. Trên hai cánh tay của mỗi vị đều có dấu đốt lớn để
cúng dường kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Sau những câu chuyện viếng thăm qua
lại, chúng tôi lên Chánh diện lễ Phật. Ở đây từ tượng Phật cho đến cách
trang trí, cái gì cũng giống Việt Nam. Ðặc biệt là những bình hoa, lơ
thơ đôi cọng hoa rừng xen lẫn trong những lá dâm bụt, nhưng nghệ thuật
làm sao! Chúng tôi tưởng có lẽ tất cả nghệ thuật cắm hoa của Nhật Bản
nằm trọn vẹn trong những bình hoa ấy.
Lễ Phật xong, chúng tôi tất cả đều ngồi nghỉ trên những ghế đá bên cạnh
chùa. Tại đây, chúng tôi gặp một gia đình người Ấn từ Calcutta đến nghỉ
mát đi viếng cảnh. Trong câu chuyện, chúng tôi có hỏi người gia trưởng
tin theo tôn giáo nào. Ông ta trả lời là Ấn giáo. Rồi ông ta bảo Phật
giáo và Ấn giáo không khác nhau. Thật vậy hầu hết người Ấn đều tin tưởng
đức Phật làh hiện thân thứ 9 của thần Shiva. Các đạo sĩ Ấn giáo cũng
thường bảo như vậy. Nhiều đến Ấn giáo có thờ cả tượng Phật chẳng khác gì
những am điện đồng bóng ở nước ta. Ðó là sự "đánh lộn sòng" để làm thỏa
mãn sự đòi hỏi của những người Ấn kính mến đức Phật. Sự việc này, một
phần nào đã làm cho đạo Phật ở Ấn độ suy tàn mau chóng và phục hưng chậm
chạp. Nhưng rồi vì có học thức và hiểu biết sự cao trọng của đức Phật,
người gia trưởng này đã vui lòng để ba con của mình đọc theo ba câu quy
y bằng tiếng Pàli và hứa sẽ dạy lịch sự đức Phật cho chúng.
Vì đi đường và leo núi quá mệt, chúng tôi đi nghỉ sớm hơn thường lệ.
Sáng ra chúng tôi lên đường đi Linh Thứu vào lúc 5 giờ 30. Thời gian hội
ngộ tuy ngắn ngủi. Nhưng tình tiễn biệt của khách và chủ rất đậm đà,
thắm thiết. Nhờ đi xe ngựa nên chúng tôi có đủ thì giờ để hỏi và nghe
giảng về những thành tích phụ:
-
Cách chùa Nhật Bản độ 500 thước, nơi
đường kẽ chỗ hai mỏm núi gần tiếp giáp nhau là nơi đức Phật hàng phục
con voi say của vua A-xa-thế thả ra để hại Phật.
-
Ði độ 300 thước nữa, có một nền đá rộng
dài, nằm dưới chân núi về phía bên phải. Ðó là tiền tu viện của Ngài
Long Thọ (Nagarjuna), một giáo sư của đại học viện Nalanda cũ và cũng
là một luận sư nổi tiếng về Không tôn đã hoằng khai giáo lý Bắc tôn.
-
Xa hơn nữa có một bức tranh cũ bằng đá
dày độ 2 thước. Chỗ này được xem là nơi vua A-xà-thế, vì muốn được làm
vua sớm đã giam vua cha là Tân-bà-ta-la cho đến chết. Trong khi bị
giam tại nhà tù này, Vua Tân-Bà-ta-la thường thấy đức Phật đi đi lại
lại trên núi Linh Thứu. Nhờ thế mà vua bớt được nhiều đau khổ. Người
ta có đào được một vòng sắt để trói tù nhân tại đây. Do đó có thể tin
rằng đây là nhà tù giam vua Tân-bà-ta-la.
-
Gần núi Linh Thức, cách bức thành không
xa, có một nền tinh xá rộng lớn. Ðó là tinh xá của một y sĩ nổi tiếng
tên là Jivaka đã quy y với Phật và nguyện suốt đời chữa bệnh cho Giáo
Hội lúc Phật còn tại thế.
5. Núi Linh Thứu
(Gridhrakùta)
Chiếc xe ngựa dừng ngay trước tam cấp đường lên núi Linh thứu sơn. Ðây
là nơi quan trọng nhất trong các thánh tích ở thành Vương xá. Ðức Phật
thường trú tại đây. Phần nhiều kinh điển Bắc tôn như kinh Pháp Hoa được
đức Phật thuyết tại chỗ này. Vua Tần-bà-ta-la có xây một tam cấp bằng đá
lên tận đỉnh đồi. Ði một chặn đến một tấm bảng đề: "Chỗ này vua
Tần-bà-ta-la xuống kiệu, khi nhà vua lên yết kiến đức Phật". Leo lên độ
vài mươi tầng cấp nuữa, lại có tấm bảng đề: "Chỗ này vua Tần-bà-ta-la
bảo các người hầu cận ở lại để một mình vua lên yết kiến đức Phật". Qua
một khe đá, gần dưới chân những tảng đá cao là nơi Ðề-bà-đạt-đa xô đá
làm Phật bị thương ở chân. Ði lên nữa, rồi quanh qua động của đức A-nan
thì đến ngôi chùa Phật ở. Ngôi chùa hiện đã đổ nát ở ngay trên đỉnh đồi.
Trước đây toàn ngọn đồi đều bị cây cỏ che kín, nay được phá dỡ đi, và
chính phủ Ấn đã sửa sang đường sá nên lên đến đỉnh một cách dễ dàng.
Ngôi chùa chỉ có ba chân tường nhỏ hình vuông trong có một bệ đá nhỏ là
chỗ xưa đức Phật nằm nghỉ, cỏ dại mọc đầy trên nền, nhưng xung quanh rất
sạch sẽ.
Chúng tôi thắp đèn đốt hương, đảnh lễ và tụng kinh tại đây. Chúng tôi
tưởng niệm đến ngài Ðại Thặng Ðăng, một trong những vị tăng sĩ Việt Nam
sang Ấn độ vào thế kỷ thứ 7 đã bỏ mình vì bệnh tại Song lâm và Hòa
thượng Huệ Quang, Phó Hội chủ Tổng Hội Phật giáo Việt Nam, đã nhập diệt
trên đất Phật trong khi dự hội nghị Phật giáo thế giới lần thứ tư, và
cầu nguyện cho Phật giáo nước nhà được hưng thịnh. Ðã ba tháng, tuy có
tụng kinh bằng Pali nhưng hôm nay được chung hòa trong buổi tụng niệm
theo nghi thức quê hương, chúng tôi vui sướng và cảm động khôn xiết.
Tiếng kinh vang động cả mấy ngọn đồi. Mùi hương tỏa dần theo gió sớm.
Ánh bạch lạp lung linh như muốn chan hòa với những tia nắng vàng vừa lên
khỏi núi. Tất cả tạo thành một khung cảnh vừa trang nghiêm vừa mầu
nhiệm!.
Khi tụng niệm câu Nam Mô Lin Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát, một luồng gì
lạnh buốt phát ra từ đỉnh đầu rồi tỏa khắp châu thân làm cho chúng tôi
khoan khoái nhẹ nhàng. Tiếp đến là hai hàng nước mắt tuôn trào không
ngăn chặn được. Bây giờ nhớ lại mới nhận ra là lúc ấy bỗng nhiên một cảm
giác hân hoan tràn ngập tâm hồn vì tự thấy mình như được nghe pháp trong
hội Linh sơn, nhưng rồi sự tủi buồn tiếp đến vì không được thấy Phật và
các vị Thánh hiền đâu nữa.
Lễ Phật xong chúng tôi cùng lùi ra ngồi trên tảng đá lớn nhìn xuống cảnh
vật chung quanh. Càng nhìn càng nhớ lại tất cả công hạnh tu hành, độ
sanh cuả Ðức Phật. Và chúng tôi hiểu rõ vì sao Ðức Phật lựa chỗ này làm
nơi thường trú: hoàn cảnh và địa thế không phải là tất cả thì một phần
nào có thể làm cho tâm tư con người trở nên thế này hay thế khác. Có lên
cao mới thấy rộng, nó vượt ra ngoài những gì thấp kém, ở nơi thoáng đại
hùng vĩ nảy sanh ra được tư tưởng cao siêu huyền diệu. Ðức Phật đã tỏ sự
trùng điệp cũng như một vài cảnh khác trong thành Vương xá. "Vui đẹp
thay thành Vương Xá!. Vui đẹp thay núi Linh Thứu! Vui đẹp thay Trúc Lâm!
Vui đẹp thay Saptaparni! v.v...".
Phải trở về cho kịp chuyến xe đi Bồ-đề Ðạo-tràng, nên chúng tôi từ giả
Linh Thứu trong sự ngậm ngùi, lưu luyến vào lúc 8 giờ.
Trên đường về, chúng tôi thưa với Thượng tọa Minh Châu: "Nếu Phật giáo
chúng ta không xây dựng trên Linh Thứu một ngôi chùa thì không khéo lại
bị ngoại đạo xây đền trên ấy. Hơn nữa, cảnh trí ở đó mà không lập một
thiền viện thì thật quá uổng!".
Thượng tọa Minh Châu cho biết: "Trước đây Ðại đức Kashyap đã có ý định
ấy nhưng chưa thực hiện được. Lý do thứ nhất là vùng Vương Xá không có
nhiều chư Tăng và Phật tử bản xứ. Còn người ngoại quốc thì không đủ sức,
hơn nữa phần nhiều các nước đã xây chùa ở Buddhagaya, Linh Thứu lại quá
xa làng xóm nên chưa có ai đủ can đảm ở luôn trên ấy. Trước đây có một
vị sư Trung Hoa tu thiền tại động đức A-nan hơn một tháng, sau bị đạo
tặc cướp phá nên vị ấy không ở nữa. Tôi và vài thầy ở Nalanda thỉnh
thoảng cũng có lên thiền định và ngủ lại trên ấy!".
Ký sự của Ngài Pháp Hiển
"... Ði về phía Tây độ một do tuần_(1 yojama) sẽ đến thành phố mới của
Vương xá. Thành này do vua A-xà-thế lập ra, giữa thành có hai ngôi chùa.
Ra khỏi cửa thành phía tây sẽ đến một ngọn tháp, do vua A-xà-thế dựng
lên để thờ Xá Lợi đức Phật mà xưa kia vua được chia một phần. Ngọn tháp
này đồ sộ, đẹp đẽ và tôn nghiêm. Ra cửa thành phía nam, đi độ bốn dặm về
phía nam, chúng tôi đến một thung lũng, thung lũng này đưa đến năm ngọn
đồi, năm ngọn này như một bức thành bao bọc một vùng đất rộng, đó là
thành Vương xá cũ của vua A-xà-thế. Thành này rộng từ đông sang tây độ
5, 6 dặm, từ bắc đến nam độ 7, 8 dặm. Chính tại chỗ này ngài Xá lợi Phất
và ngài Mục kiền Liên lần đầu tiên nhận chân được diệu pháp, cũng là chỗ
mà Ni-kiền-đà đào một hố sâu đầy lửa và dâng đồ ăn có thuốc độc cho đức
Phật. Và cũng là chỗ mà con voi say cuồng của vua A-xà-thế chạy đến để
hại đức Phật và được Ðức Phật hàng phục.
Tại góc đông bắc của thành Vương Xá có một ngôi chùa là chỗ Jivaka thỉnh
đức Phật và 1.250 vị Tỳ-kheo đến để kính lễ. Ngôi chùa đó hiện vẫn còn.
Thành phố hoàn toàn vắng, không có người ở. Ði vào trong thung lũng và
đến gần dãy núi độ 15 dặm phía đông nam chúng ta đến núi Linh Thứu. Cách
đỉnh núi độ 3 dặm có một bệ đá, giữa những tảng đá lớn. Ðó là chỗ đức
A-nan ngồi thiền định, xây mặt về hướng nam. Ðộ 30 bước về phía đông bắc
có một hang đá chỗ đức A-nan ngồi thiền định. Lúc bấy giờ có một con quỷ
Pisuna ở cõi trời, biến hình thành con chim kên, đứng trước hang đá và
dọa ngài A-nan. Ðức Phật dùng thần thông mở rộng động đá, cầm tay ngài
A-nan và làm cho ngài A-nan hết sợ hãi. Ðầu con chim và lỗ hổng mà đức
Phật đưa tay qua nắm ngài A-nan nay vẫn còn. Do đó, hòn núi ấy gọi là
ngọn đồi của hang con chim kên. Trước hang này là chỗ ở của bốn đức
Phật. Các vị A-la-hán, mỗi vị đều có một hang giống nhau khi các vị ngồi
thiền định. Số động có đến 700.
Lúc đức Phật đang đi từ phía đông sang phía tây trước nhà đá,
Ðề-bà-đạt-đa, đứng trên mỏm đá phía bắc, lăn một tảng đá xuống và làm
ngón chân đức Phật bị thương, tảng đá ấy hiện còn. Phòng đức Phật giảng
kinh đã đổ nát, chỉ còn lại chân tường gạch. Ðồi này bằng thăng và tôn
nghiêm vì cao hơn tất cả 5 ngọn đồi xung quanh.
Ngài Pháp Hiển sau khi mua hương hoa và đèn dầu tại thành phố mới thuê
hai người đưa đến hang động và núi Linh Thứu. Sau khi dâng hương và hoa
các ngọn đèn tự nhiên sáng to. Pháp Hiển cảm động và buồn đến phát khóc
rồi nói rằng: "Trước kia đức Phật ở tại chỗ này. Chính chỗ này Phật đã
giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm. Pháp Hiển tôi không được thân tiếp Phật
trong khi còn sống, nay chỉ tìm được dấu vết về đời sống của Phật. Tuy
vậy, tự thấy cũng được chút gì vì đã từng đọc kinh Thủ Lăng Nghiêm trước
hang đá này và ở lại đó một đêm ..." (Trích trong tập ký sự của ngài
Pháp Hiển).
Ký sự của Ngài Huyền Trang
"... Ngoài cửa thành Vương xá về phía Bắc có một ngọn tháp. Chính chỗ
này, Ðề-bà-đạt-đa và vua A-xà-thế, sau khi giao hữu với nhau đã đồng mưu
thả con voi say để hại đức Phật. Nhưng Như Lai đã dùng thần thông hóa
năm con sư tử chạy ra, từ năm ngón tay của Ngài; con voi say phải phủ
phục chịu hàng. Phía đông bắc ngọn tháp này lại có một ngọn tháp khác.
Chính là chỗ ngài Xá-lợi-phất nghe vị Tỳ-kheo Asvajit nói pháp và chứng
được quả A-la-hán. Về phía Bắc tháp này có một hố rất sâu, bên cạnh có
một ngọn tháp. Ðây là nơi Srigupta muốn hại Phật bằng cách giấu lửa
trong hố ấy và dùng gạo có tẩm thuốc độc, vì Srigupta tôn sùng ngoại đạo
và say mê theo tà giáo. Về phía đông bắc hố lửa của Srigupta và ở phía
vòng cung của thành phố là một ngọn tháp. Chính tại chỗ này, Jivaka, vị
thầy thuốc trứ danh, đã lập một giảng đường dâng lên đức Phật. Xung
quanh có trồng hoa và vài cây trà. Dấu vết nền tường và rễ cây thối nát
vẫn còn thấy. Ðức Phật khi còn tại thế thường dừng lại đây. Gần giảng
đường này, nhà của Jivaka bị đổ nát và một lỗ giếng cũ vẫn còn.
Phía đông bắc thành Vương xá độ 14, 15 dặm là núi Linh Thứu, trên sườn
núi phía Nam của ngọn núi phương Bắc, có một đỉnh núi rất cao, chim kêu
làm tổ tại đây. Ðỉnh núi này hình dáng nhưi một vọng lâu, màu xanh của
da trời phản chiếu xuống đỉnh núi tạo thành một cảnh sắc tươi hòa êm
dịu.
Trong khoảng 50 năm hoằng dương Chánh pháp đức Như Lai thường ở tại ngọn
núi này và diễn giảng kinh điển thậm thâm vi diệu. Vua Tân-bà-ta-la vì
muốn nghe pháp, thường lên núi với một số tùy tùng. Số người này san
bằng các thung lũng, bắc cầu sang các thác nước và dựng đá làm các bậc
cấp rộng độ 10 bước và dài độ 5, 6 dặm. Nửa đường có hai ngọn tháp nhỏ,
một ngọn gọi là "xuống xe" vì khi vua đến chỗ này thì đi bộ lên núi;
ngọn kia "bảo tùy tùng đi lui", vì vua tách riêng tùy tùng, không cho họ
theo mình. Ngọn núi này dài từ đông qua tây và hẹp từ bắc đến nam. Có
một ngôi chùa bằng gạch, một bên là thung lũng rất sâu về phía tây ngọn
núi. Cửa chùa này hướng về phía đông. Chỗ nay đức Như Lai thường dừng
nghỉ và thuyết pháp. Ngôi chùa cao rộng và rất đẹp. Hiện còn một tượng
Phật tạc Ngài đang thuyết pháp to lớn bằng hình dung thật của Ngài.
Phía đông ngôi chùa là một tảng đá dài, đức Phật thường đi kinh hành
trên ấy để dưỡng sức. Bên cạnh là một hòn đá rất to cao độ 15,15 feet và
độ 30 feet vòng tròn. Chính là chỗ Ðề-bà-đạt-đa xô đá hại Phật.
Về phía nam dưới hang thẳm có một ngọn tháp. Khi đức Như Lai còn tại
thế, Ngài thuyết kinh Saddharma-pundarika (Diệu Pháp Liên Hoa Kinh).
Cũng tại đó phía năm ngôi chùa trên sườn núi có một cái nhà bằng đá:
chính tại chỗ này đức Như Lai thường thiền định. Trước mặt nhà đá về
phía tây bắc có một hòn đá rất lớn hình thù kỳ lạ. Tôn giả A Nan bị quỷ
sứ dọa nạt tại đây. Bên cạnh chùa ấy có nhiều nhà đá khác, đó là chỗ của
ngài Xá Lợi Phất cùng các vị đại A-la-hán nhập định.
Phía đông bắc ngôi chùa, giữa dòng suối chảy trên đá, nổi lên một tảng
đá lớn. Ðó là chỗ đức Như Lai phơi áo Cà sa. Gần đó trên một tảng đá có
dấu chân đức Phật. Dấu hình bánh xe ở ngoài đã lu mờ, như vẫn còn nhận
được. Trên đỉnh dãy núi phía bắc có một ngôi tháp. Từ chỗ đó đức Như Lai
nhìn thấy thành Ma-kiệt-đà; ngài đã thuyết pháp liên tiếp trong 7 ngày
tại đây. Về phía Tây, ở cửa thành phía Bắc có một ngọn núi gọi là
Vipulagiri. Theo tục truyền của dân trong làng thì phía bắc của những kẽ
núi về phía tây nam trước kia có đến 500 suối nước nóng. Nay chỉ còn độ
10 suối, vài suối ấm, vài suối lạnh, nhưng không có suối nào nóng sôi.
Tại miệng các suối nước nóng, có đặt những tảng đá chạm hình sư tử, hoặc
đầu đàn voi trắng. Nhiều chỗ có đặt những ống dẫn nước, nước chảy trong
các ống dẫn nước về phía trên, phía dưới có những hồ nước bằng đá, nước
chảy vào như hồ tắm. Dân chúng các nơi thường đến tắm ở các hồ ấy. Những
ai có bệnh, sau khi tắm có thể lành. Hai bên những suối nước nónt, có
nhiều tháp hoặc chùa đổ nát, không cách xa nhau lắm. Tại những chỗ ấy,
bốn đức Phật quá khứ đều đến tọa thiền hoặc đi kinh hành, và còn để lại
những dấu tích. Những địa điểm này đều được bao bọc bởi những dãy núi,
và có đầy đủ nước dùng, nên những nhà trí thức đến ở, có nhiều vị tu sĩ
Ấn cũng sống trông cảnh thanh tịnh này.
Về phía tây các suối nước nóng là nhà đá Pipala. Trên đỉnh Vipula có một
ngọn tháp. Ðó là chỗ khi xưa đức Phật giảng Chánh pháp. Hiện những người
theo đạo "ở trần" (Nigranthas) thường đến tại chỗ ấy rất đông. Họ tu khổ
hạnh ngày đêm không dừng nghỉ, từ sáng đến chiều tối, họ đi vòng quanh
các ngọn tháp, chiêm ngưỡng rất thành kính.
Phía trái của thành bắc, đi về phương đông, về phía bắc của vực núi phía
nam độ 2, 3 dặm, chúng tôi đến một nhà đá lớn, chính là chỗ xưa kia
Ðề-bà-đạt-đa thiền định.
Từ cửa thành phía bắc đi độ một dặm, chúng tôi đến chùa Karandaveluvana.
Tại đây, nay chỉ còn một nền đá và thành bằng gạch của ngôi chùa xưa.
Phía đông chùa Karandaveluvana có một ngọn tháp. Ngọn tháp này do vua
A-xà-thế lập nên. Sau khi đức Như Lai nhập Niết bàn, các vua chúa phân
chia Xá Lợi. Vua A-xà-thế đem phần của mình về và xây dựng tháp để cúng
dường chiêm bái. Khi Vua A Dục trở thành Phật tử, ngài mở ngọn tháp ấy
lấy Xá Lợi và tự mình dựng lên một ngọn tháp khác. Ngôi tháp này luôn
luôn tỏa ánh sáng rất kỳ diệu. Một bên ngọn tháp của vua A-xà-thế có một
ngọn tháp khác dựng nửa phần Xá lợi của đức A-nan.
Về phía tây nam Trúc-lâm tinh xá độ 5, 6 dặm về phía Bắc của ngọn núi
phía nam có một rừng trúc. Giữa rừng trúc ấy, có một nhà đá rất lớn. Tại
đây, đại đức Ca Diếp với 499 vị A-la-hán, sau khi Ðức Phật nhập Niết Bàn
đã triệu tập một Hội nghị để kết tập Tam tạng.
Phía Tây Bắc chỗ đại đức Ca Diếp triệu tập Hội nghị có một ngọn tháp. Ðó
là chỗ đức A-nan, sau khi bị các đại đức khác không cho dự Hội nghị đến
ngồi một mình im lặng Thiền định và chứng quả A-la-hán. Sau đó Ngài được
mời dự hội nghị.
Từ đó đi về phía Tây độ 20 dặm, có một ngọn tháp do vua A Dục dựng lên.
Ðó là chỗ mà Giáo hội Tăng già họp để kết tập kinh điển. Phía bắc Trúc
Lâm tinh xá đi bộ 200 bước, chúng tôi đến hồ Karanda. Phía tây bắc hồ ấh
độ 2, 3 dặm có một ngọn tháp do vua A Dục dựng lên. Ngọn tháp ấh cao độ
60 feet và trên đỉnh có hình một con voi.
Ði về phía Ðông bắc trụ đá không xa lắm, chúng tôi đến thành Vương xá.
Bức thành ngoài đã bị phá hủy không còn dấu tích gì. Bức thành trong,
mặc dầu bị đổ nát vẫn còn có những chỗ cao hơn đất bằng và độ 20 dặm
vòng tròn.
Tương truyền vua A-xà-thế trước tiên lập thành này, và vị vua kế vị khi
lên ngôi, cũng xem thành ấy là kinh đô, mãi cho đến đời vua A Dục. Vua
này dời đô ra Pataliputra và giao thành Vương xá cho hàng Bà-la-môn. Vì
vây thành Vương xá không còn thấy dân chúng ở, mà chỉ có các nhà
Bà-la-môn ước độ 1000 gia đình ..."
Tập ký sự của ngài Pháp Hiển và ngài Huyền Trang tả rất rõ ràng những
thành tích còn lại ở thành Vương xá. Và sở Bác cổ hiện tại cũng nương
theo hai tập ký sự trên để tìm những chỗ đã được tả một cách kỹ càng như
vậy. Chỉ tiếc hiện nay không còn tất cả những ngôi tháp mà ngài Huyền
Trang đã thuật. Do đó khó tìm ra tất cả những thành tích được tả trong
tập ký sự của hai Ngài.
"Nhạc gió reo vui mừng ngày xuất thế,
Sừng sững oai nghiêm đại tháp Bồ đề.
Trụ biểu muôn đời Ðạo vàng xuất hiện
Ðèn chơn lý sáng ngời thế giới tam thiên".
(Bồ đề Ðạo tràng Thích Ca)
Bồ
đề đạo tràng là địa điểm thứ hai cuộc chiêm bái của chúng tôi.
Chúng tôi vượt qua dãy núi hẹp về phía nam thành Vương xá, hoang vu như
bãi sa mạc, với sự tranh sống nung nấu trong lòng. Nay quang cảnh giống
như bóng rừng canh mát mà xưa kia những đại đức tu nhiều đã tụng vang
lên những thánh thư cao đẹp trong tập Theragàthà, Therigàthà. Xứ Bihar
này toàn là một màu xanh lá mạ, mọi vật đều sôi sục với nhựa sống, một
nhu cầu cấp thiết, một nạn dịch, mùa ruộng lúa trảy hạt, đồng quê nhen
nhúc sâu bọ và con nít. Tất cả mọi vật đều đến mức quá độ, trước hết là
một sự nghèo đói cùng khắp, một sự nghèo đói tuyệt vọg. Mưa đã biến cảnh
hoang vu khô khan của đồng ruộng trở thành những biển lúa gợn sóng xanh
mát, nhưng các luống cày đã thấm đầy nước mắt của những kẻ ưu sầu khốn
khổ. Thường năm xảy ra những nạn lụt ghê hồn, tiếp theo là những nạn
dịch rùng rợn. Chúng tôi đi ngang nhiều làng mạc nhen nhúc những người
và người. Dân làng xứ Bihar có thân hình nhỏ bé, xương xóc; phần lớn
thiếu ăn, và sự thái quá của thời tiết đang in dấu tang thương trên
gương mặt mọi người.
Ngang qua sông Ni-liên-thiền (Neranjara) nước mưa dâng lên làm cho sông
lớn và rộng. Buổi chiều hiện ra, rực rỡ những màu sắc, ngăn khoảng bởi
dãy đồi thon nhỏ đen xám của xứ Brahmayoni. Gaya là cả một đám bùn và
gạch màu nâu sẫm; nào là đền thờ Hồi Giáo, nào là đầm nước nhớp rỉ chảy
những đợt hương thơm bay lên, những đám khói cuồn cuộn nổi dậy từ những
đám lửa cứt bò. Làm sao tả được sự ồn ào náo nhiệt của những tiếng còi
nhà máy, chuông rung, máy radio la hét, khoe khoang nịnh hót, than vãn,
cả một sự hỗn tập, nhen nhúc, đầy tràn, sôi sục những chủng loại, tin
tưởng và giai cấp, hận thù, tự mãn, điên dại, tàn phá, héo mòn, đau khổ,
nghèo đói và van xin.
Con đường đi đến Bồ Ðề Ðạo-tràng chạy dọc theo sông Ni-liên-thiền. Càng
tới gần thánh địa, sự an ninh càng tăng dần. Một làn gió nhẹ mát dịu
chạy lướt trên mặt sông. Những rừng cây Pipal thanh vắng, làm tăng thêm
sự điều hòa, yên tĩnh. Cả vùng hình như chưa bỏ mất cảnh tĩnh mịch êm
đẹp của thời xưa, cảnh tĩnh mịch mà các tu sĩ thời quá khứ ưa thích. Cho
đến nay sự ồn ào của làng Buddhagaya cũng không thể làm rộn được con
đường thanh tịnh đến cây Bồ đề. Chính là con đường mà xưa kia nhà ẩn sĩ
nhiệt thành Siddhartha Gautama từ núi Dungsiri, một ngọn núi khô khan và
như một lò lửa trong tháng mùa hè, bên kia bờ sông, đã đặt chân lên đê
đi lần đầu đến địa vị Phật Như Lai.
Sáng sớm cùng đi với chúng tôi có thêm đại đức Sukitti, người Thái ở tại
Bồ đề Ðạo-tràng. Chúng tôi ra đi và hướng về núi Dungsiri (Khổ hạnh
lâm). Chúng tôi cũng tập theo một vài khổ hạnh nhè nhẹ để cho những cảm
giác linh hoạt thâu nhận trên đường đi được sâu đậm hơn. Lội ngang qua
sông Ni-liên-thiền, là sự thử thách đầu tiên. Sông sâu và nước chảy
mạnh. Áo quần ướt tơi tả. Lắm lúc chúng tôi như bị nước cuốn trôi đi.
Vượt qua được dòng sông, trong lúc trời đổ mưa, là một điều hơi gian khổ
đối với chúng tôi, nhứt là Thượng tọa Minh Châu thấp người hơn cả. Băng
qua những đồng ruộng và làng mạc, đôi lúc chúng tôi phải vượt những vũng
bùn lầy lội, những suối nước đục ngầu. Các làng mạc và đường đi lần lượt
bị bỏ lại phía sau. Dốc leo đứng và cao. Ðá lớn rải rác khắp nơi. Những
rặng núi răng cưa, những tảng đá trơn tru là những tiêu biểu cho một chí
khí nhiệt thành, chân thật, quyết tiến trên con đường đạo hạnh: "Ðừng
thối chí, hãy tiến tới!". Một tu sĩ kiêm thi sĩ Tây Tạng luôn mặc áo
cải. Ngài Milarepa, hát lên rằng:
"Trên núi có con đường bằng đá, chỗ đó người có thể đánh đổi sự luân hồi
hỗn loạn với hạnh phúc thanh tịnh vô biên".
Ngang sườn núi, một ngôi chùa Tây Tạng nhỏ được treo như tổ chim én. Ba
vị Lạt-ma, thuộc phái của đại đức giữ giới, đang chạm vài chi tiết cho
một khám thờ. Toàn cảnh chùa Tây Tạng với những lá cờ có in kinh chú
bằng chữ vàng, các băng khắc Om Mani Padme Hum. Những mái thếp vàng,
những lò lửa quét vôi trắng để đốt trầm hương, tràn đầy không khí giải
thoát, khinh khoái. Trước mái hiên, có trải tấm đệm để ngồi thiền; và
trước mặt là những cành hoa cẩm chướng tươi nở; chính đức Bồ tát đã tu
khổ hạnh ở chỗ này.
Chúng tôi bò vào cái hang khá rộng, chỗ đức Phật trú ẩn trong khi tu khổ
hạnh. Hang này nay đã biến thành một khám thờ trạm trổ theo kiểu Tây
Tạng làm tăng thêm vẻ đẹp của cảnh tĩnh mịch của núi rừng. Giọng tụng
kinh đầy đạo vị và nhịp nhàng của các đại đức Việt Nam gây cho tôi một
niềm cảm xúc thanh tịnh. Một vị thiền sư quá khích có thể cho khám thờ
và tụng kinh là một sự xa xa chăng?
Tuy nhiên đức Bồ Tát đã từ bỏ hang khổ hạnh này.
"Ðã lâu quá quen quán tưởng pháp vô sanh, vô diêt, vô trú, tôi quên tất
cả định nghĩa của mục đích này hay mục đích khác. Ðã lâu quá quen quán
tưởng các sắc pháp là pháp thân, tôi quên tất cả sự quán tưởng do tâm
tạo tác. Ðã lâu quá quen trầm tưởng trên cành vô vi giải thoát, tôi quên
mọi phương tiện tập quán tục lệ, thường tịnh. Ðã lâu quá quen sự từ tốn
khiêm nhường cả thân lẫn trí, tôi quên sự tự phụ và hãnh diện qua các
bậc anh hùng vĩ đại (Milarepa: Jetsun Khbun)" ... và ngài từ từ tiến đến
cây Bồ Ðề.
Lễ Phật tụng kinh dưới gốc Bồ đề là một kỷ niệm thiêng liêng của tôi.
Biết bao nhiêu lần sự lễ Phật chỉ là một cử chỉ, một thủ tục, một tập
quán tình cảm, và dầu có ý nghĩa diễn đạt các thứ bực tu chứng cũng
không vượt quá mức... Lễ Phật dưới gốc Bồ Ðề, và các ngọn nến mới lại
được thắp đi thắp lại: khói nhang Tích Lan bao phủ toàn ngôi tháp, hàng
ngàn ngọn đèn dầu lạc hòa hợp với ánh sáng của những ngọn đèn điện mà
chư Thượng tọa, Ðại đức Việt Nam xin thắp để cầu nguyện cho Phật giáo
Việt Nam được phục hưng mau chóng, làm cho toàn thánh địa rực rỡ và vui
vẻ hẳn lên. Giọng trầm hùng của các vị Lạt-ma khuyến lệ đạo tâm. Tiếng
tụng kinh Thái cũng tương tự. Nhưng giọng kinh Việt Nam có nhiều đạo vị
và thi tứ đặc biệt khiến cho người nghe hình dung như sau:
"Trầm bổng xuống lên như một ngọn trúc mềm mại, phấn khởi trước làn gió
nhẹ của mùa xuân". Ðạo Phật phải luôn luôn mới lạ, tươi trẻ, kích thích,
phấn khởi, giải thoát vượt ngoài duy tâm và duy vật. Lễ Phật với ý nghĩa
cao đẹp nhất phải là một sự phối hợp giữa trí tuệ và phương tiện, một sự
cố gắng bền bĩ để đi đến bờ bên kia, một sự kiểm soát và suy niệm liên
tục, một sự chính xác khoa học và một thứ trực giác họa sĩ, và cuối cùng
là vượt qua tất cả. Chúng ta hãy ngồi xuống dưới gốc cây đặc biệt nhất
trong tất cả các cây; sau đó là Kim Cang tòa, khám thờ của tháp Ma-ha Bồ
đề, một tượng Phật Thích Ca thếp vàng với nụ cười giải thoát, không có
tôn kính, không có lễ nghi, không có lời tán vô ích.
"Từ Chánh pháp chúng ta phải thấy Ðức Phật.
Từ Pháp thân, chúng ta thấy con đường chỉ đạo của các Ngài.
Tuy vậy chơn tánh của pháp không thể phân biệt được, và không thể nhận
thức được như một đối tượng" (E. Conze dịch).
Một ngày mới. Chúng tôi đi về phía nam, dưới những hàng cây hàng to lớn,
dọc theo sông ni-liên-thiền. Bên kia bờ sông, Dungsiri mờ mờ trong sương
mù của buổi bình minh, giống như động Lô sơn, chỗ tu thiền danh tiếng
của các tu sĩ thiền sư đời Tống, đời Trần. Chúng tôi đi ngang qua những
cánh đồng còn đẫm sương, và đây rồi một đầm nhỏ đầy bèo xanh, báo hiệu
cho chúng ta biết đã đến hồ mucalinda. Ở đây, đức Từ phụ, khi trời giông
tố mưa rào, đã vượt qua 7 từng Thiền định như thần rắn quấn tròn quanh
Ngài. Trời đã về thu, thật thi vị và khoan khoái, buổi sáng tươi mát và
ấm áp này: "Khoan khoái thay chỗ này". Kinh Pali đã chép như vậy. Những
suối nhỏ quanh co rỉ chảy đến hồ Micalinda. Các đồng ruộng thấm nhuần
nước tưới và dân làng cũng có vẻ lạc quan hơn nhiều.
Chúng tôi lội qua con sông và đến chỗ đức Giác Ngộ đã nghỉ ngơi tại nhà
hàng Sujata (Tu-xà-đa). Một ụ đất có thể có một ngọn tháp ở dưới - được
xem là nông trại lúc trước của Sujata người đã dâng sữa cho đức Thích
Ca, khi Ngài từ động Dungsiri trở về.
Buổi chiều chúng tôi đi thăm một ngôi chùa Trung Hoa nhỏ của phái Tịnh
Ðộ. Vị Ni cô già và can đảm đã tiếp đón chúng tôi rất nồng hậu. Vị nay
đã sống ở đây rất lâu, nhẫn nại, khiêm nhường, tín thành và từ ái. Sự
yên lặng thật cảm động!
Gần đó là một ngôi chùa Tây Tạng của phái Geluppas, thông thường được
gọi là phái "mũ vàng". Ðã có nhiều sách viết về "xứ sở bí mật" này, phần
lớn rất xuyên tạc, mù mờ, vì nhìn qua sự mờ ám và kích động của thần bí
học. Từ khi những người tị nạn Tây Tạng qua Ấn độ và hiện cũng vẫn còn
người qua, thì phái Vajrayàma (Kim Cang thừa) cua Nalanda ở thời đại
Pàla được phục hưng lại theo truyền thông Tây Tạng. Chúng tôi được một
dịp may mắn tìm hiểu về Lạt-ma giáo. Chùa Tây Tạng ở Bồ đề Ðạo tràng có
một bánh xe Chánh pháp khổng lồ. Các bích họa, chung quanh, dầu cho hoàn
toàn mới... hình như thuộc về một thế giới khác lạ. Cảm giác kinh hãi
lại được tăng thêm, khi chúng ta lên tầng lầu trên và bước vào điện thờ
Phật. Ban đầu người ta có một cảm giác bối rối, lúng túng. Ðiện Phật
trông như cả một ổ tơ vò lộn xộn những hình ảnh, họa phàm và những vật
dụng kỳ dị. Nhưng khi ngồi yên tĩnh được một lúc, dần dần mới nhận ra là
cả một hệ thống tinh thần đặc biệt điều hòa. Tấm Tankha quan trọng nhất
có vẽ bánh xe luân hồi. Những màu sắc rực rỡ không làm chóa mắt, và hình
vẽ theo một hệ thống cổ truyền chánh tông tỷ mỷ trong từng chi tiết để
đạt được những kết quả mong ước. Sự phức tạp của hình vẽ tượng trưng cho
sự rắc rối lộn xộn của đời sống luân hồi; con đường đưa đến giải thoát
và hình ảnh thuyết pháp, truyền đạo là cả một hệ thống hình học phân
minh.
Ở trong trục bánh xe có vẽ một con gà, một con rắn và một con heo tượng
trưng cho tham, sân, si. Con vật này cắn đuôi con kia và làm thành một
con hình tròn vô tận. Vòng tròn xung quanh trục xe chia làm hai phần,
đen và trắng, tượng trưng cho Karma hay nghiệp, một phần hướng thượng,
đưa lên cõi trời, thiện đạo: Một phần hướng hạ, đưa xuống địa ngục, ác
đạo. Những ai tạo các thiện nghiệp sẽ được đưa vào phần hình trắng phía
trên, còn những người tạo nghiệp ác thời bị đưa vào phần đen ở dưới.
Khoang giữa hai phần đen trắng và vành bánh xe được chia thành 6 phần.
Phần trên, phía giữa (đã được nói đến) diễn tả những cõi hạnh phúc,
thanh khiết của chư thiên sáng chói; phía tay trái cõi chư thiên là thế
giới loài người của chúng ta; phía tay phải là hình ảnh của các A-tu-la
dữ tợn, đang cố gắng cọng phá các vị thiên thần. Ba phần ở dưới, phần
giữa ta những cảnh tra tấn khủng khiếp ở địa ngục một bên là lửa đỏ rực,
một bên là dòng nước xoáy kinh khủng; phía tay mặt là những ngạ quỉ, với
những cổ họng rất bé; phía trái tả cảnh giới khổ đau của súc sanh.
Cái vành xe chia thành 12 khoang diễn đạt lý Duyên khởi; một ngưòi đàn
bà mù chỉ cho Vô minh (Avijjà); một người làm đồ gốm đang nhồi đất sét
chi cho Hành (Sankhàra), một con vượn đang cầm cái ghế cái chậu chỉ cho
Thức "Vinnàna": danh sắc (Nàmarùpa) là người trong một chiếc thuyền: một
cái nhà với 6 cửa sổ là Lục nhập (Sàlàyàtana); một cặp trai gái ôm nhau
chỉ cho Xúc (Phasso); Thọ (Vedana) là một người rút ra mũi tên đâm vào
mắt: một kẻ nghiện rượu liên miên, chỉ cho Ái (Tanhà); Thủ (Upadana) là
một con khỉ đang hái trái cây; một hình ảnh hành dâm là Sanh (Jàti); Lão
(Jarà) là một người chống gậy; Tử (Maranam) là một số người đang mang
thây chết, cũng vừa chỉ cho sự tiếp diễn của sự sống đưa đến một đời
khác. Một con quái vật rùng rợn, Ma vương (Mara) đang cắn chặt toàn bánh
xe trong răng nanh cuả nó và luôn luôn quay bánh xe ấy chạy tròn với
móng vuốt của 2 tay và 2 chân. Phía mặt, góc bên trái đức Thích Ca đứng
thẳng, cao xa, đưa tay chi Ma vương và bánh xe.
Nhiều bức họa (Tankhas) bao phủ các bức tường với những ác quỉ ghê gớm,
khát máu, đần độn với những tiếng cười kinh khủng, chế nhạo và yêu quái,
những vị tìm đạo giải thoát nhiệt thành thường dùng những bức họa tâm lý
vũ trụ này; đối với những vị sư này tự ngã chỉ là sự đần độn như ma
quái. Cả tiềm thức là một thự thể rộng lớn khó hiểu. Cả tiềm thức là một
thực thể rộng lớn khó hiểu, chưa được khám phá, nguy hiểm. Thực thể này
trở thành ý thức khi bị tác động. Các Tankhas là những công thức tâm lý
cho người tu thiền quán tưởng, một phương tiện để nhận thức chứng ngộ và
kiểm soát các sự phẩn nộ bùng phát dục tình. Các Tankhas khác trình bày
hình người, tượng trưng cho Bá nhã Ba-la-mật-đa (Prajnàpàramita), đang
múa cây gươm trí tuệ, chặt đứt vô minh, một trí tuệ đưa người đến bờ bên
kia. Chính giữa điện thờ là hình ảnh đấng Ðại Từ bi Di-lặc (Maitreya),
được cúng dường những Haddakhi (những khăn quàng trắng), các tua khăn đã
nhầu úa.
Phải chăng những yếu điểm của phái Ðại thừa Kim Cang tương phản với giáo
lý của phái Thượng tọa bộ mà buổi sáng và buổi chiều các đại đức Thái
Lan đã tụng bằng tiếng Pali nói rõ sự vô ngã của 5 uẩn? Chính ở ngôi
chùa Thái cũng vang dậy những bài kệ về lý 12 nhân duyên, diễn đạt không
tánh của vạn vật.
Ðêm cuối cùng ở Bồ đề Ðạo-tràng, tại tháp Ðại Bồ-đề, gần những cột đá,
chỗ đức Phật đi kinh hành, chúng tôi vái chào một vị Lạt-ma già những có
vẻ mặt rất thông minh. Vị này đến với chúng tôi một cách nhún nhường và
chúng tôi học được cách chào của các tu sĩ Tây tạng; người này đụng trán
người kia. Vị Lạt-ma ấy tỏa ra một cảm tình nồng hậu đến nỗi chúng tôi
cảm ngay là chúng tôi cùng họ là bạn tốt với nhau đã lâu, tuy mới gặp
nhau lần đầu tiên, trước đây một phút thôi. Vị Rimpotche tiếp tục đi
kinh hành; một lần nữa chúng tôi suy nghĩ đến lối kiến trúc của ngôi
tháp Ðại Bồ đề; lối kiến trúc này đã biểu lộ nhựa sống của sự giác ngộ.
Bên trong có rất nhiều những khám thờ và tượng Phật. Những vòm cầu đục
trong đá với những đường nét giản dị nói lên ảnh hưởng cuả tiểu thừa. Ở
đây hai vị Tỳ-kheo đang ngồi tu thiền thanh tịnh trang nghiêm. Ðàng kia
vị Lạt ma Rimpotche Tây Tạng của chúng ta và một Ðại đức người Thái đã
già, dễ thương, đã đi bộ trên con đường dài đằng đẵng từ Thái Lan đến Ấn
Ðộ, chỉ với một bình bát để sinh sống không cần đụng đến một đồng tiền.
Giống tình trạng của thời xưa, giặc cướp đã tấn công Ðại Ðức, Ðại đức đã
trải qua biết bao gian lao nguy hiểm trong rừng rậm và núi sâu. Tuy vậy
gương mặt của Ðại đức bao giờ cũng nở một nụ cười phóng khoáng cũng như
nụ cười của vị Rimpotche, vị này rất có thể đã phải trải qua những nơi
gian lao tương tự trên "nóc nhà tuyết phủ của thế giới".
"Có một con đường bằng đá, chỗ đó người có thể đánh đổi sự luân hồi hỗn
loạn với hạnh phúc thanh tịnh vô biên".
Chúng tôi bắt đầu đi đến Ba-la-nại nhưng chúng tôi không thể nào quên
được Bồ đề Ðạo-tràng, một tượng trưng phấn khởi của sự giác ngộ vô
thượng, một sự kêu gọi toàn thể Phật tử đại đoàn kết, và hơn nữa một Ðại
nguyện Bồ tát. Song song với cây Bồ Ðề là nụ cười của tượng Phật thếp
vàng.
Phần lịch sử
Ðối với Phật tử, lịch sử của Bồ đề Ðạo tràng bắt đầu từ khi Thái Tử Tất
Ðạt đa tu khổ hạnh tại Uruvela và sau khi đức Phật thành Ðạo dưới cây Bồ
đề. Toàn thể Phật tử trên thế giới tự nhiên xem Bồ đề Ðạo tràng là một
thành tích quan trọng bậc nhất. Và vì vậy trong suốt hơn 2500 năm Phật
tử khắp các nước nô nức đến chiêm bai cùng sửa sang Bồ đề Ðạo tràng, mãi
đến ngày nay cũng vậy.
Chính vua A Dục cũng đến chiêm bái chỗ này nhiều lần, và cuộc chiêm bái
của Ngài được khắc vào đá kỷ niệm, hiện còn giữ tại Sanchi. Rất có thể
chính vua A Dục đã lập ra ngôi tháp này nhưng tiếc thiếu bia ký để chứng
thật. Có lẽ vì các vua sau Ngài cũng dựng lên tháp để kỷ niệm, thành thử
công nghiệp của vua A Dục bị quên dần. Và cũng rất có thể đền, tháp dựng
lên đã bị vua Sasanka phá huỷ. Vua này rất thù nghịch với Phật giáo.
Muốn hiểu lịch sử Bồ đề Ðạo tràng, cần phải tìm lại những tài liệu của
ngài Pháp Hiển và ngài Huyền Trang. Dựa theo tài liệu ấy chúng ta có thể
đoán chắc là ngôi tháp hiện tại được lập vào khoảng thế kỷ thứ hai sau
Tây lịch.
Ngài Pháp Hiển đến thăm Bồ đề Ðạo tràng vào năm 409 sau Tây lịch, viết:
"Tại chỗ đức Phật thành đạo có 3 ngôi tháp và nhiều vị sư tu hành. Gia
đình dân chúng xung quanh cúng dường các thức ăn, mặc, rất đầy đủ, không
thiếu thứ gì. Các vị sư giữ giới luật rất thanh tịnh trang nghiêm". (Ký
sự Fa-hsien của James Legge trang 89, 90).
Ngài Huyền Trang chiêm bái Bồ đề Ðạo tràng vào năm 637, viết rằng về
phía Ðông cây Bồ đề, có một tháp cao chừng 52 thước, nền tháp độ 20
thước vuông, tường bằng gạch xanh, trét vôi chu nam: các khám tượng của
mỗi tầng đều thếp vàng. Bốn mặt tường đều đầy những tượng khắc rất đẹp;
chỗ này là hình ảnh những chuỗi ngọc dài, chỗ kia những vị tiên. Ngọn
tháp là một trái Amlak bằng đồng thếp vàng. Mặt phía đông, có một tòa
lầu 3 tầng và các mái hiên, cột trụ và cột nhà cùng cửa lớn và cửa sổ
đều được trang hoàng với những ảnh tưởng bằng vàng hay bạc, với ngọc ngà
đính vào tượng và các kẽ hở. Những phòng âm u và những dãy hành lang bí
mật đều có cửa mở vào trong những tầng lầu. Về phía mặt và phía trái đều
có tượng đức Bồ tát Quan thế âm và tượng đức Bồ Tát Di-lặc. Nhưng tượng
này đều bằng bạc và cao độ 3 thước tây. Tại chỗ tháp hiện tại, vua A Dục
ban đầu có lập một ngôi chùa nhỏ, về sau có một người Bà-la-môn lập lại
một ngôi khác to rộng hơn nhiều (Beal's Hsuan-Tsang. Tập 11 trang 118,
119).
Theo ông Alexander Cunningham, ngọn tháp mà ngài Huyền Trang miêu tả
chính là ngọn tháp hiện tại, không còn nghi ngờ gì nữa, dầu có sửa chữa
và thay đổi. (Cunningham's Maha Bodhi, trang 18).
Dầu chúng ta không tìm thấy một lịch sử liên tục về Bồ đề Ðạo tràng
trong thời cổ nhưng những tài liệu tìm được cũng chứng tỏ ngôi tháp đó
là của Phật tử xây dựng, cho đến khi giặc Hồi giáo chiếm cứ vào khoảng
thế kỷ thứ 19 sau T.L. Và tất cả những sự sửa sang thay đổi, không những
chỉ do Phật tử Ấn Ðộ đảm nhận, mà Phật tử Tích Lan, Miến điện và các
nước khác cũng có dự phần. Như vậy, Bồ đề Ðạo tràng không phải là của
riêng một tôn phái nào mà chính là thánh tích công cộng của Phật tử thế
giới.
Theo lịch sử, Tích Lan có liên quan với Bồ đề Ðạo tràng từ khi vua A Dục
cử đại đức Sanghamitta qua Tích Lan với một nhánh Bồ đề. Và vua
Meghavana có lập một ngôi chùa tại Bồ đề Ðạo tràng vào năm 330 để các vị
tu hành Tích Lan và khách thập phương đến chiêm bai. Vào khoảng năm 1079
Phật tử Miến Ðiện sửa sang lại cả ngôi tháp và dãy tường bao bọc chung
quanh. Một vị Tỳ kheo tên là Dham Marakkhita vào năm 1100-1200 có trùng
tu lại và phí tổn đều do vua Asokamala, vua xứ Sapadalaksha chịu. Ðến
năm 1298, Phật tử Miến điện lại trùng tu chỗ ấy một lần nữa.
Một bia đề năm 1202 được tìm thấy tại Janibigha ở Bihar có chép một làng
được dành riêng để tu bổ và cúng lễ Kim Cang tòa tại Bồ đề Ðạo tràng và
làng ấy do vị Tỳ kheo Mangalaswami người Tích Lan quản lý.
Những tài liệu trên chứng tỏ ít nhất cho đến thể kỷ thứ 12 sau Tây lịch,
Bồ đề Ðạo tràng còn thuộc về hoặc Phật tử Tích Lan, hoặc Phật Tử Ấn độ
và chỉ khi quân Hồi giáo đến chiếm cứ, Bồ đề Ðạo tràng mới bị bỏ hoang,
không người chăm sóc cho đến khi ông Mahant đến tại chỗ này.
Vào khoảng năm 1590 một vị tu hanh người Ấn tên Gosin Ghamandi Gir đến
tại làng Buddhagaya. Vì mến cảnh thanh tịnh ông đã quyết định chọn chỗ
ấy làm nơi trú ẩn lâu dài. Ông dựng một ngôi đền nhỏ gần nơi tháp chính
và tụ họp được một số đệ tử. Theo thời gian, ngôi đền ấy càng được hưng
thịnh. Trải qua một vài trăm năm trở thành Math (đền nhỏ). Ông Mahant
hiện tại là người kế vị thứ 13 từ ông Ghamandi Gir. Chính trong đời ông
Mahani Lal Gir mà Math của ông Mahant được mở rộng thêm ra. Làng
Mittipur Taradih đều được vua Hồi giáo ở Delhi cho ông ta. Nhưng nên để
ý rằng không gì làm chứng là ông Mahant có quyền sở hữu về ngôi tháp, vì
khi ấy ngôi tháp bị đổ nát, không ai sửa chữa lại.
Ðến năm 1811, quốc vương Miến Ðiện đến chiêm bái và sau vua Ava cứ hai
đại biểu đến tìm lại Bồ đề Ðạo tràng cùng các thánh tích kế cận, nhờ các
kinh sách Phật giáo.
Bác sĩ Buchannan Hamilton nha khoa có chức danh đến thăm Buddhagaya vào
năm 1812. Ông thấy ngôi tháp chính hoàn toàn hoang phế và rõ ràng ông
Mahant không để ý gì đến tháp Maha Bodhi.
Ðến năm 1833, vị Ðại sứ Miến Ðiện tên là Mengy Maha Chesu cùng với tùy
tùng đến thăm Bồ đề Ðạo tràng. Ông tìm được một bia khắc tiếng Pali bằng
chữ Miến Ðiện tại chỗ ấy. Dưới đây là bản dịch: "Ðây là một trong số
84.000 ngôi tháp do vua A Dục, vua cõi Diêm Phù Ðề dựng lên để kỷ niệm
nơi Ngài thành đạo sau khi đã dùng sữa và mật ong vào khoảng 218 năm sau
khi Ngài nhập Niết Bàn (326 trước T.L)". Theo thời gian ngôi tháp đó bị
đổ nát và được một vị tu sĩ tên là Nai-kamahanta trùng tu, rồi bị đổ
nát, rồi lại được vua Sadomang trùng tu. Sau một thời gian cũng lại bị
đổ nát cho đến khi vua Sewpyu Sakhetaramangyi cử vị sư phụ của mình tên
là Dhammarajagune quản đốc công việc tu bổ ngôi tháp ấy. Vị này cùng với
đệ tử tên là Kasyapa bắt đầu trùng tu ngôi tháp, nhưng không thể hoàn
thành, dầu được nhà vua giúp đỡ rất nhiều. Về sau đại đức Varadasi Naik
yêu cầu vua tự đứng lên quản đốc. Vua bằng lòng và cử Thái Tử Pyusa
Kheng và vị Bộ Trưởng tên Ratha đến trùng tu. Như vậy, ngôi tháp được
sửa lại lần thứ tư, và đến ngày thứ sáu tháng 10 lịch Pyadola, năm thứ
667 đời vua Sakharaja (1306 sau T.L) thì hoàn thành. Lễ khánh thành cử
hành rất long trọng, trong lễ có cúng dường thức ăn, hương đèn, danh
mộc; Kalpa Virikha và người nghèo cũng được bố thí như con vua vậy. Như
vậy lễ khánh thành được cử hành với nhiều công tác từ thiện. Công đức ấy
là những phần thưởng vĩnh viễn cho những vị trùng tu. Họ sẽ được sống
trong danh vọng an hưởng Niết bàn tịnh lạc và trở thành A-la-hán trong
đời Ðức Phật vị lai, đức Di lặc.
Ðến năm 1874, một vua Miến Ðiện cử một phái đoàn đến yết kiến chánh phủ
Ấn với nhiều tặng vật quí giá cho cây Bồ đề và yêu cầu Chánh phủ giúp đỡ
cho những vị đại biểu thay mặt chiêm bái thánh tích này. Vua cũng nêu rõ
ý muốn sửa sang lại chung quanh cây Bồ đề và cử đại biểu ở luôn gần cây
ấy. Vua Miến Ðiện cũng mong mỗi năm, một hay hai lần, dân chúng Miến
Ðiện được phép đến cúng dường cây Bồ đề. Lời yêu cầu của vua Miến Ðiện
được gởi đến cho ông Mahant và ông này chấp thuận. Liền sau đó, các đại
biểu đến chiêm bái và tường thuật cho vua Miến Ðiện. Giá tiền và bảo vật
bằng vàng, bạc, trị giá đến 60.000Rs (độ 900.000 đồng V.N). Vua Miến
Ðiện bảo ông Mahant phải dựng một ngôi tháp Paribhoga để cất các vật
châu báu ấy, do vua chịu phí tổn, nhưng ông Mahant lại lấy làm của
riêng.
Sau khi phái đoàn về đến Miến Ðiện, bộ Ngoại giao Miến Ðiện có gởi cho
ông Toàn quyền vào ngày 18 tháng 8 năm 1875 yêu cầu được phép sửa sang
chung quanh cây Bồ đề, trùng tu ngôi tháp do vua A Dục lập nên, xây bức
tường để đỡ một nhánh Bồ Ðề, phía tay mặt, sửa tất cả những đền đài đổ
nát trong phạm vi cây Bồ đề, lập gần câ Bồ Ðề một ngôi chùa có thể trú
được độ 20 vị tu hành., để hành lễ như thắp đèn, cúng dường hoa và nước,
xây một bức tường bao chung quanh ngôi chùa ấy, thuê người ở tại chỗ để
giữ gìn và cung cấp vật dụng cho chùa; lập một tháp Paribhoga để cất
những vật do vua cúng dường. Ông Mahant thỏa thuận để công việc trùng tu
được tiến hành, và vua Miến Ðiện đã chi phí một số tiền khá lớn trong
việc này. Nhưng công việc làm không được tiến hành một cách khả quan.
Sau Chính phủ Ấn phải cử ông Alexander Cunningham và Bác sĩ Rajentralal
Mitra quản đốc việc tu bổ. Trong khi ấy, chiến tranh giữa nước Anh và
Miến Ðiện bùng nổ. Do đó, việc trùng tu ngôi tháp đáng lý dưới quyền
quản đốc của đại biểu vua Miến Ðiện lại đặt dưới quyền ông Mahant và
Chính Phủ Ấn.
Chính phủ tiếp tục sửa chữa ngôi tháp chi phí đến 100.000 Rs (độ
1.500.000 đồng VN). Tất cả được sửa chữa xong. Chính phủ cử ông Maddox
quản đốc, một tháng phải đến thăm một lần, để xem những gì ngôi tháp ấy
cho Phật tử. Ông cũng viết thư cho các nước Phật giáo, yêu cầu để tâm
đến vấn đề này. Lời yêu gọi của ông không được một ai hưởng ứng, cho đến
khi Ngài Anagrika Dharmapala tự đứng lên đảm nhận trọng trách ấy vào năm
1891. Thật là một ngày lịch sử khi ngài Dharmapala đến tại Bồ đề Ðạo
tràng và đảnh lễ cây Bồ đề tôn quí, vào ngày 21 tháng 1 năm 1891. Ngài
Dharmaplala chép trong nhật ký như sau: "Tôi đến với ông Durga Babu và
Bác sĩ Chetteijee tại Budhagaya, nơi tôn quí nhất của Phật tử. Sau khi
đi độ 6 dặm Anh, chúng tôi đến tại thánh tích. Trong khoảng một dặm Anh,
chúng tôi có thể thấy những tượng của đức Từ phụ chúng ta lăn lóc chỗ
này chỗ kia. Tại ngôi đền của ông Mahant hai bên cửa có những tượng Thế
Tôn đang thiền định hay đang thuyết pháp. Ôi! Tôn nghiêm làm sao ngôi
tháp quí báu này! . Ðức Thế Tôn ngồi trên pháp tòa và sự tôn nghiêm tỏa
khắp làm cho đệ tử thành phát khóc. Ôi sung sướng biết bao! Khi vầng
trán của tôi chạm đến Kim Cang tòa, một ý niệm phát ra rồi đánh mạnh vào
tâm trí tôi. Ý niệm ấy bảo tôi dừng lại đây và gìn giữ Thánh tích tôn
nghiêm này, tôn nghiêm đến nỗi không gì trên đời có thể sánh bằng, vì
đây là chỗ mà dưới gốc Bồ đề Thái tử Tất-đạt-đa đã giác ngộ. Tôi lượm
một vài ngọn lá và một ngọn cỏ hình dáng rất đặc biệt. Khi một ý niệm
đột nhiên đến với tôi, tôi hỏi vị tu sĩ người Nhật tên Kozen có bằng
lòng ở lại đây với chúng tôi không? Vị này hoan hỉ bằng lòng. Và hơn thế
nữa, vị này cũng nghĩ như tôi. Cả hai chúng tôi thề một cách trịnh trọng
quyết ở lại đây cho đến khi một vài tu sĩ đến và quản đốc Thánh tích
này" (Ngày 22 tháng 1 năm 1891).
Sau khi đi chiêm bái về đến Tích Lan, ngài Dharmaphala tổ chức một cuộc
họp công cộng do ngài Sumangala làm chủ tọa vào ngày 31 tháng 6 năm
1891. Trong buổi họp này, hội Maha Bồ đề được chánh thức thành lập với
mục đích lấy lại Bồ đề Ðạo tràng và truyền bá chánh pháp tại Ấn độ. Ðại
đức Samangala được cử làm Chánh hội trường và ngài Dharmapala, làm Chánh
thư ký.
Ðến tháng 7 năm 1891, ngài đến tại Bồ đề Ðạo tràng với 4 vị tu hành và
để 4 vị này ở lại. Ông Hemnarayan Gir, vị Mahant lúc bấy giờ, có cảm
tình với công việc của ngài Dharmapala và cầu chúc công việc được sớm
thành tựu. Về sau, vị này miễn cưỡng cho phép tạm dùng một mẫu đất nhỏ
để dựng tại một nhà tạm trú cho những Phật Tử chiêm bái. Không may vị
Mahant này từ trần và ông Krishna Dalyal Gir lên thế, vào ngày 4 tháng 2
năm 1892. Khi vị này lên chức Mahant, các nỗi khó khăn bắt đầu xảy ra.
Vì vị này không có cảm tình với công việc của ngài Dharmapala, và đã trở
thành một địch thủ.
Sau khi dự hội nghị tôn giáo ở Chicago về, vào năm 1893, Ðại đức
Dharmapala đem từ Nhật Bổn về một ngôi tượng Phật rất đẹp. Tượng này,
các Phật tử Nhật Bản muốn ngài đem thờ tại tầng trên ngôi tháp ở Bồ đề
Ðạo tràng. Ngày 25 tháng 2 năm 1895, ngài Dharmapala thân hành thỉnh bức
tượng ấy lên trên lầu. Sau khi an vị tôn tượng xong, ngài đảnh lễ và
ngồi quán tưởng. Liền khi ấy, những người của ông Mahant đến và quăng
bức tượng ấy xuống. Một số người cùng đi với ngài Dharmapala đang lễ
Phật cũng bị đánh đập. Một người bị thương khá nặng. Do cuộc hành hung
này, mà xảy ra một vụ kiện giữa ngài Dharmapala và ông Mahant. Tại tòa
án đệ nhất và nhị cấp, ngài Dharmapala thắng kiện, nhưng đến tòa thượng
thẩm thì ông Mahant lại thắng. Ở đây, cũng cần để ý rằng các quan tòa
đều biết ngôi tháp ấy hoàn toàn thuộc về Phật tử. Nhưng vì vụ kiện này
thuộc về hình, nên không bàn đến ngôi tháp thuộc sở hữu của ai. Một quan
tòa trong khi biện luận ở tòa đã nói: a) Ngôi tháp ấy thường xuyên và
tiếp tục được các Phật tử đến chiêm bái và hành lễ. b) Không có một hình
thức lễ bái nào của Ấn Ðộ giáo được cử hành trong ngôi tháp ấy, và không
có gì để chứng tỏ những lễ nghi Ấn Ðộ giáo có cử hành tại đó, trải qua
nhiều thế kỷ, từ đời vua Sankara. Chỉ từ tháng 7 năm ngoái, mới có sự cố
gắng hành lễ theo nghi thức Ấn độ giáo trước hình ảnh đức Phật đặt tại
khám thờ ở tầng dưới. Những cuộc hành lễ này rõ ràng là do ông Mahant và
các đệ tử cuả ông ta xúi giục. Bắt đầu từ đó, như người quản đốc ngôi
tháp ấy đã khai, một vị tu sĩ Bà-la-môn dưọc dùng để thắp đèn trước bức
tượng, đánh chuông, lau ngôi tượng và chỗ thờ tự, đánh dấu Tilak trên
trán, đeo một chiếc áo trên mình tượng và trang điểm bông hoa trên đảnh.
Vị quản đốc cũng là một người Bà La Môn thuộc giai cấp cao nhất, khai
rằng những nghi lễ ấy chưa phải thật nghi lễ Ấn Ðộ giáo. Nên để ý rằng,
dầu những nghi lễ này được cử hành nhưng ông Mahant hay đệ tử của ông ta
không có một ai đến hành lễ trong tháp ấy. Tất cả nghi lễ Ấn Ðộ giáo chỉ
bắt đầu từ năm ngoái, sau khi ngài Dharmapala đặt tượng Phật Nhật Bổn ở
tầng lầu trên của ngôi tháp, và sau khi thẩm vấn kỹ các sự kiện, chúng
ta không còn nghi ngờ gì nữa mà không quyết đoán rằng: những nghi lễ ở
Ấn Ðộ giáo được cử hành ở đây chỉ là một âm mưu để ông Mahant có quyền
xen dự vào những hành động của hàng Phật tử đối với ngôi tháp và để tăng
cường quyền sở hữu cuả ông ấy để hưởng những đồ vật cúng dường tại đó.
Vị quan tòa thượng thẩm ở Calcutta, sau khi nghe lời khai, có tuyên bố:
"Chúng ta có thể công nhận rằng tháp Ma-ha Bồ đề là một ngôi tháp cổ
kính rất tôn quí đối với Phật tử. Nó chính là một ngôi tháp Phật. Và dầu
ngôi tháp thuộc sở hữu của các ông Mahant, ngôi tháp ấy cũng chưa được
biến thành một ngôi đền Ấn Ðộ giáo, nghĩa là có những tượng thần Ấn Ðộ
giáo trong ấy và nghi lễ Ấn độ giáo chánh tông được cử hành tại chỗ ấy.
Từ trước đến nay các Phật tử chiêm bái đều có quyền tự do đến thăm và lễ
bái".
Dầu ngài Dharmapala thua kiện nhưng sự thua kiện đó đã làm cho Phật tử
thế giới hiểu rõ được tình trạng nguy khốn của Bồ đề Ðạo tràng, nơi tôn
quí nhất của Phật tử. Bản án được đăng trên tất cả báo chí và vấn đề Bồ
đề Ðạo tràng trở thành một vấn đề được bàn tán ráo riết khắp Ấn Ðộ, Miến
Ðiện và các nước khác. Ngài Dharmapala không có dư tiền để đưa vấn đề
này lên Cơ mật viện (Private Council).
Ðến năm 1902, một vị tu sĩ Nhật Bổn tên Okakura đến tại Bồ đề Ðạo tràng
và bắt đầu giao thiệp với ông Mahant để lập một tu viện đại thừa độc lập
tại đó. Chính phủ Ấn Ðộ sợ có ẩn ý chính trị nên công việc không được
thành tựu. Dự định của vị sư Nhật đem lại kết quả tai hại cho công việc
của ngài Dharmapala, vì Chính phủ Ấn trước đây có cảm tình với công việc
của ngài nay sợ những sự khó khăn do Nhật Bổn can thiệp gây nên, và trở
thành đối lập, chống lại Phật tử. Nhận thấy chính phủ Ấn đã thay đổi
thái đô, ông Mahant mạnh dạn làm đơn kiện ngài Dharmapala vào năm 1906
để trục xuất ngài ra khỏi pháp xá Miến Ðiện mà từ trước đến nay ngài
được yên ổn. Ông Mahant lại được kiện một lần nữa và như vậy là các Phật
tử bị trục xuất hẳn ra khỏi Bồ đề Ðạo tràng, nơi tôn quí nhất của họ.
Ngài Dharmapala tuy bị thất bại nhưng không thối chí, ngài liền dùng báo
chí làm phương tiện tuyên truyền để kêu gọi công chúng can thiệp. Nhờ
vậy, những người trí thức tán thành công việc của Ngài Dharmapala và hết
sức giúp đỡ cho Phật tử lấy lại Bồ đề Ðạo tràng.
Vấn đề Bồ đề Ðạo tràng được đem ra bàn cãi tại Ðại hội Quốc gia Ấn Ðộ
(Indian National Congress) họp tại Gaya, Belgaon, Coconada và các chỗ
khác. Vấn đề cũng được đem ra thảo luận tại hội nghị Hindumaha Sabha họp
tại Muzaffapur, hội nghị này ngài Dharmapala có đến dự cùng các Phật tử
khác. Ðảng Quốc Ðại Ấn Ðộ cử một ban do bác sĩ Rajendra Prasad làm chủ
tịch để xét vấn đề này. Sau khi bàn xét kỹ càng, ban này thảo một bản án
rất tinh tường và đề nghị lập một hội đồng gồm các Phật tử và Ấn Ðộ giáo
để quản đốc ngôi tháp ấy. Hội nghị Maha Sabha họp tại Cawnpore đề cử một
ban khác do ông Bha Paramananda giữ ghế chủ tịch. Ban này cũng nghiên
cứu vấn đề ấy rất kỹ lưỡng và cũng có một đề nghị tương tự như ban
trước. Các đề nghị đều không được thi hành vì ông Mahant phản đối.
Sau khi Ấn Ðộ được độc lập, vấn đề này được đem ra bàn cãi và cuối cùng
Chính Phủ Ấn Ðộ đứng ra can thiệp và giao quyền quản đốc ngôi tháp Bồ đề
Ðạo tràng cho một ban gồm 11 người, năm người Phật tử và năm người Ấn Ðộ
giáo trong này có ông Mahant và một vị chủ tịch do Chính phủ Ấn đề cử để
quản đốc ngôi tháp. Ông Mahant không có quyền sở hữu gì nữa, chỉ là một
hội viên trong ấy thôi. Từ khi Bồ đề Ðạo tràng được giao lại cho ban ấy
quản đốc thời mọi việc tiến hành thuận tiện cho Phật tử. Không những cử
người tu bổ và coi sóc, Chính phủ Ấn còn khuyến khích các nước Phật giáo
đến lập chùa xung quanh ngôi tháp ấy đề tiện cho khách thập phương đến
chiêm bái. Hiện có một ngôi chùa Miến Ðiện, một pháp xá Tây Tạng, một
Hội quán của hội Ma-ha Bồ đề, một ngôi chùa Trung Hoa tên là Trung Hoa
Ðại giác tự; chính phủ Thái Lan hiện đã xây cất xong một ngôi chùa rất
lớn và cử nhiều vị sư Thái qua chăm sóc. Tất cả các nước Phật giáo đều
đang dự trù cất chùa để tiêu biểu cho nền Phật giáo của nước mình. Bồ đề
Ðạo tràng trong tương lai rất gần sẽ là trung tâm của Phật giáo quốc tế.
Ấy là sự hy vọng của toàn thể Phật tử trên thế giới khi đến chiêm bái
tại Thánh tích này.
"Núi dài sông rộng trời cao,
Thuyền tôi vượt sóng tiến vào bờ xa".
(Qua sông Hằng của Phật Thích Ca).
Sau
hai ngày chiêm bái các Phật tích quan trọng nơi đức Thế Tôn hành đạo,
chúng tôi rời khỏi Bồ đề Ðạo tràng (Buddhagaya) lúc 5 giờ chiều trong
bầu không khí thân mật và đoàn kết giữa các đại đức Thái Lan và chúng
tôi.
Trực chỉ đến thành phố Gaya trong lúc trời vừa tối sẫm, chúng tôi cảm
thấy thiếu thốn ánh sáng và bị mất đi những vật gì quý báu nhất của đời
tu sĩ chúng tôi. Hình ảnh Bồ đề Ðạo tràng, sông Ni-liên-thiền
(Néranjara), Khổ hạnh lâm (Dukkarakrya) và những mái chùa hiền dịu cứ
hiện rồi ẩn, ẩn rồi hiện trong tâm trí chúng tôi. Tôi thầm cầu nguyện
"Kính lạy đức Thế Tôn, đã chứng kiến các cảnh tu hành đầy gian khổ của
Ngài, chúng tôi còn một trong những chúng sanh được thấm nhuần đạo lý mà
Ngài tìm được dưới cội Bồ đề, xin nguyện sẽ noi gương sáng và thực hành
đạo pháp cuả Ngài, trọn đời hiến thân cho đạo để phụng sự Chánh pháp và
phục vụ chúng sanh. Xin Thế Tôn từ bi chứng giám".
Trên đoạn đường này, có thêm một vị sư Cam Bốt và hai đạo hữu cư sĩ,
cũng đi từ Bồ đề Ðạo tràng đến nhà ga, trên những chiếc xe Rikhsoh (như
xe lôi bên ta). Ðêm nay chúng tôi phải ở tại ga để chờ tàu đi Sarnath.
Vào lúc 5 giờ sáng, chúng tôi tất cả không ai gọi ai đồng thức dậy.
Thượng tọa Minh Châu đi lấy vé tàu, còn chúng tôi chuẩn bị hành lý. Rất
tiếc là thầy Ghosànanda không thể tiếp tục đi với chúng tôi! Ðoàn chỉ
còn Thượng tọa Minh Châu, thầy Thiện Châu, thầy Pàsàdika và chúng tôi.
Ðúng 7 giờ 20 phút, tàu bắt đầu chuyển bánh. Lòng chúng tôi hòa vui với
tiếng chuyển động khi nhặt khi khoan của tàu.
Ánh bình minh xuất hiện, bầu trời trở nên quang đãng, cảnh vật xinh
tươi. Con tàu mang chúng tôi lướt qua hết cánh đồng xanh tươi bát ngát
này, đến làng xóm cũ kỹ xa xưa nọ. Cảnh lạ cứ tiếp diễn mãi trước đôi
mắt đăm đăm nhìn của chúng tôi. Ðây là con sông Hằng (Gange), một con
sông lịch sử, cát trắng mịn; Phật tử Việt Nam không ai mà không nghe đến
tên con sông này qua các kinh điển. Khi Phật thuyết pháp, Phật thường
đem cát sông Hằng thí dụ cho con số không thể đếm được, như nói hằng hà
sa số thế giới, hằng hà sa số chư Phật.
Tàu chạy qua nhiều thành phố lớn có, nhỏ có, cũ có, mới có... Kìa là
Kàsi, một thành phố vĩ đại gần thành Ba-la-nại rồi đến ga Vàrànasi.
Chúng tôi xuống ga này và nghỉ lại đây để tắm rửa, rồi sang xe Rikhsoh
đi thẳng về Sarnath cách ga độ 10 cây số. Hai bên vệ đường cây cối um
tùm mát mẻ, nhà cửa đồ sộ nguy nga. Thượng tọa Minh Châu nói: "Ðây là
Sarnath, nơi đức Phật chuyển Pháp luân đầu tiên và độ 5 vị Tỳ kheo".
Nhìn kỹ, chúng tôi thấy nhiều ngôi chùa đồ sộ, nhiều di tích lịch sử vĩ
đại... Sarnath (Lộc vương) là tên mới thay cho Migadàya (Lộc Uyển) hay
Rishipatana. Ðức Phật chuyển Pháp luân lần đầu tiên tại đây. Do đó,
Sarnath là thánh tích quan trọng bậc nhì sau Buddhagaya. Sarnath và
Buddhagava được xem là bất động xứ. (Acalaceliyas) vì tất cả các đức
Phật đều dùng hai chỗ này, một chỗ để thành đạo, một để thuyết pháp lần
đầu tiên. Dưới đây là những nơi quan trọng tại Sarnath:
1. Mùlàgandhakuti Vihara.
2. Tháp Dhamek.
3. Khu vực được đào.
4. Viện Bảo tàng.
5. Thư viện Mùlàgandhakuti Vihara.
6. Trường học và nhà thương thí của Hội Ma-ha Bồ đề.
7. Tháp Choukhanda.
8. Arya Dharma Sangha Dhàmasàlà.
1. Mùlàgandhakuti Vihara
Sau khi sắp đặt chỗ ở tại khách xá xong, chúng tôi liền đến viếng chùa
Mulàgandhakuti. Bước đến cổng chùa là nhìn thấy hình pháp luân hai bên
trụ ngõ. Tôi nhớ lại lời đức Phật dạy trong các kinh: "Pháp luân thường
chuyển huệ tâm khai". Thật vậy, chỗ nào giáo pháp được truyền ba thì chỗ
ấy chúng sanh được mở mang trí huệ và tâm tính thuần hậu. Ði sâu vào là
một ngôi chùa mới, được dựng vào năm 1931 do ngài Dharmapala và đệ tử
của ngài. Ðây là một thánh tích cao quí trang nghiêm nhất cuả ngài
Dharmapala đã nhiều năm cố gắng phục hưng Phật giáo tại Ấn độ.
Tiến vào chánh điện, chúng tôi gặp 3 vị sư Cam Bốt cũng đi chiêm bái.
Hai bên chào hỏi nhau rất niềm nở và thân mật. Xung quanh chúng tôi là
du khách Âu, Mỹ, Ấn v.v... tấp nập ra vào chiêm bái và viếng cảnh.
Lên điện Phật, theo thường lệ, chúng tôi dâng hương thắp đèn, lễ bái
tụng niệm và nhất tâm nguyện cho Phật tử Việt Nam tu học tinh tấn và
pháp giới chúng sanh đều hướng về đạo giải thoát. Sau đó quan sát kỹ,
chúng tôi biết rõ ngôi chùa làm bằng đá Chunar. Tháp chùa làm theo kiểu
Buddhagaya, thêm một căn dài với một dãy cột từ cửa bước vào. Trước điện
Phật có một quả hồng chung rất lớn thếp vàng, do hội Nhật Bổn tặng trên
tường phía trái và mặt có bảng đá cẩm thạch ghi tên những vị thí chủ
cúng tiền xây dựng ngôi chùa. Ở trong điện Phật rất giản dị, không trang
hoàng rườm rà; chỉ có một tượng Phật chính giữa tạc theo kiểu tưọng
chuyển pháp luân lại Bảo tàng viện. Trên tường là những bức tranh diễn
tả đời sống Ðức Phật do một họa sĩ Nhật, ông Kosetsunosu vẽ theo các
tượng vẽ ở động Ajanta, phí tổn đều do ông B.L. Broughton, nguyên Hội
trưởng Hội Maha Bồ đề ở Anh quốc chịu. Trong chùa có thờ Xá Lợi của đức
Phật. Chính phủ Ấn có chuyển tặng cho chùa những Xá lợi tìm thấy ở
Taxila, Nagarjuni Konda. Tại đây, hằng năm vào ngày khánh thành ngôi
chùa, Xá lợi đức Phật được rước qua những con đường chánh tại Sarnath.
Những đám rước này gồn có những đức Phật tử các nước Ấn Ðộ, Tích Lan,
Miến Ðiện, Trung Hoa, Tây Tạng, Nhật Bổn, Triều Tiên, Thái Lan cho đến
các nước Âu Mỹ cũng đến tham dự.
Trong những ngày ở tại Sarnath, sáng nào chúng tôi cũng đến lễ Phật tại
ngôi chùa này, vì chùa không xa chỗ chúng tôi ở lắm, và rất mát mẻ,
thanh tịnh.
Viếng chùa, lễ Phật cầu nguyện xong, chúng tôi đến lễ tháp Dhamek trong
phạm vi hoa viên của chùa.
2. Tháp Dhamek
Dhamek là chữ viết tắt của chữ Dhama Mukha, nghĩa là suy tưởng Chánh
pháp. Không hiểu người xưa xây dựng ngôi tháp này với mục đích gì? Có
thuyết nói chỗ này đức Phật phú chúc đức Di Lặc sau này sẽ thành Phật.
Ngọn tháp cao độ 32 thước. Phần dưới đều làm bằng những tấm đá chạm trổ
rất đẹp. Phần lớn là hình chữ Vạn vẽ theo nhiều kiểu và song song với
những hình hoa sen. Tháp có 4 khám thờ, xưa có nhiều tượng nhưng nay
không còn nữa. Những tượng bằng vàng ngài Huyền Trang thấy được, chắc đã
bị mất cắp rồi. Tháp này bị đục thủng nhiều lỗ và đá quí đã bị lấy ra.
Những lỗ này su Viện Bác cổ lấp lại bằng những gạch đá thường. Có một
bia ký chứng tỏ vào thế kỷ thứ tư sau T.L., Nhứt thế hữu bộ
(Sarvastivàdà) thịnh hành ở Bốn Chiếu, trụ trì chùa này. Chúng tôi tất
cả vào phòng khách, hai bên chào mừng vấn an xong. Thượng tọa Minh Châu
hỏi qua sự kiến tạo ngôi chùa và cách hành đạo của các Ðại đức ở đây.
"Nhờ đâu mà ngôi chùa đuợc kiến tạo đồ sộ như thế này?"
Ðại đức trụ trì hoan hỉ đáp:
- Phần lớn là nhờ các nhà đạo tâm ở Singapore, phần nhỏ do thiện tín ở
đây cúng dường.
- Ngài ở đây bao nhiêu năm?
- 30 năm rồi.
- Ngôi chùa làm xong tốn độ bao nhiêu?
- Ðộ 40.000 RS (độ 6 triệu bạc Việt Nam).
- Có bao nhiêu đại đức thường trú ở đây?
- Thường trú chỉ có năm vị.
- Ðược bao nhiêu tín đồ quy y ở ngôi chùa này?
- Người Trung Hoa rải rác khắp Ấn Ðộ, còn người Ấn thì được vài ba gia
tộc, độ 600 người tất cả.
- Công việc hoằng pháp ở đây như thế nào?
- Thỉnh thoảng có giảng kinh thuyết pháp, còn hằng ngày cho lo trì tụng,
lễ bái, cúng dường...
Ðại đức trụ trì thân mật trao tặng cho chúng tôi mỗi người một quyển
kinh Di Giáo (Hán, Anh đối chiếu) và tượng Phật Di Ðà phóng quang, Quan
Âm, Thế Chí. Ðáp lại tấm thạnh tình ấy, chúng tôi có tặng vài ảnh chùa
Việt Nam để lưu lại một kỷ niệm sâu sắc và lâu bền. Chúng tôi cáo từ ra
về, Ðại đức trụ trì tiển ra tận cổng chùa.
Trên đường đi về khách xá, chúng tôi suy nghĩ bàn tán rằng, ở các Phật
tích lớn như thế này đều có chùa đồ sộ của Phật giáo các nước. Xem qua
ngó lại, chưa hề thấy ngôi chùa Việt Nam nào được dựng lập nơi Phật địa.
Thật là buồn tủi! Không nói ai cũng biết rằng Phật giáo đã sống với dân
tộc Việt Nam ngót 1.700 năm lịch sử.
Sáng ngày sau, chúng tôi cũng đến chùa Mulàgandhakuti rất sớm để lễ Phật
và cầu nguyện, tọa thiền. Suốt ngày chúng tôi tiếp tục chiêm bái nhiều
nơi khác.
Mặc dầu rất nhiều lần bị Hồi Giáo tàn phá, nhưng những Phật tích vẫn còn
và còn một cách đầy đủ vết tích của ngàn xưa. Chúng tôi đến viếng những
tàn tích bị Hồi Giáo phá hoại thấy mà xót dạ đau lòng.
3. Khu vực được đào bới để
khảo cổ
a. Tịnh xá Kittoe. Từ Viện
Bảo tàng đi về phía bắc, chúng tôi đến khu vực được đào bới. Trước hết
chúng tôi thấy Tịnh xá Kittoe. Sở dĩ ngôi Tịnh xá này mang tên Kittoe là
vì ông Kittoe đã đốc xuất đào bới tại Sarnath từ năm 1934 đến năm 1937.
Chỉ nền của Tịnh xá là còn nguyên vẹn mỗi bề dài đến 33 thước, và có tất
cả 28 tăng phòng. Tịnh xá này chắc chắn đã bị thiêu hủy, vì có nhiều
bánh, gạo hoặc cơm bị cháy được đào thấy tại chỗ này, cái giếng được
thấy ở giữa sân chính là cái giếng của Tịnh Xá.
b. Tháp Sri Dharmaràjikà.
Ðây chỉ là một mô đất tròn với hồ xung quanh. Tháp này trước kia rất
lớn, bằng tháp Dhamek, nhưng bị phá nát (nguyên do sẽ nói sau). Ngài
Pháp Hiển vào thế kỷ thứ năm có đến thăm Tháp này và để lại ký sự chứng
minh. Vào năm 1794, trước khi Viện Bác cổ được thành lập, ông Jagat
Singh, Bộ trưởng của vua Chet Singh ở Ba-la-nại, vì thiếu vật liệu xây
dựng thành phố Jagatguni ở Ba-la-nại, đã sai người đến chở gạch và đá ở
đây, trong khi đào đá và gạch, ông tìm thấy một cái hộp bằng đá trong đó
có một hộp bằng cẩm thạch đựng "Tro" chắc chắn là Xá Lợi đức Phật hay
một vài vị Thánh tăng. Không biết dùng Xá Lợi này làm gì, theo tục lệ Ấn
Giáo, ông đã làm lễ thả xuống sông Hằng. Như thế Phật tử chúng ta đã mất
đi một bao vật quí giá. Biết bao nhiêu ngọn tháp cũng chung một số phận
tương tự, trước khi Viện Bác cổ thành lập. Trong tháp này có tìm được
bia ký Sthirapala, và Vasantapàla. Ngôi tịnh xá ở Calcutta, do ngài
Dharmapala tạo lập năm 1921 cũng lấy tên Sri Dharmàrajikà. Ðây là ngọn
tháp chính, xung quanh các ngọn tháp khác mới được dựng sau. Chỗ này, có
một ngôi chùa gọi là Mulàgandhakuti nghĩa là phòng thơm, chỉ những phòng
đức Phật ở. Sở dĩ chùa này có tên ấy vì đó là chỗ Ðức Phật ở trong 3
tháng đầu tiên, sau khi Ngài thành đạo Bồ đề.
c. Ðiện thờ chung quanh có lan can vua A Dục.
Bước vào phía sân ngoài của chùa chính, chúng tôi thấy một ngọn tháp
nhỏ, xung quanh là lan can bằng đá trơn láng kiểu cách tương tự những
lan can của vua A Dục. Nhưng tại sao lại nằm chỗ này thật khó hiểu! Ðiều
đáng chú ý là ngọn tháp chính hiện đứng trên những tháp nhỏ khác được
dựng lên từ nghìn xưa, nhưng vì thời gian tháp bị đổ nát, rồi cát bụi
chồng chất hết thế kỷ nay đến thế kỷ khác, thành thử trên những tháp cũ
ấy lại có những lớp đất rất dày. Về sau những ngưòi khác vì không biết
lại dựng những ngọn tháp mới lên trên.
d. Trụ đá vua A Dục: Dưới
một mái bằng và bao bọc bởi một hàng rào sắt, chúng tôi thấy được một
phần nền của trụ đá do vua A Dục dựng lên là cột trụ xưa nhất được tìm
thấy ở đây. Chúng ta có thể tin rằng, chính tại chỗ dựng trụ đá này Ðức
Phật đã thuyết kinh Dhamma-cakka pavattana cho năm vị Tỳ-kheo, xưa kia
cùng tu khổ hạnh với Ngài. Ngài Huyền Trang khi đến thăm chỗ này có nói
về trụ đá như sau: "Phía tây năm ngôi chùa, có một tháp đá do vua A Dục
dựng lên, đầu đã bị đổ nát nhưng cũng còn 3 bức tường dài độ 30 thước
rất trơn láng chẳng khác gì ngọc thạch. Trụ đá đấy chói sáng và long
lanh. Những ai đến lễ bái chí thành, tùy theo lời cầu nguyện của mình sẽ
thấy những hình ảnh tốt hay xấu ứng hiện. Chính tại chỗ này, Ðức Phật
sau khi thành chánh giác, bắt đầu chuyển Pháp luân. Phần dưới trụ đá, có
khắc hàng chữ như sau bằng tiếng Brahmi: "Ðấng Thiên Nhơn sư đã dạy
rằng: Giáo hội Tăng Ni không được chia rẽ. Nếu có vị Tỳ-kheo nào phá
hoại Giáo hội, vị ấy phải mặc Ðại y và ở tại một chỗ thanh tịnh chí
thành sám hối". Chỉ thị này phải được tuyên bố khắp nơi cho Giáo hội
Tăng chúng và Ni chúng được biết. Hoàng đế ban rằng một chỉ thị như vậy
được chạm khắc vào chỗ hội họp, chỉ thị ấy phải được triệt để thi hành".
Và đây là chỉ thị thứ hai: "Hàng cư sĩ tại gia mỗi ngày rằm hay mùng một
phải đến dự họp kiêm thảo nhau để thêm phần tinh tấn về đạo nghiệp. Và
các ngày lễ Phật, các quan chức phải đến dự lễ để được thêm phần tin
tưởng về đạo đức. Các cấp Quận, Huyện, Xã dù xa xôi thế nào, cũng phải
truyền rộng chỉ thị này theo đúng nghĩa của nó cho dân chúng tuân theo".
Trong thời kỳ xâm lăng của Mohammed Ghori, trụ đá này bị xô đổ, nhưng
may thay, bảng đá cùng con sư tử khỏi bị phá hủy, được chôn dưới đất cho
đến khi Viện Bác cổ đào bới lên được.
e. Chùa Kumara Vihara. Sau
khi đi dọc theo một bức tường dày và dài, chúng tôi đến một ngôi chùa
gọi là Dharmacakra Jina Vihara. Bức tường trên là vòng ngoài của ngôi
chùa. Theo bia ký, chùa này do một bà thí chủ lập nên vào năm 1136 sau
T.L. Bà này là vợ vua Govinda, xứ Kannouj. Vì bà ở Nam Ấn Ðộ, nên nhiều
học giả đoán chùa cất theo kiểu Nam Ấn . Tiếc rằng nay chỉ còn một ít
gạch, về phía dãy tường, có một vài pho tượng khá đẹp, giúp ta đoán được
sự lộng lẫy của ngôi chùa. Chùa này đã bị phá hủy năm 1194. Ðiều đáng
chú ý là bà Kumara Devi là người Phật tử, còn chồng là người theo Ấn
giáo.
Sau khi quan sát các khu vực được đào bới, chúng tôi sang Viện Bảo tàng
để xem các di tích đã được tàng trữ từ lâu. Ở đây toàn là cổ vật của
Phật giáo.
4. Bảo tàng viện
Bảo tàng viện này lập vào năm 1910 theo kiểu một tu viện cũ, để cất chứa
những vật đào lên ở Sarnath. Tại nhà chính có trụ đá vua A Dục, trụ đá
này được đặt ở chính giữa phòng với hai dãy lan can hai bên. Không một
vật cổ nào được tìm thấy ở Ấn Ðộ có thể sánh với trụ đá này và chỉ được
xem trụ đá này cũng đủ thỏa mãn cho cuộc đi chiêm bái lắm rồi. Chính trụ
đá này Chính Phủ Ấn độ đã lấy làm Quốc huy cho Chính phủ. Kiến trúc cân
đối, sự linh động của các thú vật cùng cách tráng men trơn láng khiến
trụ đá được xem là một báu vật nhất nhì trong nghệ thuật điêu khắc. Ông
Marshall phê bình những hình vật khắc và tạc trên trụ đá nói: Chúng rất
gần với thiên nhiên một cách mãnh liệt và xác thực, được diễn đạt một
cách giản dị và kín đáo, hai đặc tánh của những danh phẩm về nghệ thuật
tạo hình. Thật sự Ấn Ðộ không thể tạo những hình điêu khắc khác đẹp hơn
hay bằng những hình vật này được. Nhìn trụ đá này thật không biết chán,
càng nhìn càng thấy đẹp và càng cảm phục nghệ thuật điêu khắc của Ấn Ðộ
thời xưa.
Tượng Ðức Bồ Tát bằng đá đỏ:
Tượng này cũng có một trụ đá dựng sau về phía tay mặt của trụ đá vua A
Dục, khác với tượng bằng đá trắng, đem từ Chunar và Mitzapur, cách độ 30
dặm Anh. Bia ký sau bức tượng ghi rằng tượng này được làm ở Muthutra và
do vị Tăng sĩ tên là Bala đem về vào năm thứ ba đời vua Kaniska đặt tại
chỗ xưa kia Ðức Phật từng đi qua lại. Về phía bắc có một cái lọng bằng
đá, lọng này trước kia đặt sau lưng tượng, để che mưa nắng, lọng rất lớn
và chỉ làm với những tảng đá liền thôi.
Tượng Phật chuyển Pháp luân:
Tượng này được xem là pho tượng đẹp nhất được tìn thấy ở Ấn độ thuộc về
thế kỷ thứ tư hay thứ năm sau T.L. Tượng bằng đá Chunar, trong cử chỉ
chuyển pháp luân, giảng kinh Dhammacakkappavattana. Vị tạc tượng đã
thành công vì diễn đạt được vẻ giải thoát hoàn toàn trên nét mặt đức
Phật. Tiếc rằng mũi và một ngón tay bị gãy mất do giặc Hồi Giáo phá
hoại. Tượng đức Phật trùm y che cả hai vai, bệ tượng có khắc hình 5 vị
đệ tử của Ngài, giữa có chạm hình Pháp Luân, hai bên có hai con nai nằm
giữ. Người đàn bà và đứa con nít ở góc bên trái có lẽ chỉ người cúng
dường. Cách giải thích này chưa chắc đã đúng. Pho tượng này sau được tạc
lại. Như tượng ở chùa Mulàgandhakuti, hoặc ở chùa Buddhavihara New-Delhi
cũng theo kiểu tượng này. Chúng tôi nhận thấy tượng bằng đá đẹp gấp mấy
lần những tượng phỏng theo sau này, nhất là những tượng thếp vàng hay
làm bằng đồng. Tượng làm bằng đồng có cái dơ là quá bóng láng nên làm
hại cho mỹ thuật và sự cân đối trên diện của tượng. Chúng tôi thấy tượng
bằng đá linh động hơn tượng bằng đồng hay thếp vàng. Thượng tọa Thích
Minh Châu nói: "Ðây là tất cả sự tích đặc biệt của đức Phật" và chỉ vào
một tảng đá trong Viện Bảo tàng không to lắm, có tạc đủ những sự tích
đức Phật, đây là Hoàng hậu Maya nằm mộng; Thái tử đản sanh; lễ tắm Thái
Tử; Thái tử cỡi ngựa rời khỏi hoàng cung; cắt tóc; thiền định dưới cội
Bồ đề, thuyết pháp lần đầu tiên. Chỉ thiếu sự tích khi Ðức Phật nhập
Niết Bàn. Thiếu là vì phần đá tạc sự tích này bị bê rời ra ngoài.
Căn nhà phía sau:
Trong một tủ gương để giữa phòng có một
tượng Bồ tát Quan thế Âm bằng đá trắng giống như ngà. Tượng tạc rất mỹ
thuật. Không có tượng nào trong Viện Bảo tàng có thể sánh được. Tại bức
tượng phía tây có một tượng thần Siva rất lớn đang sân si giết một con
quỉ. Sự có mặt bức tượng này, chứng tỏ Ấn Giáo đánh cướp dần dần các
Phật tích. Phía tay mặt có một bia ký về Bà Kumara Devi, người đã lập
ngôi tịnh xá sau cùng ở Sarnath. Tại phòng này có một tấm đá rất đặc
biệt khắc sự tích về Khantivàda Jataka, một chuyện tiền thân đức Phật,
các cung nữ nhảy múa trước vua, các cung nữ nghe một vị ẩn sĩ thuyết
pháp và ẩn sĩ bị chặt tay.
Căn nhà phía Bắc: Tại đây
không có tượng nào đặc biệt như ở hai căn trước, các tượng đất phần
nhiều bị hư nát, tay chân bị gãy, mũi bị đẽo hư. Quân đội Hồi Giáo không
những đốt phá tượng Phật và đẽo nát tai mũi và mắt các tượng Phật nữa.
Càng nhìn càng đau lòng. Chúng tôi nghĩ rằng: Tôn giáo đáng lý phải là
một sức mạnh khiến người tôn kính thương yêu nhau, nhưng đây trái lại là
một sức mạnh ghê gớm, khiến người đâm chém lẫn nhau! Tại căn nhà này
cũng có nhiều đồ gốm như ghè, chum v.v... có lẽ đồ này để đựng gạo và
các loại ngũ cốc cần dùng trong Tăng viện.
Trên đường về khách xá để thọ trai, chúng tôi ghé lại xem thư viện.
5. Thư viện Mùlagandhakuti
Hội Maha Bồ đề có lập một thư viện khá đầy đủ kinh sách Phật giáo, có cả
Kinh tạng chữ Singalese, Miến Ðiện, Thái và chữ Hán.
Ở đây đặc biệt mỗi vùng đều có một thư viện riêng. Chúng tôi hy vọng
Phật giáo Việt Nam ta mỗi cơ quan truyền bá đều có thư viện, để các học
giả và dân chúng địa phương học hỏi và nghiên cứu Phật giáo thì quí hóa
biết bao!.
6. Trường học và nhà thương
thí của Phật giáo
Theo đúng tinh thần lợi tha của đức Phật. Hội Maha Bồ đề đã lập 3 trường
học:
a. Trường Hindi Primary.
b. Trường English High school và
c. Trường Dharmapala Kumara Vidylaya.
Những trường hợp này đều do Hội xây dựng và quản trị. Trường kiến trúc
rất đồ sộ nguy nga theo lối tân thời, mục đích đào tạo cho con em về trí
dục, thể dục và đức dục. Hằng tuần đều có dạy giáo lý bằng chữ Pàli. Nhà
thương để cho thuốc thí., hàn gắn vết thương đau khổ cho dân chúng. Hai
công tác này của Hội được dân chúng Ấn Ðộ hoan nghênh nhiệt liệt.
Chiều lại chúng tôi đi viếng một ngôi tháp cổ cách đấy độ hai cây số.
7. Tháp Choukhanda hay
Chankhandi
Chỗ này, sau khi Thành Ðạo, đức Phật đến gặp 5 vị Tỳ-kheo. Năm vị này
trước kia cùng tu khổ hạnh với đức Phật, sau thấy Ðức Phật dùn sữa nên
bỏ sang đây. Lúc đầy thấy đức Phật đến, năm vị này bảo nhau đừng chào và
đừng kính lễ làm gì. Nhưng khi đức Phật lại gần vì kính mến phong độ oai
nghi, đức tướng trang nghiêm của Ngài, không ai bảo ai, người thì soạn
chỗ ngồi, người thì cầm bình bát, người thì tìm nước rửa chân cho Phật.
Sau khi gặp nhau tại chỗ này, đức Phật đưa cả năm vị đến nơi cách đó nửa
dặm Anh và thuyết pháp lần đầu tiên.
Choukhanda hiện tại là đống gạch cũ nát, trên ấy là một vọng lầu hình
bát giác. Rất có thể xưa là một ngọn tháp, nay chỉ còn là một đống gạch
và vọng lâu cao 25 thước. Ông Cunningham, một nhà Bác cổ học năm 1836 có
đào thông đến đáy, nhưng không tìm thấy gì. Vọng lâu để kỷ niệm Vua
Humàyùn trốn giặc núp ở đây. Gạch cùng kiêu kiến trúc giúp chúng ta đoán
vọng lâu này được lập vào thế kỷ thứ hai hay thứ ba sau T.L.
8. Arya Dharma Sangha
Dharmasala
Ðây là pháp xá của Hội Maha Bồ đề do ông Jugol Kishore Birla cất tặng
hội. Ngôi nhà này gồm hai tầng rộng rãi và mát mẻ, có đến 32 phòng cho
khách thập phương đến ở, khỏi phải tốn tiền. Suốt thời gian ở Sarnath,
chúng tôi lưu trú tại đây, rất đủ tiện nghi. Khi bái biệt, chúng tôi có
lưu tặng ảnh chùa Việt Nam để kỷ niệm.
Sarnath được chấn chỉnh lại một cách huy hoàng là nhờ ngài Dharmapala.
Ngài tận tâm cổ động và xây dựng lại chỗ này. Do đó, một con đường lớn ở
đây mang tên ngài và tượng ngài được xây trước chùa Malàgandhakuti. Nếu
mỗi nơi đều có được nhiều người hy sinh vì đạo như ngài, thì lo gì ánh
đạo vàng không lan rộng? Ðể hiểu thêm Phật tích Sarnath quí vị nên đọc
phần lịch sử sau đây.
Lịch sử Sarnath
Lịch sử Sarnath bắt đầu từ khi đức Phật đi tìm năm người đồng tu khổ
hạnh. Chữ Sarnath không có trong văn chương Pali hay Sanskrit. Chính ra
chữ Sarnath, có nghĩa là vị vua của loài lộc, sau gọi tắt là thành
Sarnath. Kinh Pàli thường dùng chữ Migadàya hay Isipatana, nhiều khi
dùng cả hai Migadàya và Isipatana. Ispatana chữ Sanskrit là Rsipatana
nghĩa là chỗ trú của các vị ẩn sĩ. Vì chữ Patana cũng có nghĩa là té
ngã, rơi xuống nên ngài Pháp Hiển dịch là chỗ các ngài ẩn sĩ tịnh tu.
Theo sự tích thì một số Bích chi Phật nhập diệt trên hư không, rồi thân
thể rơi xuống đất. Dầu thế nào, Isipatana cũng là một khu vực quan
trọng, gồm cả Isipatana cũng là một khu vực quan trọng, gồm cả Migadàya
(vườn Lộc). Các vị tu sĩ thường ở đây để tu tập thiền quán. Còn chữ
Migadàya nghĩa là Lộc uyển, là chỗ Vua Ba-la-nại để cho loài lộc được
sống tự do, không ai được săn bắn giết hại. Tự nhiên chỗ này trở nên lý
tưởng cho những vị ẩn sĩ muốn xa lánh thành thị.
Một chuyện tiền thân rất hay gọi là Nigrodhamiga, có liên quan đến chỗ
này, và hàm nhiều ý nghĩa giáo dục, nên chúng tôi xin dịch ra sau đây,
những lời thuật của Huyền Trang:
"... Chính chỗ này không xa, tại một khu vườn rộng, có một ngọn tháp.
Ðây là chỗ Ðề-bà-đạt-da cùng với Bồ Tát trong một kiếp đều làm vua loài
lộc. Cả hai có chuyện cần phải giải quyết với nhau. Lúc bấy giờ giữa một
khu rừng rất lớn, có hai bầy nai, mỗi bầy có 500 con và do hai con Lộc
vương quản trị. Ðể bảo đảm hòa bình, bầy nai tình nguyện: "Chúng tôi sẽ
hy sinh mỗi ngày một con nai để Ðại vương dùng. Như vậy Ðại vương luôn
luôn có thịt tươi và chúng tôi có thể kéo dài sự sống". Nhà vua chấp
thuận lời đề nghị này, và bảo đánh xe trở về cung. Từ đó mỗi ngày một
con Lộc từ một bầy đi đến chỗ Vua ở và chịu chết. Lần lượt bầy này rồi
đến bầy khác. Lúc bấy giờ trong bầy của Ðề-bà-đạt-đa một con Lộc có mang
đến lượt phải chịu chết. Con Lộc này đến trước Lộc vương của mình
(Ðề-bà-đạt-đa) mà tâu rằng: "Dầu tôi bằng lòng chịu chết, nhưng chưa
phải đến phiên con tôi, vậy ngài hãy cho một con khác tôi, khi nào con
tôi lớn, chúng tôi sẽ đem hai thân để chịu chết". Lộc vương tức giận
quát rằng: "Ở đây có ai mà chẳng biết quí mạng sống?". Con Lọc cái thở
dài trả lời: "Nhưng tâu Bệ hạ, Bệ hạ thật không nhân đạo tí nào, thiếu
tình thương đồng loại, nếu Bệ hạ giết những gì chưa sanh". Ðề-bà-đạt-đa
vẫn nhất định không nghe. Con nai nay liền đến tỏ cảnh ngộ khốn cùng
cùng của mình cho Bồ tát (Lộc vương của bầy kia). Bồ tát nói với giọng
dịu hiền: "Cao quí thay trái tim của người mẹ thương những gì chưa được
sống. Hôm nay ta sẽ chịu chết thế cho người. Vì ta không có quyền bắt
buộc ai khác phải chịu số phận này...".
Rồi Lộc vương đi đến cung Vua và đặt đầu mình trên bàn đợi người đồ tể
cắt cổ! Những người đi đường hay chuyện ấy, truyền tin cho nhau và nói
rằng: "Lộc vưong thật là kỳ diệu". Dân chúng cùng các quan viên vội vã
đến xem. Khi nghe tin này, Vua không tin là sự thật. Nhưng đến khi người
thị vệ vào tâu lại sự thật là thế, nhà vua mới tin. Ðoạn vua hỏi Lộc
vương rằng: "Tại sao ngươi lại đến đây?". Lộc vương tâu: "Một con Lộc
mang đến lượt phải chết, tôi không nỡ lòng nào để một con Lộc chưa phải
sinh phải chịu chết oan, nên tôi đến thay thế cho con Lộc có mang ấy".
Vua nghe rồi thở dài và nói rằng: "Ta thật có một thân người, nhưng
không giống như con Lộc, trái lại con Lộc này tuy mang thân Lôc nhưng có
những điều khác lạ hơn loài người". Nhà Vua thương xót cam động và tha
cho Lộc vương, không bắt buộc mỗi ngày phải nạp một con Lộc nữa. Vua để
cả khu rừng cho loài Lộc ở và vì thế khu rừng này được gọi là khu rừng
của loài Lộc (Lộc uyển. Migadàya)".
Câu chuyện trên đây cho ta rõ nguyên thủy tên gọi của chỗ này. Thật là
xứng hợp. Từ đó khu rừng này trở thành một địa điểm tốt đẹp, an lành của
loài Lộc, cho đến thời đức Phật. Những tượng tả các sự tích trong đời
sống đức Phật đều có vẽ hai con Lộc hai bên, ở giữa là Pháp luân. Hiện
nay còn có một đàn Lộc ở sau chùa Mulagandhakuti. Chúng tôi có đến xem
và chụp ảnh kỷ niệm.
Như đã nói ở trên, đức Phật an cư 3 tháng đầu tiên tại chỗ này, sau khi
Ngài đắc đạo, Sarnath hình như không phải là chỗ thường trú của đức Phật
và các đệ tử thân tín của Ngài. Có thể Ngài chỉ đến thăm hai hay ba lần
sau khi chuyển pháp luân. Nhưng các đệ tử Ngài thường đến tu hành tại
chỗ này. Ðiều chắc chắn là cuối thế kỷ thứ tư trước T.L Sarnath trở
thành một nơi rất quan trọng. Khi Vua A Dục lên ngôi, chỗ này trở thành
một địa điểm rất thạnh hành của Phật giáo. Vua A Dục có dựng nhiều trụ
đá để kỷ niệm, nhưng tiếc hiện nay không tìm thấy, trừ trụ đá đã nói
trên kia. Sau Vua A Dục, chúng ta không được biết lịch sử nối tiếp của
Sarnath. Chỉ khi ngài Pháp Hiển đến thăm vào thế kỷ thứ năm, chúng ta
mới biết được thêm. Theo ngài Pháp Hiển, Sarnath là một nơi phồn thịnh.
Như vậy chắc một vài thế kỷ trước cuộc chiêm bái của Ngài, chỗ đó là nơi
phồn thịnh, nhưng có lẽ là thời kỳ phồn thịnh nhất là vào khoảng giữa
thế kỷ thứ ba và thứ bảy (250-650 sau Tây Lịch) như những tượng đá và
phần nhiều những đồ chạm khắc đều thuộc về thời đại trên. Hầu hết những
tháp chưa được đào lên đều chứng tỏ các vật dụng dùng làm chùa tháp cùng
các bia ký tìm được cũng đều thuộc về thời đại này. Chỉ trừ cột trụ của
vua A Dục là dựng lên vào năm 250 trước T.L. và ngôi chùa của bà Kumara
Devi là dựng lên vào năm 1192 sau T.L.
Vào thế kỷ thứ sáu, Mihircula, giặc Hung nổi lên, tàn phá chỗ này, nhưng
theo ký sự của ngài Huyền Trang thì hình như vào thế kỷ thứ bảy, chỗ này
được sửa sang lại tất cả, vì ngài không nói gì đến những dấu vết tàn
phá. Những thế kỷ sau, cũng không có gì đáng kể, chắc chỗ ấy vẫn được
thịnh vượng. Ðến thế kỷ thứ 10, Sarnath bắt đầu bị suy tàn, và dầu có
nhiều Phật tử cố gắng phục hưng, nhưng không có ảnh hưởng mấy. Bà-la-môn
càng ngày càng bành trướng mạnh, và đồ đệ Bà-la-môn giáo bắt đầu lập
những đền thờ tại chỗ này. Ðến thế kỷ thứ hai, lại bị vua Mahmud Gaznavi
đến cướp phá và cuối cùng là bị ông Kutbuddin, một tướng của vua Mahmud
Ghrori đến cướp phá tất cả những gì còn lại của Sarnath. Từ đó Sarnath
hoàn toàn bị hoàn cảnh chi phối nên các Phật tử bỏ phế, các tháp chùa bị
phá đổ, chỉ trừ hai tháp chính nói trên.
Từ thế kỷ ấy đến thế kỷ thứ 17, chúng ta không biết gì đến lịch sử
Sarnath, chắc chỗ ấy hoàn toàn bị hoang phế, dân chúng không dám lui
vãng. Năm này qua năm khác, những trận cuồng phong mang cát bụi đến
chồng chất lên, bao phủ Sarnath. Cây cối mọc lên đến nỗi toàn cảnh bị
chôn lấp dưới cỏ cây um tùm. Ðến khi những nhà khảo cổ đến đào bới để
tìm di tích, chúng ta mới được biết đến Sarnath. Ðầu năm 1834, Tướng
Makenzie đến đào lại chỗ ấy gặp nhiều di tích. Rồi đến nhà khảo cổ
Alexander Cunningham, người đã phải xuất tiền riêng để đài thọ cuộc tìm
kiếm. Những vật ông ta tìm được cất tại Viện Bảo tàng ở Calcutta. Nên
biết rằng thời ấy một số tượng cùng gạch đá ở Sarnath đều đem về làm
trường Queen College, cầu Duncan và nhà ga Benarès. Chỉ một cầu Duncan
cũng đã dùng đến 48 tượng đá lắm rồi. Bắt đầu năm 1851, ông Kittoe đến
đào, tìm lên được ngôi chùa và đặt tên là chùa Kittoe. Năm 1905, Viện
Bác cổ đào lên những di tích đã được nói trên.
Nhưng tất cả công nghiệp trên chỉ khiến cho một số học giả được biết đến
Sarnath, còn dân chúng nhất là Phật tử bốn phương không một ai nghĩ đến
Phật tích quan trọng này. Phải đợi đến khi ngài Dharmapala đến tại chỗ
này, vào năm 1891, mới có một cuộc phục hưng Phật giáo thật sự. Khi ngài
đến, Sarnath là một chỗ đầy những cây dại, và là chỗ nuôi súc vật, nhớp
nhúa đến nỗi ngài không dám đặt chân vào. Ngài quyết định phục hưng lại
chỗ này. Trước hết ngài mua một mảnh đất, do mẹ ngài bà Kakkika
Hewavitarne Lamtani cúng tiền, để làm chỗ dựng chùa hiện tại, rồi ngài
lại mua thêm một miếng nữa do vua Raja Bhinga cúng tiền. Ngài còn có ý
định mở một lớp giáo dục tân tiến, kỹ nghệ hóa để chấn chỉnh nông
nghiệp. Nhưng các sự nghiệp của ngài phần lớn bị thất bại, vì lúc bấy
giờ dân chúng phản đối những gì mới mẻ do ngài chủ trương.
Tuy nhiên ngày nay chúng ta thấy ngài đã dựng được ngôi chùa
Mulàandhakuti, lập được nhiều trường học cho dân chúng, mở cửa nhà
thương thí v.v... Chính những công nghiệp này thức tỉnh các Phật tử tự
tích cực hoạt động mãi cho đến ngày nay và phục hồi một phần nào những
hưng thịnh đầu tiên của ngài Dhamapala thật lớn lao đối với cuộc phục
hưng Phật giáo ở Ấn độ.
Công việc chiêm bái Sarnath như vậy là xong, chúng tôi chuẩn bị hành lý
trở lại Ba-la-nại. Ðến Ba-la-nại, chúng tôi viếng Ðại học đường
Sanskrit, thuộc tiểu bang U Pradesh. Tăng sĩ các nước tòng học độ 25 vị.
Trường rất đồ sộ nguy nga, có ký túc xá. Các lớp học rộng rãi, thư viện
đầy đủ v.v... Xung quanh cây cối mát mẻ, hoa lá xinh tươi, thật là xứng
đáng một Ðại học đường của xứ này.
Bữa ngọ trai hôm ấy, do các Ðại đức sinh viên ở đây thiết đãi tại trai
đường, đã diễn ra trong bầu không khí thân mật và đầy thiện cảm. Sau khi
thọ trai, Ðại đức Phalanana hướng dẫn chúng tôi đến viếng sông Hằng
(Gange).
Bảy giờ tối hôm ấy, chúng tôi lên tàu, tiếp tục đi chiêm bái Kusinara,
nơi Phật nhập Niết Bàn.
Hai ngày ở Sarnath trôi qua một cách mau chóng. Chúng tôi ra đi trong sự
luyến cảnh mến tình và ước nguyện được chiêm bái nhiều lần nơi đức Thế
Tôn Chuyển pháp luân lần đầu tiên mà cũng là nơi thanh tịnh, mát mẻ đã
làm cho chúng tôi được nhẹ nhàng, khoan khoái.
Trong những giờ tĩnh tọa ở đây, tai chúng tôi như vắng nghe đức Phật
Chuyển Pháp Luân:
Ðây là khổ, đây là tập.
Ðây là diệt, đây là đạo.
Ðây là khổ, Ta đã biết, đây là tập, Ta đã đoạn.
Ðây là diệt, Ta đã chứng, đây là Ðạo, Ta đã tu.
Ðây là khổ, các người nên biết, đây là tập, các người nên đoạn.
Ðây là diệt, các người nên chứng, và đây là đạo, các người nên tu.
Mầu nhiệm thay cảnh Sarnath!
Kinh Chuyển Pháp Luân
(Dhammacakkapattana Sutta)
Thích Minh Châu dịch từ Pali.
Lúc
bấy giờ đức Thế Tôn gọi 5 vị Tỳ-kheo và dạy rằng: "Này các Tỳ kheo, có 2
điều thái quá, người xuất gia không nên theo. Thế nào là hai? Một là mê
đắm dục lạc, hạ liệt phàm phu không xứng Thánh hạnh, không thiệt lợi
đạo. Hai là tu khổ hạnh, khổ đau, không xứng Thánh hạnh, không thiệt lợi
đạo. Này các Tỳ kheo, chính nhờ từ bỏ hai điều thái quá này, đức Như Lai
giác ngộ con đường trung đạo, con đường đem đến pháp nhân, trí huệ, đưa
lại an tịnh, thượng trí, giác ngộ, Niết Bàn".
"Này, các Tỳ-kheo, con đường Trung Ðạo do đức Như Lai giác ngộ, con
đường đem đến pháp nhân, trí huệ, đưa lại an tịnh, thượng trí, giác ngộ.
Niết bàn là gì? Chính là con đường Thánh Tám ngành: chánh tri kiến,
chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh
niệm, chánh định. Này các Tỳ kheo, chính con đường ấy là con đường trung
đạo, do đức Như Lai chứng ngộ, con đường đưa đến pháp nhãn, trí huệ, đem
đến thanh tịnh, thượng trí, giác ngộ và Niết Bàn".
"Này các Tỳ-kheo, đây chính là Khổ thánh đế: sanh là khổ, già là khổ,
bệnh là khổ, chết là khổ, oán ghét gặp nhau là khổ, thân ái biệt ly là
khổ, cầu không được là khổ, tóm lại năm uẩn chấp thủ là khổ".
"Này các Tỳ-kheo, đây chính là tập khổ thánh đế, chính là ái đưa đến
hữu, tương ứng với hỷ và tham, tìm cầu hoan lạc chỗ này chỗ kia, chính
là dục ái, vô sanh ái".
"Này các Tỳ kheo, đây chính là diệt khổ thánh đế, chính là sự diệt tận,
vô dục, từ bỏ, xã ly, giải thoát, tự tại đối với các ái".
"Này các Tỳ-kheo, đây chính là đạo diệt khổ thánh đế, đưa đến diệt khổ,
chính là con đường Thánh Tám ngành: chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh
ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định".
"Này các Tỳ-kheo Pháp khổ thánh đế này, đối với các pháp từ trước, chưa
từng được nghe, chính tự nơi Ta sanh nhãn, sanh trí, sanh huệ, sanh
minh, sanh quang. Này các Tỳ-kheo, pháp tập khổ thánh đến cần phải đoạn
diệt này đối với các pháp từ trước chưa từng được nghe, chính tự nơi Ta
sanh nhãn, sanh trí, sanh huệ, sanh minh, sanh quang. Này các Tỳ kheo,
pháp tập khổ thánh đế đã được đoạn diệt này, đối với các pháp từ trước
chưa từng được nghe, chính tư nơi Ta sanh nhãn, sanh trí, sanh huệ, sanh
minh, sanh quang".
"Này các Tỳ kheo, đây là diệt khổ thánh đế, đối với các pháp từ trước
chưa từng được nghe, chính tự nơi Ta sanh nhãn, sanh trí, sanh huệ, sanh
minh, sanh quang. Này các Tỳ-kheo, pháp diệt khổ thánh đế cần phải chứng
ngộ này, đối với các pháp từ trước chưa từng được nghe, chính tự nơi Ta
sanh nhãn, sanh trí, sanh huệ, sanh minh, sanh quang. Này các Tỳ kheo,
pháp đạo diệt khổ thánh đế cần phải tu tập này, đối với các pháp từ
trước chưa từng được nghe, chính tự nơi Ta sanh nhân, sanh trí, sanh
huệ, sanh minh, sanh quang. Này các Tỳ kheo, pháp đạo diệt khổ thánh đế
đã được tu tập này, đối với các pháp từ trước chưa từng được nghe, chính
tự nơi Ta sanh nhãn, sanh trí, sanh huệ, sanh minh, sanh quang".
"Này các Tỳ kheo, nếu tri kiến như thực của Ta, đối với bốn pháp thánh
đế này cùng tận ba chuyển, mười hai luân, không hoàn toàn thanh tịnh,
thời Ta không tuyên bố với các hàng Chư thiên, Ma vương, Phạm thiên, với
các chúng Sa-môn và Bà-la-môn gồm cả nhơn thiên rằng: Ta đã chứng ngộ Vô
thượng đẳng Chánh đẳng, chánh giác. Này các Tỳ kheo, khi tri kiến như
thật của Ta đối với bốn pháp thánh đến này, cùng tận ba chuyển, mười hai
luân hoàn toàn thanh tịnh, chỉ khi ấy, này các Tỳ kheo, Ta mới tuyên bố
với các Chư thiên, Ma-vương, Phạm thiên và các chúng Sa môn và Bà-la-môn
gồm cả nhơn thiên rằng: "Ta đã chứng ngộ Vô thượng Chánh đẳng, Chánh
giác. Và chính nơi Ta, tri kiến sanh; tâm Ta đã được giải thoát chắc
chắn. Ðây chính là đời sống cuối cùng cuả Ta. Nay không có đời sống nào
khác nữa".
Ðức Thế Tôn thuyết pháp như vậy. Chúng năm vị Tỳ kheo hoan hỉ tán thán
lời đức Thế Tôn. Khi đức Thế Tôn giảng kinh này, Tôn giả Kondanna (Kiều
Trần Như), chứng được Pháp nhãn thanh tịnh, không cấu nhiễm và chứng ngộ
rằng: các pháp do tập sanh đều là những pháp phải bị diệt.
Khi đức Thế Tôn Chuyển pháp luân, chư thiên ở quả đất này la lớn tiếng
rằng: "Nay tại Ba-la-nại, chư thiên đọa xứ, vườn Lộc. Vô thượng pháp
luân đã được đức Thế Tôn chuyển vận, Pháp luân này chưa từng được
Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Ma, Phạm thiên nào hoặc một ai ở thế giới này
chuyển vận". Khi được nghe chư Thiên ở cõi đất này la lớn tiếng như vậy,
bốn vị Thiên vương cũng la lớn rằng: "Nay tại Ba-la-nại, Chư thiên đọa
xứ, vườn Lộc, Pháp luân vô thượng này đã được đức Thế Tôn chuyển vận.
Pháp luân này chưa từng được Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Ma, Phạm thiên
nào, hoặc một ai ở thế giới này chuyển vận". Khi được nghe bốn vị Thiên
vương la lớn tiếng như vậy, chư thiên các cõi Tam-thập-tam thiên...
Dạ-ma-thiên... Ðâu suất thiên, Hóa lạc thiên... Tha-hóa-tự-tại-thiên và
chư thiên ở cõi Phạm thiên đều la lớn tiếng rằng: "Nay tại Ba-la-nại,
chỗ chư thiên đọa xứ, vườn Lộc, Pháp luân vô thượng này đã được đức Thế
Tôn chuyển vận, Pháp luân này chưa từng được Sa môn, Bà-la-môn, Thiên,
Ma, Phạm thiên nào hoặc một ai ở thế giới này chuyển vận".
Chính tại lúc ấy, thời gian ấy, sát na ấy, tiếng la lớn thấu cõi Phạm
Thiên và như vậy cả 10 ngàn thế giới đều rung động, chuyển động, chuyển
động qua lại và một hào quang vô tận, tối thắng phát chiếu ở cõi đất
này, thắng xa ánh sáng của hàng Chư Thiên.
Lúc ấy, đấng Thế Tôn tuyên bố lớn tiếng rằng: "Chính Kiều Trần Như như
đã chứng hiểu". Như vậy Ðại đức Kiều-Trần-Như đã được đặt tên là
Annatakondanno "
(Dịch theo bản Pàli Mahàvagga).
Sau đây là bài pháp thứ hai của đức Phật thuyết tại vườn Lộc.
Kinh Vô Ngã Tướng (Anatta
Lakkhana Sutta)
Thích Minh Châu dịch theo bản Mahàvaga.
"Như
vầy tôi nghe: Một thời đức Thế Tôn trú tại thành Ba-la-nại, chỗ chư
thiên đọa xứ (Isipatana), vườn lộc (Migadàya).
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn gọi chúng 5 vị Tỳ-kheo rằng: "Này các Tỳ-kheo".
Các vị Tỳ-kheo ấy trả lời: "Bạch Ðức Thế Tôn". Ðức Phật giảng như vầy:
"Này các Tỳ kheo, sắc không phải là ngã. Này các Tỳ-kheo, nếu sắc là
ngã, thời sắc này sẽ không bị bệnh hoạn và chúng ta có thể nói "Sắc" của
tôi sẽ phải như thế này"! Này các Tỳ kheo, vì sắc không phải là ngã, nên
sắc phải bị bệnh hoạn, và chúng ta không thể nói được rằng: "Sắc của tôi
không phải như thế này; sắc của tôi sẽ không phải như thế này".
"Này các Tỳ-kheo, thọ không phải là ngã, này các Tỳ-kheo, nếu thọ là
ngã, thời thọ sẽ không bị bệnh hoạn, và chúng ta có thẻ nói: "Thọ của
tôi sẽ phải như thế này. Thọ của tôi sẽ không phải như thế này". Này các
Tỳ-kheo, vì thọ không phải là ngã, nên thọ phải bị bệnh hoạn và chúng ta
không thể nói: "Thọ của tôi sẽ phải như thế này. Thọ của tôi sẽ không
phải như thế này".
"Này các Tỳ-kheo, tưởng không phải là ngã. Này các Tỳ-kheo, nếu tưởng là
ngã, thời tưởng này sẽ không bị bệnh tật, và chúng ta có thể nói: "Tưởng
của tôi sẽ phải như thế này. Tưởng của tôi sẽ không phải như thế này".
Này các Tỳ-kheo vì tưởng không phải là ngã, nên tưởng phải bị bệnh tật
và chúng ta không thể nói được rằng: "Tưởng của tôi sẽ phải như thế này;
Tưởng của tôi sẽ không phải như thế này".
"Này các Tỳ-kheo, hành không phải là ngã. Này các Tỳ-kheo, nếu hành là
ngã thời hành này sẽ không bị bệnh tật, và chúng ta có thể nói: "Hành
của tôi sẽ phải như thế này; hành của tôi sẽ không phải như thế này".
Này các Tỳ-kheo, vì hành không phải là ngã, nên hành phải bị bệnh tật,
và chúng ta không thể nói được rằng: "Hành của tôi sẽ phải như thế này,
hành của tôi sẽ không phải như thế này".
"Này các Tỳ-kheo, thức không phải là ngã. Này các Tỳ-kheo, nếu thức là
ngã thời thức này sẽ không bị bệnh tật, và chúng ta có thể nói: "Thức
của tôi sẽ phải như thế này; thức của tôi sẽ không phải như thế này".
Này các Tỳ-kheo, vì thức không phải là ngã, nên thức phải bị bệnh tật,
và chúng ta không thể nói được rằng: "Thức cuả tôi sẽ phải như thế này,
thức của tôi sẽ không phải như thế này".
"Này các Tỳ kheo, sắc là thường hay vô thường?" - "Bạch Thế Tôn là vô
thuòng" - "Những gì vô thường là khổ hay lạc?" - "Bạch Thế Tôn, là khổ"
- "Có hợp lý chăng khi cho những gì vô thường, khổ bị thay đổi là: "Cái
này là của tôi, tôi là như thế này, cái này là ngã của tôi" - "Bạch Thế
Tôn! Không thể như vậy".
"Này các Tỳ-kheo, thọ là thường hay vô thường?" - "Bạch Thế Tôn, là vô
thường" - "Những gì vô thường là khổ hay lạc?" - "Bạch Thế Tôn là khổ" -
"Có hợp lý chăng khi cho những gì là vô thưòng, khổ, bị thay đổi là:
"Cái này là cuả tôi, tôi là như thế này, cái này là tự ngã của tôi?" -
"Bạch Thế Tôn, không thể như vậy".
"Này các Tỳ-kheo, tưởng là thường hay vô thường?" - "Bạch Thế Tôn, là vô
thường" _ "Những gì vô thường là khổ hay lạc?" - "Bạch Thế Tôn, là khổ"
- "Có hợp lý chăng, khi cho những vì vô thường, khổ, bị thay đổi là:
"Cái này là của tôi, tôi là như thế này, cái này là tựo ngã của tôi?" -
Bạch Thế Tôn, không thể như vậy".
"Này các Tỳ-kheo, hành là thường hay vô thường?" - Bạch Thế Tôn, là vô
thường" - "Những gì vô thường là khổ hay lạc?" - "Bạch Thế Tôn, là khổ"
- "Có hợp lý chăng khi cho những gì vô thường khổ, bị thay đổi là: "Cái
này là của tôi, tôi là như thế này, cái này là tự ngã của tôi?" - "Bạch
Thế Tôn, không thể như vậy".
"Này các Tỳ-kheo, thức là thường hay vô thường?" - "Bạch Thế Tôn, là vô
thường" - "Những gì vô thường là khổ hay lạc?" - Bạch Thế Tôn, là khổ" -
"Có hợp lý chăng khi cho những gì vô thường, khổ bị thay đổi là: "Cái
này là cuả tôi, tôi là như thế này, cái này là tự ngã của tôi?" - "Bạch
Thế Tôn, không thể như vậy".
"Vậy nên, này các Tỳ-kheo, tất cả các sắc hiện tại, quá khứ hay vị lai,
nội tâm hay ngoại cảnh, thô hay tế, hạ liệt hay cao sang, xa hay gần,
tất cả các sắc ấy "Không phải là của tôi, không phải là tôi, không phải
là tự ngã cuả tôi". Chính như vậy, chúng ta phải quán xét với như thật
chánh kiến".
"Vậy nên, này các Tỳ kheo, tất cả các thọ hiện tại, quá khứ hay vị lai,
nội tâm hay ngoại cảnh, thô hay tế, hạ liệt hay cao sang, xa hay gần,
tất cả các thọ ấy "Không phải cuả tôi, không phải là tôi, không phải là
tự ngã của tôi". Chính như vậy, chúng ta phải quán xét với như thật
chánh kiến".
"Vậy nên, này các Tỳ-kheo, tất cả các tưởng hiện tại, quá khứ hay vị
lai, nội tâm hay ngoại cảnh, thô hay tế, hạ liệt hay cao sang, xa hay
gần, tất cả các tướng ấy "Không phải là của tôi, không phải là tôi,
không phải là tự ngã của tôi". Chính như vậy, chúng ta phải quán xét với
như thật chính kiến".
"Vậy nên, này các Tỳ-kheo, tất cả các hành hiện tại, quá khứ hay vị lai,
nội tâm hay ngoại cảnh, thô hay tế, hạ liệt hay cao sang, xa hay gần,
tất cả các hành ấy "Không phải của tôi, không phải là tôi, không phải là
tự ngã của tôi". Chính như vậy, chúng ta phải quán xét với như thật
chánh kiến".
"Vậy nên, này các Tỳ-kheo, tất cả các thức hiện tại, quá khứ hay vị lai,
nội tâm hay ngoại cảnh, thô hay tế, hạ liệt hay cao sang, xa hay gần,
tất cả các thức ấy "Không phải của tôi, không phải là tôi, không phải là
tự ngã của tôi". Chính như vậy, chúng ta phải quán xét với như thật
chánh kiến".
"Này các Tỳ-kheo, chính nhờ quán xét như vậy, mà các bậc Ða văn, các
thánh đệ tử, chán ghét sắc, chán ghét thọ, chán ghét tưởng, chán ghét
hành, chán ghét thức. Nhờ chán ghét, sanh xả ly, nhờ xả ly thành giải
thoát. Các vị ấy hiểu rằng: "Ta đã được giải thoát, sanh đã diệt, phạm
hạnh đã thành, những điều phải làm đã làm, không còn phải sanh lại một
đời khác nữa".
Ðức Thế Tôn thuyết như vậy. Các vị Tỳ-kheo hoan hỷ tán tán lời dạy đức
Thế Tôn. Khi lời dạy nay được tuyên thuyết như vậy, năm vị Tỳ-kheo không
còn chấp thủ, tâm trí giải thoát các món lậu hoặc.
"Lúc bấy giờ, ở đời này có sáu vị A-la-hán".
"Phật sanh tại vườn hoa
Ðạo Ngài lưu bể rộng
Trả lại chỗ bản sinh
Ngài xả thân huyền mộng".
(Hoàng hậu Mahamaya Kinh Du Hành).
Ðáp
tàu Vanarasi - Gorakhpur vào lúc 10 giờ đêm, chúng tôi đến Gorakhpur khi
trời vừa sáng. Chúng tôi phải sang qua xe buýt đi thêm một đoạn đường
dài 54 cây số nữa mới đến Câu-thi-na, nơi đức Phật nhập Niết Bàn.
Càng về phía Bắc trời càng
lạnh. Nắng sớm cuối thu không làm tan nổi một trời sương dày dặc. Bóng
hai hàng cây bên đường bao phủ lấy chúng tôi. Tốc độ của xe càng lúc
càng tăng trên khoảng đường vắng. Gió theo cửa sổ lọt vào quạt lạnh hanh
khách trên xe. Mọi người đều im lặng và ra chiều suy nghĩ. Riêng chúng
tôi, nỗi buồn thắm thiết của người con mới được phép trở về thăm một cha
sau khi nghe được tin cha mất từ lâu, đeo nặng bên lòng từ khi cất bước
lên xe. Muốn nói chuyện cho đỡ buồn, nhưng nhìn sang bên cạnh thấy thầy
Passadika đang lặng nhìn về phía Câu-thi-na chúng tôi không muốn quấy
rầy thầy, rồi để mặc cho nỗi buồn xâm chiếm.
Xe dừng trước chùa Miến Ðiện,
tất cả chúng tôi mang hành lý vào và xin ở lại đây. Chùa dựng trên một
khu đất khá rộng, bên cạnh rừng Sa-la. Ngoài chánh điện, chùa còn có
Tăng xá, khách xá, nhà trù và một trường học năm lớp để dạy cho dân
chúng quanh vùng. Ðại đức Chandhamani, người Miến, trụ trì chùa này đã
hơn 40 năm, người có phước tướng, đức độ, trang nghiêm và giản dị. Kẻ ăn
người ở trong chùa, nhờ sự giáo hóa cuả các Ðại đức, đều biết khuôn phép
cung kính và phụng sự Chư Tăng. Chúng tôi tắm giặt và nghỉ ngơi tại đây
đến chiều mới sang rừng Sa-la. Trong thời gian nghỉ ngơi, chúng tôi đọc
lại tài liệu về Câu-thi-na và xem xét quang cảnh chung quanh.
1. Lịch
sử Câu-thi-na
Câu-thi-na là một trong bốn
thánh tích quan trọng: Lâm-tỳ-ni, nơi đức Phật đản sanh. Bồ đề Ðạo tràng
nơi đức Phật Thành Ðạo, Lộc Uyển, nơi đức Phật Chuyển pháp luân và
Câu-thi-na nơi đức Phật nhập Niết bàn. Sau khi Ðức Phật nhập Niết bàn,
hai nước Mallas và Vajjians bị chiếm và ghép vào nước Magadha. Khi ngài
Pháp Hiển đến thăm (vào thế kỷ thứ năm) thì chỗ này vắng người và hoang
vu. Chùa chiền đều bị đổ nát. Nhưng đến cuối thế kỷ thứ 5 thì vị Svami
Haribala dựng lại một ngôi tháp chính. Mãi cho đến năm 1825, ông Carlyle
mới bắt đầu đến đào bới chỗ này. Chính ông đã tìm ra tượng đức Phật nhập
Niết bàn và sửa chữa lại. Ông có đào, dược xương cùng đồ vật bị cháy cả
trong ngoài chùa. Ðiều này chứng tỏ đã có một tai nạn cho những người
trong chùa bị chết cháy cùng với chùa. Có lẽ tai nạn này xảy ra trong
lúc giặc Hồi Giáo đến cướp phá. Công việc đào bới vẫn được tiếp tục
nhưng thường bị gián đoạn; cho đến năm 1912 thì dừng hẳn. Vogel và
Pandit Hirananda Sastrra là hai vị học giả chú tâm nghiên cứu thánh tích
này. Vị Tỳ-kheo tên là Mahabir ngưòi Ấn Ðộ là người đầu tiên lập một
ngôi chùa ở đây để phục hưng Phật giáo. Sau khi xuất gia ở Tích Lan, vị
này đến đây, dựng một chòi nhỏ để ở; rồi ông Khee Zharee giúp đỡ tài
chánh để lập một pháp xã vừa để khách thập phương đến trú vừa làm chỗ ở
của mình. Sau đó Ðại đức Chandhamani tiếp tục công việc. Hiện nay
Câu-thi-na tuy ở vào một nơi xa xuôi hẻo lánh nhưng không đến nỗi quê
kịch. Dọc theo đường đến rừng Sa-la, ngoài chùa Miến Ðiện còn có chùa
Trung Hoa, Tây tạng, Pháp xá Birla, khách xá của chính phủ và độ 9, 10
nhà của thường dân. Trường trung học ở đây cũng rộng rãi và sạch sẽ. Ðất
đai xem rất phì nhiêu. Hoa màu phong phú. Dân chúng ở các làng chung
quanh có vẻ thanh lịch hơn các nơi khác. Sự tín ngưỡng của họ không tào
tạp vì ở đây ít có các đền Ấn giáo. Một số đã qui y Tam bảo.
2. Các
thánh tích
Mọi hôm, ở các nơi khác, sau
khi tới chỗ là tất cả chúng tôi đều hăm hở đến chiêm bái các thánh tích
ngay. Hôm nay ở đây, không ai bảo ai, tất cả đều không muốn chậm trễ
công việc quan trọng ấy. Qua những bộ mặt trầm ngâm, giọng nói nhỏ lại,
chúng tôi biết rằng tất cả như muốn lẩn tránh sự phải chứng kiến cảnh
tượng đau buồn được chừng này hay chừng ấy.
Sau buổi trà chiều, Thượng
tọa Thích Minh Châu bảo: "Thôi hè; chúng ta hãy sang rừng Sala vào buổi
chiều". Cây lá sẫm màu. Hoa không còn tươi nữa. Nước hồ im lìm in hình
ngôi cổ tháp. Những tia vàng yếu ớt không xuyên nổi những tàn cây mát
lạnh. Gió chiều lay nhẹ những cành Sala. Cảnh vật đượm một màu ngói
gạch. Rồi chúng tôi từ từ bước lên chùa thờ tượng Phật Niết Bàn.
a. Chùa thờ tượng Phật Niết
Bàn
Chùa xây trên một nền gạch
cao độ 2 thước, chung quanh là hồ sen, tiếp đó là rừng cây. Lối kiến
trúc khác lạ hơn những chùa mà chúng tôi đã từng thấy. Mái chùa là một
vòng cung nhọn lên ở giữa. Chùa có bề rộng, không sâu, chỉ đủ thờ một
pho tượng Niết bàn. Màu vôi phía trong hòa với ánh sáng chiếu qua các
cửa kính trên nóc làm cho điện Phật tăng thêm phần huyền ảo. Phật trong
cử chỉ nằm dài, đầu quay về phương bắc, diện hướng đến phía nam, hai
chân chồng lên nhau như lúc Ðức Phật nhập Niết bàn. Tượng dài đến 7
thước và được tôn trí trên bệ đá được tạc trong một tảng đá Chunar
nguyên. Nghệ thuật điêu khắc nổi tiếng của thợ Mathura làm cho tượng đầy
đủ 32 tướng tốt, 82 vẻ đẹp và diện tượng biểu lộ được những đức Từ, Bi,
Hỷ, Xả. Như thường lệ, khi đến một thánh tích là chúng tôi tụng kinh cầu
nguyện. Ðặc biệt ở đây trong tiếng tụng niệm của tất cả chúng tôi như có
một cái gì xót xa ảo não. Có lẽ nhờ im lặng (vì không tụng được tiếng
Việt0 nên thầy Pasadika xúc cảm một cách đầy đủ qua sắc tướng lẫn âm
thanh. Những tiếng "thít" của thầy hòa với tiếng tụng kinh của Thượng
tọa Minh Châu và hai chúng tôi tạo thành một ban nhạc Niết-bàn lâm ly
nhưng siêu thoát.
Thú thật, chúng tôi không dám
nhìn lên tượng. Vì cứ nhìn hơi lâu một chút là xao xuyến trong lòng và
hai hàng nước mắt ròng ròng tuôn chảy. Cảnh tượng quằn quại khóc lóc của
ngài A-nan và hàng ngàn Phật tử trước giờ phút phải ly biệt đức Thầy cao
cả cứ liên tiếp diễn ra trong tâm trí chúng tôi. Bấy giờ chúng tôi mới
thông cảm được sự đau xót của ông Tu-bạt-đà-la, một cụ già được Phật độ
nên đã viên tịch trước Phật. Tụng kinh xong, chúng tôi không tìm thấy
thầy Huyền Vi đâu cả. Thì ra, thầy đang ngồi ngoài sân, nơi một góc
tường cũ, mặt cúi xuống, trên hai tay. Biết thầy đang bị xúc động mạnh,
chúng tôi không dám gọi và để yên cho thầy được tự nhiên với dòng xúc
cảm thiêng liêng của thầy.
a. Tháp Mahaparanirvana
Lễ Phật xong, chúng tôi tất
cả ra ngoài và đi nhiều xung quanh tháp Mahàparinirvàna. Tháp nằm về
phía đông của chùa chính nơi đức Phật nhập Niết Bàn. Bộ lạc Malla xây
tháp này để tôn thờ phần ngọc Xá Lợi mà họ được chia. Tháp hình tròn,
không cửa, đường kính độ 8 thước. Khi ngài Huyền Trang thấy thì tháp cao
hơn 50 thước nay chỉ còn 15 thưóc. Ba tháng trước khi nhập Niết Bàn, đức
Phật nói với ngài A nan, Ngài sẽ nhập Niết Bàn và bảo ngài A-nan lựa khu
rừng thuộc bộ lạc Malla này làm nơi xả bỏ xác thân của Ngài. Ngài A-nan
rất ngạc nhiên, vì không hiểu tại sao Ðức Phật lại lựa chỗ xa vắng và ít
đệ tử để nhập Niết bàn. Vì chưa chứng A-la-hán nên ngài A-nan không hiểu
được tôn ý của Phật. Theo chúng tôi, có lẽ vì không muốn nhiều đệ tử khổ
buồn khi phải chứng kiến cảnh biệt ly giữa thầy trò nên Ðức Phật không
nhập Niết Bàn ở những nơi thị tứ, đông đệ tử như Vương xá, Ba-la-nại,
Xá-vệ v.v...
Ðể trấn áp những sự buồn tiếc
đang dâng trào, chúng tôi vừa đi vừa suy nghĩ lời của ngài A-nâu-lâu-đà
nói với ngài A-nan khi ngài A-nan khóc lóc và bảo đức Phật đã mất:
"Này A-nan và các sư huynh! Ðức Thế Tôn không phải chết mất mà đi vào
một nơi an lạc thường tịch". Và một điều nữa làm cho chúng tôi suy
nghĩ nhiều là Ðức Phật sinh ra dưới gốc cây Vô-ưu, đắc đạo dưới gốc Bồ
đề, chuyển pháp luân trong vườn Lộc và nhập Niết Bàn dưới những cây
Sala. Ôi! Cao đẹp thay đức giải thoát của Ðấng Từ Bi!
Sau đó nhờ đọc các bia đá,
chúng tôi biết tháp được sửa lại nhiều lần trong nhiều thời kỳ và vào
thế kỷ thứ 5 sau T.L. được sửa lại một lần nữa. Trong khi đào bới chỗ
này để tìm di tích, người ta có đào được một cái ghè bằng đồng đầy những
vật có giá trị. Có một tấm đồng khắc chữ Sanskrit nói về "Thập nhị nhân
duyên" và ghi rằng đó là vật cúng dường của vị Svami Haripala. Ðó là tấm
đồng đặt trong tháp đức Phật nhập Niết bàn. Ngọn tháp ngài Huyền Trang
thấy chắc là ngọn tháp này. Chúng tôi không hiểu ngọn tháp này bị hư sụp
lúc nào. Có lẽ trong thời kỳ Hồi Giáo tàn phá. Viện Bác Cổ của chính phủ
hoàn thành công việc đào bới và sửa chữa vào năm 1912. Nhưng chính nhờ
một Phật tử Miến Ðiện, ông U Po-Kya, tháp này mới được trang nghiêm như
ngày nay.
c. Khu vực được đào bới để
khảo cổ
Nhiễu tháp xong, chúng tôi đi
vòng qua phía trước chùa để xem khu vực được Viện Bác Cổ đào bới để khảo
cổ. Ðây là một khu đất rộng độ 500 thước vuông, toàn là nền gạch cũ của
nhiều tinh xá và tịnh thất. Bia ký tìm được ghi rằng cả khu vực này được
gọi là tinh xá Mahaparinirvana. Ngoài ra còn có những tinh xá nhỏ chung
quanh như Vishnu Dviparinirhara, Bhadanta Suviravihara, v.v... Giếng
nước trong và ngọt mà ngài Huyền Trang đã thấy vẫn còn nằm bên cạnh hồ
và gần khu tinh xá. Sa-la chỉ còn có bốn cây lớn mọc song đôi với nhau.
Viện Bác cổ đang cho trồng lại rất nhiều cây Sa-la con khắp cả khu rừng.
Chúng tôi rảo bước khắp các neo đường trong khu rừng lúc trời đang thẫm
lại. Tiếng chĩu chít của chim, giọng gọi đàn của những con vượn gọi lên
trong lòng chúng tôi những tâm tình man mác:
"Ngày tàn theo gót hoàng hôn
Bóng chiều đổ xuống gợi lòng bâng khuâng.
Thông xanh rải rác phấn vàng.
Nghe trong gió thoảng cung đàn biệt ly". (H.K.)
Không dám để cho tâm tư tản
mát thêm nữa, chúng tôi thầm tụng bài kệ của đức Phật và ngài Văn Thù đã
dạy về lẽ Vô thường:
"Ngày nay đã qua,
Mạng sống cũng giảm,
Như cá ít nước,
Nào vui sướng gì?
Ðại chúng! Cần phải tinh tấn!
Như cứu dầu cháy,
Chỉ niệm vô thường,
Ðừng có buông lung".
Vừa đi vừa suy nghĩ, chúng
tôi ra khỏi khu rừng khi nào không biết
d. Nơi cử hành lẽ Trà tỳ,
Angra Chatya
Chúng tôi đi thăm Angra
Chatya vào buổi mai ngày 19 tháng 10. Hôm nay trời nắng đẹp nhưng lòng
chúng tôi không có một sự thay đổi nào. con đường đưa đến nơi cử hành lễ
phần hóa nhục thân của đức Phật tuy rộng lớn nhưng chỉ có 4 người chúng
tôi đi. Sự vắng vẻ của con đường giúp chúng tôi nhớ lại những sự việc
trang nghiêm long trọng đã xảy ra trong buổi lễ trà tỳ mà chúng tôi đã
được đọc thấy trong kinh Niết-bàn. Và lời dạy của đức Phật về bổn phận
hoằng pháp của giới xuất gia và hộ pháp của tại gia ghi đậm một lần nữa
vào tâm khảm chúng tôi:
"Này A-nan! Người đừng nghĩ gì về lễ nghi đối với thi hài của Như Lai.
Ta chỉ mong A-nan và các đệ tử xuất gia tinh tiến trong công việc giải
thoát. Việc lo liệu về thi hài của Như Lai đã có hàng cư sĩ,
Bà-la-môn, Trưởng giả, những đệ tử tại gia của Như Lai".
Ngôi tháp được dựng lên để kỷ
niệm chính nơi nhục thân của đức Phật được phân hóa không còn nguyên
hình nữa mà chỉ là một ngôi mộ vĩ đại bao phủ một lớp cỏ xanh. Không có
nơi để tụng niệm nên chúng tôi chỉ thắp hương, đảnh lễ rồi nhiễu quanh
tháp theo con đường đầy hoa lá. Một sự ước mong vô vọng đến với chúng
tôi là ước mong tìm được một vài viên ngọc Xá-lợi rơi rớt đây đây. Rồi
hình ảnh Ðức Phật vận dụng thần thông làm bật nắp kim quang để vái chào
thân mẫu, hoàng hậu Ma-Gia, từ cung trời Ðao Lợi xuống từ biệt. Một hình
ảnh khác là Ðức Phật đưa hai chân ra khỏi kim quang để ngài Ca Diếp,
người đệ tử già nua đạo hạnh đang hoằng pháp nơi xa về trễ, được đón
tiếp nồng hậu. Tuy sơ ngộ nhưng chúng tôi vô cùng kính phục con người
dũng cảm này: Vì đạo hạnh người đã dứt bỏ những tình cảm hẹp hòi lẩn
quẩn trong biên giới để đến đây sống một đời sống cô thân chích ảnh.
Trước khi ra về, tìm trong xách chỉ có một gói mứt gừng, chúng tôi dâng
lên Ðại đức món quà quê hương quí báu ấy, rồi từ giã người trong sự nhẹ
nhàng khoan khoai; bấy giờ những tình cảm vẩn vơ, nhớ nước, thương nhà
không còn lảng vảng trong tâm tư chúng tôi nữa.
Trong hai ngày ở lại
Câu-thi-na, buổi mai, buổi tối chúng tôi đều đến rừng Sa-la tụng kinh và
thiền định. Trong các thánh tích quan trọng, Câu-thi-na là nơi chúng tôi
hưởng được nhiều đạo vị hơn hết. Tối hôm ấy, sau khi tụng kinh ở chánh
điện xong một mình chúng tôi ra ngoài, ngồi trên tảng đá dưới một gốc cổ
thụ huớng về Ðại tháp để tĩnh tâm. Trăng thượng tuần không to lắm. Ánh
sáng chỉ đủ hồ bốc lên. Sương đêm trên trời sa xuống. Chúng tôi được hòa
mình trong cảnh sắc vừa mông lung vừa huyền ảo. Nhờ đó, những ý đạo chân
thành tuôn trào một cách dễ dàng và êm ái. Xét lại sự nghiệp tu hành,
chúng tôi nửa vui nửa buồn: vui vì nhờ gặp được minh sư, thiện hữu nên
sự tu học có nhiều thuận duyên; buồn vì đã không sao khỏi vấp váp trên
đường đi đến chân trời giải thoát. Tâm trạng của chúng tôi lúc này không
khác lắm với tâm trạng của ngài A-nan: ngài A-nan đã tủi buồn, lo lắng
trước khi đức Phật nhập Niết bàn. Ngài lo buồn vì những lỗi lầm đã trót
phạm chưa được tiêu trừ và có thể tái phạm. Trong khi đó, đức Phật lại
nhập Niết bàn. Ai là người thương yêu và nâng đỡ cho mình trên con đường
tu đạo và đắc đạo. Nghĩ đến đây, hình ảnh già nua tuổi tác cuả Bổn sư
chúng tôi, Hòa thượng Tây Thiên, hiện ra và làm cho chúng tôi càng lo
buồn hơn nữa vì nghĩ rằng không có gì bất hạnh cho chúng tôi hơn là nếu
không được gặp mặt Bổn sư lần cuối cùng trước khi người về cõi Phật.
Chúng tôi đang đắm mình trong sự lo buồn thì may thay những lời đức độ,
khoan hồng sau đây của đức Từ Phụ văng vẳng bên tai chúng tôi:
"Thôi thôi A-nan1 Chớ có buồn phiền than khóc! Từ trước đến nay ngươi
hầu hạ Ta với cử chỉ hiền hòa ngôn ngữ kính ái và tâm niệm hoan hỷ thì
chung như một, không sao xiết kể, ấy là ngươi đã cúng dường, nào của
chư thiên Ma-phạm, Sa-môn và Bà-la-môn cũng không sao sánh bằng được.
Ngươi hãy siêng năng lên, ngày thành Ðạo của ngươi không lâu nữa!"
(Kinh Trường A-hàm).
Chính những lời này đã đem
lại sự yên tĩnh cho tâm hồn chúng tôi và làm phấn khởi chúng tôi rất
nhiều. Một đêm khác, thay vì ngồi một chỗ, chúng tôi đi kinh hành để
tĩnh tâm. Ðã từng đi kinh hành nhiều nơi, nhưng chỉ ở nơi đây, lần đầu
tiên chúng tôi mới cảm thấy nhẹ nhàng, khoan khoái trong từng bước đi.
Trăng hôm nay sáng hơn đêm trước. Bốn bề vắng lặng. Gót chân của chúng
tôi lướt nhẹ quanh hồ. Thỉnh thoảng một vài con nhái, bị khuấy động nhạy
tõm xuống nước làm cho mặt hồ loáng cả trăng và trăng. Phải chăng đây là
hồ sen cát vàng lót đáy của cõi cực lạc? Chúng tôi càng đi càng muốn đi
và cảm thấy như đang bước đi trong một vườn hoa nào của cung trời Ðâu
Suất. Cũng tại vườn Sa-la, vào một sáng tinh sương, chúng tôi gặp ông J.
Buisseret người Bỉ, trạc độ ngũ tuần nhưng còn cứng mạnh. Ông ta cho
biết trong ba năm qua, với chiếc xe đạp cũ kỹ của ông, ông đã đi được 27
nước và viếng thăm những bệnh nhân trong các bệnh viện để an ủi và
khuyến khích họ trở về với đời sống tinh thần, đạo đức. Ba tháng vừa qua
ông đã viếng thăm rất nhiều bệnh viện ở khắp Ấn Ðộ. Ông đến đây vì công
việc viếng thăm ấy, song cảnh u tịch và trang nhã này đã hấp dẫn ông.
Ðược biết tôi là người Việt Nam ông rất vui vẻ vì trước đây, vào khoảng
năm 1946 ông có ở Việt nam và cảm nhận được tinh thần tự cường của dân
tộc Việt Nam. Gặp Thượng tọa Thích Minh Châu, câu chuyện trao đổi bằng
Pháp văn được lưu loát hơn nên không mấy chốc ông đã trở thành người bạn
quen thuộc với tất cả chúng tôi. Ông nhận lời mời ăn sáng với chúng tôi
tại chùa Miến Ðiện. Trong bữa ăn, gồm có người Việt Nam, Miến Ðiện, Ðức
và Bỉ này, những câu chuyện qua lại cũng mang màu sắc quốc tế nhưng
thiên về tinh thần và đạo đức. Tất cả chúng tôi đã đồng ý với nhau: "Nếu
nhân loại muốn sống còn và sống vui trên trái đất này không có cách nào
khác hơn là phải trở về với đời sống đạo đức". Chính ông J. Buisseret đã
nhấn mạnh: "Nhân loại hiện nay đang say điên trong giấc mộng chém giết
nhau. Có lẽ phải sau trận thế chiến thứ ba kinh khủng hơn, loài người
mới tỉnh ngộ và quay về với tình thương và chơn lý". Ông nói với một
giọng vừa trách cứ vừa xót thương. Thầy Pasadika trước kia là một sĩ
quan thiết giáp góp thêm vào câu chuyện: "Mình cho họ là điên nhưng
chính họ lại bảo những người từ bi không tàn sát là điên. Tôi đã bị bạn
bè chế nhạo và cho là khùng, trước khi tôi từ giã họ để sang đây tập
sống đời sống của Ðức Phật". Ông J. Buisseret từ giã chúng tôi sau buổi
ăn sáng và hứa sẽ đến viếng thăm các ngôi chùa lớn khi sang Việt Nam.
Trong những ngày sống ở
Câu-thi-na không lúc nào chúng tôi không buồn buồn như trong lúc tụng
kinh Niết bàn. Chính trong cảnh buồn này chúng tôi đã hưởng được nhiều
hương vị giải thoát. Hai ngày qua một cách mau chóng. Thế là chúng tôi
phải rời khỏi rừng Sa-la để sang Xá-vệ cũng vào một buổi mai đầy sương
và gió lạnh.
Ký sự
của ngài Pháp Hiển về Kusinara
"12 do tuần về phía đông, các
nhà chiêm bái đến thành Câu-di-na-kiệt (Kusinagara). Phía bắc thành này,
giữa hai cây song thọ, bên bờ sông Hy-liên-thuyền (Hiranyavati) là chỗ
đức Thế Tôn nhập Niết Bàn, đầu hướng về phía Bắc. Các tháp được dựng lên
tại những chỗ sau đây: Chỗ ngài Tu-đạt (Subhadra), vị đệ tử cuối cùng
đắc đạo chỗ đức Thế Tôn ở trong Kim quang thọ lãnh cúng dường 7 ngày;
chỗ Kim cang lực sĩ (Vajrapani) phóng cây Kim xứ, chỗ 8 vị vua phân chia
Xá Lợi, có Tăng già-lam, nay vẫn còn tồn tại. Trong thành dân cư thưa
thớt, chỉ có một số ít chúng tăng và dân làng.
Ký sự
của Ngài Huyền Trang
Ngài Huyền Trang về Kusinara
như sau:
"Kinh đô của xứ này đều bị đổ
nát, thành thị làng mạc đều hư hại và tiêu điều. Nền gạch tường của kinh
đô cũ độ 10 dặm chu vi. Có ít dân số, đường trong thành phố không có
người và bị bỏ hoang. Phía đông bắc thành phố có một ngọn tháp do vua
A-Dục dựng lên. Ðây là nhà cũ cuả Chunda. Giữa đó là một cái giếng do
ông này đào khi cúng dường thức ăn cho Phật. Dầu trải nhiều năm tháng
lụt ngập, nước vẫn trong và ngọt. Về phía Tây Bắc thành phố độ 3, 4 dặm
vượt qua sông Ajitavati, về bờ phía tây không xa lắm, chúng ta đến một
khu rừng có cây Sa-la. Cây Sa-la như cây Huk, vỏ cây màu trắng xanh, lá
lóng lánh và trơn dịu. Trong khu rừng này có bốn cây cao, có hơi khác
với các cây khác là chỗ Ðức Phật nhập Niết bàn.
"Tại chỗ này có một tinh xá
bằng gạch, trong đó là tượng đức Như Lai nhập Niết bàn. Ngài nằm đầu
hướng về hướng bắc như đang ngủ. Bên cạnh tinh xá là một ngọn tháp do
vua A Dục dựng lên, dầu đã hư sụp, những cũng còn cao gần 200 feet
(khoảng 60 thước). Trước ngọn tháp này là một trụ đá kỷ niệm đức Phật
nhập Niết Bàn; trên trụ đá có khắc chữ nhưng không có ngày tháng.
"Bên cạnh chùa không xa lắm,
có một ngọn tháp khác. Ðó là chỗ Ðức Phật lúc còn là Bồ Tát, sanh làm
vua một bầy chim trĩ, và dập tắt một đám lửa. Cũng gần ngôi tháp này, có
một ngọn tháp khác ghi sự tích Bồ Tát trước khi xuất gia tu hành, sống
làm thân con nai cứu độ nhiều chúng sanh.
"Phía Tây không xa lắm, có
một ngọn tháp. Ðây là chỗ ngài Subhadra (Tu-bạt-đà-la), thệ thế. Bên
cạnh ngọn tháp của ngài Subhadra nhập Niết bàn, lại có một ngọn tháp.
Ðây là chỗ Vajrapani (thần Kim Cang) ngã bất tỉnh xuống đất. Bên cạnh
chỗ Kim Cang ngã xuống đất, lại có một ngọn tháp. Ðấy là chỗ cúng dường
lễ vật, 7 ngày sau đức Phật nhập Niết Bàn. Một bên chỗ linh xá đựng nhục
thân đức Phật bị giữ lại, có một ngọn tháp. Ðây là chỗ Hoàng hậu Ma-Da
khóc đức Phật.
"Phía bắc thành phố, vượt qua
sông và đi độ 200 bước, có một ngọn tháp. Ðây là chỗ làm lễ Trà tỳ nhục
thân đức Phật. Ðất hiện tại đen vàng, than và đất xen lộn với nhau.
Những Phật tử có lòng chí thành đến tại chỗ này cầu nguyện nhất định tìm
được một vài Xá lợi của đức Phật.
Rời
khỏi Kusinara kính mộ, chúng tôi trở lại ga Gorakhpur để đi thăm
Lâm-tỳ-ni, nơi đức Từ phụ đản sanh.
Từ Gorakhpur đến Nowgarh phải
mất 3 tiếng đồng hồ tàu hỏa. Ðến nơi trời đã nhá nhem tối, chúng tôi
phải ngủ tại ga đến sáng mới tiếp tục cuộc hành trình chiêm bái. Nowgarh
là một ga nhỏ bé ở miền quê, nên cũng không ồn ào cho lắm, trừ khi có
những chuyến tàu ghé qua. Khi chúng tôi đến, cảnh vật ở đây hình như
đượm màu tươi thắm. Khí trời mát mẻ trong lành.
Lạ thay! Ðến bất cứ Thánh địa
nào, lòng chúng tôi cũng ngập tràn niềm rạo rực. Bắt đầu đi ngủ, tôi tự
bảo đêm này ngủ sớm một chút để sức khoẻ cho cuộc hành trình tiếp tục
vào ngày mai. Nhưng những hình ảnh Lâm-tỳ-ni, do tôi tưởng tượng, cứ
liên tiếp hiện ra với muôn màu muôn sắc! Trần trục đến gần 1 giờ tôi mới
thiếp ngủ, 4 giờ, thầy Thiện Châu đã thức dậy vặn đèn, kêu chúng tôi để
cùng xếp hành lý. Chưa đến giờ, nhưng Thượng tọa Minh Châu đã hối chúng
tôi xếp hành lý ra xe. Tất cả như muốn cho mau đến giờ để được viếng
thăm và chiêm bái Phật tích quan trọng này, nơi ra đời của đức Từ phụ
cao cả. Nơi ngàn năm còn ghi nhớ đối với hàng Phật tử năm châu.
7 giờ sáng, chiếc xe buýt mới
khởi hành, đưa chúng tôi từ Nowgarh đến vườn Lâm-Tỳ-ni (Lumbini). Chiếc
xe nhẹ nhàng băng qua những cánh đồng xanh tươi bát ngát. Dãy núi
Hy-ma-lạp-sơn (Himalaya) với những chóp núi hùng vĩ trắng xóa ẩn sau
những khóm mây lam biếc. Những tháp miếu cổ kính tuần tự hiện ra trước
mắt chúng tôi. Chiếc xe buýt mang chúng tôi vượt khỏi ranh giới Ấn Ðộ để
sang địa phận nước Népal. Quảng đường dài gần 40 cây số, nhưng chúng tôi
cảm thấy gần bên cạnh. Cảnh tượng Ðản sanh như chập chờn trước mắt chúng
tôi.
"Còn thấy vô ưu cây bảo thọ,
Nghìn năm giữ mãi vẻ nên thơ...".
Những chi tiết về lịch sử Ðản
sanh được ghi trong tập Nidànakathà lần lượt hiện ra trong óc chúng tôi:
-- "Hơn 2.500 năm trước, tại
vườn Lâm Tỳ ni này, một vị đại Giác ngộ đã ra đời. Ngài ra đời để đem
lại ánh sáng tuyệt vời cho nhân thế lầm thanh đau khổ.
Theo phong tục cổ truyền của
Ấn Ðộ (nay một vài nơi vẫn còn, phụ nữ phải trở về quê hương cha mẹ để
sanh nở đứa con đầu lòng. Hoàng hậu Màyà cũng y theo cổ lệ để làm gương
cho dân gian. Một hôm hoàng hậu tâu vua Tịnh Phạn: "Tâu Hoàng thượng,
gần ngày sanh nở, theo tục lệ cổ truyền, con xin phép trở về Devadaha,
kinh thành của cha mẹ con...". Vua Tịnh Phạn hoan hỷ chấp nhận và truyền
lịnh cho thần dân sửa sang, trang hoàng con đường từ thành Ca-tỳ-la-vệ
(Kapilavastu), đến kinh đô của Ajana, nơi thân phụ Hoàng hậu Màyà đang
trị vì. Một chiếc kiệu được trang hoàng rất đẹp đẽ. Hoàng hậu đoan chính
ngồi trên kiệu hoa. Theo hộ giá, có đến hàng trăm thị vệ va cung phi mỹ
nữ.
Giữa hai kinh thành của hai
quốc vương, có một khu vườn thạnh mậu, có một cây Vô ưu (Asoka) đang nở
nhiều cánh hoa tươi đẹp. (Tục truyền hoa naỳ mấy ngàn năm mới nở một
lần. Khi hoa nở là điềm có thánh nhân xuất hiện). Dân làng địa phương
gọi khu vườn này là Lumbini Nava. Lúc bấy giờ, vườn đầy hoa thơm cỏ lạ,
cây cối xanh tươi. Những đàn ong, những cánh bướm bay liệng chập chờn,
từ đóa hoa này đến đóa hoa khác, để hút mật hoa. Chim chóc bốn phương
đua nhau trỗi lên những bản nhạc du dương, êm ái, tạo thành một bức họa
tuyệt vời cho cánh Lâm-tỳ-ni.
Hoàng hậu xuống kiệu, từ từ
bước vào khu vườn ngoạn thường cảnh sắc tươi đẹp của buổi bình minh. Một
nhành cây vô ưu như rũ xuống để:"Chào đón siêu nhân ứng hiện ra...".
Tay phải của Hoàng hậu với hái cánh hoa Vô ưu, ngay lúc ấy, Thái tử
đản sanh. Bốn vị Thiên vương cầm những chiếc áo Kiều-thi-ca mềm trĩu, đỡ
lấy Thái Tử. Sau đó 9 con rồng phun nước vào bồn vàng để tắm gội Thái
tử. Bảy chiếc hoa sen liên tiếp hiện ra đỡ lấy gót chân Ngài. Nhạc ngũ
âm của ai vang dậy cả mấy từng không. Hoa Mạn-đà-la không biết từ đâu
tung vãi khắp vườn.
Ôi! Mầu nhiệm và hoan lạc
biết bao! Ðược tin mừng Thái tử đản sanh, cờ xí rợp trời, trống kèn
dậy đất. Vua Tịnh Phạn đích thân đi rước Hoàng hậu và Thái tử về hoàng
cung. Tất cả quần thần được hội lại để đặt tên cho Thái tử Tất-đạt-đa
(Siddhartha), tên của vị Thái tử phi thường tuấn tú có ra từ đấy."
Và trong tập Buddhacarita
cũng có chép: "Sau khi Thái tử đản sanh, Ngài nhìn về các phương: Ðông,
Tây và ngó lên, ngó xuống nhìn khắp bốn phương rồi hướng về phương Bắc
đi bảy bước trên những đóa sen kỳ diệu. Mầu nhiệm thay cử chỉ siêu việt
này. Ði đến bước thứ bảy, vừa nghiêm nghị, vừa oai hùng, Ngài nói:
'Thiên thượng, thiên hạ, duy ngã độc tôn'".
Chúng tôi tiến vào khu rừng
lịch sử, thắp hương đèn hành lễ, thành tâm nguyện cầu cho tất cả mọi
ngưòi thường được hạnh phúc và tìm thấy ánh sáng nhiệm màu mà Thái Tử
Tất đạt đa đã mang đên cho thế gian này cách đây 2.500 năm. Cùng đi với
chúng tôi có năm vị Ưu-bà-di và một sinh viên Phật tử ở Miến Ðiện. Họ
cũng cùng hành lễ với chúng tôi.
Ngày xưa cảnh vật tươi đẹp
bao nhiêu, thì ngày nay khu vườn lại tàn tạ bấy nhiêu. Mặc dù có cây cối
đền tháp, nhưng cảnh trí không được huy hoàng như xưa và nhất là không
tốt đẹp như các Thánh tích thuộc chính phủ Ấn mà chúng tôi đã chiêm bái.
Chính phủ Népal đang cố gắng sửa sang lại Thánh tích này, nhưng có lẽ vì
cách trở đường sát nên công việc chưa mấy kết quả! Chúng tôi hơi buồn
cho Thánh tích tiêu sơ này, như nhờ lời dạy về lý Vô thường của đức
Phật: "Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng" làm cho chúng tôi giữ được
sự an tịnh trong tâm hồn.
Chúng tôi đi sâu vào khu vườn
để tìm lại di tích. Lần lượt chúng tôi đến viếng những cảnh sau đây:
1. Trụ
đá của vua A-Dục
Vườn Lâm-tỳ-ni do ông Furere
tìm thấy vào năm 1806, sau khi gặp được trụ đá của vua A-Dục tại chỗ
này. Thâu thập đủ tài liệu và chứng minh chắc chắn, ông Furere đã công
khai tuyên bố: "Chỗ này là vườn Lâm-tỳ-ni, nơi Ðức Phật đản sanh". Rồi
được chính phủ Nepal công nhận. Từ đó về sau khu vườn này trở nền mầu
nhiệm, được dân chúng Ấn Ðộ và người ngoại quốc đến chiêm bái viếng cảnh
rất đông.
Vua A Dục dựng trụ đá này,
khi Ngài đến viếng thăm và hành lễ tại vườn Lâm-tỳ-ni. Trên trụ đá có
khắc hàng chữ: "Ðây là chỗ đức Gautama Ðản sanh". Trụ đá này hiện còn
tốt đẹp, tuy có một đường sứt mẻ, có thể do sét hay bị ngoại đạo tàn phá
cũng nên. Trên đầu cột trụ đá không có hình gì cả. Trong ký sự cuả ngài
Huyền Trang có nói: "Ðầu trụ đá có hình con ngựa rất mỹ thuật và trơn
láng". Nhưng hiện nay chưa tìm được di tích hình con ngựa đặc biệt ấy.
Trên thân trụ có khắc 5 hàng chữ bằng tiếng Brahmi:
Devannapiyena piyadasina lajina-visativasabhisitena.
Atana-agacha mahiyite. Hida Budhe-jate sakyamuniti.
Silavigadabhicha kalapita silathabhe-cha usapapite.
Hida Bhagavam jateti Lumbinigame ubalike kate,
Athabhagiye cha.
Dịch nghĩa đại khái như sau:
"Vua Pryadarsin, được các vị thiên thần kính mến và ủng hộ, tự Ngài thân
hành đến đảnh lễ tại chỗ này, sau khi lên ngôi được 20 năm. Chỗ này là
nơi Ðức Sakya Muni đản sanh. Ngài truyền lịnh cho các quan trong triều
xây một pho tượng rất lớn và đặt một trụ đá dựng tại chỗ này, để đánh
dấu một chỗ đức Thế Tôn xuất thế. Từ đó về sau Vua truyền lệnh dân làng
Lumbini được miễn đóng thuế nghi lễ và chi trả 1/8 lợi tức mà thôi".
Cột trụ đá này chỉ rõ cho
chúng ta biết chắc chắn chỗ này là nơi Ðức Từ phụ đản sanh. Trụ đá của
vua A-Dục dựng lại Sarnath (Ba-la-nại) thì không ghi rõ là chỗ Phật
chuyển Pháp Luân lần đầu tiên, còn lại Buddhagaya (Chỗ Phật thành Ðạo)
và Kusinara (chỗ Phật nhập Niết Bàn) không có cột trụ nào hết.
2. Ðền
thờ của Rummindel
Về phía nam ngôi đền có một
hồ nuớc gọi là hồ Puskarini, chu vi khoảng 50 thước vuông. Tục truyền
rằng: "Hồ nước lịch sử này do 9 con rồng từ trên trời phun nước xuống để
tắm gội Thái tử, nay còn đọng lại". Nhà cầm quyền ở đây xây thành một hồ
để giữ nước và dân chúng địa phương còn tin rằng ai tắm tại hồ này thì
tật bệnh được tiêu trừ, tội lỗi hết sạch. Lúc chúng tôi đến đây cũng có
mấy vị Bà-la-môn đang tắm gội một cách thành kính.
3. Nền
của một ngôi tịnh xá
Gần con đường qua ngôi đền có
trụ đá vua A Dục, chúng tôi còn thấy nền móng của một ngôi tịnh xá cũ
hình chữ nhật và hình như chỉ là một văn phòng lớn. Một vài người ở đây
cho chúng tôi biết tại tịnh xá này đã có nhiều vị tu đắc đạo. Và chính
tại chỗ này người ta đã đào được vài pho tượng nhỏ cuả Bồ tát Quan Thế
Âm, Ðại Thế Chí bằng đồng đen và một đồng tiền không được rõ ràng lắm.
Tại ngôi đền có nhiều mảnh tượng gãy nát, chúng tôi xem qua không hiểu
là tượng gì. Không biết có phải là tượng con ngựa trên trụ đá vua A Dục
chăng? Sau khi quan sát nền của một ngôi tịnh xá, chúng tôi sợ trưa
không kịp chuyến xe trở về, nên vội vàng qua viếng thăm hai ngôi tháp
mới.
4. Hai
ngôi tháp mới
Chính phủ Nepal trong chương
trình sửa lại Thánh tích này đã dựng được hai ngôi tháp hình trụ tròn,
với những nguyên liệu đào bới xung quanh Lâm-tỳ-ni. Hai tháp này không
có chi mỹ thuật cho lắm.
Ðã 10 giờ trưa rồi, chúng tôi
phải từ biệt nơi đã ghi lại dấu chân đầu tiên của vị Thái tử con vua
Tịnh Phạn để tiếp tục công việc chiêm bái nhiều nơi khác.
Trên con đường quanh co khúc
khuỷu trở về ga, chiếc xe buýt từ từ chuyển bánh, lòng chúng tôi cảm
thấy bùi ngùi và quyến luyến mãi với hình ảnh Lâm-tỳ-ni.
Ngồi trên xe, tôi suy nghĩ:
không có sức mạnh nào bằng sức mạnh đạo đức, không có sự vật gì cao quí
bằng tình thương chơn thật. Ðã xa cách mấy nghìn năm, cuộc đời của Từ
phụ tuy đã lui về dĩ vãng, chỉ còn lưu lại một đức từ bi mà không biết
bao nhiêu người tôn sùng thờ kính, không biết bao nhiêu dân tộc đang
hướng về đạo giải thoát cuả Ngài.
Những người lập sự nghiệp
trên sức mạnh, quyền lực, mánh khoé như Hitler, Napoléon, Tần Thủy Hoàng
v.v... tuy danh vang một thời thật nhưng chóng phai tàn làm sao, và chỉ
để lại cho hậu thế sự căm hờn tức giận. Ngày nay có ai, những người chân
chánh, còn muốn nhắc đến tên tuổi hoặc lập đều để dùng bái tôn ngưỡng
họ?
Ðức Từ phụ đã xây dựng đạo
nghiệp bằng tình thương chơn thật, bằng đạo đức cao siêu, không dùng một
quyền lực áp bức, không tốn một mũi tên, một viên đạn mà đạo nghiệp của
Ngài mãi mãi được mọi người noi theo. Phật tích khác, từ nơi Thế Tôn
thành Ðạo, cảnh Chuyên pháp luân cho đến vườn Lâm-tỳ-ni v.v... chúng tôi
đã đến tận nơi đảnh lễ, cúng dường, chiêm bái. Ðây là chỗ đức Phật ứng
thân thị hiện và sanh trưởng, làm sao chúng ta lại có thể không đi? Nghĩ
như vậy chúng tôi gởi hành lý tại ga, chỉ đem theo một ít đồ cần dùng.
Năm giờ rưỡi sáng, chúng tôi
khổ cực dùng trà thay cho buổi điểm tâm tại một quán cơm bình dân nghèo
nàn, chiếc xe ngựa mà chúng tôi thuê hồi hôm đã sẵn sàng chờ đợi. Chúng
tôi lên xe và ngựa bắt đầu chạy đều đều trên con đường sương lạnh.
Ðúng như lời người ta cho
biết, đường thật là gồ ghề nguy hiểm; nhiều đoạn chúng tôi phải xuống đi
bộ vì ngồi trên xe còn khổ hơn đi bộ, dễ sợ nhất là khi qua những chiếc
cầu lắc lẻo. Càng tiến về hướng núi Hy Mã, chúng tôi càng bị bao phủ bởi
những sương và sương, và chỉ nhìn thấy những gì cách chúng tôi độ ba
thước. Hình như màn sương muốn chận đứng sự tiến bước của chúng tôi. Tuy
nhiên chiếc xe ngựa vẫn từ từ lướt tới và để lại đàng sau những khối
sương dày dặc nặng nề.
Phải mất hơn ba tiếng đồng hồ
mới đến được Ca-tỳ-la-vệ, kinh thành lịch sử mà Phật tử năm châu hằng
nhắc đến. Mặt trời lên cao. Sương mù tan biến. Những rặng cây xanh,
những xóm nhà cũ kỹ lần lượt hiện ra. Chúng tôi rất hân hoan vì nhờ
duyên lành đời trước nên được viếng thăm quê hương kính mến của đức Từ
phụ nơi mà Phật tử Việt Nam thường hát vang:
"Thành Ca-tỳ-la sống vui đời
Tịnh vương,
Người người vui sướng, Thích Ca Ngài vừa ra đời..."
Một vị cư sĩ tiếp đón niềm nở
và đưa chúng tôi vào nhà. Cả gia quyến của vị này đều đổi đãi với chúng
tôi một cách nồng hậu. Sau hỏi lại mới biết đây là gia đình dòng họ
Thích Ca (Sakya).
Sau khi giải khát xong, mấy
người con của vị này đưa chúng tôi đi viếng "Thành" cách đó độ 4 cây số.
Sau này, chúng tôi xin kể lại một vài sự kiện lịch sử của đức Phật, khi
Ngài ở tại thành này: "Trước khi chưa giáng sanh ở thành Ca-tỳ-la-vệ,
Ngài còn là vị Bồ tát Hộ Minh ở trên cung trời Ðâu Suất để thuyết pháp
và giáo hóa chư thiên. Khi cơ duyên đã đến. Ngài quan sát trong bốn châu
thiên hạ duy có vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Maya là người tu nhơn tích
đức lâu đời, xứng đáng làm cha mẹ Ngài, cũng như cha mẹ muôn dân. Ngài
cưỡi voi trắng 6 ngà từ trên cung trời Ðâu Suất nội viện đến thành
Ca-tỳ-la-vệ. Lúc bấy giờ nhân ngày lễ vía các tinh tú, tại Ca-tỳ-la-vệ,
từ quan chức cho đến thứ dân đều được nghỉ việc để mừng lễ. Mọi người
tấp nập ăn chơi, đờn ca xướng. Bao nhiêu trò hay chuyện lạ được biểu
diễn khắp nơi. Riêng Hoàng hậu Maya, sau khi dự lễ cầu nguyện trong
Hoàng cung, ra ngọ môn bố thí cho người nghèo khổ. Rồi Hoàng hậu trở về
cung yên giác. Ðiềm chiêm bao kỳ lạ đã đến với Hoàng hậu: Một người
tướng mạo khôi ngô, cưỡi con voi trắng 6 ngà chen vào hông bên hữu của
Hoàng hậu.Giật mình thức dậy, Hoàng hậu cảm thấy trong mình nhẹ nhàng,
khoan khoái:
"Maya mộng ứng niềm hoan lạc,
Voi trắng quỳ dâng đóa bạch liên.
Âm nhạc bốn phương lừng các điện.
Vang lời chúc tụng hội quần tiên
Giáng sinh ngày ấy không xa nữa.
Là một tin vui khắp mọi miền!
Chiếu rạng tưng bừng xa bóng tối.
Rồi đây sẽ có đạo vàng thiêng... (N.H).
Sau khi Thái tử giáng trần 7
ngày, Hoàng hậu nhờ phước báo hạ sanh ra Ðấng giác ngộ tương lai, được
thăng về cung trời Ðạo Lợi. Vua Tịnh Phạn giao Thái tử cho bà
Mahaprajapati (Ma-ha Ba-xà-ba-đề) nuôi dưỡng. Ngày tháng trôi qua, càng
ngày càng khôn lớn, Thái tử học hành kiểm ưu, tài năng xuất chúng. Nhưng
Ngài nhìn thấy nhơn sinh thống khổ, thế cuộc vô thường, nên quyết chí
xuất gia tìm đạo để giải thoát cho mình và cứu độ chúng sinh. Một đêm
nọ, lúc canh ba đã gần tàn, Ngài đang ngồi trầm tư mặc tưởng bỗng nghe
đâu trên hư không có tiếng của chư thiên văng vẳng vọng lại:
"Ngày nay tuổi đã lớn rồi
Sao không nhớ lại những lời nguyện xưa
Xin tu chứng đạo chơn thừa
Trần gian vẫn đục say sưa làm gì?
Ngài còn lần lựa thế chi,
Chúng sanh ngu dại ai thì bảo ban.
Mau mau mở lối Niết bàn
Khêu đèn Trí tuệ vén màn vô minh". (L. S. P. T)
Ngài suy nghĩ không thể dần
dà được nữa mà phải xuất gia tìm chơn lý. Một đêm nọ sau khi buổi yến
tiệc linh đình và mọi người yên giấc, Ngài cùng Xa Nặc cưỡi ngựa Kiền
Trắc vượt qua thành Ca-tỳ-la-vệ này để "Dấn thân nơi cát bụi tìm đạo
thiêng".
5.
Thành Ca-tỳ-la-vệ
Tiến qua một cánh đồng, gồm
những vườn xoài, những mương nước, chúng tôi đến nội thành Ca-tỳ-la-vệ.
Hiện tại, sự tìm tòi và
nghiên cứu tường tận của ông Vincent Smith và ông De Vost cho chúng ta
biết rằng Ca-tỳ-la-vệ của vua Tịnh Phạn ngày xưa, hiện nay nằm tại nơi
được gọi là Tilaurakota, thuộc hạt Terai và cách xa ga Shoharatgarh 20
cây số. Cả vùng thành Ca-tỳ-la-vệ này được bao bọc bởi nhà cửa thưa thớt
của dân làng Taulihwa. Thành rộng lớn bao la và nằm trên bờ sông
Banganga. Chúng tôi tìm thấy nhiều vết tích những bức tường của thành ấy
và rất nhiều đồi đất cao, có thể là các đền đài ngày xưa. Hiện tại toàn
vùng này bị cây cối bọc bao trùm. Chúng tôi chỉ thấy xa xa một khu rừng
rập rạp. Ðến gần nhìn thấy rất nhiều gạch đá vụn, đây có lẽ là một khu
nhà rộng lớn của thành. Thầy Thiện Châu có nhặt một viên gạch xưa đem về
làm kỷ niệm. Chắc chỗ này chưa ai đào bới cả.
Ngài Pháp Hiển đến chiêm bái
thành Ca-tỳ-la-vệ vào năm 403 sau Tây lịch và ngài đã nhìn thấy toàn
vùng này là một rừng hoang cỏ dại, dân cư thưa thớt, chỉ thấy những di
tích phế tàn. Có một số tu sĩ tu khổ hạnh tại đây và độ 30 gia đình dân
chúng. Ngài đến hỏi thăm các vị tu sĩ về thánh tích ngôi thành này. Các
vị ấy cho biết toàn vùng này chính là thành Ca-tỳ-la-vệ thời xưa, và họ
cố ở lại đây để giữ gìn Thánh tích này, nhưng không đủ phương tiện, đành
chịu thua.
Vào năm 636, ngài Huyền Trang
cũng đến thăm viếng ngôi thành và diễn tả di tích này một cách rõ ràng.
Ngài viết: "Thành Ca-tỳ-la-vệ kiến trúc theo lối cổ kính, xây dựng toàn
bằng gạch đá quí, bức tường thành vẫn còn, và kiến tạo rất kiên cố. Hiện
tại chỉ còn 634 phố, nhà lơ thơ, và một ít dân chúng đang sống ở đó.
Chung quanh có độ 100 tịnh xá bị hư hỏng. Gần chỗ này có một ngôi tịnh
xá vĩ đại, 30 tu sĩ tiểu thừa, và hai ngôi đền của Ba-la-môn giáo".
Ngài Huyền Trang có nói đến
trụ đá cuả Vua A Dục dựng lên cao độ 9 thước tây, trên chót trụ đá có
chạm hình con sư tử rất đẹp. Về phía tây bắc của thành có hơn 100 tháp
nhỏ, đánh dấu chỗ dòng họ Thích Ca bị giặc tàn sát. Theo ngài Huyền
Trang cho biết thời chu vi thành Ca-tỳ-la-vệ độ chừng 400 lý hay 664 dặm
Anh.
Một vài
di tích thành Ca-tỳ-la-vệ
a. Nigaliwa: Ðộ 4 dặm
cách Taulihwa có một cái hồ lớn gọi là hồ Nigali. Gần hồ có một trụ đá
bị gãy đôi, phần trên dài 5 thước, bị cỏ dại phủ lấp, phần dưới còn chôn
sâu vào đất, phần trên có ghi một hàng chữ Tây Tạng "OM MANI PADME HUM"
(An-ma-ni-bát-ni-hồng); trên hàng chữ này có khắc hai con công, phần trụ
đá dưới có khắc những hàng chữ Brahmi. Vua A Dục có đến thành
Ca-tỳ-la-vệ. Ngài từ vườn Lâm-tỳ-ni trở về, có viết bài kệ như sau:
Devanam piyen piyadasin lajin
chodasavasa (bhisi).
Bùdhasa kranak manas thue dutiyan baddhihite (Bisttiva).
Sabhisten chatina agach mahiyite (Sila thuhey chus).
Papite...
Phỏng dịch: "Hoàng đế
Piyadasin vào năm thứ 14 triều đại này đã mở rộng lần thứ hai, tháp của
đức Phật Kanaka và đến năm 20 triều đại Ngài đã đích thân đến đây lễ bái
và cho dựng trụ đá".
b. Tháp Piprahwa: Chỗ
này là ngôi tháp được dựng lên trên phần Xá-Lợi của đức Phật thuộc dòng
họ Sakya. Tại chỗ này, người ta có đào được một hộp bằng đá lớn trong đó
có bảo vật và nhiều mảnh xương vụn hơn 1.000 hộp bằng đá rất nhiều ngọc
ngà châu báu. Xá lợi này chính là xá lợi của Phật, vì có khắc nhiều hàng
chữ Brahami: "Ðây là Xá-lợi của đức Gautama, do các dòng họ Sakya chôn
tại chỗ này và xây dựng bửu pháp lên trên".
c. Kudan: Theo một
vài nhà khảo cổ trứ danh cho biết, làng Kudan cách xa Taulihwa độ hai
cây số, có thể là chỗ đản sanh của đức Phật Krakuchanđa. Tại chỗ này có
hai mô đất lớn bằng gạch và bằng đất; dân bản xứ gọi là Lori-KiKudan. Có
thuyết cho rằng chỗ này là nơi đức Phật gặp đức vua Tịnh Phạn sau khi
Ngài đắc đạo và là chỗ 500 người thuộc dòng Thích Ca quy huớng Tam bảo;
cũng chính tại chỗ này đức Phật thuyết pháp nhiệm màu cho chư thiên.
d. Hồ nước Kunau: Chỗ
này, người ta tin là nơi Thái tử cùng các công tôn, vương tử thi bắn
cung nên gọi là Saea-kup (tên bắn). Lúc vua Tịnh Phạn chọn công chúa
Gia-du-đà-la cho Thái tử, vua Thiện Giác ra điều kiện rằng: "Ai muốn
cưới công chúa phải thi văn và đấu võ". Thái tử Tất-đạt-đa văn võ toàn
tài, tỏ ra là người xuất chúng, nên được cưới công chúa Gia-du-đà-la.
e. Sagarhwa: Chỗ này
theo người ta cho biết, là nơi hoàng tộc Thích Ca bị tàn sát. Ông Smith
có viết rằng trong tháng giêng ông A. Fuhrer có tìm được tại chỗ này 17
ngọn tháp nhỏ rất có thể là nơi dấu hoàng tộc Thích Ca bị tàn sát. Sau
khi bị quân nghịch giết hại, đức Phật có phóng quang tiếp độ các hương
linh những người có thiện nghiệp trong dòng Thích Ca được sanh về cõi
Thánh.
f. Ðền Shiva tại Taulihwa:
Ðây là một trụ đá rất nhám. Gần phía chân của trụ đá này, có hai hình
dĩa tròn giống như cái mâm, ở chính giữa thì dầy, phía ngoài mỏng dần,
chính giữa có một trụ đá nổi lên, phía dưới có hình tán góc. Nó tương tự
như trụ đá Linga ở chùa Bà Ðen (Sài gòn). Hỏi thăm, người ở đó cho chúng
tôi biết rằng: Dân bản xứ có dụng ý đào trụ đá ấy, nhưng đào mãi không
được. Do đó họ tin rằng đó là thần Shiva Linga và thường đến đó hành lễ,
cúng bái, cầu nguyện.
g. Ngôi chùa mới lập tại
Taulihwa (ngoài thành Ca-tỳ-la-vệ): muốn đền đáp công ơn muôn
một cho tổ tiên, các gia đình thân tộc Thích Ca còn lại có dựng lập một
ngôi chùa trong làng Taulihwa. Chúng tôi có đến viếng ngôi chùa ấy: Chùa
khá đẹp có vòng thành bốn phía.
Chúng tôi thiết nghĩ, nếu có
vị chơn tu nào đến trụ trì ở đây chắc chắn khai hóa mối đạo chỗ này một
cách dễ dàng, vì ở đây sẵn có một số thân tộc Thích Ca triệt để ủng hộ.
Ông tộc trưởng cho chúng tôi
biết, ông sẽ cố gắng hoàn thành ngôi chùa này nội năm nay. Ðể góp chút
công quả, chúng tôi cúng dường 200 đ VN cho việc kiến tạo. Chúng tôi hy
vọng chốn này chóng phục hưng mối đạo, do chính người trong dòng họ
Thích Ca sáng lập.
Các gia
đình dòng họ Thích-Ca
"Bà con thế tục mỗi ngày mỗi
xa, dòng họ Thích Ca càng ngày càng gần". Thật đúng với câu nói trên,
gia đình ông tộc trưởng và các cô bác khác gặp chúng tôi xá chào vui vẻ
và xem bộ như quen biết đã từ lâu đời. Thượng tọa Minh Châu hỏi qua lai
lịch dòng họ Thích Ca, và được ông tộc trưởng cho biết hiện giờ còn độ
36 gia đình, trên 60 người thuộc họ Thích Ca nhưng phần đông ở tại
Nepal, hiện ở gần thành Ca-tỳ-la-vệ chỉ còn ba gia đình. Cả ba gia đình
này có biên tên họ cho chúng tôi để giữ kỷ niệm. Như do một luồng nhân
điện truyền cảm, chúng tôi và những người này mến nhau kỳ lạ, sự cảm mến
cuả những người cùng huyết tộc, nhất là sau khi họ biết chúng tôi cũng
mang họ Sakya (Thích) như họ.
Viếng thành Ca-tỳ-la-vệ về
đúng 12 giờ, chúng tôi thọ trai tại nhà ông tộc trưởng. Ðây là một bữa
cơm chay đạo vị mà chúng tôi được dùng tại nhà dòng họ Thích Ca. Ông bà
tộc trưởng dọn một căn phòng khá rộng rãi trên lầu và chọn những vật
thực quí để cúng dường chư Tăng. Trong khi thọ trai, ông tộc trưởng đích
thân đứng làm thị giả. Sự cảm thông qua tình đạo làm cho bữa ngọ trai
hôm nay ngon lành và ý nghĩa.
Hiệp để mà ly, đến để rồi đi.
Rất tiếc chúng tôi chỉ lưu lại đây có mấy tiếng đồng hồ. Thọ trai xong,
chúng tôi sắp sửa từ giã ra về. Trên nét mặt của bất cứ một người nào
cũng có vẻ lưu luyến, bùi ngùi. Ðể ghi lại sự gặp gỡ quí báu này, chúng
tôi chụp vài chiếc ảnh kỷ niệm. Niềm lưu luyến tràn ngập trong lòng mỗi
người, thật ra chúng tôi cũng chẳng muốn về chút nào, nhất là nhìn thấy
các cháu trong gia đình quá trìu mến. Xe đã chạy mà quí vị ấy và các
cháu còn chạy theo. Một thanh niên giáo sư thuộc dòng họ Thích Ca chạy
theo, đem bút máy và sách nài nỉ trao tặng thầy Thiện Châu làm kỷ niệm.
Thầy cố từ chối, mãi mà không được. "Chỉ dính líu có hai chữ Thích Ca mà
khổ tâm thật!".
Trên
con đường về ga Shorasgarh, chúng tôi bùi ngùi cho cảnh suy tàn của
thành Ca-tỳ-la-vệ và lưu luyến các bà con huynh đệ trong dòng họ Thích.
Nghĩ đến cuộc thịnh suy của đời và chứng kiến cảnh kẻ ở người đi, lòng
chúng tôi như vương nặng một nỗi buồn man mác.
"Thương hải biến vi tang điền" thật là rõ rệt. Thành Ca-tỳ-la-vệ trước
đây khi vua Tịnh Phạn đang trị vì, có biết bao cung điện, lâu đài đồ sộ
nguy nga, biết bao kỳ hoa dị thảo, cảnh đẹp nên thơ, biết bao xe cộ tấp
nập quanh thành, biết bao phố phường nhà cửa bao bọc. Nhưng thời hưng
thịnh này còn đâu! Chỉ còn ít khóm cây xơ xác, những mái tranh im lìm,
dân chúng thì lưa thưa nghèo khổ. Trong khi bùi ngùi cám cảnh, tôi liền
nhớ đến lời Phật dạy: "Có sanh tất có diệt, có hiệp phải có ly, thịnh
suy là lẽ thường của sự vật". Sự thật là thế, mặc dù thành Ca-tỳ-la-vệ
không còn như xưa, nhưng tinh thần cao quý của vị Thái Tử thành này đã
lan rộng và trở nên bất diệt. Ca-tỳ-la-vệ vẫn còn mãi mãi. Xe đến lúc
nửa đêm, chúng tôi phải ngủ tại ga, đợi đến sáng mới đi Xá vệ được. Câu
"Nhất thời Phật tại Xá-vệ quốc kỳ thọ Cấp cô độc viên" mà chúng tôi
thuộc lòng từ tấm bé hôm nay có ý nghĩa làm sao! Nó được lập đi lập lại
nhiều lần với những cảnh sắc trang nghiêm, kỳ diệu trong trí trước khi
chúng tôi thiếp ngủ. Mặc dù đi ngủ trễ, nhưng chúng tôi dậy sớm hơn
thường lệ, sau một giấc ngủ lạ khoan khoái. Lúc mới tỉnh giấc, chúng tôi
cứ ngỡ là mình đang ở tại Kỳ viên.
Chuyến xe buýt sớm nhất đưa chúng tôi đến Xá-vệ sau gần một tiếng đồng
hồ lướt qua các phố phường, làng mạc. Tất cả chúng tôi tự mang hành lý
vào Ðại Các tự, ngôi chùa Trung Hoa nằm bên cạnh Kỳ viên, Ðại đức trụ
trì ở đây đi vắng. Chúng tôi nhận được sự tiếp đãi nồng hậu của một vị
nữ sĩ ở Calcutta lên đây để chép kinh. Món quà quí báu đầu tiên mà mỗi
người chúng tôi nhận được là một quyển kinh Kim Cang do chính tay vị này
viết tại nơi Phật thuyết kinh này.
Chiêm bái Kỳ viên
Thu dọn nơi tạm trú, tắm rửa và dùng sáng xong thì trời đã nắng. Chúng
tôi muốn dành trọn một buổi cho việc đi chiêm bái Kỳ viên. Tuy chỉ ở
ngoại giới của Ðại Tòng lâm, nhưng chúng tôi cũng đã hưởng được nhiều
hương vị thanh tịnh giải thoát. Có thể nói rằng ngôi Ðại Giác tự này là
một Tiểu Tòng lâm, được xây dựng với ý nguyện phục hưng Phật giáo tại
đây của vị Ðại đức người Trung Hoa này. Cây cối xinh tươi chen chúc nhau
trên mười mẫu đất bao phủ lấy ngôi chánh điện kiến trúc theo lối tổng
hợp nửa Ấn nửa Hoa. Khách xá, trai đường và lầu duyệt kinh rộng rãi ngăn
nắp. Cảnh sắc của toàn chùa đượm vẻ u tịch, thanh thoát làm sao. Không
có gì làm cho chúng tôi sung sướng hơn là được ở vào một nơi cách xa phố
phường huyên náo không có lấy một tiếng động của cơ khí sau những lúc
phải chung đụng với cảnh ồn ào của ga xe hỏa, sự tranh giành ở bến xe
buýt, sự hỗn loạn của xã hội loài người quên đạo đức! Khách xá của chùa
hôm nay như vui hẳn lên vì được chứng kiến sự sinh hoạt ý nghĩa và nhịp
nhàng của những người khách phương xa đến. Góc này Thượng tọa Minh Châu
đang tiếp tục viết tập "Hsuan-tsang, the torch-bearer of the Dharma"
(Huyền Trang, người làm sáng Chánh pháp). Chúng tôi đang sửa lại bản
thảo đầu tiên về cuộc chiêm bái để gửi cho tạp chí Liên Hoa. Ðằng kia,
thầy Pasadika xem lại lịch sử Kỳ viên để giảng giải ngay những nơi mà
chúng tôi sẽ đến viếng. Cạnh đó là thầy Huyền Vi đang đánh máy tài liệu
quyển "Ðường về xứ Phật". Tiếng lắc tắc của máy đánh chữ làm chúng tôi
nhớ lại lời giáo sư Thạch Trung Giả, tác giả những vần thơ huyền bí
nhưng đầy ý nghĩa đã nói với chúng tôi trên đồi Hải Ðức - Nha Trang:
"Thầy ạ, tôi yêu thích làm sao hình ảnh một vị sư ngồi trước máy đánh
chữ". Khi mới nghe, chúng tôi tưởng Giáo sư muốn phê bình sự sinh hoạt
đổi mới của một số chư Tăng ngày nay. Nhưng với những lời giải thích của
Giáo sư và đến nay sau khi chứng kiến đầy đủ hòa hợp giữa tĩnh và động,
động trong tĩnh và tĩnh để mà động ấy, chúng tôi thấy giáo sư Thạch
Trung Giả có lý. Thật vậy, không gì đẹp hơn hình ảnh một nhà tu trong
cảnh thiền môn thanh tịnh đang ghi lại - bằng máy móc mà khoa học đã
sáng chế nhưng loài ngưòi chưa biết dùng nó đúng mức với việc đạo đức
tốt đẹp - những chơn lý hữu ích sau khi chín chắn suy tư để phổ biến cho
cuộc đời hỗn loạn.
Chúng tôi khởi hành cuộc chiêm bái vào 2 giờ 35 phút, lúc trời đang
nắng. Ðường đi đến Kỳ viên tuy không xa nhưng cái nắng khô gắt hôm nay
thúc giục khách hành hương rảo bước để được sớm đến chỗ. Kỳ viên nay là
một khu rừng rộng độ 50 mẫu tây, nổi lên giữa cánh đồng lúa xanh vàng
bát ngát, cách kinh thành Xá-vệ cũ độ hai cây số. Càng đến gần, chúng
tôi như được cây lá tươi mát ở đây đón mời nghỉ nắng. Chúng tôi đến ngồi
dưới một tàn cây, bên cạnh những khóm hoa rừng đua nở. Thỉnh thoảng
hương thơm theo gió đem đến những khoái cảm nhẹ nhàng dịu ngọt. Ðàn chim
trên cây tiếp tục hòa tấu bản nhạc "Ca-lăng-tần-già" mà chúng bỏ dở khi
chúng tôi mới đến.
Chúng tôi đang miên man với điệu nhạc, hồn thơ thanh thoát thì tiếng nói
trong êm của thầy Pasadika vang lên, thầy xin thi hành bổn phận là kể
lại lịch sử của Ðại Tòng lâm:
"Lúc bấy giờ Thế Tôn ở tại Vương xá, ông Cấp-cô-độc (Anàthapindika),
người hay giúp đỡ cho kẻ nghèo khổ, một triệu phú và đã có Tôn giáo,
nghe danh Ngài, từ Xá-vệ lặn lội đến xin bái yết đức Thế Tôn. Ông vào
Trúc lâm đảnh lễ Phật và cúng dường chư Tăng. Ðức Thế Tôn hứa sẽ đến
thăm ông tại Xá vệ.
Về đến nhà, ông Cấp-Cô-độc liền tìm một nơi xứng đáng để đón rước đức
Phật. Vườn ông rộng nhưng không đẹp. Trong thành chỉ có một hoa viên
rộng và đẹp nhất nhưng lại là sở hữu của Thái tử Kỳ đà (Jita). Ông đánh
liều đến hỏi mua. Thái tử không bán. Ông nài nỉ mãi, Thái tử cười và trả
lời:
-- Tôi sẽ bán nếu ông lót vàng khắp khu vườn.
Ông Cấp cô độc bằng lòng mua một cách sung sướng và trở về cho người đem
vàng đến lót. Còn một khoảng đất chưa được lót xong, nhưng vì cảm mến
đạo tâm quí báu của ông Cấp-cô-độc nên Thái tử bảo:
-- Thôi đừng lót nữa, tôi chỉ lấy một nửa số vàng và xin cúng tất cả cây
cối trong vườn cho đức Phật.
Tìm được nơi rồi, ông Cấp-cô-độc cho người thân tín sang Vương xá thỉnh
Phật. Vài ngày sau, ông cùng gia đình và rất nhiều người tai mắt trong
thành ra đón rước và thỉnh Phật về Kỳ viên. Ông dâng cúng khu vườn cho
Phật và chư tăng làm nơi thường trú. Ðể kỷ niệm đạo tâm của hai đại thí
chủ, đức Phật đặt tên hoa viên này là "Kỳ thọ Cấp-cô-độc viên" (Jetavana
Anàthapindikàràma. Sự tích này được khắc vào Bharhut trong thế kỷ thứ
hai sau T.L.). Và Ðức Phật đã nói cảm tưởng của Ngài đối với Ðại Tòng
lâm này:
"Hoa viên này là nơi thường trú tốt nhất của Như Lai và chư Tăng. Chúng
tôi được sống yên ổn nơi đây vì khí hậu không nóng quá và lạnh quá. Thú
dữ không vào đây được. Muỗi mòng không có, nên sự tĩnh lặng được hoàn
toàn. Hoa viên này chế ngự được mưa to gió mạnh và nắng khô. Nó gây hứng
cho nguồn đạo niệm và chúng tôi có thể thiền định từ giờ này qua giờ
khác một cách dễ dàng. Nó thật xứng đáng làm lễ vật cúng dường cho Giáo
hội. Người cư sĩ tận tâm cúng dường chư Tăng phòng xá, y thực. Bổn phận
chư Tăng phải dạy bảo cư sĩ chánh pháp và người nào thông ngộ chánh pháp
sẽ được giải thoát ác đạo và chững chạc đại Niết bàn".
Từ đó, đức Phật và chư Tăng thường trú tại hoa viên này. Gia đình ông
Cấp-cô-độc hằng ngày hoan hỷ cúng dường tứ sự cho Giáo hội. Nhưng một
hôm ý nghĩ tốt đẹp và rộng rãi sau đây đã đến với ông:
"Ta sung sướng lắm vì ta đã có thiện duyên được cúng dường Phật và chư
Tăng. Ta sẽ được gặt hái phước quả trong đời này và đời sau. Nhưng tại
sao chỉ có một mình ta và gia đình ta được hưởng công đức ấy? Không
được! Ta phải chia xẻ công đức cho kẻ khác. Ta sẽ kêu gọi đạo tâm của
nhiều người, để họ cũng hướng được công đức như ta".
Ông bèn vào yết kiến vua Ba Tư Nặc (Prasenajit) và trình bày những điều
ông nghĩ. Vốn là một vị minh quân, hơn nữa vì kiêng nể ông Cấp-cô-độc,
một ân nhân đã ủng hộ nhiều cho ngân quĩ quốc gia, vua liền chấp thuận.
Trong bảy ngày liên tiếp, ông đi khắp các nẻo đường bắn tin cho dân
chúng biết hiện có đức Phật và chư Tăng đang ở tại Kỳ viên và kêu gọi họ
đến nghe Pháp và cúng dường để góp phần công đức. Trong vô số người
hưởng ứng, có hai tín nữ đáng ghi nhớ hơn hết là một cô gái nghèo nhất
Xá vệ và bà Visakha (Tỳ-xá-khư) giàu không kém gì ông Cấp-cô-độc.
Cô gái nghèo này vì kính mộ đức Phật mà mến trọng cử chỉ khiêm nhường
chơn thành của ông Cấp cô Ðộc, đã dâng cúng chiếc áo duy nhất của mình.
Sau khi biết được đạo tâm cuả cô này, ông Cấp-cô-độc cho người đem đến
biếu cô rất nhiều chiếc áo đẹp khác. Nhưng qua hôm sau, cô từ trần và
được sanh lên cõi trời Ðế Thích. Nhớ lại tiền kiếp, cô đã xuống nghe đức
Phật thuyết pháp tại Kỳ-viên.
Bà Visakha là người giàu có và đông con cháu, cũng đã trở nên một Phật
tử biết hộ pháp. Một hôm sau khi đức Phật và chư Tăng thọ trai tại nhà
bà, bà xin đức Phật cho phép bà được toại nguyện trong tám điều:
"Trọn đời cúng dường:
1. Y trong mùa mưa (ngoài ba y) cho các thầy Tỳ-kheo.
2. Thực phẩm cho các thầy Tỳ-kheo mới đến.
3. Thực phẩm cho các thầy Tỳ-kheo đi xa.
4. Thực phẩm cho các thầy Tỳ-kheo bệnh.
5. Thực phẩm cho những người nuôi các thầy Tỳ-kheo bệnh.
6. Thuốc men cho các thầy Tỳ-kheo bệnh.
7. Cháo sữa buổi mai cho chư Tăng.
8. Y tắm cho các Tỳ-kheo ni.
Ðức Phật hứa cho sau khi nghe bà giải thích đầy đủ lý do về sự cúng
dường âý. Ngài dạy: "Lành thay! Lành thay! Visakha! Người đã khéo xin
Như lai tám điều trên với những lý do rất xác đáng và lợi ích. Cúng
dường cho những người đáng cúng dường chẳng khác nào gieo giống trên đất
tốt và như vậy sẽ gặt hai được nhiều kết quả. Trái lại cúng dường những
kẻ thiếu đạo đức, còn mang nặng dục vọng chẳng khác gì gieo giống trên
đất xấu. Nắng dục vọng của người thọ lãnh làm khô chết giống công đức
của người cúng dường".
Chính đức Phât đã tán thành công đức của bà Visakha:
"Người đệ tử chơn thành của Như Lai luôn luôn hoan hỉ và không chút hối
tiếc trong lúc cúng dường bất cứ một phẩm vật nào. Do đó, u sầu tiêu
sạch, công đức phát sanh. Ðời sống phước lạc này giúp người bước lên con
đường giải thoát những sự triều phược và bất tịnh của con người. Sự
hướng thiện ấy sẽ làm cho người có hạnh phúc và an lạc trong công việc
từ thiện".
Ngôi Tịnh xá Pùràràma ở về phía đông Kỳ viên là của bà Visakha dâng
cúng. Và bà là người lãnh đạo những tín nữ ở Xá lợi."
Thượng tọa Minh Châu tiếp thêm: "Chính nhờ ngoại duyên đầy đủ mà đức
Phật đã thường trú tại đây gần 25 năm. Phần lớn các kinh điển quan trọng
đều được đức Phật thuyết tại đây. Chính từ nơi đây, các thầy Tỳ-kheo tài
đức đã đi khắp các xứ lân cận để truyền bá Chánh pháp".
Cây Bồ đề: Ðến đây, sau một
lúc nghỉ nắng, chúng tôi bắt đầu đi thăm từng cảnh một. Ði về phía đông,
nơi chúng tôi đến đầu tiên là cây Bồ đề này chính do ông Cấp-cô-độc
thỉnh một nhánh từ cây Bồ đề Phật Thành Ðạo đem về trồng tại đây. Tuy
không được xanh tốt như cây Bồ đề Bồ đề Ðạo-tràng nhưng nó vẫn giữ sắc
thái hùng vĩ, oai nghiêm, vượt cao lên trên những cây xung quanh nó. Mỗi
khi nhìn thấy cây, lá Bồ đề là lòng chúng tôi ngập tràn niềm vui tin
tưởng. Bởi nó là một vật kỷ niệm quí báu và cũng là biểu trưng cho nền
đạo giác ngộ. Ánh nắng chiếu vào những lá Bồ đề xanh láng làm cho toàn
cây như tỏa ra một vòng hào quang mát dịu.
Chúng tôi dành thời gian rất ngắn cho những nơi ít quan trọng, có nhiều
nơi chỉ lướt qua. Chùa và tịnh xá ở đây không biết bao nhiêu mà kể, tuy
chỉ còn lại những nền gạch. Chúng tôi chỉ đến chiêm bái và nghiên cứu tỉ
mỉ những cảnh sau đây:
Chùa số 3: Chùa này là thánh
tích thiêng liêng nhất ở Kỳ viên do ông Cấp-cô-độc dựng lên làm nơi
thường trú cho Phật. Trước mặt chùa có hai bệ gạch xây trên con đường
kinh hành cũ của đức Phật. Trên tượng của một vị Bồ Tát được tìm thấy
gần chỗ này, có một bia ký thuộc thế kỷ thứ nhất sau T.L., chép rằng
tượng này được dựng lên tại chỗ đức Phật đi kinh hành (Kosambakuti) bởi
ông Bala trong triều đại của một vị vua Kushan, Ngài Huyền Trang có thấy
tượng này.
Chúng tôi đảnh lễ và tưởng niệm tại đây, trên một nền gạch đầy sỏi đá.
Ðầu phơi nắng, trán chạm đất cát nhưng chúng tôi cảm thấy sung sướng và
mát dịu làm sao! Vì chúng tôi quán tưởng rằng đức Phật đang an tọa chính
nơi đây. Hai bàn tay và trán chúng tôi chạm đến đôi bàn chân của Ngài.
Nhưng đó chỉ là một sự ước mơ. Dầu sao sự ước mơ này cũng đã cho chúng
tôi một niềm an lạc.
Tinh xá số 19: Tịnh xá số 19
này nằm về phía tây xây mặt về phía đông. Ðây là tịnh xá lớn nhất ở Kỳ
viên, gồm có một điện Phật, một cái giếng giữa sân, 22 tịnh thất nhỏ vây
xung quanh và một số trụ lớn chạy theo hành lang phía trong. Hình như
tịnh xá này được xây đi dựng lại đến 3 lần trên một nền móng. Ngôi xưa
nhất này chỉ còn thấy một phần tường thuộc về thế kỷ thứ sáu sau T. L.,
ngôi thứ hai có lẽ thuộc thế kỷ thứ 10. Trên đây người ta có tìm được
một số tượng Phật trong đó có một tượng trong cử chỉ bắt ấn
Bhumisparsamudra, có đức Quan Thế Âm và đức Di Lặc hầu hai bên, một bức
chạm tích con vượn dâng mật cúng Phật; hai bức chạm có bia ký chép thuộc
thế kỷ thứ 9, thứ 10. Ngôi tịnh xá được dựng lên cuối cùng thuộc thế kỷ
11, 12 này nền móng vẫn còn. Nền móng hình vuông, mỗi bề độ 36 thước
tây, một sân không lợp ở chính giữa, xung quanh là tịnh thất của chư
Tăng, có hành lang chạy dài phía trong. Phòng chính xây mặt về phía các
cửa là một điện Phật nên bất cứ ai bước ra cũng đều thấy tượng Phật
trước hết. Tịnh xá này có tất cả 24 phòng. Trong mỗi phòng có một giường
nhỏ bằng gạch. Trong một tịnh thất ở tịnh xá này có đào lên được một tấm
đồng khắc rằng Thái tử Govindachandra xứ Kanauj năm 1130 sau T.L. có để
dành lợi tức của một vài chùa xung quanh thành Xá-vệ để cung cấp cho các
vị Tỳ-kheo ở Kỳ viên. Nhờ tấm đồng này mà người ta biết đích xác chỗ
Saheth này là Kỳ viên và chứng tỏ rằng đạo Phật ít nhất là đến thế kỷ
thứ 12 vẫn còn thịnh hành ở Ấn độ.
Chúng tôi nghĩ rằng lối kiến trúc tinh xá ở đây thật đúng với giới luật
và thích hợp cho việc thiền quán của chư Tăng. Sự chung đụng quá nhiều
giữa người và người thường gây ra những sự bất lợi cho người tu hanh về
thời giờ và tâm niệm. Sự tĩnh lặng cho người tu hành đủ sáng suốt để
biết rõ mình hơn và không bị lôi cuốn bởi ảnh hưởng xấu của kẻ khác. Tuy
nhiên nếu sống tách rời nhau quá cũng dễ sinh ra chia rẽ, đố kỵ và nhất
là không huởng được sự dắt díu và kiểm soát của thiện tri thức. Do đó,
theo thiển ý của chúng tôi, mỗi người một phòng và sống gần nhau trong
một tịnh xá là sự cư trú tốt nhất cuả Tăng già. Lối kiến trúc chùa chiền
theo kiểu chữ Khẩu hay chữ Môn bên ta quá chú trọng đến việc thờ phượng
và chỉ tiện lợi cho sự công phu bái sám tập thể. Chúng tôi chưa được
thấy Tòng lâm nào có những tinh xá thuận lợi cho việc thiền quán của chư
Tăng như ở đây.
Sau gần hai tiếng đồng hồ chiêm bái, viếng thăm, tìm hiểu tất cả chùa
chiền, tinh xá khắp nơi trong Kỳ viên, chúng tôi đến viếng một cái hồ
rộng nằm giữa những vòm cây được xem là hồ tắm của chư Tăng rồi đến một
cái giếng lớn và nền của một phòng tắm được xem là nơi tắm của đức Phật.
Qua những cái giếng còn lại chúng ta cũng biết được số đông đảo chư Tăng
trong lú Phật còn tại thế và những thế kỷ tiếp theo.
Trời đã dịu nắng. Cây lá đổi màu. Chúng tôi đồng leo lên một ngọn đồi
không cao lắm gần bên hồ để được nhìn thấy toàn cảnh Kỳ viên. Có lẽ vì
muốn được yên tịnh để suy tư những lời Phật dạy ngay trong cảnh mà ngày
xưa Ðức Phật đã thường trú nhiều năm, nên Thượng tọa Minh Châu đề nghị
mỗi người nên tìm một chỗ để tĩnh tâm độ 30 phút trước khi ra về. Thầy
Pasadika không để mất cơ hội thuận tiện nên xin tất cả ngồi lại trên đồi
này độ 10 phút nữa để thầy kế tiếp lịch sử của Kỳ-viên.
-- "Kỳ viên này, thầy Pasadika nói, như chúng ta đã thấy qua những di
tích còn lại, không phải chỉ xây dựng trong thời Phật còn tại thế mà
được tiếp tục xây dựng trong nhiều thế kỷ sau. Chính vua Asoka sau khi
lên ngôi có đến thăm Kỳ-viên này. Ðể kỷ niệm cuộc viếng thăm, vua cho
dựng hai trụ đá cao độ 22 thước ở cửa hướng đông. Một cột có Pháp luân
trên đỉnh và một cột có con bò. Theo ngài Huyền Trang, vua Asoka còn cho
xây gần đó một ngôi tháp thờ Xá Lợi của Phật nữa.
Trong những thế kỷ đầu tiên sau T.L., dưới triều đại Kushans, Phật giáo
được hưng thịnh thì ở đây chùa chiền và tinh xá được trùng tu và xây
dựng thêm. Nhất thế hữu bộ (Sarvastivada, mầm mống cuả Bắc tông) cũng
được thịnh hành tại chỗ này.
Dưới thời đại Guptas đầu, đạo Bà-la-môn có mạnh và muốn phá hoại Phật
giáo nhưng cảnh Kỳ-viên này vẫn được duy trì như trước. Ngài Pháp Hiển
đến thăm Kỳ-viên vào đầu thế kỷ thứ năm được các thầy ở đây tiếp đón, và
họ rất ngạc nhiên không hiểu tại sao có người ở rất xa lại đến đây được,
vì từ trước họ chưa bao giờ thấy người Hán cả. Ngài Pháp Hiển cũng thấy
hai trụ đá cùng một số tháp và điện dựng lên giữa hồ nước. Cây cỏ tươi
tốt và hoa lá rất nhiều, ngài cũng thấy cái lầu hai tầng, chỗ đức Phật ở
25 năm, và theo Ngài, trước kia nó có đến 7 tầng, nhưng sau khi bị cháy
chỉ làm lại được hai tầng. Phần lớn những di tích mà chúng ta thấy đều
được xây dựng dưới thời đại Guptas.
Ngài Huyền Trang đến thăm vào thời đại vua Harsha (606-647) thấy Kỳ-viên
lúc ấy đã bị phế tàn, tuy các ngôi chùa và tượng Phật vẫn còn, nhưng
không có một vị Tỳ-kheo nào ở tại đây cả.
Sau thời gian Huyền Trang đến thăm, Phật giáo được phục hưng tại chỗ
này. Vì có nhiều tượng và bia ký được tìm thấy tại chỗ như tượng
Lokanàtha Trailokyavijiya, Avalokitesvara (Quán tự tại), Simhanàda,
Lokésvara Jambhala (Quán tự tại), thuộc về những thời đại sau ngài Huyền
Trang đến và cho đến nửa thế kỷ thứ 12, nhiều chùa và tịnh xá vẫn còn
tồn tại ở đây. Ðó là nhờ sự hổ trợ của vua Gàhadavàla ở Kanauj tên là
Madanapàla và Thái tử Govindachandra. Bia ký của thời đại các vị này đều
được tìm thấy tại đây. Sau đó, Xá-vệ bị vua Hồi giáo đô hộ. Một vài di
tích Hồi giáo vẫn còn ở Xá-vệ. Và Kỳ viên này cũng bị tàn phá và bỏ quên
cho đến khi ông Cunningham tìm ra được chỗ này vào năm 1863."
Thầy Pasadika chấm dứt sau hai tiếng cám ơn nhè nhẹ với vẻ mặt buồn
chán.
Sau đó Thượng tọa Minh Châu, Thầy Huyền Vi và Thầy Pasadika tan ra đi
tìm chỗ để thiền định. Trên đồi chỉ còn một mình chúng tôi. Như thế
chúng tôi khỏi cần phải đi tìm một chỗ yên tịnh nào nữa. Ngồi dựa vào
một gốc cây định sau vài phút nghỉ cho khoẻ rồi tĩnh tâm thiền quán.
Nhưng một nỗi buồn đến xâm chiếm tâm tư sau khi nhìn lại cảnh hoang phế
trong lúc ngày sắp tàn làm cho chúng tôi không đủ sức để tập trung tư
tưởng vào một mối.
Tiếng gọi nhau ra về của những công nhân sửa sang cây cối đường sá ở đây
vọng lại, gợi lên trong trí tôi câu hỏi:
-- "Tại sao một Tòng lâm vĩ đại tồn tại suốt gần 16 thế kỷ này trở nên
một nơi hoang phế và hàng ngàn chư Tăng trong các tinh xá bây giờ chẳng
có bóng nào? Câu trả lời của vị giáo sư Hindi ở Nalanda có thể giải đáp
đầy đủ cho mỗi thắc mắc trên được chăng? Giáo sư ấy đã nói với chúng
tôi: "Suốt thế kỷ 11 và 12, giặc Hồi giáo chiếm cứ nước tôi, đập phá tất
cả chùa chiền và tàn sát chư Tăng. Rồi tiếp đó là cuộc đô hộ gần 300 năm
của người Anh là những nguyên nhân làm cho Phật giáo ở đây mất hình
thức. Những người Ấn chúng tôi hiện nay xem đạo Phật là một chi phái của
Ấn Ðộ và họ vẫn thực hành lời dạy của đức Phật, nhất là hạnh từ bi bất
bạo động".
Vâng, trong lịch sử Ấn Ðộ có những sự kiện ấy, song sự suy tàn của Phật
giáo ở đây còn do nhiều nguyên nhân khác nữa mà sự "trả thù" của
Bà-la-môn giáo là một. Chính chúng tôi đã có dịp thảo luận về nguyên
nhân trên với ông Prasad, một học giả đang nghiên cứu về vấn đề "Kinh tế
và tôn giáo" ở Nalanda. Ông ta đồng ý với chúng tôi: "Ðạo Phật vốn là
đạo cách mạng triệt để. Giáo lý cao rộng sáng sủa của đức Phật đã làm lu
mờ hệ thống triết lý của Bà-la-môn giáo, một tôn giáo đầy cả nghi lễ.
Phật giáo đã cải hóa rất nhiều vị Vua và nhiều người trí thức, chính
nhiều tu sĩ Bà-la-môn cũng quay về với Phật giáo. Sự việc này làm cho
các vị lãnh tụ Bà-la-môn giáo căm tức và đợi dịp tốt để trả thù. Thừa
dịp Phật nhập Niết Bàn, đệ tử của Ngài thiếu người tài đức và nhất là
nhân lúc Phật giáo bị Hồi giáo phá hoại, họ hùa theo làm cho Phật giáo
tiêu diệt".
Một câu hỏi nữa được chúng tôi đặt ra: "Nói đến sự thạnh suy thì bất cứ
Phật giáo nước nào cũng có lúc thạnh lúc suy. Dầu suy biến đến đâu đi
nữa cũng có lúc phục hưng được; Phật giáo Trung Hoa ba lần bị tiêu diệt
nhưng đến nay vẫn còn. Phật giáo Việt Nam suy biến nhiều trong thời kỳ
nội loạn và Pháp thuộc nhưng không đến nỗi điêu tàn như Ấn Ðộ, nơi Phật
giáo phát xuất và có nhiều chùa chiền, tịnh xá, hang động vĩ đại".
Chúng tôi muốn nói đến một nguyên nhân nội tại quan trọng đã làm cho
Phật giáo suy tàn một cách mau chóng và hiện nay phục hưng một cách chập
chạp. Nguyên ấy là sự thiếu chư Tăng. Có lẽ sau sự giết hại chư Tăng của
giặc Hồi giáo, không còn ai dám xuất gia để tu học và hướng dẫn cho tín
đồ nữa; rồi tín đồ vì thiếu người hướng dẫn lần lần đã bằng lòng hoặc bị
áp bức phải sống với tập quán phong tục của Bà-la-môn giáo, tôn giáo của
Ấn Ðộ, tôn giáo mà hàng Tăng sĩ có thể ở chung lộn với người trong làng
xóm. Cho đến ngày nay mặc dầu mặc dù Phật giáo ở Ấn được chính phủ để ý
nâng đỡ và nhiều người trí thức ca ngợi, nhưng sự phục hưng cũng chỉ nằm
trong sự sửa sang các thánh tích, ấn loát lại Tam tạng kinh điển, sự
khuyến khích sinh viên, học giả nghiên cứu Phật giáo. Riêng hội Maha Bồ
đề thành lập cũng đã lâu nhưng thành quả thâu hoạch về sự tổ chức và
giác ngộ quần chúng cũng không nhiều cho lắm, tuy so với các tôn giáo
khác ở đây về số tín đồ tăng thêm, thì Phật giáo đứng hàng đầu.
Nguyên nhân cũng chỉ là sự thiếu bóng Tăng ni. Với dân số gần 400 triệu
mà chư Tăng tài đức Ấn Ðộ không quá 115 vị, phần lớn lại ở tại Assam,
một ít ở Calcuta nên chẳng thấm thía vào đâu. Chư Tăng ngoại quốc, phần
lớn là Tích Lan tích cực giúp đỡ Phật giáo Ấn Ðộ, nhưng vì ngôn ngữ và
tập tục bất đồng nên rất khó thu hoạch kết quả. Gần đây, hàng triệu
người theo gương Bác sĩ Ambedkar qui ngưỡng Tam bảo nhưng họ phải tự
nâng đỡ dắt díu nhau chứ không được sự dạy dỗ của chư Tăng. Một thanh
niên Ấn Ðộ ngày nay muốn được xuất gia khó hơn một thanh niên Âu Mỹ, vì
không có hoàn cảnh thuận tiện như ngày xưa - Ngay ở Nalanda không kể
sinh viên thường, chư Tăng Ấn chỉ có 6 vị, còn bao nhiêu là chư Tăng
ngoại quốc. Hội Maha Bồ đề đang tìm cách khuyến khích giúp đỡ thanh niên
Ấn xuất gia để công việc phục hưng Phật giáo ở đây được dễ dàng và mau
chóng hơn.
Ðang lo buồn cho nền Phật giáo tại nơi phát sinh ra nó thì bóng khoan
thai của thầy Pasadika đi kinh hành trên một nền gạch cũ làm chúng tôi
nhớ rằng Phật giáo là chân lý của muôn phương muôn thuở. Trong khi ở đây
không đủ điều kiện tốt đẹp để phát triển thì chân lý ấy sống vững sống
mạnh khắp các nước Á Châu và đang sanh lá, đơm hoa ở Âu Mỹ. Niềm tin
tưởng vào sự sáng mạnh của Phật giáo trong tương lai ngự trị trong lòng
chúng tôi. Tiếp theo đó, bóng của Thượng tọa Minh Châu và Huyền Vi ở
đàng xa đi lại gợi lên trong tâm trí chúng tôi bản đồ Ðại Tòng Lâm Phật
giáo Việt Nam mà chúng tôi được Thượng tọa Thiện Hòa cho xem. Trước khi
xuất dương, chúng tôi ước nguyện một ngày gần đây sẽ được vui sống và
phục vụ trong một Tòng lâm quy cũ như Kỳ viên trong quá khứ để luôn luôn
được sự an ủi, dắt díu của mình sự thiện hữu. Ðó là ý nghĩ cuối cùng
trước khi chúng tôi rời khỏi ngọn đồi để cùng trở về Ðại Giác tự.
Ngày đã tan nhưng trời không tối lắm vì trăng đã lên. Ðể kỷ niệm nơi
chính Ðức Phật đã thuyết kinh A Di Ðà, tối hôm ấy tất cả chúng tôi và
Ðại đức trụ trì ở đây cùng đi Tịnh độ. Lâu lắm rồi không tụng kinh A Di
Ðà, tưởng đã quên hết, nhưng lạ thay, sau vài câu mở đầu là chúng tôi
tụng lâu không cần xem kinh nữa. Hình ảnh 7 hàng lan can, bảy hàng lưới
giăng, bảy hàng cây báu, hồ sen thất bảo v.v.. của cảnh Cực lạc trang
nghiêm lần lượt hiện rõ lên trong trí chúng tôi. Có lẽ Ðại Tòng Lâm Kỳ
viên đã giúp chúng tôi tưởng tượng cảnh Cực lạc một cách dễ dàng. Những
nhạc khí ở đây tuy không được "Vi diệu" như ở nhà nhưng cũng giúp chúng
tôi có một buổi tụng niệm hoàn toàn Việt Nam. Lối tụng kinh theo nghi
thức các nước Phật giáo Nam Tông không phải không hay, nhưng với chúng
tôi lối tụng kinh Việt Nam lai Trung Hoa, đậm đà êm ái và thiền vị làm
sao! Chúng tôi không có ý phân biệt tôn giáo, và đây chỉ là vấn đề tình
cảm. Có lần đạo hữu Chánh Trí nhắc lại với tôi câu nói mà đạo hữu đã nói
với một người bạn Nguyên thủy: "Tôi thích tụng kinh chữ Hán và đánh
chuông mõ, vì có lẽ kiếp trước tôi là người Tàu". Câu nói này cũng chính
là tiếng nói của tâm linh chúng tôi trong lúc ấy. Buổi tụng kinh tuy dứt
nhưng lời kinh, tiếng mõ như còn văng vẳng bên tai. Một niềm luyến nhớ
quê hương qua những mái chùa cong cong ẩn dưới tàn cây cổ thụ, và những
hồi chuông tiếng mõ nhịp nhàng thanh thoát vang dội sáng chiều.
Dưới ánh trang vàng, trong cảnh an bình của Ðại giác tự đêm hôm ấy,
chúng tôi không thể nào vào phòng tiếp tục công việc được. Tất cả chúng
tôi ngồi lại dưới hiên chánh điện để bàn về chương trình ngày mai. Vừa
ngồi yên thì Ðại đức trụ trì đem một quyển kinh ra và nói gì với Thượng
tọa Minh Châu chúng tôi không được hiểu. Sau đó Thượng tọa Minh Châu cho
biết Ðại đức trụ trì hỏi: "Phải chăng vừa rồi chúng tôi đã tụng kinh A
Di Ðà?". Tôi liền hiểu ra rằng: Vì thượng tọa Minh Châu nói được tiếng
Trung Hoa và khi chiều chúng tôi có hỏi mượn kinh A Di Ðà nên Ðại đức
tưởng là chúng tôi sẽ tụng tiếng Trung Hoa nên đã cùng đi Tịnh độ với
chúng tôi. Té ra chúng tôi xem kinh chữ Trung Hoa nhưng tụng theo lối
phát âm Việt Nam!
Tôi trình bày ý kiến của tôi về cách thức học chữ Hán với Thượng tọa
Minh Châu và thầy Huyền Vi. Sau một hồi thảo luận, tất cả chúng tôi đều
đồng ý là lối học chữ Hán của người Việt Nam nói chung, của chư Tăng ni
nói riêng chỉ có lợi trong địa hạt quốc gia nhưng không lợi trong địa
hạt quốc tế. Muốn thâu hoạch được công dụng rộng rãi của sự học chữ Hán,
chúng ta cần sửa đổi cách dạy và học, nghĩa là học chữ Hán như học sinh
ngữ Anh, Pháp v.v... Phải học cho viết được và nói được. Hiện nay Trung
Hoa là một thứ tiếng được nhiều người nói và viết trên thế giới. Học
theo lối Việt Nam ta xưa nay chỉ để dùng trong nước và chỉ để đọc sách.
Do đó, người dạy và người học cũng thiếu hào hứng. Thượng tọa Minh Châu
nhờ biết phát âm theo người Trung Hoa, nên đã có thêm một lợi khí quí
báu của ngôn ngữ. Thượng tọa giao thiệp được với người Trung Hoa bằng
tiếng Trung Hoa, viết sách, và giảng dạy được cho người Trung Hoa và
ngoại quốc biết tiếng Trung Hoa. Sau khi bàn thêm một vài chi tiết trong
chương trình giáo dục của các Phật học viện Việt Nam, chúng tôi đi ngay
vào việc chính: vạch chương trình chiêm bái và công việc cho ngày mai.
Ðêm về khuya. Trăng càng sáng. Tiếng hát của dân làng từ xa vọng lại gợi
lên trong chúng tôi một điều ước nguyện: Cầu cho chúng sanh an lành và
dân tộc Việt Nam sớm ra khỏi cơn binh lửa.
"Cầu cho chúng sanh an lành
Ðồng nguỵện suôt đời theo gót người xưa
Và nguyện cho cuộc đời hết khổ đau".(Về dưới Phật đài)
Thành Xá-Vệ
Sáng ra, sau khi điểm tâm xong, chúng tôi lên đường đi đến thành Xá-vệ.
Thành này cách Kỳ viên độ hai cây số nay chỉ còn những lũy đất bọc chung
quanh một vùng đất hoang dại rộng độ 200 mẫu tây. Trèo lên một mô đất
cao có lẽ là một pháo đài cũ, chúng tôi thấy rõ sông Aciravati, con sông
được nhắc đến nhiều lần trong kinh điển. Bắt nguồn từ dãy Hy-mã-lạp-sơn
cao khiết, vượt qua đồi núi đồi thơ mộng và những ruộng đồng xanh tươi,
sông Aciravati bọc quanh một phần nửa chu vi thành Xá-vệ. Lòng sông xanh
lơ, nước sông chảy từ từ. Cái vẻ thanh lịch của nó không kém gì sông
Hương chảy ngang qua cố đô Phú Xuân. Ngoài thành xa xa rải rác những xóm
nhà lá. Trong thành tuyệt nhiên không còn lấy một mái ngói hay một vách
tường. Theo tài liệu được ghi chép trong kinh điển thì Xá vệ là kinh đô
cuả nước Kosala. Ðô thành này đông đúc và giàu có nhất đối với những
nước lâng bang lúc bấy giờ. Trên vọng lâu này, chúng tôi được Thượng tọa
Minh Châu kể sự bái yết của vua Ba-tư-nặc và đọc lại bài thuyết pháp của
Phật thuyết cho nhà vua. Lúc bấy giờ vua Ba-tư-nặc nghe đức Phật đến và
thường trú lại Kỳ viên liền cùng với đoàn tùy tùng đến bái yết Ngài. Nhà
vua chấp tay và nói:
"Hạnh phúc thay cho đất nước hèn mọn của con được đức Thế Tôn quan tâm
và thường trú. Tai biến và hoạn nạn sẽ không có cơ hội xảy ra trong lúc
Ðấng Giác Ngộ có mặt tại đây. Hôm nay con rất sung sướng được chiêm
ngưỡng dung mạo của Ðấng Thế Tôn. Xin Thế Tôn rưới cho nước cam lồ và
ban Chánh Pháp dịu mát. Dục lạc là những gì mau hoại diệt. Còn pháp lạc
là nguồn vui vô tận. Thế nhân, dầu là vua hay bá ánh vẫn đầy dẫy những
phiền muộn. Chỉ có những bậc đức hạnh mới có sự tịnh lạc".
Biết được lòng dạ nhà vua trước kia nghiêng nặng về dục lạc nhưng nay
biết hướng thiện, không bỏ lỡ cơ hội tốt, đức Phật dạy:
"Ngay những kẻ tầm thường vẫn có những đạo niệm cao khiết khi gặp được
những bậc đức hạnh, phương chi một vị Quốc vương, người có quả báo tốt
đẹp, lẽ dĩ nhiên người sẽ dễ dàng trong việc hướng thiện.
"Như Lai sẽ vắn tắt một vài điều Chánh pháp. Người hãy lắng nghe:
"Những hành động thiện hay ác của chúng ta mãi theo chúng ta như bóng
theo hình. Ðiều cần thiết mà chúng ta phải có là tình thương. Hãy xem
thần dân như con ruột con mình, đừng áp bức họ, đừng tổn hại họ, trái
lại hãy bảo vệ họ như gìn giữ tay chân của người. Hãy sống với Chánh
Pháp và đi mãi trên con đường lành. Ðừng nâng mình lên bằng cách đạp kẻ
khác xuống. Hãy gần gũi và thương yêu những kẻ nghèo khổ.
"Ðừng nghĩ nhiều đến địa vị quốc vương và đừng nghe những lời nịnh họt.
Không có một sự an lạc nào trong sự làm khổ mình bằng cách ép xác. Nên
chú tâm vào Chánh pháp và áp dụng Chánh pháp trong cuộc sống. Chúng sanh
đang bị bao quanh bởi những núi thành sầu khổ và chỉ có thể giải thoát
bằng cách sống thật với chân lý. Tất cả những bậc trí giả đều ghê tởm
những thú vui thấp hèn của xác thịt và trọn sống cho trí tuệ. Thử hỏi:
làm sao chim chóc có thể đậu được trên một cây đang bốc cháy dữ dội?
Chơn lý cũng vậy, không thể tìm thấy nó trong cuộc sống đầy dục vọng.
Không nhận thức được như thế, dầu được xưng tụng là Thánh nhân cũng chỉ
là kẻ dốt nát. Nhận thức được như thế là người thật có trí tuệ. Hãy dành
nhiều thời giờ cho việc khai sáng tâm trí. Thiếu trí tuệ, cuộc đời trở
nên vô nghĩa. Tất cả giáo nghĩa của các tôn giáo phải phụng sự cho trí
tuệ loài người. Nếu không chúng không có lý do để tồn tại.
"Chơn lý không phải là của riêng của Tu sĩ mà là của chung của nhân
loại. Không có sự phân biệt giữa nhà tu và kẻ thế trong vấn đề tìm chơn
lý vì rằng có nhiều nhà tu phải sa đọa trong khi đó có những kẻ thế lại
lên cao. Làn sóng tham dục là tai nạn hiểm nghèo cho tất cả: nó nhận
chìm tất cả, không ai tránh khỏi. Chỉ có nương thuyền trí tuệ mới có thể
vượt qua nó được. Và tôn giáo chơn chánh là tôn giáo thức tỉnh người tự
cứu mình ra khỏi cạm bẫy của Ma vương.
"Vì không thể trốn thoát được quả báo của hành động do chúng ta gây ra
nên chúng ta gây ra nên chúng ta hãy thực hành điều thiện, hãy kiểm soát
tư tưởng đừng để suy nghĩ điều ác. Vì chúng ta sẽ gặt những gì chúng ta
gieo.
"Có những con đường từ nơi sáng đến chỗ tối và từ chỗ tối đến nơi sáng.
Cũng có những con đường đưa từ nơi mờ mờ đến nơi tối thẳm và từ chỗ sáng
ít đến nơi sáng chiều. Người có trí luôn luôn mở mắt để đón nhận ánh
sáng càng nhiều càng tốt. Họ luôn luôn tiến mạnh trên con đường sáng để
được đến gần với chân lý.
"Hãy tỏ ra cao khiết bằng cách sống với đức hạnh, và trau đổi trí huệ.
Hãy nhận chân và suy tư nhiều về sự thấp kém của vật dục và sự phiền
nhiễu của cuộc đời ô trược.
"Hãy nâng cao trí sáng và trung kiên với lý tưởng. Ðừng xem thường những
đức hạnh cần phải có của một đấng Quân vương. Hãy tìm hạnh phúc chính
trong lòng người, đừng chạy theo những vật chất bên ngoài và như vậy là
người xây dựng uy danh một cách vững chắc".
Sau khi trang tiếp những lời vàng ngọc cuả Ðức Thế Tôn, Vua Ba-Tư-nặc
hứa nguyện sẽ là một đệ tử chân thành của đức Phật."
Thượng tọa Minh Châu nói thêm:
-- "Chính nhờ sự quy ngưỡng của Vua Ba-tư-nặc mà Chán pháp được phổ cập
một cách mau chóng, khắp lãnh thổ nước Kosala lúc bấy giờ".
Mặt trời lên cao. Chúng tôi phải rời vọng lâu và tiếp tục đi. Câu chuyện
quy ngưỡng của Vua Ba-tư-nặc và những lời thuyết pháp hợp cơ của đức
Phật làm cho chúng tôi liên tưởng đến một vài trường hợp trong lịch sử
Phật giáo Việt Nam và quốc gia Việt Nam.
Những thời kỳ quốc gia Việt Nam được an trị và hiển hách về chiến công
cũng như văn học chính là những thời kỳ Phật giáo thạnh hành. Vua chúa
biết tu tâm dưỡng tánh, có lòng thương dân. Dân chúng tôn trọng đạo đức,
quên tình riêng, nghĩ đến nghĩa chung. Ấy là những triều đại Ðinh, Lê,
Lý, Trần. Trái lại, những lúc vua chúa hoang dâm vô độ, tham quyền cố vị
và nếu có nghĩ đến đạo giáo cũng chỉ tế tự để cầu phúc cho mình; những
thời thần dân ham chuộng danh lợi, hiềm khích tư thù, nếu có học đòi văn
chương đạo đức cũng chỉ để mưu lợi và tiến thân, thì chính là những lúc
nước nhà phải gặp nhiều tai loạn. Ấy là những triều đại Long Ðĩnh, cuối
Trần, Trịnh, Nguyễn v.v...
Chúng tôi nghĩ thêm: bổn phận đầu tiên của những người lãnh đạo là phải
thật có đạo đức, thật tâm tìm hiểu những tôn giáo hiện hữu trong nước,
khuyến khích dân chúng lựa chọn và thật sống theo những đạo giáo chơn
chánh. Sự kỳ thị tôn giáo nơi những người nắm chính quyền là một nguyên
nhân lớn lao của sự chia rẽ dân tộc. Chiến tranh tôn giáo hoặc nóng hoặc
lạnh đều nguy hại cho đoàn kết dân tộc và chủ quyền quốc gia. Trái lại,
sự thật sống theo tôn giáo của dân chúng giúp cho nhà cầm quyền một nửa
công việc trị an, nhất là về sự kiện tụng. Sự khác nhau về tôn giáo của
dân chúng không đáng lo ngại, mà nên sợ dân chúng không sống đúng theo
lời dạy của giáo chủ họ. Vì không có một vị giáo chủ chơn chánh nào lại
dạy tín đồ ghét bỏ tha nhân, mưu hại, chém giết đồng bào, vong ân, phản
quốc. Các Ngài đều dạy: thương yêu giúp đỡ kẻ khác, quên thù trọng nghĩa
v.v...
Ði đến đoạn đường hướng về phía Bắc, rẽ vào phía Ðông thì đến Pakki
Kuti. Ðây là mô đất lớn và cao nhất trong thành. Theo ký sự của ngài
Huyền Trang và ngài Nghĩa Tịnh thì đây là di tích của tháp kỷ niệm sự
cải hóa cuả Angulimala. Sau khi quan sát toàn cảnh Pakki Kuti, tất cả
chúng tôi đến nghỉ mát dưới một gốc cây. Thầy Pasadika tiếp tục thi hành
bổn phận, kể lại câu chuyện cải hóa của Angulimala:
--"Lúc bấy giờ ngoài thành Xá-vệ này có một tướng cướp tên Angulimala.
Tướng cướp này quấy phá làng nước đã lâu và mỗi khi giết được người thì
chặt lấy một ngón tay xâu thêm vào cái vòng chuỗi ngón tay đeo nơi cổ.
Quân lính triều đình chịu bó tay trước sức mạnh phi thường và tài biến
hiện cuả tên sát nhân này.
Khi đến ở tại Kỳ-viên, nghe tin này đức Thế Tôn muốn cải hóa Angulimala.
Một hôm Ngài đi tìm Angulimala. Nhiều người khuyên can không nên đi,
nhưng Ngài vẫn làm công việc của Ngài.
Thấy được Ngài Angulimala rượt theo với niềm vui sướng là có người chết
thay cho mẹ chàng và chàng sắp hoàn thành được vòng hoa gồm một ngàn
ngón tay của một ngàn người. Và như vậy chàng sẽ được điểm đạo theo lời
dạy của đấng Tôn sư. Với một tốc lực rất nhanh, nhưng không tài nào chạy
kịp đức Phật. Angulimala tức giận tự nhủ: "Quái gở! Ta đã từng chạy mau
hơn voi, ngựa xe, nhưng tại sao hôm nay ta bất lực thế này: không đuổi
theo kịp người đạo sĩ đang đi một cách khoan thai đàng kia?" Chàng đứng
lại thét lớn: - "Hãy dừng lại! Người đạo sĩ kia!".
Ngài dừng lại. Ðợi Angulimala đến gần, đức Phật bảo: "Này Angulimala! Ta
dừng lại để cho ngươi được việc. Nhưng ngươi có nên dừng lại cái nghề
giết hại độc ác của ngươi không? Nếu được, Như Lai sẽ giúp ngươi trở về
con đường chơn chánh. Như Lai tin rằng thiện tâm chưa chết trong lòng
ngươi. Nêu ngươi ban cho nó một cơ hội thuận tiện, nó sẽ sống lại, thay
đổi đổi đời ngươi và làm cho ngươi được an vui".
Angulimala cảm động và thấy mình như bị đánh ngã bởi tiếng nói từ bi,
chàng tự bảo: "Cuối cùng người Ðạo sĩ này thắng phục được ta". Chàng
kính cẩn bạch với Ðức Phật:
- "Bạch Ngài, hôm nay, tiếng nói nhiệm màu của Ngài đã thức tỉnh con. Từ
nay con xin cương quyết từ bỏ tất cả những hành động tàn bạo. Xin Ngài
từ bi dắt díu con trên con đường lành". Liền khi ấy Angulimala quăng
xuống hố sâu vòng ngón tay mà lâu nay chàng đã mang một cách hãnh diện,
rồi hạ mình kính lạy đức Phật và xin Ngài thâu nhận làm đệ tử. Ðức Phật
bảo:
- Người đã muốn, hãy theo Như Lai.
Từ lâu, quân lính của triều đình cũng như chính vua Ba-tư-nặc lấy làm
tức giận và nhục nhã vì không trị nổi Angulimala. Vua mất mặt với thần
dân và các nước láng giềng về vụ Angulimala. Một hôm Vua đến bái yết đức
Phật, Ngài hỏi: - Ðại vương! Việc gì đã xảy ra? Có điều gì rắc rối với
Vua Bimbisara ở Magadha với vua Licchavis nước Vesali hoặc một kẻ thù
nào khác chăng?
- Bạch Thế Tôn! Chẳng có gì rắc rối với các nước ấy, duy có một điều
đáng tủi hổ cho con là con đã không trị nổi Angulimala. Nó phá hại làng
xóm và giết chóc dân chúng quá ghê rợn!
- Này Ðại vương! Nếu nay người thấy Angulimala râu tóc cạo sạch trong bộ
cà sa vàng của một tu sĩ đức hạnh thì người đối với y như thế nào?
- Bạch Thế Tôn! Con sẽ vái chào và mời y ngồi. Con sẽ dâng cúng các phẩm
vật như con đã dâng chư Ðại Ðức ở đây. Nhưng Bạch Thế Tôn! Bóng mát đức
hạnh làm sao che đến con người hung bạo ấy được?
Ngay lúc ấy Ðức Phật đưa tay chỉ về phía bên phải nơi Angulimala ngồi và
nói: - Này Ðại vương! Ðây là Angulimala.
Vua Ba-Tư-nặc vừa ngạc nhiên vừa run sợ. Thấy vậy, đức Phật dạy: - Không
có gì đáng sợ ở nơi đây cả. Ðại vương!
Nhà vua lấy lại bình tĩnh đi thẳng đến nơi Angulimala đang ngồi và nói:
- Có phải Ngài thật là Angulimala không?
- Tâu Ðại vương, tôi chính là Angulimala.
- Thân phụ và thân mẫu của Ngài thuộc dòng họ nào?
- Thân phụ cuả tôi thuộc về họ Gagga, tâu Ðại vương, và thân mẫu tôi là
Mantani.
- Ðức hạnh thay người con của Gagga và Mantani. Tôi sẽ dâng hiến lên
người tất cả những vật cần dùng.
Lúc bấy giờ Ðại đức Angulimala đã xin đức Phật được ở vào một nơi thanh
tịnh để tiện bề thiền quán, và chỉ mặc ba y phấn tảo (loại y dùng giẻ
rách xấu nhớp lượm ở những đống rác may lại) nên Ðại đức từ chối không
nhận thêm phẩm vật của nhà vua.
Ðứng dậy hướng về Ðức Phât, Vua Ba-tư-nặc tán thán: "Bạch Ðức Thế Tôn!
Mầu nhiệm thay! Kỳ diệu thay! Ngài là đấng đủ sức điều trị những kẻ khó
điều trị, thắng phục những kẻ khó thắng phục, làm thanh tịnh những kẻ
loạn động. Những kẻ mà con không chinh phục được bằng lưỡi gươm thì Ngài
đã chinh phục được bằng lòng từ bi".
Một ngày kia, đang đi khất thực trong thành. Ðại đức Angulimala bị dân
chúng liệng đá, đánh đập đến phun cả máu đầu, bình bát bể nát, y áo tả
tơi. Ðại đức đến trình diện trước đức Phật. Ngài dạy:
- Angulimala! Hãy can đảm và cố gắng chịu đựng tất cả khổ nhục nhỏ để
được sự an lạc lớn!.
Ðại đức Angulimala hoan hỷ tiếp nhận lời dạy của đức Phật. Với một niềm
an lạc phát ra từ tâm hồn giải thoát, Ðại đức nói:
- Ai tỏ ra tinh tấn tại chỗ không có tinh tấn, ai lấy đức hạnh bao trùm
quá khứ của mình, ai trong tuổi trẻ bám víu vào đức Phật, người ấy như
mặt trăng chiếu tỏa trần gian với ánh sáng. Hãy để cho kẻ thù của ta
nghe thánh giáo này, tuân theo đức tin này và đi theo những người con
của trí huệ. Hãy để cho kẻ thù của ta nghe đúng lúc lời kêu gọi tình
thương này, một lời kêu gọi nhu mì nhẫn nại, và hãy sống đúng theo lời
kêu gọi ấy. Ta, kẻ đạo tặc được gọi là "Vòng hoa ngón tay người" sống và
bị trôi lăn xuống dòng cho đến khi "Người" đưa ta đến đất liền. Là "Vòng
hoa ngón tay người", ta tắm trong máu đào; nhưng nay ta đã được giải
thoát!"
Câu chuyện trên chính chúng tôi được nghe và kể đi kể lại nhiều lần,
nhưng hôm nay nó vẫn mang đến cho chúng tôi rất nhiều thú vị. Có lẽ vì
chúng tôi đang được thấy tận mắt di tích lịch sử nên ý nghĩa câu chuyện
vẫn còn sống động. Theo thiển ý, đức Phật và giáo pháp của Ngai đã cải
hóa được nhiều Angulimala rồi. Nhưng hiện nay còn biết bao nhiêu
Angulimala đang sống tung hoành khắp nơi trên mặt đất, đang gây tang tóc
cho biết bao nhiêu người lương thiện cũng vì họ chưa gặp được Chánh pháp
. Nguyện cầu cho những đệ tử của đức Phật đầy đủ đạo hạnh và oai đức để
mang chánh pháp của đức Phật đến với những Angulimala hiện tại đó.
Chúng tôi đi viếng thêm một di tích lịch sử nữa là Kacchè Kutè. Cũng
theo các nhà chiêm bái Trung Hoa, mô đất cao có hình 2 tháp tròn này là
tháp cuả ông Sudatta (cũng gọi là Cấp-cô-độc), một Phật tử hộ pháp đắc
lực lúc Phật còn tại thế như đã được nói ở trên.
Trở về đến Ðại Giác tự, vừa đúng giờ thọ trai Ðại đức trụ trì đang ngồi
chờ chúng tôi. Dùng cơm xong chúng tôi trở về khách sạn nghỉ ngơi. Chiều
hôm ấy, sau những giờ làm việc riêng, tất cả chúng tôi đều trở lại thăm
Kỳ viên lần chót và tĩnh tọa ở đây cho đến hoàng hôn mới ra về.
Tối lại, chúng tôi tụng kinh Kim Cang. Có cả thầy Pasadika đi tụng nữa.
Nhưng thầy ngồi im lặng thiền quán cho đến cùng. Sau buổi kinh, tất cả
chúng tôi đều ra ngồi lại tại chỗ hôm qua để ngắm trăng và bàn bạc.
Trong khi chờ Thượng tọa Minh Châu trở lại, thầy Pasadika hỏi chúng tôi
vừa rồi đã tụng kinh gì. Chúng tôi trả lời là tụng kinh Kim Cang. Và
luôn tiện chúng tôi đọc, dịch và giảng sơ những bài kệ mà chúng tôi nghĩ
rằng có thể là đại ý của toàn bộ kinh cho Thầy nghe.
"Tất cả cho các pháp hữu vi,
Như chiêm bao, ảo thuật, bọt nước.
Như sương mai, như điện chớp
Cần phải quán tưởng như thế
Nếu thấy Như Lai qua sắc tướng
Nghe Như Lai qua âm thanh,
Người ấy đã tu theo tà đạo,
Không thể thấy được Như Lai".
Thầy lấy làm hoan hỷ và nói với chúng tôi: "Hiện tại kinh điển Ðại Thừa
bằng Phạn văn (Sanskrit) rất hiếm tại Ấn. Ở Nepal chỉ còn một ít nơi một
vài nhà học giả uyên thâm. Gần đây các Ðại học đường Bombay, Poona,
Santiniketan, Calcuta, Benarès v.v... có cho in lại một bản luận của
ngài Thế Thân, Vô trước, Long Thọ v.v... nhưng chưa thấm vào đâu đối với
kho tàng kinh điển chữ Phạn. Quí thầy biết được chữ Hán là có được cái
chìa khóa để mở kho tàng giáo lý cao rộng của Ðại thừa. Tôi ao ước sẽ
được học chữ Hán trong một ngày gần đây".
Câu chuyện chúng tôi đang còn hào hứng thì Thượng tọa Minh Châu trở lại
và sau đó chúng tôi bàn về công việc từ giã và hành trình ngày hôm sau.
Ðại Kỳ-viên Tòng lâm ở vào một nơi xa cách phố phường nên sự giao thông
có bề trở ngại. Chúng tôi phải chờ ở ngã ba gần 2 tiếng đồng hồ mới đón
được xe buýt. Trong thời gian đợi xe, một đoàn con nít độ chín, mười em,
tuổi xấp xỉ nhau, thấy chúng tôi là người lạ, nên bu quanh để xem. Ðọc
sách mãi cũng chán, chúng tôi đứng dậy chơi với chúng. Học Hindi hơn ba
tháng trời nhưng chúng tôi chỉ nói được một ít tiếng một và vài câu giản
dị như Namaste (chào em), Tumkomakan kuha hê? (Nhà em ở đâu?)
Tumbarakyaman hô? (Em tên gì?), Bahút accha (tốt lắm) và Dannabat (cám
ơn). Thế mới biết "trị dị hành nan". Tuy chỉ dùng có mấy câu ấy, chúng
tôi đã làm quen được với tất cả các đoàn. Nói rằng chơi chớ thật ra
chúng tôi học với chúng. Mượn một quyển sách tập đọc, hình như của lớp
tư thì phải, chúng tôi tập đọc Hindi, dưới sự hướng dẫn của chúng. Mỗi
lần chúng tôi đọc sai là chúng cười ồ lên rồi sửa lại cho chúng tôi. Hết
đọc, chúng tôi mượn bảng đen và xin chút phấn viết chánh tả bằng cách
hỏi tên từng em một. Những lỗi chánh tả của chúng tôi được chúng sửa
ngay sau khi viết. Một đôi khi chúng tôi làm bộ ngây ngô, ngớ ngẩn và
như thế là tạo cho chúng một trận cười thích thú. Chúng tôi đã thực hành
được một khẩu hiệu của Gia đình Phật tử: "chơi mà học".
Mặt trời đã lên cao. Nắng mai. Nắng mai sưởi ấm chúng tôi. Vài người đi
đường thấy đám đông xúm đến. Họ tỏ vẻ hoan hỉ và hãnh diện khi thấy
chúng tôi là người ngoại quốc cố gắng học tiếng mẹ đẻ của họ. Lòng chúng
tôi rộn lên một niềm vui tươi trẻ mãi để học cho bớt dốt.
Lớp học ngoài trời này bổ ích cho chúng tôi rất nhiều. Vì một mình chúng
tôi là học trò mà có thể đến gần 10 giáo sư, em nào cũng làm thầy chúng
tôi được vì chúng đều biết đọc và viết Hindi. Câu "Học bất cứ hạ vấn"
trong trường hợp này đối với chúng tôi thật là chí lý.
Sang đây chúng tôi cảm thấy như nhỏ và trẻ lại. Ứ, không nhỏ sao được vì
chúng tôi đang còn đi học kia mà! Một tấm quảng cáo bên đường là một bài
học tập ngắn của chúng tôi. Một đám rước, những người đàn bà che mặt
v.v... đều làm cho chúng tôi đặt thành những câu hỏi. Như một đứa bé nhà
quê đi phố với mẹ, nhất nhất cái gì chúng tôi cũng hỏi Thượng tọa Minh
Châu. Nhiều khi chúng tôi làm cho Thượng tọa bực mình vì những câu hỏi
không đâu. Chúng tôi quả là đang đi học và vừa đi vừa học.
Xe buýt đến. Chúng tôi từ giã Xá-vệ, kinh thành vang bóng một thời khi
Vua Ba-tư-nặc trị vì và đức Thế Tôn giáo hóa ở đây. Những tiếng Namasté
thân ái và những cái vẫy tay hồn nhiên của những em bé Xá-vệ làm chúng
tôi càng thêm bùi ngùi lưu luyến.
Ngài Pháp Hiển và ngài Huyền Trang đều có viếng thăm thành Xá-vệ, và
thành này đã mất địa vị một đô thị lớn của thời xưa.
Ngài Pháp Hiển chép:
"Từ đây về phía nam độ 8 do tuần, chúng tôi đến nước Kiều-tất-la
(Kosala) và thành Xá vệ (Sràvasti), dân số thành này rất thưa thớt
khoảng độ 200 gia đình mà thôi. Vua Ba-tư-nặc (Prasenajit) trì vị tại
nước này. Sau này các tháp được dựng lên tại di tích ngôi chùa của bà
Mahaprajapati (Ma-ha-Bà-xà-ba-đề), tại ngôi nhà của Trưởng giả Tu-đạt
(Sudatta), tại các chỗ Ương-quật-ma (Angulimàla) thành đạo và làm lễ trà
tì sau khi nhập Niết bàn. Các ngoại đạo Bà-la-môn sanh tâm tật đố muốn
hủy hoại các tháp ấy, nhưng trời bỗng nổi sấm chớp ầm ầm và việc ác của
chúng không thành tựu.
Khoảng 1.200 bước ngoài cửa thành phía nam, về mặt phía tây con đường là
một tinh xá do trưởng giả Tu-đạt dựng lên. Tinh xá này hướng về phía
đông và trước hai phòng lớn của tinh xá co dựng hai cột trụ đá. Trên trụ
đá, phía tả có tạc hình Pháp luân, phía hữu có tượng con trâu, nước hồ
trong lặng, cây cỏ tốt tươi, các hoa trăm sắc, trông thật khả ái. Chỗ
này tức là Kỳ-hoàn-tinh xá (Jetavana).
Khi Ðức Phật lên cõi trời Ðao-lợi (Trayastrimsas) để giảng pháp cho thân
mẫu trong 90 ngày. Vua Ba-tư-nặc tưởng nhớ đến Phật và bảo khắc một
tượng Phật bằng gỗ ngưu đầu chiên đàn (Gosirsha). Vua đặt tượng này chỗ
đức Phật thường ngồi. Khi đức Phật về lại tinh xá, tượng này từ chỗ ngồi
đứng dậy và nghinh tiếp Ðức Phật. Ðức Phật nói: "Ngươi hãy lui về chỗ
ngồi cũ. Sau khi Ta nhập Niết Bàn, người hãy làm kiểu mẫu cho bốn chúng
theo đó mà tạo tượng". Tượng ấy nghe nói như vậy bèn về ngồi chỗ cũ. Pho
tượng này là tượng Phật đầu tiên và người đời sau bắt chước kiểu mẫu
này. Rồi đức Phật đến ở một tịnh xá nhỏ khác cách chỗ của tượng Phật 20
bước về phía nam.
Tịnh xá Kỳ hoàn trước có đến 7 tầng. Vua quan, nhân dân các nước tranh
nhau cúng dường, treo các tràng phan, bảo cái, tán hoa, thắp hương, đốt
đèn suốt cả ngày đêm không bao giờ dừng nghỉ. Một hôm có con chuột tha
một tim đèn đương đỏ và đốt cháy tràng phan, bảo cái, cả tòa lầu 7 tầng
đều bị thiêu sạch. Vua, quan, các nước cùng nhân dân than khóc rất ảo
não, sợ rằng bức tượng chiên đàn cũng bị cháy mất. Nhưng năm sáu ngày
sau, khi mở cửa một tinh xá nhỏ về phía đông, thình lình họ thấy tượng
Phật còn nguyên vẹn và vô cùng vui mừng, họ liền dựng lại một tinh xá 2
tầng và thỉnh tượng Phật về chỗ cũ.
Khi mới đến tinh xá Kỳ-hoàn, ngài Pháp Hiển và Ðạo Chánh nghĩ đến đức
Phật đã ở tại tinh xá này đến 25 năm, các ngài thương tâm hối tiếc đã
phải sanh ở biên đại. Nghĩ đến các bạn đồng đi chiêm bái ở các nước,
người thì trở về xứ sở, kẻ thì giữa đường mạng vong, ngày nay nhìn đến
chỗ Phật vắng bóng từ nhau, tâm hồn hai nhà lữ hành không khỏi xao xuyến
bi cảm!
Chư Tăng ở đây ra tiếp đón ngài Pháp Hiển và Ðạo Chánh. Họ hỏi: - Các
ngài từ nước nào lại?
- Chúng tôi từ nước Hán đến đây, hai vị này trả lời.
Họ ngạc nhiên tán thán:
- Kỳ thay! Kỳ thay! Người ở nước xa đến tận đây cầu pháp.
Và họ nói với nhau rằng từ trước cho đến nay, chư tăng đại đức nối tiếp
tương truyền, chưa ai thấy chư Tăng người Hán đến đây cả.
Bốn dặm về phía tây bắc của ngôi tịnh xá có một cánh rừng tên là "Mắt
sáng trở lại". Xưa kia có 500 người mù ở gần tinh xá này, đức Phật
thuyết pháp cho họ và mắt họ được sáng trở lại. Họ hoan hỉ cắm các cây
gậy xuống đất và đảnh lễ đức Phật. Các cây gậy mọc rễ và lớn lên. Dân
chúng kính trọng chỗ này không dám chặt các cây ấy. Nhờ vậy cây lớn
thành rừng, được gọi là rừng "Mắt sáng trở lại". Sáu, bảy dặm phía đông
bắc tinh xá Kỳ-hoàn là tinh xá của Tỳ-xá-khư dựng lên để cúng dường đức
Phật và Chúng Tăng. Di tích hiện còn.
Kỳ hoàn tinh xá đại viện có hai cửa, một cửa hướng đông, một hướng bắc.
Chính tại vườn này Trưởng giả Tu Ðạt trải vàng lót đất để mua vườn. Tinh
xá được dựng tại Trung tâm của vườn và đức Phật ở tại chỗ này lâu hơn
tất cả chỗ khác. Các tháp với nhiều tên khác nhau được dựng tại các chỗ
đức Phật thuyết pháp độ sanh, kinh hành và ngồi thuyền. Chỗ này cũng là
chỗ mà nữ ngoại đạo Tôn Ðà Lợi (Sundari) bị giết để vu oan giáng họa đức
Phật.
Từ cửa phía đông của tinh xá Kỳ hoàn khaỏng 70 bước phía tây con đường
là chỗ mà đức Phật biện luận với 96 ngoại đạo. Vua, quan, nhân dân, cư
sĩ tụ họp đông đủ để dự thính. Lúc bấy giờ có một nữ ngoại đạo tên là
Chiên-giá-ma-na (Chin Chimara) vì lòng tật đố độn một đống áo quần vào
bụng làm như có thai vào giữa hội trường buộc tội đức Phật đã tư thông
với nàng. Lúc ấy Thiên Ðế Thích (Sakra) liền hóa thành một con chuột
trắng cắn đứt sợi dây khiến cho đống áo quần rơi xuống đất. Sau đó đất
nứt ra và nàng Chiên-giá-ma-na rơi sống địa ngục. Cũng chính tại chỗ này
Ðề Ba Ðạt Ða (Devadatta) dùng móng tay đã tẩm thuốc độc để hại đức Phật
và cũng bị rơi ngay vào địa ngục. Tất cả những chỗ này đều được ngưòi
đời sau ghi dấu. Tại chỗ đức Phật biện luận với ngoại đạo, một tinh xá
cao khoảng 6 trượng được dựng lên. Trong tinh xá có tượng đức Phật đang
ngồi. Phía đông con đường có một miếu thờ thần tên là "Anh Phủ" (bóng
che) miếu này cao 6 trượng và do các ngoại đạo Bà-la-môn dựng lên trước
một ngôi tịnh xá, tại chỗ biện luận. Miếu này có tên như vậy, vì khi mặt
trời về phía Tây thì bóng của ngôi tinh xá Phật che cái miếu thần, nhưng
khi mặt trời ở phía đông thì bóng của ngôi miếu thần ngã về phía bắc và
không bao giờ che được ngôi tinh xá Phật.
Các ngoại đạo thường cử người săn sóc miếu, quét dọn, tưới nước, đốt
hương, thắp đèn và cúng dường; nhưng đến sáng lại thì các ngọn đèn biến
mất và được tìm thấy tại ngôi tinh xá Phật. Các vị Bà-la-môn tức giận
nói rằng: "Bất chính! Các Sa môn lấy đèn để cúng dường Phật, chúng ta
phải đón chúng lại". Ðêm ấy họ canh gác và thấy các vị thần mà họ thờ
lại lấy các cây đèn đi nhiễu tinh xá Phật ba vòng rồi đem cúng dường Ðức
Phật, và thình lình biến mất. Khi ấy các vị Bà-la-môn mới nhận rằng đức
Phật lớn hơn các vị thần mình thờ, bèn từ bỏ gia đình xuất gia nhập đạo.
Tương truyền sự kiện ấy mới xảy ra gần đây.
Chung quanh tinh xá Kỳ hoàn có đến 98 ngôi chùa ngôi nào cũng có chư
Tăng túc ngụ, chỉ trừ một ngôi là không có người.
Tại trung Ấn Ðộ có tất cả 96 phái ngoại đạo tự cho là biết tất cả việc
hiện tại và tương lai. Mỗi phái đều có đồ chúng và theo hạnh khất thực,
chỉ không dùng bình bát mà thôi. Họ cũng cầu phước, lập lại các "phước
đức xá bên đường" có chỗ túc ngụ, giường ghế, ăn uống cung cấp cho các
người chiêm bái, các bậc xuất gia, các khách qua lại nhưng mục đích của
họ trong khi cầu phước không giống với các Phật tử.
Chính tại chỗ này các đệ tử của Ðề-bà-đạt-đa chỉ cúng dường ba đức Phật
quá khứ mà không cúng dường đức Phật Thích Ca.
Bốn dặm phía đông nam thành phố Xá-vệ là chỗ mà đức Phật đứng bên vệ
đường trong khi vua Lưu Ly (Virudhaka) đem lính đi sát hại dòng họ Thích
Ca, một ngọn tháp được dựng lên tại chỗ này.
50 dặm phía Tây thành phố này, các nhà chiêm bái đến một ấp gọi là Ðô
Duy (Tadwa). Chính tại chỗ này, đức Phật Ca Diếp đản sanh, gặp phụ thân
và nhập Niết bàn, các tháp được dựng lên tại chỗ. Một tháp lớn cũng được
xây trên Xá lợi của đức Phật Ca Diếp.
Ký sự của ngài Huyền Trang
Từ chỗ này đi đến phía đông bắc khoảng 500 dặm đến nước Thất La Phiệt
Tất Ðể (Sràvasti, xưa gọi là Xá vệ là lầm vậy). Thành chu vi hơn 6.000
dặm có trăm ngôi già-làm và hàng ngàn đồ chúng. Chúng Tăng đều học Chánh
lượng bộ (Sammitiya). Khi Ðức Phật tại thế, Ba-la-tư na-thị-đa (Tầu dịch
là Thắng Quân, xưa gọi là Ba-tư-nặc) là kinh đô của Vua. Trong thành còn
có nền móng cũ của cung điện nhà vua. Ði về phía Ðông không bao xa có
nền móng cũ của một Ðại giảng đường mà Vua Thắng Quân đã dựng lên cúng
dường Ðức Phật. Có ngôi tháp dựng tại tinh xa Tỳ-kheo-ni do Di mẫu đức
Phật tên là Bát-la-xà-bát-đề (Prajapat) Tàu dịch là Sanh Chủ, xưa gọi
Ba-xà-ba-đề là sai vậy) dựng lên phía đông lại có ngọn tháp dựng lên tại
nhà của Tất đạt đa (Sudatta, Tàu dịch là Lạc Thí, xưa gọi là Tu Ðạt tức
lầm vậy). Bên ngôi nhà này có ngọn tháp lớn là chỗ mà Ương-lư-lộc-ma-ha
(Angulimala, xưa dịch Ương-quật-ma-la là lầm vậy) bỏ tà theo chánh.
Năm, sáu dặm phía nam thành này là ngôi rừng Thệ Ða (Jetavana, Tàu dịch
là Thắng Lâm, xưa gọi là Kỳ Ðà tức lầm vậy). Ðây là ngôi vườn của
Cấp-cô-độc (Anàthapindika), xưa có ngôi già-lam tại chỗ này, nay bị hủy
hoại cả. Bên tay trái và bên tay phải của phía đông có dựng hai trụ đá
cao hơn 70 thước, do vua Vô Ưu dựng lên. Các ngôi nhà đều hư nát, chỉ
trừ một ngôi nhà gạch, trong ấy có ngôi tượng Phật bằng vàng. Khi đức
Phật lên cõi trời Ðạo lợi thuyết pháp cho mẫu thân. Vua Thắng Quân (Ba
Tư Nặc) khởi tâm luyến mộ. Vua Văn Xuất Ái (Udayara, tức Ưu Ðiền) bèn
tạc tượng Phật trên gỗ chiên đàn và cũng tạc tượng vàng này.
Sau ngôi Già lam không xa là chỗ ngoại đạo Phạm Chí giết một kẻ kỹ nữ để
hủy báng Phật. Hơn 100 thước phía đông ngôi già lam là một hố sâu, chính
là chỗ Ðề Bà Ðạt đa dùng thuốc độc hại Phật nên bị rơi vào địa ngục. Về
phía nam lại có một hố sâu lớn khác, chính là chỗ của Tỳ-kheo Cù Già Lê
(Kokalika) hủy báng Phật, thân sống rơi vào địa ngục. Hơn 800 thước về
phía Nam lại có một chỗ của Bà-la-môn tên là Chiếu Giá (Chandamana), vì
hủy báng Phật, thân sống rơi vào địa ngục. Ba hố này rất sâu đến nỗi
không thấy đáy.
Hơn 700 bước phía đông Già-lam có một tinh xá rất cao lớn. Trong tinh xá
này có một tượng Phật ngồi xoay mặt về hướng Ðông. Ðây là chỗ xưa kia
đức Như Lai biện luận với ngoại đạo. Một ngôi miếu thần về phía đông to
lớn bằng ngôi tinh xá. Khi mặt trời di chuyển, bóng của ngôi miếu thần
không che được ngôi tinh xá Phật, trái lại bóng tinh xá Phật che ngôi
miếu thần. Ba bốn dặm về phía đông là một ngọn tháp. Chính là chỗ xưa
kia ngài Xá Lợi Phất biện luận với ngoại đạo.
Hơn 600 dặm về phía Tây bắc kinh thành là di tích của một ngôi thành cũ.
Ðây là kinh thành của phụ thân đức Phật Ca Diếp. Phía Nam là chỗ đức
Phật gặp phụ thân lần đầu tiên sau khi thành đạo. Phía Bắc là ngôi tháp
dựng lên bức tượng toàn thân của Phật.
Ðộng Ajantà
Cả ngày 30-10-61, chúng tôi ở trên chuyến tàu suốt từ Sanchi đến
Jalgaon. Vì hành khách quá đông, chúng tôi phải ngồi ở hai toa khác
nhau, tôi và thầy Huyền Vi ngồi một toa, thầy Thiện Châu và vị sư người
Ðức ngồi một toa. Cũng là một dịp hay để chúng tôi được nói chuyện với
người Ấn cùng một toa; và ở đây, chúng tôi được thấy sự lịch thiệp nhã
nhặn của một số trí thức Ấn Ðộ đối với chúng tôi.
Ðúng 10 giờ 30 tối, chúng tôi đến ga Jalgaon. Chúng tôi ở lại nhà ga ngủ
một đêm để sáng mai đi Ajantà. Nhà ga đã trở thành nhà ngủ quen thuộc
của chúng tôi. Tuy có ồn ào thật, nhưng cũng tương đối dễ chịu. Vì khi
nào thân người mệt mà tinh thần an tịnh thì chỗ nào cũng ngủ ngon lành.
Trước khi đi ngủ, chúng tôi có đến sở du lịch tại nhà ga để mua những
loại sách nói về Ajantà cùng hỏi giờ xe chạy. Chúng tôi mua nhiều quyển
sách có hình các danh họa ở Ajantà và ký tên vào quyển sổ vàng của sở du
lịch để lưu niệm.
Sáng ngày 31 tháng 10, mới tinh sương, chúng tôi đã dậy để đi xe buýt
đến Ajantà. Hành khách đông phải xếp hàng lấy vé. Ðúng 6 giờ 30, chúng
tôi khởi hành và vào khoảng 9 giờ 20 đã đến Ajantà. Chúng tôi bỏ chương
trình ngủ một đêm tại Ajantà vì đã trễ một ngày ở Sanchi.
Ajantà là một dãy động, đục vào trong một dãy đồi đá lớn, chạy theo một
dòng nước khá sâu và thoai thoải chảy. Cảnh trí thật là u tịch thanh
tịnh. Trên phía dòng suối ấy có thác nước Satdhara. Về tiết mùa mưa, vẻ
đẹp thiên nhiên càng thêm thanh tú.
Không thể biết được những hang đá này được đục thành vào thời đại nào,
nhưng người ta thường xem là những hang xưa nhất được đục vào khoảng thế
kỷ thứ hai sau T.L., và những hang mới nhất được đục vào thế kỷ thứ bảy
sau T.L. Như vậy những động này được hình thành trải qua nhiều thể kỷ,
và nhờ vậy không những chúng ta có thể phán xét sự phát triển tuần tự
của nghệ thuật kiến trúc các chùa tháp, mà cũng có thể tìm hiểu được đời
sống của dân chúng trải qua nhiều thời đại. Không kể đến nghệ thuật kiến
trúc rất đặc biệt của các động này, chính các bức họa trên tường của
Ajantà mới thiệt làm Ajantà nổi tiếng khắp hoàn cầu; và các họa sĩ trứ
danh đều đồng ý công nhận rằng những bức họa đó được liệt vào hạng những
bức họa đẹp nhất trên thế giới.
Có tất cả là 29 động ở Ajantà, bốn hang thuộc loại điện thờ Phật. Các
hang khác là tu viện hoặc chùa cho chúng Tăng ở. Ít nhất 13 hang có
những bức họa trên tường, nhưng chỉ có 6 hang còn giữ gìn được khá tử tế
các bức họa như hang số 1, số 2, số 9, số 10, số 16 và số 17.
Những hang này chỉ được tìm thấy vào năm 1819 do một toán quân lính Anh
đi tập trận. Ðến năm 1839, ông James Alexander có lược tả những động này
tại hội Royal Aisatic ở Luân Ðôn, và sau có đăng một bài trong tờ báo
"Belgian Asiatic Society" cũng trong năm ấy. Liền sau đó ông James
Fergusson, một văn sĩ trứ danh, đến thăm Ajantà và viết sách báo giới
thiệu chỗ này cho thế giới được biết. Nhờ vậy, thiên hạ đã bắt đầu đến
thăm để xem những bức họa tên tường, và không lâu Ajantà trở thành một
Thánh địa cho những người ham chuộng mỹ thuật chiêm bái. Sau khi ông
Fergusson đến thăm, ông Gill được hội East India Company cử đến chép lại
những bức họa ấy. Ông này vẽ lại đến 20 năm mới xong và cuối cùng triển
lãm những bức họa ấy tại lâu đài Crystal Palace ở Luân Ðôn. Không may
bức họa ấy bị cháy vì hỏa tai, chỉ trừ có 5 bức. Ðến năm 1875 ông
Griffith, giám đốc trường mỹ thuật của Chính phủ ở Bomba, cũng vẽ lại
các bức họa ấy, và điều rất lạ, những bức họa ấy cũng lại bị thiêu cháy
trừ có 56 bức thoát khỏi. Những bức này hiện được trình bày tại Viện bảo
tàng Victoria và Albert ở Luân Ðôn. Bà Herringham, một nữ họa sĩ cũng
đến tại Ajantà nhiều lần và xuất bản một tập sách rất đẹp có nhiều bức
họa lại các bức quan trọng nhất ở Ajantà và nhờ vậy danh tiếng của
Ajantà lại càng được hoàn cầu cảm mộ. Chính phủ Hyderabad có xuất bản
một tập đủ các bức họa và có dẫn giải các bức họa ấy.
Chúng tôi không thể nào diễn tả một cách đầy đủ những bức họa cùng các
hang ấy được. Muốn biết rõ hơn cần phải tự mình khảo sát tại chỗ hay đọc
những quyển sách nói về Ajantà đã xuất bản.
Ðộng số 1 là tinh xá đẹp nhất ở Ajantà. Tường có vẽ nhiều bức họa và
nhiều bức được xem là đẹp nhất. Kiểu kiến trúc rất giản dị, phía trong
là một khám thờ lớn, có thờ một tượng Phật bằng đá lớn hơn người thường,
hai bên là những hang nhỏ khá rộng của chư Tăng, mỗi hang một vị, giường
và gối của chư Tăng được đục trong đá. Ở giữa là phòng nhóm khá rộng,
trên trần và xung quanh tường đầy những bức họa. Muốn xem những bức
tường này phải thuê riêng đèn điện để chiếu sáng, và ngay tại chỗ cũng
có sẵn những vị thông ngôn giải thích những bức họa nếu chúng ta muốn
thuê. Tại hang này, tầng trên có những bức họa sau đây: "Cám dỗ đức
Phật", "Thần thông ở thành Xá-vệ", "Tiền thân Sibi" và một bức họa gọi
là "Ðại sứ nước Ba Tư đến thăm". Nhưng bức họa đẹp nhất là bức một vị
Bồ-tát đứng gần nơi điện Phật, và trong tay cầm một hoa sen. Giáo sư
Cecconi, vị họa sĩ có tiếng người Ý nói rằng bức họa này đã biểu thị một
giá trị nghệ thuật tả chân kỳ diệu; bức họa này nhìn tổng quát, nhắc lại
bức họa của họa sĩ Micheal Angello tại nhà thờ Sixtine, màu sắc sáng sủa
của da thịt, rất giống với tự nhiên cùng với sự long lanh của bóng tối
rất giống với những bức họa của Correggio. Cách vẽ nét mặt kỳ diệu một
cách đặc biệt. Sự phóng khoáng của kỹ thuật, cách phát biểu diễn đạt
hình dáng của bàn tay hoàn bị đến cực điểm, có thể sánh tác giả bức họa
này với hai họa sĩ đại tài vào thời kỳ phục hưng Ý Ðại Lợi.... Léonard
de Vinci và Raphael. Bàn tay cầm hoa sen dịu dàng và trang nhã được miêu
tả với một tài nghệ khá cao siêu.
Hang số 2 giống hang số 1, chỉ khác là có thêm hai Tăng phòng. Tại đây
cũng có nhiều bức họa khá đẹp như bức diễn tả "Devaradhana", "Hoàng hậu
Maya nằm mộng", "Ðến thăm vườn Lâm Tỳ Ni", "Thái tử Thích Ca đản danh",
"Ngài bước 7 bước sau khi sanh", "Chuyện tiền thân Khantivada" và
"Chuyện tiền thân Hamsa". Trên bức tường này, phía tay mặt là bức họa tả
hai anh em Purana và Bhabila. Hai vị này dựng một điện Phật bằng gỗ trầm
để kỷ niệm được thoát chết đắm ngoài khơi. Tại hang này có hai bức họa
được các nhà phê bình nói đến nhiều và được phác họa lại: đó là bức
"Người sứ giả" và bức "Một nữ tỳ bị hình phạt".
Hang số 4 là hang tu viện lớn nhất ở Ajantà. Mái hiên trước hang này có
đến tám cột hình tám cạnh chống đỡ. Chủ điểm kiến trúc ở đây rất giản dị
nhưng trên tường và mái hiên cũng có nhiều tượng khắc. Tượng vị Bồ tát
Padmapani về phía tay mặt đáng được chú ý. Cũng có những bức vẽ một
người đàn ông và người đàn bà đang chạy tránh một con voi dữ.
Hang số 6 là một hang hai tầng, độc nhất ở tại chỗ này. Không có bức họa
nào đặc biệt tại đây. Ðiều đáng chú ý là cách sắp đặt nấc thang lên tầng
trên. Hang thứ 9 là một điện Phật, không có phòng chúng Tăng và được xem
là hang xưa nhất ở Ajantà. Khác với các điện Phật khác, điện này hình
vuông, nhưng các cột chạy dài chung quanh đều đắp thành hình bán cầu như
thường lệ. Hai dãy cột đều hình bát giác và không khắc chạm gì. Trần
điện cong lên và có những đường nối chạy tròn. Ðiện có cửa sổ làm theo
kiểu lá Bồ-đề. Trên các cột có một bức hoạ, nhưng nay đã hư nát nhiều.
Tượng phía trong có một vài mảnh họa sót lại, có lẽ là những bức họa cũ
nhất ở Ajantà. Tháp thờ không có khắc chạm gì cả.
Hang số 10 cũng giống như hang số 9 nhưng rộng lớn hơn. Hang này có
nhiều bức họa cho chúng ta biết về y phục và một vài món trang sức ở
thời ấy. Có bức vẽ một vị vua cùng hoàng hậu đáng được chú ý. Hang thứ
16 là hang đẹp nhất ở Ajantà và với cách kiến trúc hoàn bị được xem là
một danh phẩm ưu tú. Mái hiên có nhiều cột đá lớn, và cửa chính đặc biệt
có nhiều con voi đá đứng giữ cửa. Tháp ở phía trong được ánh sáng cửa
chiếu vào chứng tỏ tài nghệ xuất sắc của vị kiến trúc sư này. Hang này
cũng được nổi tiếng nhờ nhiều bức danh họa, chỉ tiếc những bức này phần
nhiều bị hư mờ. Thật đáng tiếc, vì những bức này cũng được xem là những
bức xuất sắc. Bức họa vị công chúa đang hấp hối vẽ trên tường bên trái
là đẹp nhất. Ông Griffith đã nói: "Về cách diễn đạt tình cảm, đau buồn,
cùng với nghệ thuật trình bày, tôi xem không có bức họa nào có thể thắng
nổi bức này. Các nhà họa sĩ Florence có thể vẽ đẹp hơn, các nhà họa sĩ
Venise có thể pha màu khéo hơn, nhưng không ai có thể diễn đạt với nhiều
ý tứ qua màu sắc, bằng những bức họa này". Những bức họa khác diễn tả:
"Ðức Phật Thích Ca đản sanh", "A-tư-đà đoán tướng", "Ðức Phật đi đến
thành Vương-xá", "Ðức Phật ra bốn cửa thành thấy bốn tướng khổ", "Sujata
dâng sửa", "Hai lái buôn Tapassu và Bhalluka cúng dường", "Nan Ðà xuất
gia" và "Chuyện tiền thân Sutasoma". Cũng còn nhiều bức họa nhưng không
hiểu diễn tả sự tích gì.
Hang số 17 cũng được liệt vào những hang đặc biệt nhất ở Ajantà. Mái
hiên, cửa chính và những cột trụ phía ngoài đều to lớn vĩ đại. Trên cửa
và phía trong có nhiều tượng khắc vào đá, đặc biệt là tượng đức Phật
nhập Niết bàn và lúc Ngài bị Ma vương cám dỗ. Giáo sư Cecconi phê bình
cửa vào động này đã nói như sau: "Thật là một công trình có giá trị nghệ
thuật tuyệt luân. Những trang trí trên phía cửa thật tuyệt diệu, cũng
như 8 bức họa khác, trang trí cho cửa đi này". Tại đây có nhiều bức họa
được liệt vào hàng tuyệt tác. Phía trái mái hiên có vẽ Samsaracakra. Gần
bức này là bức một vị Thái tử đang cùng ngồi với vợ, trong khi ấy, một
Công chúa khác đang đứng trong một điệu bộ trang nhã với một chiếc dù
che trên đầu. Xuyên qua cửa sổ, chúng ta thấy 2 phụ nữ khác đang ngồi
suy nghĩ, trầm ngâm. Không hiểu bức họa diễn tả luận đề gì? Nếu là cảnh
một gia đình sum vầy đoàn tụ thì hình như không hợp với đời sống tu hành
cho lắm. Trên bức này có ảnh các tiên nữ đang lả lướt. Mỗi tiên nữ cầm
một nhạc khí. Do đó, có thể xem là những nữ nhạc thần Càndharvas ở Thiên
cung. Nhìn những bức họa ấy, ông Burgess nói: "Cả về nét thuần túy đại
cương lẫn về bố cục, đây quả là bức tranh trang nhã nhất trong những họa
phẩm ở Ajantà. Bức họa này đưa chúng ta đến gần nghệ thuật hội họa Ý Ðại
Lợi vào những thế kỷ thứ 13 và 14. Cách diễn đạt nhẹ nhàng khó mà có bức
nào có thể thắng nổi". Hang này cũng có một bức họa nổi tiếng trên hoàn
cầu, đó là bức: "Mẹ và con", chắc hẳn là Yasodhara và Rahula. Chính là
bức diễn tả người mẹ chí đức Phật và bảo con mình đến đòi cho được phần
thừa tự. Thật không có bức họa nào có thể sánh về nét trang nhã và dịu
dàng của bức này. Ông E.B. Havell, một nhà phê bình về hội họa nổi tiếng
đã nói: "Về cách diễn đạt tâm tình một cách trang nhã, có thể sánh với
bức họa kỳ diệu về các Thánh nữ của Giovanni Ballini". Giáo sư Lorenzo
Cecconi đã nói: "Hai hình nhân này, cách miêu tả đầu và sắc mặt của
chúng thật là trang nhã kỳ diệu. Lối diễn tả đầu của chúng hướng về đức
Phật khiến nhắc nhở lại nghệ thuật tạo hình mà chúng ta được gặp trong
các trường phái Umbria và Tascany của những họa sĩ đặc biệt của chúng
ta, những vị Quatrocentists", Ông Laurenve Binyon nói: "Bức ấy là một
trong những vật không đời nào bị quên được.... Không một bức họa nào ở
thế giới lại để một cảm giác sâu đậm về nét cao siêu trang nhã như bức
này". Tại đây cũng có một bức diễn tả một vị Hoàng hậu đang trang điểm
với một cái gương cầm ở tay và có một nữ tỳ cầm một chiếc khay hầu đứng
kế bên. Nghệ thuật của bức họa này không phải ở nơi hình dáng bà Hoàng
hậu mà chính hoàn toàn ở nơi cái gương bà ta cầm ở tay. Trong động thì
tối, ánh sáng ở cửa chiếu vào chỉ lờ mờ, nhưng cái gương cầm ở nơi tay
bà như thu tất cả ánh sáng ngoài cửa chiếu vào và phản chiếu toàn thân
của bà Hoàng hậu. Tại hang này còn có những bức sau này: "Ðức Phật
thuyết phục con voi say Chaddanta, Mahakapi, Sutasoma, Miga,
Matribosaka, Sarabha, Sama, Matsya và Vessantara". Bức vị Bà-la-môn
Jùjaka xin cho được hai người con của Thái tử Vessantara diễn tả rõ rệt
sự tham vọng và ác độc của loài người.
Phần lớn các nhà phê bình những bức họa của Ajantà đều cho rằng các họa
sĩ này có biệt tài về đường nét trong khi diễn đạt các nhân vật. Ðại úy
Gladstone Solomons nói: "Nếu Âu châu phát minh được sự bí mất của màu
sắc thì chắc chắn Á Ðông đã khám phá ra được đường nét". Sự thật bức họa
nào cũng tuyệt tác về cách diễn đạt tâm tình các nhân vật bằng những
đường nét thích đáng và linh động. Và mãi cho đến ngày nay, chưa có một
họa sĩ Ấn Ðộ nào có thể sánh được với các hoạ sĩ thời xưa, trong cách
diễn đạt những cử chỉ, nét mặt, tâm tình, điệu bộ của các nhân vật. Dầu
trong số các bức họa này không có một bức nào là không bị hư hại, nhưng
chúng ta cũng phải ngạc nhiên khi thấy chúng có thể tồn tại được như thế
này, trải qua gần 10 thế kỷ bị bỏ quên. Hơn 12 thế kỷ chịu đựng đủ chứng
tỏ kỹ thuật tuyệt luân của những họa sĩ trong khi pha màu và phối cảnh.
Hang số 19 là một điện Phật Chaitya theo như kiến trúc thường lệ. Hang
này được trang trí rất nhiều tượng khắc cả trong lẫn ngoài, và nghệ
thuật điêu khắc hoàn bị đến nỗi hang này được xem là "một trong những
tượng tạc hoàn bị nhất trong nghệ thuật điêu khắc ở Ấn Ðộ". Ðặc biệt
nhất là cửa chính, mặt tường khắc chạm phía ngoài cửa điện Phật được
trang trí rất đẹp. Các bức họa trên bốn cột trụ của cánh cửa và phía mặt
ngoài thật là hoàn mỹ, còn những trang vật chung quanh cửa chính thật
không thể nào tả hết vẻ đẹp được. Rất tiếc nhiều cột trụ đã bị hư nát.
Hang số 20 cũng là một tinh xá có giá trị nhiều về lối kiến trúc. Các
cột mái hiên đều được trang trí với những hình đàn bà đang đi diễu qua.
Kiểu kiến trúc các tầng cấp và cách trang trí giống như ở Amuradhapura
và Polonnaruwa ở Tích Lan. Hang 26 là một điện Phật như số 19. Ở đây các
tượng chạm đều rất lớn. Cửa vào đã bị hư hại, nhưng may thay các bức
chạm mặt tiền vẫn còn nguyên vẹn. Các trang trí ở bên trong nhiều hơn
các hang khác, và trên các tấm đá ngang các cột đều có khắc chạm những
sự tích về đời sống của đức Phật. Ðiện Phật được trang trí cùng một kiểu
với điện Phật ở hang số 19, nhưng đức Phật ở đây được chạm ngồi theo
kiểu Âu Tây và trong cử chỉ Chuyển pháp luân lần đầu tiên. Những đường
cong trên trần cũng rất đặc biệt.
Trên đây chỉ nói sơ qua các hang chính. Dưới đây là bản dịch bài tường
thuật của ngài Huyền Trang:
--"Tại biên giới phía Ðông của xứ này là một quả núi đồ sộ với những
tảng đá cao lớn và một dãy thành đá chồng chất lên nhau cùng với những
hang sâu thẳm. Chính tại chỗ này một tu viện Sangharama được lập lên
giữa một thung lũng dài. Các dãy hiên cao và những phòng sâu chạy dài
theo mặt của tảng đá dài. Tầng này chồng lên trên tầng khác, dựa sát vào
tảng đá và xây mặt ra phía thung lũng.
Tinh xá này do vị A-la-hán Achara lập nên. Vị này là một người xứ tây Ấn
Ðộ. Mẹ Ngài từ trần. Ngài tìm xem được tái sanh ở chỗ nào, thuộc giòng
họ nào và được biết bà tái sanh làm một người đàn bà trong nước ấy. Vị
A-la-hán liền đến tại chỗ để cải hóa bà tùy theo khả năng thọ lãnh Chánh
pháp của bà. Ngài đi vào làng khất thực và đến tại nhà bà. Một người con
gái đem ra các món ăn để cúng dường Ngài. Chính khi ấy vú của vị này
chảy sữa ra và các bạn gái của nàng xem đó là một triệu chứng không tốt.
Nhưng vị A-la-hán liền kể lại tiền thân của nàng và người con gái ấy
chứng quả. Ðể tỏ lòng nhớ ơn công lao dưỡng dục của nàng và muốn đền ơn
nàng nên A-la-hán ấy lập ngôi tinh xá này. Ðài tinh xá cao đến 170 feet,
giữa là một hình đức Phật bằng đá cao đến 70 feet. Trên là một bảo cái
bằng đá có bảy tầng, cao đứng thẳng lên trên và hình như không có gì
chống đỡ. Khoảng trống giữa các bảo cái độ 3 feet. Tục truyền, chính nhờ
đại nguyện của vị A-la-hán mà các bảo cái đứng tại chỗ. Cũng có người
tin là chính do phép thần thông của vị này, lại có tin đồn là do một vài
chất bí mật; nhưng thật không có luận cứ nào đáng tin cậy để giải thích
sự kỳ diệu ấy. Cả bốn phía tường xung quanh tu viện có vẽ nhiều sự tích
đức Phật khi Ngài còn là vị Bồ-tát, những điểm kỳ diệu khi Ngài giác ngộ
và khi Ngài nhập Niết-bàn. Những sự tích ấy được chạm ngay trong đá với
một nghệ thuật tinh vi và xác thực. Ngoài cửa động, phía Ðông và phía
Nam, bên tay mặt và bên tay trái có tượng voi đá. Tin đồn voi đá này có
khi rống lớn tiếnt và làm cho đất chung quanh rung động. Thời xưa vị
Bồ-tát Jina thường hay dừng lại tinh xá này". (Theo quyển Tây du ký do
ông Sanuel Beal dịch ra tiếng Anh)."
Ðiều làm chúng tôi suy nghĩ nhiều, là không được biết ai là tác giả
những bức họa về nghệ phẩm kiến trúc của các hang có danh tiếng khắp
hoàn cầu, nhất là những họa phẩm có một không hai trên thế giới. Chúng
tôi hỏi các vị sư ở đây thì các vị trả lời đó chính là các vị sư tu hành
ở tại chỗ đã vẽ và tạc ra những bức ấy, vì ngày xưa các vị cũng họa cả
hội họa và điêu khắc. Nhưng điểm khó hiểu là những bức tạc hoặc vẽ những
cảnh thế gian, cảnh gia đình đoàn tụ, cảnh các thiếu nữ kiều diễm, thì
làm sao các vị sư lại có thể và được phép diễn tả. Khi chúng tôi hỏi đến
các người khác, thì họ nói đó là do các họa sĩ xưa của nước Ấn Ðộ, mà
vua mời vào để vẽ tranh và tạc tượng cúng dường cho các vị Tăng tu hành.
Nhưng có điểm khó hiểu khác là vì sao những họa sĩ và điêu khắc gia, tác
giả của những nghệ phẩm có giá trị tuyệt luân này lại không thể lưu lại
những tác phẩm khác ngoài phạm vi hang này và ngoại phạm vi những sự
tích Phật giáo?
Dầu thế nào, chúng ta cũng phải công nhận rằng các bức họa và các tượng
sở dĩ đạt được đến những nét cao siêu và tuyệt mỹ cũng là nhờ các họa sĩ
và điêu khắc đã được thấm nhuần Phật pháp rất nhiều. Ðiểm quý nhất của
hang này, là không khí thanh tịnh bao trùm cả cảnh núi đồi, rất thuận
tiện cho cảnh thiền quán.
Sự thật, muốn hiểu giá trị của những bức họa phải tự thân hành đến thăm,
phải hiểu những giáo lý căn bản của đạo Phật, có một tâm hồn ít nhiều
nghệ sĩ, và cũng phải biết những nguyên tắc chính về hội họa cùng nghệ
thuật kiến trúc. Chúng tôi tự thấy còn thiếu nhiều điểm nên chỉ có thể
kể sơ qua như trên theo những tài liệu đã đọc được.
Hang Ellora
Những hang này thuộc tỉnh Aurangabad và gồm cả ba đạo, Phật giáo,
Bà-la-môn, và Jain, sự kiện này chứng tỏ sự cạnh tranh giữa ba đạo suốt
cả thời lịch sử tôn giáo Ấn Ðộ. Về Phật có đến 12 hang. Bà-la-môn giáo
độ 20 hang và 7, 8 hang Jains (Thắng luận sư).
Sánh với hang Ajantà, những hang thuộc về Phật giáo ở đây kém xa, không
những không có những bức họa, mà cách kiến trúc cũng thô sơ không có gì
đặc sắc. Ðiểm đáng chú ý là hình như các hang được đục tiếp tục thế kỷ
này qua thế kỷ khác, chớ không phải được tạo thành trong một thời. Hang
thứ nhất rộng, dài, sâu 41 x 42 feet, có độ 16 Tăng phòng. Một phòng
chính giữa làm chỗ thờ tự và hội họp. Cũng như kiểu kiến trúc ở Ajantà,
tượng Phật ở sâu vào chính giữa, hai bên là Tăng phòng, đằng trước là
chỗ hội họp. Hang này không có trang trí gì, có lẽ là hang xưa nhất.
Hang thứ hai có nhiều trang trí hơn và được làm về sau, một phần hang
chưa đào xong. Phòng họp ở giữa cửa hang này rất đặc biệt, có đến 12 cột
lớn chống đỡ và cũng có một vài pho tượng. Tượng Phật ở giữa rất lớn
trong cử chỉ thuyết pháp ngồi trên pháp tọa có sư tử chống đỡ. Hai bên
cửa có tượng hai vị Bồ-tát, cao đến 13 hay 14 feet. Tại những phòng hai
bên chỗ chư Tăng ở cũng có nhiều tượng Phật trong cử chỉ giống với tượng
Phật ở chính giữa; cũng có nhiều tượng Phật và tượng Bồ-tát chung quanh.
Hang số 3 ở vào ngọn đồi phía dưới, hình vuông 43 feet mỗi góc và cao
đến 11 feet. Hình như hang này chưa làm xong. Có nhiều trụ đá dựng lên
không phải để chống đỡ mà chỉ dùng để trang trí. Ở đây cũng có nhiều
tượng Bồ-tát đang hành lễ như vị Bồ-tát Padmapani. Hang thứ tư có tượng
Phật ngồi dưới cây Bồ-đề với lá cây sau lưng Ngài. Hang thứ năm là hang
rộng nhất ở Ellora, sâu 117 feet, rộng 58 feet. Các hang tiếp không có
gì đặc biệt, trừ hang số 8 có một đường để đi kinh hành, không tìm thấy
trong các hang khác. Hang số 10 là một đức Phật giống như kiểu ở Ajantà.
Còn hang số 11 và số 12 có đến 2 và 3 tầng. Tại hai hang này cũng có rất
nhiều tượng Phật và tượng Bồ-tát.
Sự thật hang Ellora này không có gì đặc biệt nếu so sánh với Ajantà.
Ngoài ra có các hang Bà-la-môn giáo, như hang Kailas, một điện thờ được
xem là đẹp nhất ở Ấn Ðộ sánh với các điện của Bà-la-môn giáo. Nếu người
ta có thể nói Taj-Mahal là một bài thơ bằng đá cẩm thạch thì người ta
cũng có thể nói đây là một bức thư bằng đá. Vì hang này thuộc về
Bà-la-môn giáo, và chúng tôi cũng không để ý nhiều về tôn giáo này nên
chỉ nói sơ qua thôi.
"...
Ðức
Phật do muôn ngàn bàn tay đẹp lanh từ xưa đến nay đã tạo khắc Ngài vào
đá, đồng, cẩm thạch, là biểu trưng của nền văn hóa Ấn Ðộ hay ít nhất
cũng là một khía cạnh của nó.
"Ðức Phật tĩnh tọa trên tòa
sen bất động trước vật dục, chẳng nao núng vì bão tố thế gian. Ngài ngự
vào nơi cao vời!
"Tuy nhiên nếu quan sát kỹ
chúng ta sẽ thấy sau sự trầm tĩnh bất động ấy có một đại nguyện từ bi kỳ
diệu và mạnh mẽ hơn dục vọng và tình cảm của chúng ta rất nhiều.
"Từ đôi mắt hình như nhắm lại
ấy chiếu ra một luồng sáng tinh thần và một sức sống tràn ngập. Thời
gian tuy lùi về quá khứ nhưng đức Phật như vẫn không xa chúng ta, lời
vàng của Ngài như văng vẳng và nói với chúng ta rằng: "Ðừng chạy trốn sự
tranh đấu của cuộc đời mà hãy nhìn thẳng nó với đôi mắt bình tĩnh và tìm
cho được những cơ hội tốt hơn để tiến bộ..." (Trích trong diễn văn của
Thủ tướng J. Nehru đọc vào dịp lễ khánh thành ngôi chùa mới tại
Sanchi,1952).
Từ ga Agra đến Sanchi, tàu
hỏa phải chạy 10 tiếng đồng hồ. Tàu chuyển bánh lúc 10 giờ tối đến 7 giờ
sáng mới đến Sanchi. Sau hai ngày viếng thăm Agra và Mathura, chúng tôi
như ngộp thở vì không khí bụi bặm, cảnh vật ồn ào của thị thành. Có lẽ
để bù đắp lại một phần nào và nhờ tài ngoại giao của Thượng tọa Minh
Châu, vị xa trưởng dành cho chúng tôi một phòng tàu đặc biệt. Chúng tôi
được nghỉ ngơi tự do và yên ổn. Tiết trời lành lạnh nên sau khi tịnh
niệm xong là tất cả chúng tôi yên giấc đến 4 giờ sáng, mặc cho con tàu
la hét, ngưng, chạy và lướt qua sương gió bụi mờ.
Trời vừa tảng sáng, những dãy
đồi xanh xanh, xa mờ ẩn hiện trong sương bạc, dần dần đi lại đến gần
chúng tôi. Tàu ngừng, chúng tôi bước chân lên Thánh địa Sanchi. Chùa
tháp xám nâu nổi bật lên giữa rừng xanh và màu trắng vàng của buổi sáng
đẹp trời. Cảnh sắc ở đây thật là xinh đẹp, mới xem qua giống như mấy
ngọn đồi ở Phật học viện Nha Trang.
Bước ra khỏi ga, lòng chúng
tôi vui lên như để hòa nhịp với lá cờ năm sắc phất phơ tung bay trên
chùa hội quán của hội Ma-ha Bồ đề. Chúng tôi đem hành lý vào và lưu trú
tại đây. Ðại đức trụ trì người Tích Lan, tiếp chúng tôi với đạo tình mật
thiết. Chúng tôi dùng bữa sáng ở đây. Buổi điểm tâm này rất đặc điểm đối
với chúng tôi vì dùng thức ăn Tích Lan và không có nĩa, muỗng, đũa như
các nơi khác. Chúng tôi phải "ra tay" như người Tích Lan và Ấn Ðộ. Ðây
là lần đầu tiên chúng tôi "ăn bốc" từ ngày sang Ấn. Nhưng có cái quí là
nhà bếp soạn toàn đồ chay cho chúng tôi. Trong bữa điểm tâm, Ðại đức trụ
trì cho chúng tôi biết là hội sẽ kiến tạo ở đây một ngôi chùa đủ tiện
nghi để sau này chư Tăng quốc tế đến tu học hoặc nghiên cứu. Chúng tôi
rất hoan hỉ và hy vọng Phật sự chóng thành tựu.
Trên đường chiêm bái các nơi,
chúng tôi gặp rất nhiều phái đoàn chư Tăng Tích Lan Assam cùng các Phật
tử Miến Ðiện, Tích Lan, Thái Lan v.v... Họ rất sung sướng được trở về
thăm Phật địa, nơi quê cha đất tổ, từ đường chung của Phật tử năm châu.
Nghĩ đến chư Tăng cùng các Phật tử Việt Nam, chúng tôi hơi tủi vì rất ít
Phật tử Việt Nam sang chiêm bái Phật địa, cũng như khắp các Phật tích
không chỗ nào thấy có chùa Việt Nam, trong khi đó Thánh địa nào cũng có
chùa của các nước Phật giáo. Do đó, Phật tử các nước đi chiêm bái rất dễ
dàng, đến mỗi nơi là có chỗ lưu trú, có chư Tăng của họ ở đây hướng dẫn;
hơn nữa sự xin giấy tờ và phương cách giao thông cũng không có gì khó
khăn trở ngại, vì Chính phủ họ giúp đỡ cho dân chúng đi chiêm bái. Vì lẽ
đó nên Phật tử các nước Miến Ðiện, Tích Lan, Miên, Lào, Nhật v.v... đối
với Phật pháp họ rất thuần thành và hết lòng phụng sự.
Chúng tôi hy vọng Phật giáo
đồ Việt Nam rồi đây sẽ được diễm phúc như Phật giáo đồ các nước vậy.
Ðúng 9 giờ chúng tôi khởi sự
đi chiêm bai các chùa trên tháp núi Sanchi. Cảnh trí rất ngoạn mục. Núi
đồi bao bọc chung quanh. Con đường lên chùa tháp được Chính phủ cho sửa
sang rất tiện lợi, xe điện có thể lên đến đỉnh đồi. Mặc dù ở trên cao
nhưng có đủ đèn nước và mọi tiện nghi. Trong khi tiến lên đại tháp, tôi
có cảm nghĩ đường này sao giống như đường lên ngọn hải đăng ở Vũng Tàu,
nhưng ngọn hải đăng chỉ là ngọn đèn để soi đường cho tàu bè trong đêm
tối, còn đây là "Vô tận đăng" soi đường và nhắc nhở cho chúng sanh tránh
xa những nơi nguy hiểm tối tăm, và tiến tới chỗ giác ngộ, giải thoát.
Chúng tôi hy vọng các núi Việt Nam có được ngôi tháp vĩ đại như thế này
thì quí hóa biết bao, nhất là các ngọn đồi ở Phật học viện Nha Trang mà
được xây một ngôi tháp to lớn thì chắc sẽ là đệ nhị Sanchi của Phật
giáo.
Chúng tôi tiến đến ngôi chùa
chánh vào lễ Phật và chiêm bái Xá Lợi của đức Mục-kiền-liên và
Xá-lợi-phất. Ngôi chùa đã cao lại được dựng trên núi nên rất oai hùng đồ
sộ. Sau khi lễ Phật, chiêm bái xong, chúng tôi tiến ra ngoài chụp ảnh kỷ
niệm. Rồi chúng tôi bắt đầu tuần tự đi viếng các cảnh đồi tháp. Quí vị
hãy cùng chúng tôi đi từng cảnh một. Nhưng chúng tôi xin nói qua về lịch
sử Sanchi trước đã.
Trong văn chương Phật giáo
không nói Ðức Phật có đến thăm Sanchi. Nhưng nay Sanchi trở thành quan
trọng. Xá lợi của ngài Xá-lợi-phất và ngài Mục-kiền-liên được tìm thấy
tại đây. Vua A Dục có dựng nhiều trụ đá và đền tháp để kỷ niệm, sự kiện
này đủ chứng tỏ nhà vua đặc biệt chú ý đến Sanchi, mà tên cũ là
Kakanara, và trong bộ Mahavansa gọi là Chetigiri. Vua A Dục chú ý đặc
biệt đến chỗ thánh tích này. Có lẽ khi còn trẻ, Ngài sống nhiều năm ở
Ujjaini làm Phó vương ở Malwa. Chính trong lúc này, Ngài kết hôn với bà
Devi ở Vedisa, một thị trấn cách Sanchi độ vài dặm Anh. Bà Devi này là
mẹ của Mahinda, người con khôn ngoan và đạo đức của A Dục, xuất gia tu
hành và được cử sang truyền giáo tại Tích Lan. Trước khi sang Tích Lan,
Ngài ở tại ngôi chùa do mẹ Ngài lập. Do đó, Sanchi trở thành một Thánh
tích quan trọng của Phật tử ở Mulwa, cho đến thế kỷ thứ hai mới bị hoang
phế. Nhưng có lẽ vì ở trên nhiều cây cối che lấp nên không bị những
người tìm vàng đến cướp phá. Do đó các đền tháp được giữ tử tế cho đến
thế kỷ 18. Sau khi ông Alexander Cunningham in quyển sách "Bhilsa Tope"
vào năm 1854, các nhà tìm của báu mới bắt đầu đến tìm kiếm và phá hoại.
Chính Ðại uý F.C Maisey là người làm hư hại Sanchi nhiều nhất, nhưng
cũng là người tìm được Xá lợi các vị truyền giáo như đã nói trên. Chỉ từ
khi viện Bác cổ được lập ra, Sanchi mới khỏi bị tàn phá thêm nữa và ngày
nay được viện Bác cổ chú ý đặc biệt. Khi chúng tôi đến đây đường sá đã
mở mang nhiều và các chùa tháp hư hoại được sửa chữa.
Sanchi đứng trên một ngọn
đồi, phong cách chung quanh tuyệt đẹp và thanh tịnh. Chỗ này nổi tiếng
về nghệ thuật kiến trúc cổ Ấn Ðộ. Sau đây là những cảnh hiện còn.
1. Ðại
tháp có lan can, chạm trổ rất mỹ thuật
Tháp này là Thánh tích đặc
biệt nhất tại đây. Ở rất xa cũng thấy được vì tháp cao 16 thước tây và
đường kính rộng đến 38 thươc 54. Tháp hình bán cầu, với một cửa đá có
một lan can để bảo vệ chung quanh ngôi tháp. Bốn phía có bốn cửa đá chạm
trổ rất mỹ thuật. Cả hai lan can trên và dưới đều bằng đá Churna trơn
láng, có tháp nhì làm bằng đá tảng, cả hai lan can cùng bốn cửa đá cân
đối hòa hợp nhau chứng tỏ toàn ngọn tháp chỉ do một kiến trúc sư đại tài
phác họa.
Người ta thường cho rằng ngôi
tháp này do vua A Dục dựng lên, nhưng có lẽ vua A Dục chỉ xây một ngôi
tháp bằng gạch, rồi sau này các vị vua hoặc các ngưòi nào khác xây lại
bằng đá và tô lớn như hiện nay: Nếu ngôi tháp không phải do vua A Dục
dựng lên, thì chắc cũng không được hoàn thành vào trong đời Ngài. Các
lan can đều theo lối kiến trúc đời vua A Dục, nếu các cửa đá đã dựng lên
sau thì cũng có thể tin là được bắt đầu vào đời vua A Dục. Trên một vài
trụ đá lan can, có khắc tên những người hỷ cúng. Như vậy chứng tỏ lan
can không phải do một Phật tử mà do nhiều Phật tử chung nhau kiến tạo.
Ngôi tháp này phá hư bởi Pusyamitra, vị Thủ tướng của vua Mauryan, vị
này lật đổ triều đại cũ và lập triều đại riêng của mình (184-143 trước
T.L).
Cửa đá bốn phía được chạm trổ
rất tinh vi, các kiến trúc gần giống nhau, mỗi cửa gồm hai trụ đá lớn
vuông, trên có tảng đá khắc hình thú vật. Những tảng đá này đỡ những tấm
đá ngang, tất cả có ba tấm, hơi cong lên chặng giữa và những tấm đá
ngang nầy nối liền hai trụ đá lại, tấm ngang trên hết có một Pháp luân ở
giữa, hai hình Tam bảo hai bên và cuối cùng những tấm đá đều có khắc
hình các loài vật. Những trụ đá và những tấm đá ngang ấy đều được chạm
trổ rất đẹp, chạm những sự tích trong đời sống Ðức Phật, hoặc một vài
chuyện tiền thân của Ngài. Cũng có nhiều hình chưa hiểu được miêu tả gì.
Ðiểm đặc biệt ở đây là không khắc hình tượng đức Phật vì theo quan niệm
xưa, khắc như vậy là phạm thượng. Khi nào cần chỉ khắc cây Bồ đề, hoặc
dấu chân ngài, hoặc khắc bệ đá chỗ ngồi của Ngài. Cũng có một vài sự
tích lịch sử được khắc như vua A Dục thăm Bồ đề Ðạo tràng, Ramagrama,
tháp chôn Xá Lợi Ðức Phật. Vua A Dục sở dĩ không lấy được Xá Lợi này vì
bị phái Kokiyas phản đối nên phải đến tại tháp ấy chiêm bái. Cũng có
khắc hai cảnh những đại biểu của vua đến tại Kusinagara để thỉnh Xá-lợi
Phật và cảnh vua Tần Bà Ta La (Bimbisara) đi từ Vương Xá thành để được
gặp đức Phật. Hình thú vật: sư tử, ngựa, voi, trâu, lạc đà và các loại
chim khác cùng những hình cây khác, được khắc tỉ mỉ và đẹp. Trong các
bức tường khắc này có những hình dây nho; vì vậy có thuyết cho là có
chịu ảnh hưởng của các nước ngoài. Thuyết này không được mọi Phật tử
công nhận. Những bản khác cho chúng ta biết là trụ đá tại cửa phía tây
và tấm đá ngang do ông Nagapiya, một nhà ngân hàng ở Achavada phát tâm
cúng. Tại bốn cửa đi vào ngôi tháp có bốn tượng Phật tạc trên tường của
bệ đá, có lẽ những tượng này được tạc thêm về sau.
2. Tháp
tàng trữ xá lợi của Ngài Mục-kiền-liên và Xá-lợi-phất
Ðộ 60 thước phía đông bắc của
ngôi Ðại tháp, có một ngọn tháp nhỏ hơn, nhưng được nổi tiếng vì tại chỗ
đó người ta tìm được Xá lợi của hai vị Ðại đệ tử của đức Phật. Nhưng Xá
lợi này được ông Alexander Cunningham và Ðại úy F.C. Meisey tìm thấy
trong hai hộp đá, trên những hộp này có khắc tên hai Ngài. Hai Ngài đã
thệ thế trước đức Phật, nhưng chúng ta không được biết Xá lợi được đưa
về Sanchi vào lúc nào và không hiểu ngọn tháp này có phải được dựng lên
trong thời đức Phật còn tại thế hay không. Ngọn tháp này được kiến trúc
cùng một kiểu như Ðại tháp, chỉ khác là không có lan can ở phía dưới.
Tại đây chỉ có một cửa đá thôi. Cũng có chạm nhiều sự tích về đời sống
Ðức Phật nhưng không giá trị bằng hình chạm ở Ðại tháp.
3. Tháp
số 2
Ngôi tháp này ở vào một nơi
hơi xa các ngôi tháp trước, phải đi xuống độ 400 thước phía tây ngọn đồi
mới đến. Nhờ có tam cấp nên đi xuống cũng dễ dàng. Tháp này cũng quan
trọng vì chính tại chỗ này người ta đã tìm được Xá lợi của những vị Ðại
đức đã đem Phật pháp truyền bá các nước xa vào đời vua A Dục. Ngọn tháp
này cũng cùng một kiểu với hai ngọn tháp trước, chỉ khác là không có cửa
đá. Chính ông Alexander Cunningham tìm thấy những Xá lợi này trong một
căn phòng xa ngôi tháp hiện nay. Hộp đá ở ngoài bằng đá trắng, bề dài độ
hai thước. Trong hộp đá này có bốn hộp đá nhỏ khác đựng các Xá-lợi của
vua các vị Ðại đức bắt đầu từ vị La Hán Kasya Pagotra và vị A-la-hán
Vatsi Suvijatata.
4. Tháp
số 4
Phía đông bắc ngôi tháp số 3,
có một ngôi tháp nhỏ hơn là tháp số 4, tháp này bị hư nát nhiều và được
Viện Bác cổ sửa sang lại. Có nhiều nền của những tháp an táng các vị
Tăng sĩ ở chỗ này.
5. Trụ
đá vua A-Dục cùng các trụ đá khác
Không giống với các thánh
tích khác, Sanchi có rất nhiều trụ đá. Hiện còn có 4 trụ đá khá quan
trọng và những trụ đá nhỏ khác thuộc về thời đại Gupta. Trụ đá quan
trọng nhất là trụ đá do vua A Dục dựng lên tại cửa phía nam của ngôi Ðại
tháp. Nay chỉ còn thân trụ và bản đá, vì trụ đá này đã bị một người tên
là Semindar phá hủy để làm một bảng ép mía. Dựng đứng lên bề cao độ 14
thước và chỉ tạc bằng một tảng đá thôi. Tảng đá và con sư tử hiện còn để
trong Viện Bác cổ. Trụ đá thứ hai đáng được nói là trụ đá phía đông ngôi
tháp, thuộc về thời đại Gupta, chỉ cao độ 5 thước 57 và khác với trụ đá
vua A Dục vì có đến 8 cạnh. Con vật ở đầu ngọn tháp tìm không thấy. Trụ
đá thứ ba, gần trụ đá trên cũng thuộc về thời đại Gupta màu xám nhạt với
những bị gãy thành 4 đoạn. Trụ đá này có khắc rõ nhiều hàng chữ. Hai trụ
đá ở cửa, một Mandapa tại một tinh xá và một cửa sổ của ông Rudrasinha,
con của Gosura Sinhabala, vị Quản đốc cuả một ngôi chùa. Trụ đá thứ tư
gần cửa phía Bắc, có lẽ là một trụ đá đuợc nói đến trong các bia khắc
trên. Trụ đá này lớn hơn, nhưng hiện tại chỉ cao độ 7 thước thuộc về
thời đại Gupta vì gốc cột hình vuông. Gần trụ đá này người ta có tìm
được tượng Bồ tát Vajrapani, và theo ông Cunningham và Marshall thì
tượng này tôn trí trên cột đá ấy. Có lẽ vì vậy nên được gọi là trụ đá
Vajrapani.
6. Các
ngôi chùa và tinh xá cũ
Ngôi chùa chính đối diện với
cửa đá phía nam của Ðại tháp có 9 trụ đá vuông cao đến 5 thước, chứng tỏ
chùa ấy rất vĩ đại, có lẽ chùa làm theo kiểu các hang đá Ajanta và Karki
vì các ngọn tháp đều đồng một kiểu. Hiện nay chỉ còn nền cùng tường bốn
góc cao độ 1 thước. Chắc chùa này không làm trước năm 650 sau T.L. Một
bát bằng đá, vài tấm ngói được tìm thấy tại chỗ này; phía đông chùa này
có một khám thờ nhỏ, giống như một ngôi đền mới ở Ba-la-nại, toàn bằng
đá với mái bằng đá phẳng, có một điện Phật và một mái hiên phía trước.
Mái hiên này có bốn trụ đá chạm khắc và hai trụ đá vuông chống đỡ. Một
chù khác phía sau tháp số 5, có một mái bằng, gác trên những trụ đá
trong chùa này có một tượng Phật an tọa trên tòa sen.
Phía nam có một số chùa tháp
và quan trọng nhất là tinh xá lớn. Tinh xá chỉ còn nền và chân các cột
trụ. Có dấu tích các chùa đ được sửa sang lại. Những tinh xá chính có lẽ
rất xưa. Tại đây có 50 trụ đá, và có đến 3 ngôi chùa. Về phía đông cũng
có một ngôi chùa khá quan trọng có lẽ là ngôi chùa được dựng sau cùng ở
Sanchi vào khoảng thế kỷ thứ 10 hay thứ 11 sau T. L.
7. Viện
Bảo tàng
Viện bảo tàng này chứa toàn
di tích của Phật giáo có rất nhiều pho tượng, khuôn dấu v.v... được tìm
thấy tại đây. Chúng tôi đi xem rất tỉ mỉ.
8. Chùa
Ma-ha Bồ-đề hiện nay
1. Khung cảnh ngôi chùa: Ðất
chùa rộng độ hai mẫu tây. Chùa nằm gần bên nhà ga và quan lộ, nhiều hoa
thơm cỏ lạ được trồng bốn phía, có hàng rào bao bọc xung quanh. Cửa ngõ
vào thật giản dị nhưng không kém phần mỹ quan. Ðây là cơ sở để truyền bá
Phật giáo cho dân chúng và tiếp đón Tăng lữ bốn phương. Còn ai muốn tịnh
tu thì lên chùa trên đồi núi, là nơi cảnh rất yên tịnh mát mẻ.
2. Tăng xá: Hai dãy nhà dài
dùng để làm phòng cho chư Tăng. Mỗi phòng rất rộng, có thể ở được bốn
vị, có phòng tắm, nhà vệ sinh, sắp đặt rất trật tự ngăn nắp, khá thuận
tiện cho việc học tập, nghiên cứu, sáng tác. Kiểu nhà xây toàn nắp bằng
có hành lang rộng rãi đi bốn phía.
3. Chánh điện: Hội đang kiến
thiết một ngôi chánh điện bằng xi măng cốt sắt. Khi chúng tôi đến thì
xây đã gần xong tầng dưới, và chuẩn bị làm tầng trên. Ngôi chánh điện
này rất rộng rãi và đồ sộ, phí tổn dự trù độ ba triệu bạc V.N. Chúng tôi
hỏi thăm thì Ðại đức trụ trì cho biết Chính phủ địa phương cúng
400.000đ, ông Bộ Trường tài chánh cúng 200.000đ, ngoài ra, hội Ma-ha Bồ
đề đài thọ tất cả. Thật là một ngôi chùa đáng kể ở vùng này.
4. Trai đường: Bên cạnh chùa
là một Trai đường, có ba căn, xây cất theo lối mới. Chúng tôi thọ trai ở
Trai đường này hai hôm. Một điều mà chúng tôi phải chú ý, là tại các
chùa ở Ấn, Trai đường được xây riêng biệt, chớ không phải làm chung với
nơi thờ cúng như bên ta.
5. Các dãy nhà chung quanh:
Bốn phía có nhiều nhà dành cho khách thiện tín, các giáo viên cũng như
anh em công quả lưu trú. Nhà nào cũng sạch sẽ và ngăn nắp. Ðặc biệt là
chùa thuê các thanh niên để nấu ăn và mỗi người đều có nhà ở riêng.
6. Trường học và thư viện:
Hội Ma-ha Bồ-đề có mở trường học cho trẻ em trong vùng. Trường dạy đúng
theo chương trình Chính phủ, ngoài ra hàng tuần có hai giờ giáo lý bằng
chữ Pàli. Hội cũng sắp mở một thư viện để tiện cho các nhà trí thức và
học giả nghiên cứu. Chương trình của hội thật là đại quy mô và đang được
thực hiện với sự đoàn kết của hai giới xuất gia và tại gia.
Ðứng trên đồi núi Sanchi nhìn
xuống, cảnh trí rất ngoạn mục, nào nhà cửa, nào phố xá, dân cư, xe
cộ.... lô nhô chỗ cao chỗ thấp. Xa xa núi nọ gối đầu trên núi kia, chồng
chất lên nhau, tạo thành một bức họa thiên nhiên hùng vĩ. Luyến tiếc,
chúng tôi lại xem ngôi Ðại tháp. Mặc dù đã trải bao thế kỷ, nhưng hình
thể và đường nét vẫn không bị hư hao chút nào. Ðây là ngôi tháp lớn nhất
và đẹp nhất trong các ngọn tháp mà chúng tôi đã thấy. Trời đã trưa,
chúng tôi phải trở về chùa để thọ trai.
Trong bữa cơm trưa hôm nay, 3
Ðại đức ở đó cùng thọ trai với chúng tôi rất vui vẻ. Ðại đức trụ trì cho
chúng tôi biết, Ðại đức có sang Việt Nam một lần trong dịp cung nghinh
Xá-lợi lần đầu tiên tại Sài Gòn trên đường đi hội nghị Ðông Kinh (Nhật
Bổn). Ðại đức rất tán thán lòng tin tưởng nhiệt thành của Phật tử Việt
Nam đối với chánh pháp trong cuộc nghinh Xá-lợi ấy. Ðại đức hy vọng có
dịp nào đủ duyên sẽ qua thăm Việt Nam nhiều lần nữa.
Sau khi thọ trai và chỉ tịnh,
vào lúc 3 giờ chiều, chúng tôi còn trèo lên núi Sanchi một lần nữa, cùng
đi có một thanh niên Tích Lan, người rất mến đạo và kính trọng chư Tăng.
Bước lên tam cấp của đồi, chúng tôi gặp hai vợ chồng người Ấn chắp tay
thành kính lễ bái đúng như câu: "Ðầu diện tiếp túc qui mạng lễ". Thật
cảm động cho lòng tôn kính Tam Bảo của các Phật tử ấy. Sau khi lễ xong
họ đứng ngay thẳng, cung kính chắp tay nhìn mãi, đến lúc chúng tôi đi
mất dạng mới thôi.
Chiều đến cảnh đồi tháp lại
càng rực rỡ hơn. Hoa rừng thơm ngát ở hai bên vệ đường. Thầy Thiện Châu
lên đốt hương, chúng tôi làm lễ bái tượng Phật và Ðại tháp một lần nữa.
Sau đó chúng tôi đi viếng khắp cả, từ trong tháp đến ngoài tháp, từ trên
đỉnh cao đến những phòng xá xa xôi và ẩn trong những rừng cây rậm. Các
ngôi Tăng xá xưa ở chung quanh được xây cất thật là cẩn thận.
Vào lúc 5 giờ, Thượng tọa
Minh Châu giục chúng tôi phải trở về, để chuẩn bị hành lý. Chúng tôi,
chân bước đi nhưng mặt còn ngoảnh lại. Tưởng cũng nên nhắc lại: Phong
cảnh chùa tháp ở đây có tính cách thiên nhiên nhất và vĩ đại nhất trong
các Phật cảnh mà chúng tôi đã trải qua trong cuộc chiêm bái này. Trên
đường về, thầy Thiện Châu tỏ ý tha thiết hy vọng làm sao sau này Phật
giáo Việt Nam được một thắng cảnh vĩ đại như thế này. "Ðược hay không đó
là nhiệm vụ của quý thầy thanh niên", Thượng tọa Minh Châu nói.
Ðúng 6 giờ tối, chúng tôi từ
giã Ðại đức trụ trì và kính tặng vài chiếc ảnh chùa Việt Nam để kỷ niệm.
Ðáp lại, Ðại đức trụ trì biếu chúng tôi mỗi người một bộ y.
Chuyến tàu 7 giờ tối không
còn chỗ. Chúng tôi đành phải trở lại chùa Ma-ha Bồ-đề. Ðây cũng là một
sự hy hữu. Có lẽ ai cũng mến Sanchi nên sinh ra cảnh ngộ như thế. Chúng
tôi được sống tại Sanchi một đêm nữa.
Sáng ra điểm tâm xong, sắp
đặt hành lý và đúng 9 giờ 30, chúng tôi ra ga. Lần này những chỗ ngồi đã
được Sở Hỏa xa trung ương để dành cho chúng tôi theo sự yêu cầu của ông
trưởng ga Sanchi. Họ rất tốt với chúng tôi vì chúng tôi là nhà tu và là
người ngoại quốc. Chúng tôi lên tàu đi viếng Ajantà. Trên đường lòng
chúng tôi mãi lưu luyến và mơ tưởng cảnh vĩ đại của Sanchi
Những
địa điểm chót trong chương trình chiêm bái của chúng tôi là Elephanta và
Kanheri đều ở gần Bombay, một đô thị phồn thịnh nằm bên bờ Ấn Ðộ Dương.
Ðô thị này được Âu hóa sớm hơn các đô thị khác ở Ấn, sạch sẽ rộng lớn,
với rất nhiều xưởng kỹ nghệ ở ngoại ô. Hầu hết vật dụng hằng ngày của
dân chúng Ấn Ðộ, như vải bố, thuốc men, máy móc.... đều được chế tạo tại
đây. Bombay nằm trên trục giao thông từ Âu sang Á thuận lợi cả đường
thủy, đường bộ và đường hàng không, cho nên nó đang đóng vai trò quan
trọng về kinh tế ở Ấn Ðộ. Từ lối tổ chức đến cách kiến trúc đều phỏng
theo các thành phố ở Anh quốc.
Chúng tôi ở lại tại chùa Nhật Bản. Chùa được xây dựng theo lối kiến trúc
của đại tháp Bồ-đề ở Bồ-đề Ðạo tràng. Buổi sáng, buổi chiều tín đồ đến
đánh trống pháp và tụng niệm câu "Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh". Chư
Tăng thuộc phái này mỗi khi ra đường đều đánh trống nhỏ và niệm đề kinh
Pháp hoa. Một điều mà chúng tôi thấy cần phải bắt chước là các vị ấy
luôn luôn tâm tâm niệm niệm: "Tất cả chúng sinh đều là Phật sẽ thành".
Do đó họ rất thành thật và khiêm tốn đối với mọi người.
Chúng tôi có đi thăm một vài nơi quan trọng trong thành phố nhưng không
tìm được một nguồn vui nào; bởi vì suốt một tháng trời chúng tôi được
sống trong một thánh tích thiêng liêng thanh tịnh mát mẻ, giờ đây phải
chứng kiến những cảnh tranh sống, ồn ào, nóng bức, vì thế chúng tôi cảm
thấy khó chịu và muốn tìm đến những nơi thiên nhiên an tịnh.
Một buổi chiều, chúng tôi đến thăm hoa viên "Nehru" cũng gọi là vườn
treo, vì nó nằm trên một đỉnh đồi rộng rãi gần thành phố. Ở đây cây cỏ
mát tươi, những bụi cây được cắt tỉa theo hình thú như sư tử, ngựa
phi.... Hoa lá đủ loại. Có một vật kỳ lạ nhất là chiếc giày khổng lồ,
trên ống giày là cái nhà nhỏ. Khách đến thăm hoa viên ai cũng chun vào
và leo lên để nhìn xem cảnh vật. Chúng tôi cảm thấy nó "trần tục" làm
sao ấy, nên chỉ nhìn mà không muốn đến gần, nhất là khi thấy đông đảo
người ta đang chun qua gót giày.
Chúng tôi liên tưởng đến "Chùa Một Cột" của đất nước, mọc từ dưới hồ sen
và nở ra như một hoa sen, từ trong hoa sen ấy tỏa ra những mùi trầm
hương. Ai là kiến trúc sư của ngôi chùa này? Nhất định phải là một Ðạo
sĩ; người ta bảo là Vạn Hạnh Thiền sư. Ôi, ý nghĩa và thanh thoát làm
sao!
Sau đó, qua phía bên kia vườn trên mô đất cao, chúng tôi nhìn thấy hàng
ngàn kên kên và quạ bay đi lượn lại trên một nóc đền. Thượng tọa Minh
Châu cho chúng tôi biết đó là ngôi đền của tín đồ phái Parsis. Tất cả
thây chết của tín đồ phái này đều đem phơi để cho kên, quạ ăn. Tín đồ
Parsis xem việc làm này rất có ý nghĩa, vì họ nghĩ rằng khi thân người
đã chết thì dầu có chôn cất, thiêu đốt hay để cho kên quạ ăn đều giống
nhau. Hơn nữa việc làm sau lại là việc làm hữu ích: nuôi sống kên quạ
bằng cái thây chết vô dụng của con người.
Chúng tôi ở lại đây cho đến hoàng hôn mới ra về. Ðèn điện sáng trưng bao
quanh vịnh Bombay, xe cộ tấp nập làm cho thầy Pasadika nói với chúng
tôi: Thật ra Ấn Ðộ không nghèo nhưng vì dân số quá đông nên Chính phủ
không thể giải quyết vấn đề xã hội một cách mau chóng được.
Ðộng Elephanta
Một buổi sáng khác chúng tôi đi thuyền máy đến động Elephanta. Toàn diện
hải cảng Bombay hiện ra trước mắt, khi thuyền ra khơi. Ðảo Elephanta làm
cho chúng tôi liên tưởng một cách linh động đến "Treasure Island" của
Stevenson, với cây cối xinh tươi um tùm của miền nhiệt đới, hay Túy Vân
nằm giữa phá Tam Giang.
Các động Ấn Ðộ giáo được tạc một cách phức tạp vào thế kỷ thứ tám sau
T.L. Cả điện thờ dựng lên để thờ thần Shiva. Ở chính giữa là những Linga
khổng lồ. Về phương diện mỹ thuật, các tượng hình như có nhiều tài nghệ
và linh động hơn các tượng tạc xưa nhất ở Ajantà. Trong phạm vi thế giới
tư tưởng của chúng, những tư tưởng của một sức sống mãnh liệt về phiếm
thần Ấn Ðộ giáo, chúng thật đã đạt được một kỹ thuật hoàn mỹ. Ðộng và
rừng rậm mọc nẩy nở lên xung quanh, được dệt vào nhau thành một sự đồng
nhất tượng trưng. Sự sinh nở lúc nhúc của vùng nhiệt đới được đem trồng
vào trong điện thờ để thành những hình vật lúc nhúc đang nhảy múa, leo
trèo, bò trườn, tàn diệt và sinh sản. Một thần Shiva Goliah đang nhảy
điệu múa vũ trụ cùng vợ là Parvati (Shiva là vị thần ghê tởm, có tám
tay), một điệu múa của sự phẫn nộ, tàn sát, gây một sự tương phản thi vị
bên cạnh vị nữ thần sông ngòi xinh đẹp và dễ thương Yamuna và Ganga.
Sóng cuồng của thân thể thấm nhuần với cảm hứng mỹ thuật và sự nhiệt
tình ngây ngất tiêu biểu cho một tượng trưng khổng lồ của sự vô ý thức:
sanh, trụ, diệt. Dầu không cố ý, chúng ta phải nghĩ đến Pergomon, một kỳ
công tuyệt diệu của Hy Lạp ở Trung Á Tế Á, điện thờ của Zeus, sự bi kịch
hiện sinh của mỹ thuật Hy Lạp, một chứng cớ về ý muốn sáng tạo của con
người: các Olympians chiến đấu với Titans, hùng cường thay, sức mạnh
trong tấm thân của Zeus, và nghệ thuật của ODysseus trong mũi giáo của
Athena. Các vị thần Ấn Ðộ giáo chiến đấu với các Asuras, Vishnu tàn sát
Vua Asura; Shiva đạp trên kẻ thù địch, Lucifer nổi loạn trong Do Thái
giáo và Gia tô giáo, nhưng rồi Chúa cũng chế phục Lucifer. Một sự tổng
hợp tất cả các tôn giáo.
Trưa hôm ấy, chúng tôi ở lại và ăn trưa giữa rừng cây. Một con khỉ bạo
dạn đến dò lòng từ bi của tất cả chúng tôi. Ðầu tiên nó dè dặt nhưng sau
khi thấy chúng tôi thương nó, cho nó ăn nên nó đã đến gần và ngồi ăn với
chúng tôi như một người bạn. Nhưng lạ thay mỗi lần có người khác qua là
nó nhảy lên cây trốn mất. Người lạ đi, nó lại trở lại ăn với chúng
tôi...
Phải chăng những luồng điện từ bi đã phát ra từ tất cả chúng tôi và đã
làm cho con khỉ cảm thấy an toàn khi nó đến gần? Trên đường về, lời dạy
về từ bi và hình bóng con khỉ luôn luôn hiện ra trong trí chúng tôi.
Chúng tôi thầm nguyện cho con khỉ ấy sau khi chết nhờ ảnh hưởng đạo đức
của chư Tăng mà nó đã gặp được, đầu thai làm người, gặp lại chúng tôi và
được sống an lành dưới bóng từ bi của Phật tổ.
Ðộng Kanheri
"Những kẽ núi chứa đựng nước trong trẻo,
Một thế giới núi đá,
Ðược các con khỉ mặt đen và các con hươu rụt rè lui tới,
Dưới những chòm hoa sáng nở, chảy những dòng suối trắng bạc,
Chính là những cao nguyên mà tôi ưa thích nhất" (Rhys David)
Sáng ngày 7 tháng 11 chúng tôi đi viếng động Kanheri, cách xa Bombay 20
miles về phía Bắc giáp giới với công viên quốc gia Krishnagiri. Cả vùng
bao bọc bởi nhiều núi đồi xinh đẹp, đầy rừng rậm. Từ màu xanh êm dịu,
đứng sựng lên một dãy đá đen to lớn, sắp thành hình bán vòng cầu không
đều đặn. Các động điện Phật rất rộng lớn, chỉ có điện được trang hoàng,
như các động ở Karli. Phía cửa vào, hai tượng Phật khổng lồ đang canh
giữ, đây là những tượng Phật lớn nhất tại Ấn Ðộ. Một bia ký Gupta ghi
tên Buddhaghosa, phải chăng Ngài là vị chú thích Pàli trứ danh? Một
phòng họp to lớn khác, hình như vừa dùng để làm phòng họp, vừa làm phòng
ăn. Chúng tôi thấy nhiều bàn đá dài. Sự sắp đặt của toàn cảnh rất khéo
léo. Các động tu cá nhân bao vòng tròn đồi núi theo hình bán cầu, các
động chỉ một người ở leo lên như hình mô đất đắp trên đồi. Các động
không được đục theo các họa đồ nhất định, nhưng tùy thuộc theo vị trí
thiên nhiên của tảng đá. Tất cả các động đều có giường đục trong đá. Tại
cửa động, chúng tôi ngồi trên bàn ghế đá, chính chỗ các vị Tỳ-kheo thời
xưa đã ngồi nghỉ khi trời xế chiều. Chỗ nào cũng có bể nước. Trong một
nhóm động, có một chỗ rất tôn nghiêm, tạc nhiều hình tượng đức Thế Tôn
nắm y của Ngài với tay trái dơ lên, các nếp áo rất mỹ thuật và nhẹ nhàng
nhưng không thanh nhã như các tượng chạm ở Mathura. Sự linh động của các
tượng chạm có thể sánh với động Elephanta, nhưng không đi đến sự đồ sộ.
Các tượng chạm ở Kanheri không sánh được với sự tuyệt luân của thời
Guptas, nhưng nhờ vậy chúng nó gây nhiều cảm kích hơn chỗ nào khác, vì,
chúng ta có thể tin rằng tất cả những tượng chạm này do chính tự tay các
nhà tu hành tạc nên. Không phải tất cả các vị Tỳ-kheo đều là những nhà
nghệ sĩ điêu luyện. Nhưng sự bền bỉ, dẻo dai, trung thành của "sự tầm
thường" chính làm cho chúng ta cảm động, khâm phục. Sự tín thành nhiệt
tình đối với Chánh Pháp vượt ngoài các sự đo lường, suy lý và các nhận
hiểu bề ngoài. Tất cả động nối liền với nhau bằng những con đường mòn
tiện lợi. Nhưng sự biệt lập cần thiết thật rất đặc biệt. Không vị tu
hành nào có thể thấy, nghe hay phá rầy người bên cạnh. Ngồi yên lặng
trong một hang động, lá nhĩ còn vang động với sự huyên náo điên cuồng
của thị thành, nhưng rồi hơi thở dần dần trở thành nhẹ nhàng, dễ chịu.
Từ cửa động nhìn ra, phong cảnh lướt nhẹ từ vòm trời xanh biếc, ngang
qua rừng rậm rộng lớn dưới chân trời. Ðàng xa, sóng của Ấn Ðộ Dương cuồn
cuộn sủi bọt trắng xóa. Dầu cho vào mùa hè nóng bức nhất, gió biển cũng
đưa vào những luồng mát mẻ tẩm vị muối. Có phải chăng đó là một trong
những chỗ trú ẩn an lạc tuyệt luân mà các nhà tu hành thời xưa đã ca
tụng như sau:
"Ôi, (người sẽ yên cuộc sống), hoặc ở
trên chỏm núi của những tảng đá hang động mà các đoàn heo rừng và hươu
sống với nhau.
Hoặc ở giữa lùm cây ngoài trời,
Hoặc ở trong rừng sâu, được mưa mới làm tươi mát...
Chính tại chỗ này, hạnh phúc đang đón chờ người,
Người đã sống trong các hang động,
Gió mát thổi vi vu...
Ðức Bổn sư có sự trung thành và tình yêu của tôi,
Và các lời đức Phật đã được thực hành xong.
Tôi đã đặt xuống gánh nặng mà tôi đã mang.
Nhơn tạo ra luân hồi nay không còn ở nơi tôi nữa rồi". (Theragàthà,
Trưởng lão kệ).
Kanheri không mỹ thuật bằng Ajantà, không vĩ đại như Bồ-đề Ðạo tràng,
nhưng chúng tôi yêu thích Kanheri vì cái vẻ thiên nhiên đậm đà của nó.
Có thể nói Kanheri là một bài thơ đạo tuyệt vời. Thanh tịnh làm sao
những động cá nhân uốn mình dưới những tảng đá lớn ẩn sau những vòm cây
xanh. Làm sao diễn tả được thi vị của những dòng suối róc rách bao quanh
sườn núi mát dịu? Thỉnh thoảng gió biển tạt vào và mang theo mùi thơm
dịu dàng của hoa rừng.
Ý tôi muốn ở lại đây ít nhất một đêm để hưởng cái thiền vị ấy nhưng
không được vì chúng tôi không dự định trước, vả lại xe ngựa chúng tôi
thuê đã quá giờ. Chúng tôi ra về trong luyến tiếc.
Bác sĩ Ambedkar
Một ngày trước khi từ giã Bombay, Thượng tọa Minh Châu có nhận lời thỉnh
cầu của một số Phật tử Ấn đến tận nhà họ để chứng minh lễ đầu năm và quy
y cho một số người mới hướng về Tam bảo. Những người này nghèo khổ nhưng
rất tín thành. Chúng tôi, Thầy Huyền Vi và Pasadika cùng đi theo.
Ðiều làm cho chúng tôi rất ngạc nhiên là bên bàn Phật có thêm tượng của
một người mặc Ấn phục đeo kính trắng. Tôi rất ái ngại trong khi hành lễ
bởi lẽ một Phật tử chỉ nên lễ Phật Pháp Tăng mà không được lễ ai khác
nữa.
Sau buổi lễ chúng tôi hỏi Thượng tọa Minh Châu:
-- Thưa thầy, Tăng đồ cũng như tín đồ ở xứ thuộc Nam tôn thường chỉ thờ
một tượng đức Bổn sư thôi, tại sao ở đây họ lại thêm tượng gì lạ như thế
này?
Thượng tọa Minh Châu cho biết:
-- Ðó là tượng của Bác sĩ Ambedkar. Vì cảm ơn sâu xa Bác sĩ, người đã
đem họ về Chánh pháp, nên họ thờ cả tượng của Bác sĩ. Họ xem Bác sĩ như
một vị Bồ-tát ra đời để đưa những người cùng đinh trở về với giáo pháp
từ bi và bình đẳng. Họ kính ngưỡng đức Phật nhưng họ nghĩ rằng nếu không
có Bác sĩ Ambedkar thì có lẽ muôn đời họ phải sống với Ấn Ðộ giáo.
Những lời của Thượng tọa Minh Châu dã khơi dậy sự hiểu biết của chúng
tôi về Bác sĩ Ambedkar và phong trào đông đảo những người cùng đinh Ấn
quy y Phật mà chúng tôi đã được đọc qua sách báo vào khoảng 1956 khi còn
ở nước nhà.
Thế là trí tò mò của chúng tôi được dịp tốt để hoạt động. Tôi đã hỏi
thăm Thượng toạ Minh Châu và một vài người trí thức trong số những Phật
tử mới này một cách kỹ càng về đời sống tôn giáo của Bác sĩ Ambedkar và
sau đây là những tài liệu mà chúng tôi đã thâu nhập được.
-- "Bác sĩ Ambedkar vốn là một trong những người cùng đinh Ấn đã chịu
đựng không biết bao nhiêu gian khổ do ảnh hưởng phân chia giai cấp của
Ấn Ðộ giáo gây nên. Sau những giai đoạn tự cường với bản thân và tranh
đấu với hoàn cảnh, Bác sĩ đã thành đạt rực rỡ trong vấn đề học vấn.
Người đã đậu tất cả những chứng chỉ cao cấp sau đây: M.A. (Thạc sĩ),
Ph.D. (Tiến sĩ Triết học), D.M. (Bác sĩ Y khoa), LL.D. (Tiến sĩ Luật
khoa), D.Litt (Tiến sĩ Văn chương), Bác sĩ đã trở thành lãnh tụ của giai
cấp cùng đinh, người thảo ra hiến pháp Ấn Ðộ và làm Tổng trưởng Bộ Tư
Pháp. Người đã quy y Phật giáo không phải bởi sự cưỡng bức mà bởi lòng
tự nguyện."
Chúng ta hãy ngược dòng thời gian để tìm hiểu nguyên nhân nào đã thúc
đẩy Bác sĩ trở về với Phật giáo và sự quy hướng lịch sử này đã diễn tiến
ra sao.
Vào năm 1936, Bác sĩ Ambedkar tuyên bố từ giã Ấn Ðộ giáo, một tôn giáo
đầy cả thần quyền và phân chia giai cấp. Ðồng thời Bác sĩ cũng cho biết
người sẽ lựa chọn một tôn giáo mới. Tiếng nói này không phải riêng của
một mình Bác sĩ mà là của hàng triệu người cùng giai cấp với Bác sĩ.
Tin này được tung ra và làm cho những tôn giáo khác vui mừng và hy vọng.
Bởi vì những tôn giáo ấy nghĩ rằng nếu lôi kéo được Bác sĩ Ambedkar là
lôi kéo được hàng triệu người chịu sự lãnh đạo của Bác sĩ. Và như vậy,
tôn giáo của họ có thêm một hậu thuẫn vĩ đại. Hồi giáo tìm đủ cách để
chinh phục con người đầy uy tín này. Ðạo Sikh bắt đầu quyên góp để giúp
đỡ những người cùng đinh hầu mua chuộc Bác sĩ. Sự hưởng ứng của những
người theo đạo Sikh nhiệt liệt đến nỗi với số tiền thu góp, họ đã đem
xây dựng được trường đại học Khalsa, sau khi biết Bác sĩ không có ý định
theo đạo Sikh.
Bác sĩ với sự khôn ngoan đã không vội vàng quy hướng tôn giáo nào cả. Sự
quyết định theo một tôn giáo mới đến với Bác sĩ sau 20 năm đắn đo tìm
hiểu và suy nghĩ. Trong thời gian ấy, Bác sĩ đã thật tâm học hỏi và
khách quan so sánh tất cả tôn giáo. Tôn giáo mà Bác sĩ thích nhất, sau
khi khám phá được những điều hay lẽ đẹp của nó, là Phật giáo. Bác sĩ
liền tuyên bố: "Tôi sẽ là một Phật tử vì tôi tin chắc rằng Phật giáo
chính là tôn giáo duy nhất sẽ đem lại hạnh phúc cho tôi cũng như hàng
triệu người theo tôi".
Vào ngày 14 tháng 10 năm 1956 tại thành phố Nagpur, Bác sĩ chính thức ly
khai Ấn Ðộ giáo và về với Phật giáo với buổi lễ Quy y dưới sự chứng minh
của Ðại Lão Hòa thượng U Chandramani, người Miến Ðiện, hiện trụ trì tại
Câu Thi Na. Hàng vạn người dự lễ đã thấy rõ nỗi vui mừng của Bác sĩ lộ
trên gương mặt và nghe giọng nói chơn thành của Bác sĩ và vợ trong những
câu Tam quy và Ngũ giới.
Sau lễ Quy y, Bác sĩ đã gặp gỡ những người cùng đinh và nói cho họ biết
vì sao Bác sĩ đã quy y Phật. Ðồng thời Bác sĩ cũng hỏi ý kiến họ về vấn
đề tôn giáo. Hàng triệu người đã sung sướng đi theo con đường của Bác
sĩ. Bấy giờ phong trào của những người cùng đinh quy y Phật nổi lên khắp
nơi trên đất Ấn làm cho các tôn giáo khác bực mình.
Người ta kể lại rằng trong những buổi diễn thuyết, Bác sĩ thường nói:
"Tôi sanh ra từ Ấn Ðộ giáo nhưng tôi không thể chết trong Ấn Ðộ giáo".
Bác sĩ đã làm cho hàng vạn người rơi lệ khi kể lại những khổ nhục mà
chính bản thân của Bác sĩ đã chịu đựng như lúc học tại một trường trung
học. Theo chương trình Bác sĩ đã chọn, Sanskrit là một ngôn ngữ thứ hai
nhưng Bác sĩ đã bị bắt buộc học tiếng Ba Tư vì ông giáo sư Sanskrit
khinh bỉ không chịu dạy chữ Sanskrit cho người "hạ tiện". Bác sĩ đã nói
lên những sự chua xót do Ấn Ðộ giáo gây nên mà những người cùng đinh
phải chịu. Theo lý thuyết Ấn Ðộ giáo, người cùng đinh là con vật ghê tởm
nếu ai đụng đến là mất "thánh thể" và không được trở về với Brahma (Phạm
Thiên), đến nỗi những người ở giai cấp trên không dám đụng đến bóng của
họ. Người cùng đinh không có quyền học tập để mở trí khôn, không được
bước vào nhà của những người khác giai cấp, không được phép bén mảng đến
đền miếu Ấn Ðộ giáo... Cho đến nay những phong tục vô nhân đạo này vẫn
còn được giữ ở các nơi xa thị trấn.
Bác sĩ đã cực lực lên án chế độ giai cấp do Ấn Ðộ giáo và những vị
Bà-la-môn đặt ra và kêu gọi những người cùng đinh hướng về Phật giáo. Vì
rằng theo luật Manu của Ấn Ðộ giáo, xã hội loài người gồm có bốn giai
cấp. Giai cấp Bà-la-môn (Giáo sĩ) sanh ra từ miệng của Phạm Thiên; giai
cấp Sát-đế-lợi (vua chúa) từ vai; giai cấp Tỳ-xá (nông công) từ bụng và
giai cấp Thủ Ðà La (cùng đinh) từ chân. Nhưng theo Phật giáo thì mọi
người đều bình đẳng, sự cao thấp của loài người không phải do sanh ra ở
giai cấp trên hay dưới mà bởi hành vi thiện ác của mọi người. Tất cả mọi
người đều bình đẳng trước luật nhơn quả. Do đó, người trong giai cấp
Bà-la-môn không thể là cao thượng khi người đó phạm tội lỗi như trộm
cắp, tà dâm... Pháp luật cũng trừng trị họ. Trái lại những người ở giai
cấp tầm thường vẫn là những người đáng kính mến nếu họ thật có tài năng
và đạo đức. Chính "Nghiệp" (Karma) của con người làm cho con người cao
hay thấp, đáng trọng hay đáng khinh, chứ không phải Brahma. Về phương
diện tích cực, Phật giáo chủ trương tất cả chúng sanh đều có khả năng
giác ngộ (Phật tánh). Chế độ giai cấp gây ra sự ghét bỏ và tranh chấp.
Tinh thần bình đẳng làm cho con người biết thương yêu và kính mến lẫn
nhau.
Cũng trong những buổi diễn thuyết, Bác sĩ nói với những người cùng đinh
rằng: Phật giáo chính là một tôn giáo có tinh thần dân chủ cao đẹp. Phật
giáo thừa sức giúp cho Chánh phủ thực hiện những điều cao đẹp trong Hiến
pháp và làm cho nhân dân biết sống theo và thừa hưởng tinh thần dân chủ
của Hiến pháp.
Bác sĩ hứa nguyện sẽ làm cho Chánh pháp sống lại một cách mau chóng trên
đất đã phát sinh ra nó, để cứu độ cho những kẻ khổ đau trong giấc mộng
thần quyền huyễn hoặc và chế độ giai cấp bạo tàn phi luân.
Ðúng 7 tuần sau khi trở về với ánh sáng của Ðức Giác Ngộ, Bác sĩ từ trần
một cách êm thắm. Nhiều sự nghi ngờ được đặt ra và người ta thầm hiểu có
một điều gì bí mật trong cái chết của Bác sĩ Ambedkar. Dù sao, Bác sĩ đã
thực hiện được lời hứa: "Tôi sanh từ Ấn Ðộ giáo nhưng không thể chết
trong Ấn Ðộ giáo". Bác sĩ đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 6 tháng 12
năm 1956, trong đêm thức khuya để viết quyển "Ðức Phật và giáo pháp của
Ngài" (The Buddha and his Dharma). Hàng triệu người theo dấu chân Bác sĩ
đau đớn bơ vơ, vì đã mất đi một vị lãnh tụ sáng suốt trong xã hội thiếu
chân lý và tình thương!
Danh từ "Phật tử mới" (Neo-Buddhist) được báo chí Ấn Ðộ dùng để gọi Bác
sĩ Ambedkar và những người cùng đinh quy y Tam bảo trong thời kỳ ấy.
Danh từ tuy dùng không đúng (vì những Phật tử mới này không phải quy y
với đức Phật nào khác lạ mà chỉ trở về với giáo pháp của Phật tổ Thích
Ca đã truyền dạy hơn 2500 năm về trước) nhưng đã ghi lại một sự kiện đẹp
đẽ đã diễn ra trong lịch sử Phật giáo.
Sau khi hiểu biết sơ qua một vài nếp sống tôn giáo của Bác sĩ Ambedkar
và sự quy hướng lịch sử của những người nghèo khổ này, lòng tin tưởng
đối với Chánh pháp của chúng tôi càng thêm đậm đà và tình thương mến
những người Phật tử mới càng thêm tha thiết!
Tuy ở tại Bombay không bao lâu nhưng ngày từ giã của chúng tôi đã làm
lưu luyến những Phật tử mới này không ít. Họ chí thành đảnh lễ tất cả
chúng tôi trước khi tất cả chúng tôi bước lên xe. Trên xe chúng tôi băn
khoăn suy nghĩ: Làm sao giúp đỡ đời sống tinh thần của những người nghèo
khổ vật chất này. Chánh pháp thừa sức nhưng Tăng già thì quá thiếu, hàng
triệu Phật tử mà vỏn vẹn chỉ có độ 3, 4 vị Tăng già trong miền Bombay và
Poona này.
Chúng tôi trình bày sự băn khoăn ấy lên Thượng tọa Minh Châu. Thượng tọa
cho biết Ðại đức Sangharakshita người Anh-Cát-Lợi hiện ở Kalimpong và
một vài vị trong giáo đoàn của Ðại đức hàng năm có xuống đây giảng diễn.
Những lớp học Phật pháp cũng được tổ chức thường xuyên và họ có những tổ
chức nho nhỏ như khuôn hội bên ta để dắt dìu nhau trên đường tu học.
Tôi thầm ước nguyện ngày mai đủ tài đủ đức và nếu được quý Thượng tọa ở
nước nhà cho phép, chúng tôi sẽ xin sung vào giáo đoàn của Ðại đức
Sangharakshita để góp tay vào công việc phục hưng mạnh mẽ Chánh pháp
trên đất Phật và giúp đỡ những người đã theo tiếng gọi của Bác sĩ
Ambedkar.
"Indra phân cách Nalandà
Cảnh trí xem ra thật mặt mà
Chùa thấp lấp vùi trong đất đỏ
Giảng đường vươn dậy giữa muôn hoa
Nghìn năm lịch sử còn ghi dấu
Xán lạn ngày mai đến chẳng xa
Gương biếc Huyền Trang in bóng cũ,
Ðậm đà vui đón khách phương xa." (T.C)
Nếu
Lâm-tỳ-ni là Thánh địa, bởi đức Phật giáng sanh ở đó thì Nalanda là đất
thiêng đã chứng kiến sự xuất hiện của hai vị đệ tử của Ngài là Tôn giả
Xá-lợi-phất và Tôn giả Mục-Kiền-Liên. Ðức Phật đã tán thán hai ngài:
"Nay các Tỳ-kheo trong hàng đệ tử của Như Lai, người có đại trí tuệ là
Xá-lợi-phát và người có đại thần thông là Mục-Kiền-Liên".
Nếu Bồ-đề Ðạo tràng là nơi đức Phật viên thành Chánh pháp thì Nalanda là
đất thiêng đã truyền chiếu ánh sáng ấy đến với vô số người, ở khắp nơi
trên thế giới.
Nếu Lộc Uyển là thánh địa, bởi ở đó đức Phật đã Chuyển pháp luân lần đầu
tiên thì Nalanda là đất thiêng đã hoằng truyền chánh pháp, trong một
thời gian dài hơn ngàn năm.
Nếu Câu-Thi-Na là Thánh địa, bởi ở đó đức Phật đã nhập Niết-bàn thì
Nalanda là đất thiêng đã chứng kiến sự viên tịch của Tôn giả
Xá-lợi-phất.
Hơn nữa, Ðức Phật chưa bao giờ trở lại nhiều lần để thăm Lâm-tỳ-ni,
Bồ-đề Ðạo tràng, Lộc-uyển và Câu-thi-na, sau khi Ngài giáng sanh, đắc
đạo, chuyển pháp luân và nhập Niết-bàn, nhưng Ngài viếng thăm Nalanda
rất nhiều lần.
1. Lịch sử Nalandà
Nalanda được nói đến nhiều trong văn chương Phật giáo và văn chương
Jain. Ngài Xá-lợi-phất sanh gần Nalanda. Ðức Phật cũng thường ghé thăm
chỗ này khi Ngài đến thăm thành Vương-xá. Niganthanah-taputta, vị sáng
lập ra đạo Jain cũng sanh gần Nalanda. Vua xứ Ma Kiệt Ðà có lập một ngự
uyển không xa Nalanda mấy. Nhưng chỉ từ khi Nalanda trở thành một Ðại
học viện Phật giáo, thánh địa này mới thực sự được nổi tiếng khắp thế
giới, vì những vị giáo sư của Nalanda được xem là giỏi nhất xứ Ấn Ðộ.
Vua A Dục là người sáng lập ra Nalanda nhưng không phải Ðại học viện
Nalanda, mà chỉ là chùa Nalanda. Ở đây vua này cũng thiết lập một tịnh
xá và cúng dường phẩm vật tại ngôi tháp Xá-lợi-phất. Chúng ta không thể
biết rõ Ðại học viện Nalanda lập từ thời nào; có lẽ bắt đầu thế kỷ thứ
nhất, trước tây lịch, vì ngài Nagarjuna (Long Thọ) sanh vào thế kỷ thứ
hai, được xem là tòng học tại đó và sau trở thành Viện trưởng. Ðiểm này
được ghi trong lịch sử của Taranatha.
Theo thời gian, Ðại học viện Nalanda trở thành to lớn, và có lần sinh
viên theo học đến số 10 ngàn người. Sinh viên đều được miễn phí, vì các
phí tổn đều do các nhà vua chu cấp hoặc các đàn việt1 đài thọ. Sinh viên
chỉ chuyên lo tu học. Trong những vua thuộc thời đại Gupta ủng hộ Ðại
học viện, có vua Kakradutya. Theo Ngài Huyền Trang chính vua này đã dâng
cúng tinh xá cho chư Tăng. Nhưng vua nối nghiệp như Buddhagupta,
Tathagatagupta, Bàlàgitya, Kunnàragupta và Vajra đều theo Ngài và cúng
dường rất nhiều tinh xá.
Ngài Pháp Hiển đến thăm Ấn Ðộ vào thế kỷ thứ năm, không nói đến Nalanda;
có lẽ Nalanda chỉ nổi tiếng vào những thế kỷ sau, và khi Ngài đến viếng,
chỉ là một Học viện nhỏ như các Học viện Phật giáo khác.
Trái lại, khi ngài Huyền Trang đến Ấn Ðộ vào thế kỷ thứ bảy, Nalanda đã
thành một trung tâm học vấn. Ngài học ở đây độ 13 năm. Ngài nghiên cứu
các hệ thống triết học Phật giáo dưới sự chỉ dạy của Viện trưởng
Silabhadra (Giới Hiền). Vị này được xem là vị học giả Phật giáo nổi
tiếng nhất ở Ấn Ðộ. Thời bấy giờ ngài Huyền Trang cũng học Hetuvidya
(Nhơn minh), Sabdavidya (văn phạm), Cikitsavidya (y học), Vệ-đà của
Bà-la-môn giáo. Dưới đây là đoạn văn tả Nalanda của Ngài:
--"Số Tăng sĩ đông đến vài ngàn đều là những bậc tài năng xuất chúng.
Những bậc này phần nhiều là những vị kỳ tài, danh tiếng vang đến cả
những nước ở ngoài. Ðức hạnh của những vị này hoàn toàn thanh tịnh,
không thể chê trách gì. Họ theo giới luật một cách chơn thành. Qui luật
của tu viện rất nghiêm khắc và tất cả Tăng sĩ đều bắt buộc phải tuân
theo. Cả nước Ấn Ðộ đều kính phục và tuân theo những lời chỉ dạy của
những vị này. Cả ngày họ không có đủ thì giờ để hỏi và trả lời những câu
hỏi có ý nghĩa sâu xa. Từ sáng cho đến tối, các vị này đều luôn luôn
biện luận. Già và trẻ đều giúp đỡ lẫn nhau. Những ai không thể biện luận
về kinh điển đều không được kính trọng và phải lẩn tránh vì xấu hổ.
Những nhà học giả từ các thành thị khác, muốn mau có danh tiếng trong
các cuộc biện luận đều đến Nalanda rất đông, để được giải đáp những điểm
mình còn nghi ngờ, và vì vậy danh tiếng của những vị ở Nalanda được lan
truyền rất rộng. Cũng vì vậy mà có nhiều người muốn có danh của Nalanda
để được người ta kính trọng. Các người ở các giới khác muốn dự các cuộc
biện luận phải bị người giữ cửa hỏi vài câu khúc mắc, nhiều người không
trả lời được phải trở về. Phải học giỏi cả tân và cựu kinh điển mới được
thâu nhận. Những sinh viên lạ mặt phải tỏ sự biệt tài của mình trong
những cuộc biện luận gắt gao, và số người bị hỏng so với những vị trúng
tuyển độ 7, 8 phần 10."
Những bia ký cũng chứng tỏ sự vĩ đại của Nalanda và công nghiệp của các
vị vua duy trì và cung cấp vật dụng phí tổn cho Ðại học đường ấy. Bia ký
khắc trên lá đồng của Devapala (810 - 850) ghi rõ chỗ cả năm làng ở quận
Ragjir, dùng để cung cấp các vật dụng ăn uống cho các vị Tăng sĩ, và
chép các kinh điển tại Viện do vua Sumatra lập lên. Chúng ta còn thấy
Nalanda cũng được những vua ngoài Ấn Ðộ ủng hộ.
Trong những vị vua ủng hộ Ðại học viện Phật giáo có vua Harsha ở Kanouj
về thời đại Gupta. Vua này rất sùng bái Phật giáo. Chính trong đời vua
này, ngài Huyền Trang đến thăm Ấn Ðộ. Theo ngài Huyền Trang thì vua
Harsha có lập một ngôi chùa bằng đồng và chuyển số thuế của một trăm
làng để Ðại học viện tiêu phí, và hai trăm gia đình trong những làng ấy
cúng dường các thức ăn uống như gạo, sữa và bơ. Một vị Bà-la-môn,
Suvishnu đồng thời với ngài Long Thọ, có lập ít nhất là 108 ngôi tinh xá
cho cả hai phái Ðại thừa và Tiểu thừa.
Những giáo sư danh tiếng ở
Nalandà
Nalanda sản xuất một số triết gia, văn phạm gia, luận lý gia và những
lãnh tụ tôn giáo. Sách vở những vị này viết đến nay vẫn còn truyền tụng.
Triết học Ðại thừa được nảy nở hoàn toàn tại đây, và nhờ Nalanda mà Ðại
thừa Phật giáo được truyền bá khắp nơi. Hiện tại chúng ta chỉ biết được
một ít tên những vị Viện trưởng có danh tiếng, nhưng chỉ những tên ấy
cũng nói lên được giá trị của Nalanda và chứng tỏ rằng Nalanda thật xứng
đáng là một Ðại học viện có tiếng nhất thời ấy:
-- Nagarjuna (Long Thọ), vị giải thích giáo lý Ðại thừa trước tiên và
cũng là vị Viện trưởng thứ nhất; Arya Deva vị giải thích Madhyamika
(Trung luận tôn), ngài Asanga (Vô Trước) về Yogacara (Quán hạnh tôn) và
người em của ngài, ngài Vasubandhu (Thế Thân) lại còn danh tiếng hơn anh
của mình, đều là những vị Viện trưởng kế tiếp. Rồi đến ngài Dinnaga
(Trần Na), vị sáng lập Nhơn minh tôn. Vị này cũng là người Darvidjan như
ngài Long Thọ. Ngài thắng một vị Bà-la-môn có danh tiếng và được tặng
chức Tarkapungava. Rồi đến ngài Dharmapala. Tiếp đến là ngài Silabhadra
(Giới Hiền), chính trong thời Ngài làm Viện trưởng, ngài Huyền Trang đến
viếng và học tại Nalanda. Ngài Huyền Trang trong ký sự có tán thán rất
nhiều đức hạnh của ngài Silabhadra, vừa là một vị đại học giả, vừa là
một bậc thạc đức. Rồi đến ngài Dharmakirti, có lẽ là vị luận sư có tiếng
nhất ở Ấn Ðộ, không riêng gì về kinh luận (Abhidhamma) mà gồm cả luận lý
học. Ngài biện thắng ông Kumarala, một triết gia và nhà hùng biện nổi
tiếng thời ấy. Rồi đến ngài Shantarakshita. Ngài này được mời qua Tây
Tạng để dịch các kinh điển Phật giáo sang chữ Tây Tạng. Sau khi dịch
xong, Ngài thệ thế tại chỗ vào năm 762 sau kỷ nguyên. Một vị nữa tên là
Padmasambhava cũng qua Tây Tạng sáng lập Lạt-ma tôn, vẫn còn thịnh hành
cho đến bây giờ.
Khách viếng Nalandà
Khách đến viếng Nalanda rất đông, nhất là người Trung Hoa. Chúng ta đã
được biết ngài Pháp Hiển đến viếng vào thế kỷ thứ năm và ngài Huyền
Trang và thế kỷ thứ bảy. Sau ngài Huyền Trang, có 11 người Triều Tiên và
Trung Hoa tiếp tục đến thăm và học tại Nalanda trong một thời gian. Một
vị nữa rất quan trọng, ngài Y-tsing (Nghĩa Tịnh) đến Nalanda năm 673 và
ở tại Nalanda trong một thời gian khá lâu. Ngài tả Nalanda tỉ mỉ và đầy
đủ hơn ngài Huyền Trang. Ngài nói các vị Tỳ-kheo đều sống một đời thật
lý tưởng, làm mẫu mực cho toàn thể Phật tử. Những vấn đề dạy dỗ và
nghiên cứu tại Nalanda không những chỉ là Phật giáo mà cả các hệ thống
triết học, văn học, đạo học.... do đó học giả khắp các nước đều nô nức
đến học tập và nghiên cứu.
Nalandà bị phá
hủy
Vào khoảng thế kỷ thứ tám Nalanda bắt đầu bị điêu tàn, một phần vì tình
hình chính trị trong nước thay đổi, một phần vì Ấn Ðộ giáo đã bắt đầu có
những triết gia có tiếng như ngài Sankaracharya. Vị này đã viết nhiều
sách Sanskrit công kích Phật giáo. Cuối cùng là giặc Hồi giáo tiến vào
chiếm cứ. Giặc này không kính trọng một tôn giáo nào khác ngoài Hồi
giáo. Không những đuổi hoặc giết các Tăng sĩ Phật giáo, chúng còn phá
hủy các chùa, tháp, tinh xá, đập nát các tượng Phật, Bồ-tát bằng đá và
thiêu đốt kinh sách nữa. Chúng tôi được nghe ít nhất là 3 ngàn vị sư bị
tàn phá. Những vị sống sót trốn chạy, phần nhiều qua Tây Tạng. Vị vua
Hồi giáo chiếm Ma Kiệt Ðà và phá hủy Phật giáo tên là Bahktiyar Khilji.
Ngài Huyền Trang nói về
Nalandà
Trong tập ký sự của ngài Huyền Trang có chép: "Ði về phía Bắc độ 30 dặm,
đến tu viện Nalanda. Tục truyền phía Nam của tu viện này, ở giữa rừng
Am-ra, có một cái hồ nhỏ. Vị thần rắn của hồ ấy tên là Nalanda. Tu viện
được lập trên hồ ấy nên đặt tên là Nalanda. Nhưng sự thật thời đức Phật,
trong một tiền thân của Ngài, đã sống theo hạnh Bồ-tát và thành vua một
nước lớn, lập kinh đô tại Nalanda. Vì lòng thương xót của Ngài hoan hỷ
cứu độ chúng sanh thoát khỏi đau khổ, nên để kỷ niệm thành ấy Ngài được
gọi là "Bố thí không dừng nghỉ" và tu viện ấy được gọi là Nalanda. Chỗ
đó trước là một vườn xoài; 500 thương khách mua với giá là 10 kotis bằng
tiền vàng và cúng vườn ấy lên đức Phật. Ðức Phật thuyết pháp trong ba
tháng và các vị thượng khách cùng các người khác chứng quả A La Hán. Sau
thời đức Phật nhập Niết-bàn chẳng bao lâu, một vị vua của xứ ấy, vua
Sakraditya, kính trọng giáo lý nhất thừa, và qui ngưỡng Tam bảo, đã lựa
một chỗ tốt đẹp, và lập nên một tu viện. Trong khi khởi công đào đất, vị
vua này đã làm bị thương một thần rắn. Một vị tiên tri có tiếng, thuộc
phái ngoại đạo Nigranthas (Ni Kiền Ðà), khi thấy sự tình có để lại lời
tiên tri như sau: "Ðây là một địa thế tối thượng, nếu lập một tu viện
trên chỗ này nhất định sẽ trở thành một tu viện danh tiếng: tu viện ấy
sẽ làm gương mẫu khắp nơi. Trải 1.000 năm, tu viện ấy vẫn còn thịnh đạt,
sinh viên tất cả các cấp bậc đều thành tài một cách dễ dàng. Nhưng nhiều
vị sẽ bị đổ máu vì vết thương của vị thần rắn này". (Lời tiên tri này
được sự thật chứng nhận).
Con của vị vua trên, vua Buddhaguptaraja lên kế vị và tiếp tục công việc
tốt đẹp của vua cha. Phía Nam của tu viện, vị vua ấy lập thêm một tu
viện khác. Vua Tathagatagupta, cũng hăng hái theo công nghiệp của tổ
tiên và lập thêm một tu viện nữa về phía đông. Vua Baladiya nối ngôi
Hoàng đế và lập thêm một tu viện nữa về phía Ðông Bắc. Con vua này tên
là Vajra lên kế vị và lòng tin Phật rất vững chắc. Vị này cũng xây thêm
một tu viện nữa về phía Tây. Theo đó có một vị vua Trung Ấn Ðộ kiến
thiết thêm một tu viện khác ở phía Bắc. Vị này lại cho xây một thành cao
có một cửa vào bao bọc các tu viện. Các vua kế vị tiếp tục dựng tháp tạc
tượng làm cho cảnh trí Ðại học viện trở thành kỳ diệu tuyệt luân. Nhà
vua nói: "Tại phòng của vua lập tu viện đầu tiên, tôi sẽ tôn trí một
tượng Phật và tôi sẽ cúng dường hằng ngày cho 40 vị Tăng sĩ để tỏ lòng
biết ơn người sáng lập tu viện này....".
2. Các tháp
Ngọn tháp số 3 là ngọn cao lớn nhất. Một tầng cấp rộng đưa lên đến tận
đỉnh tháp. Tại đây có thể thấy toàn cõi Nalanda. Các tượng xung quanh
tháp rất sai khác nhau, chứng tỏ được tạc hoặc khắc vào nhiều thời đại
khác nhau. Trong số các tượng đá thuộc thời đại Gupta, có nhiều tượng
rất đẹp. Ngọn tháp chính giữa, chung quanh có nhiều tháp nhỏ. Những tháp
nhỏ này, có lẽ đựng xác trà-tỳ của những sư ở Phật học viện qua đời,
không to lớn những những tháp trong các chùa Việt Nam. Trong một mái nhà
phía Ðông Bắc tháp chính có tượng vị Bồ-tát Avalokitesvara (đức Quan Thế
Âm) rất đẹp. Một bức tượng về phía Ðông Nam được xem là tượng của ngài
Nagarjuna (Long Thọ), vị Viện trưởng đầu tiên của Ðại học đường Nalanda.
Phía Bắc tháp số 3 là tháp số 12. Ðây cũng có hai lớp thuộc hai thời
đại. Tháp này có điểm đặc biệt là trên đường tháp đều có những khám chờ,
những trụ vuông tạc nhiều tượng rất đẹp. Nơi các khám có tượng Phật hoặc
tượng Bồ-tát, nhưng chỉ một ít tượng còn lại. Về phía Bắc và phía Nam
của tháp có điện thờ bằng gạch. Mỗi điện có một tượng Phật lớn, tay bắt
ấn Bhumisparsa Mudra. Lại có những ngọn tháp dài 170 feet và rộng 165
feet. Tháp số 14 còn lại một chân tượng rất lớn và những mảnh nhỏ của
những bức bích họa. Ðiểm đặc biệt này ít được thấy về phía Bắc Ấn Ðộ.
Chắc chắn chân tượng ấy là của một tượng Phật rất lớn.
Tháp số 2 không cùng một hệ thống với các ngôi tháp khác. Tháp này có
211 bức chạm trình bày như sau: hai bên cửa chính, mỗi bên có 20 bức và
3 mặt tường mỗi mặt có 57 bức. Có lẽ các bức chạm này được chạm vào thế
kỷ thứ 6 hoặc thứ 7.
3. Các tinh xá
Tinh xá số 1 quan trọng nhất, rất rộng và có đến 7 tầng. Cửa vào về phía
thành phương Bắc. Theo tài liệu của cái bia đào được ở tại các tinh xá
này, tầng thứ nhất có lẽ do vua Sumatra dựng lên, vào đời vua Devàpala,
vua thứ 3 của triều đại Pala (770 - 810 T.L). Ðó là một ngôi nhà hai
tầng, vì có nhiều Tăng phòng được đào lên và dưới những Tăng phòng này
có những nền đá cũ bị chôn lấp. Nên phòng trên cách nền phòng dưới đến
18 feet. Có hai ngôi tượng ở hai tinh xá trên và dưới. Ðiện Phật của
tinh xá dưới về phía đông. Có lẽ phải có một tượng Phật rất lớn tại chỗ
ấy. Ðiểm đặc biệt của ngôi tinh xá là có bệ đá, cả hai phía ngôi điện
Phật, có lẽ để các vị Giáo sư đứng diễn giảng, trong khi các học sinh
ngồi trên sàn dưới sân. Có một giếng nước về phía Tây Bắc, chung quanh
có những phòng nhỏ, chắc chắn là phòng của các vị học giả. Ðiểm đặc biệt
là trần cửa những phòng này hình vòng cung. Trong tinh xá này người ta
có đào được một tấm đá hột, tạc 8 sự tích đời sống của đức Phật. Tấm đá
ấy hiện để ở Viện bảo tàng Nalanda. Tầng cấp rộng và vật dụng nêu rõ
nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc lúc bấy giờ đã tiến bộ nhiều.
Ngôi tinh xá gồm có, như thường lệ, một số Tăng phòng với những mái hiên
rộng đưa về phía trước. Trước kia các Tăng phòng ấy dựng vòng quanh một
sân vuông lớn nhưng về sau các Tăng phòng được ngăn cách bởi một bức
tường lớn. Xưa kia tinh xá có hai hoặc nhiều tầng lầu như được chứng rõ
nhờ một tầng cấp ở gốc Ðông Nam.
Tinh xá số 4 có hai điểm đặc biệt, một là có lỗ hở trên tường, tiếp theo
tầng cấp, có lẽ xưa dùng làm lỗ ánh sáng cho tam cấp. Một kiến trúc ít
được thấy trong các nhà cửa lối cổ. Thứ hai, có tìm thấy một đồng tiền
thuộc triều đại vua Kumaragupta (413 - 455) sau kỷ nguyên, một trong
những đồng tiền xưa nhất tìm thấy tại Nalanda. Ði ngang qua tinh xá số
5, chúng ta đến tinh xá số 6. Tinh xá này có hai sân bằng gạch. Ðây cũng
là nhà hai tầng vì thấy có tầng cấp. Giữa sân thượng có hai dãy lò lửa,
có người cho là để nấu ăn, nhưng chắc là để nhuộm y của chư Tăng, vì tại
tinh xá không được phép nấu ăn. Trong tinh xá này cũng có một cái giếng
và ba bệ thờ, hai ở tầng dưới và một ở tầng trên. Phía Ðông Bắc tinh xá
số 7, có khắc chạm sự tích về tiền thân đức Phật cùng nhiều tích thông
thường khác. Phần nhiều các tinh xá đều có một lối kiến trúc như nhau.
Tại đây ba tinh xá chồng chất lên nhau và chỗ này được đào lên một cách
khiến chúng ta thấy rõ ba giai đoạn kiến thiết. Chúng ta thấy sân gạch
nói riêng và Tăng phòng nói chung thuộc ba thời đại.
Một sân vuông ở giữa, chung quanh là hai hay ba dãy phòng. Một mái hiên
có cột bằng đá hay bằng gạch chống đỡ, chạy dài theo những buồng ở. Dãy
phía tây hướng về cửa vào thường là điện Phật thờ đức Phật hay một vị Bồ
tát. Thỉnh thoảng có một giếng nước trong sân, như ở tinh xá số 1. Tường
đều trét thạch cao và sân lát gạch hoặc đá. Ðiều đặc biệt là tường rất
dày, hơn một sãi tay vì mùa hạ ở Nalanda rất nóng. Chỉ trừ tinh xá số 1A
và 1B, các tinh xá đều hướng về phía Tây, còn tượng Phật thì hướng về
phía Ðông, cách ngang các tinh xá bởi những hành lang dài.
4. Chung quanh Nalandà
Phạm vi của Nalanda ngày xưa không phải chỉ nằm trong khu vực hiện đang
được rào dậu mà rất rộng. Ðứng trên tầng cao của ngôi tháp chính đưa mắt
chung quanh, qua những cổ tháp, những hồ sen rộng, những đồi đất, chúng
ta có thể ước độ phạm vi của Ðại học đường, gồm có 150 giáo sư và cả
10.000 sinh viên không kể những người giúp việc, rộng lớn đến 1.000 mẫu
tây.
Theo dòng thời gian, sự vật biến đổi, làm cho chúng ta khó mà biết được
những gì đã có chung quanh Nalanda. Tốt hơn là hãy nương theo sự diễn tả
của ngài Huyền Trang để tìm lại một vài dấu vết của thời xưa:
--"Chung quanh tu viện có đến hàng trăm tháp nhỏ tôn thờ Xá lợi nhưng
chỉ xin kể một vài thôi. Về phía Tây tu viện, không xa lắm có một ngôi
chùa. Tại đây đức Như Lai, xưa kia đã dừng lại trong ba tháng để diễn
giảng Chính pháp, độ các vị thiên thần. Về phía Nam độ 100 bước, có một
ngọn tháp nhỏ. Ðây là nơi một vị Tỳ-kheo từ xa trông thấy đức Phật. Về
phía Nam, có tượng đứng của đức Quán-tự-tại Bồ-tát. Có khi người ta thấy
Ngài cầm bình dương chi đi đến ngôi chùa của đức Phật và rẽ về phía tay
trái. Phía Nam của bức tượng ấy có một ngọn tháp tôn trí tóc và móng tay
của đức Phật trong ba tháng. Những ai bị bệnh về sinh nở đến đây và đi
vòng quanh tháp, phần lớn đều được lành bệnh. Phía Tây chỗ này có một
ngọn tháp gần bên một hồ nước. Chính tại đây, một ngoại đạo cầm một con
chim sẻ, hỏi đức Phật về vấn đề sống chết.
Về phía Ðông Nam độ 50 thước, phía trong bức thành, có một cây rất kỳ
lạ, độ 8, 9 feet cao, và thân cây, rẽ làm hai. Khi đức Phật còn tại thế
Ngài quăng tăm xỉa răng của Ngài tại đây và tăm ấy mọc thành cây. Hiện
nay ở Ấn Ðộ phần nhiều người ta vẫn còn xỉa và đánh răng bằng một loại
cây tươi. Trải qua nhiều năm tháng, cây ấy không lớn lên cũng không khô
chết.
Gần về phía Ðông có một ngôi chùa, độ 20 feet cao. Tại chỗ này đức Như
Lai đã ở trong bốn tháng, giảng giải chính pháp vi diệu. Từ đây đi về
phía Bắc độ 100 bước có một ngôi chùa thờ một tượng đức Quan Thế Âm
Bồ-tát. Những đệ tử chí thành, khi cúng dường lễ Phật không thấy đức
Quan Thế Âm ở một chỗ nhất định. Khi thì thấy Ngài ở gần cửa, khi thấy
Ngài ra trước mái hiên. Phật tử tại gia hay xuất gia khắp nơi đến rất
đông để đảnh lễ và cúng dường.
Phía Bắc tu viện này lại có một ngôi chùa khác, độ 300 thước cao, do Vua
Baladitya dựng lên. Về sự lộng lẫy, kích thước và tượng Phật trong ấy,
ngôi chùa giống như ngọn tháp dưới cây Bồ-đề. Về phía Ðông Bắc của ngôi
chùa này là một ngọn tháp. Tại chỗ này đức Như Lai thời xưa, đã diễn
giảng diệu pháp trong 7 ngày. Về Tây Bắc có một chỗ, bốn vị quá khứ Phật
đều ngồi tại đây.
Phía Nam chỗ này có một ngôi chùa bằng đồng do vua Siladatya lập nên
nhưng chưa hoàn thành. Nếu làm xong thì ngôi chùa này sẽ cao đến 100
feet. Gần đó về phía Ðông độ 200 thước, ở ngoài dãy tường là một tượng
Phật bằng đồng đứng thẳng do chính vua Purnavarma tạo, cao độ 80 feet;
một tòa lầu sáu tầng che phủ bức tượng ấy. Phía Bắc ngôi tượng độ 2, 3
dặm có một ngôi chùa bằng gạch có một bức tượng Bồ-tát Tara. Bức tượng
này rất cao và rất siêu thoát. Từ ngôi tinh xá đi về phía Nam 8, 9 dặm,
chúng ta đến một làng gọi là Kulika, làng có một ngôi tháp do vua A Dục
dựng lên: chính đó là chỗ đản sanh của ngài Mục Kiền Liên.
Phía Ðông làng của Mục Kiền Liên độ 4, 5 dặm có một ngôi chùa là nơi vua
Bimbisàra (Tần Bà Ta La) đến hội kiến với đức Phật. Phía Ðông Nam chỗ
Vua Tần-bà-ta-la gặp đức Phật, cách độ 20 dặm, chúng ta đến một thành
phố gọi là Kalapinaka. Trong thành phố này có một ngôi tháp kỷ niệm nơi
đản sanh của ngài Xá Lợi Phất, cũng do vua A Dục dựng lên..."
Hiện tại công việc đào bới tìm lại những vết tích xưa chưa được hoàn
thành. Có nhiều ụ đất cao chưa đào, chắc còn nhiều di tích bị chôn lấp ở
dưới những mô đất ấy. Tại những thửa ruộng xung quanh Nalanda, chúng tôi
cũng nhận thấy có những lớp gạch dưới những luống cày. Có kẽ dưới những
ruộng ấy là những cổ tích, vì lâu đời đất cát bồi lên lấp hẳn những tháp
đền ở dưới, rồi sau dân chúng đến cày cấy, trồng trọt lên trên.
5. Viện Bảo Tàng
Sau khi đi thăm Nalanda, chúng tôi đến xem Viện Bảo tàng, vì những di
tích đào được ở Nalanda đều đem tàng trữ tại chỗ này. Có bốn loại được
tàng trữ ở Bảo tàng viện này: các bia ký, tượng, khuôn dấu và đồ gốm.
A. Bia ký - Những bia ký này rất quan trọng giúp chúng ta
hiểu lịch sử của Nalanda trải qua các thời đại. Những chữ trên bia hoặc
được khắc trên lá đồng, hoặc trên các tường đá, hoặc trên các tường hồ
giả cẩm thạch. Như bia ký đức vua Devapala đã được nói đến trên bia ký
trên đá đồng của Samudra Gupta, Devapala và Dharmapàla tìm được ở
Nalanda, hiện đem về bảo tàng ở Calcutta. Có hai bia ký trên đá ở Viện
Bảo tàng Nalanda, một của Yasovarmadeva, một của Vipulasrimitra. Bia ký
đầu ghi những tặng phẩm của Màlàdà, con một vị Bộ trưởng của Vua
Yasovarmadeva, vua xứ Kanduj vào thế kỷ thứ 8. Ngôi tháp đó do vua
Bàlàditya lập. Bia ký do Vipulasrimitra làm, như dựng lên ngôi điện thờ
Tàrà (Tàrà chúng tôi cho là đức Chuẩn Ðề, không hiểu có đúng không?) với
những sân tiếp cận, một hồ cùng tinh xá được tả là "một kỳ quan của thế
giới", lộng lẫy hơn các cung điện của Ðế thích. Cũng có nhiều bia ký ghi
chép những lời Phật dạy. Có một bia ký trên một tượng Tàrà, tháp số
A1-304, chép bằng tiếng Sanskrit như sau: "Om Tàre Tuttàre ture svàhà.
Om Padmavati Om Turukulle svàhà. Ye dharmà hetu-prabhavà, hetum tesam
Tathàgato hyavadat, Tesam ca yo nirodho, evam vàdimàha-sramanath".
B. Tượng - Rất nhiều tượng Phật, tượng các vị Bồ-tát cùng
các vị thiên thần khác. Vì Nalanda là trung tâm của Phật giáo Ðại thừa
nên ngoài tượng Phật, còn có nhiều tượng các vị Bồ-tát nữa. Phần lớn
tượng thuộc thời đại Pàla, nhưng cũng có vài tượng thuộc thời đại Gupta.
Các tượng ở đây không được to lắm, nhưng điều đặc biệt là số lớn tượng
làm bằng kim khí. Cũng có một vài tượng Ấn Ðộ giáo chứng tỏ Ấn Ðộ giáo
đã có lần đến chiếm cứ Nalanda như đã chiếm cứ các chỗ khác. Các tượng
Phật bằng đồng đen, có tượng số 1-532 rất đặc biệt đặt trên một hoa sen
tròn. Các tượng Bồ-tát cũng rất đặc biệt và đẹp so sánh với các tượng ở
chỗ khác. Có tượng Bồ-tát Padmapàni với cành sen cầm ở tay. Có tượng đức
Avalokitesvara số 12 cầm chuỗi hột, cành hoa sen và bình dương chi. Ngồi
trên một con sư tử là tượng Vajrapàni, số 9-157, không hiểu là tượng đức
Ðại Thế Chí hay là ngài Phổ Hiền, thiếu tài liệu nên không thể nhận ra.
Lại còn nhiều tượng khác như Manjusri (đức Văn Thù) , Jambhala(?), Tàrà
(Chuẩn Ðề), Trailokyvijaya Prajnàpàramità (Bát nhã Ba-la-mật), Màrìchi
Sarasvatì, Aparàjità,....
C. Khuôn dấu - Nhiều con dấu và tấm đồng được tìm thấy
trong các tinh xá có những khuôn dấu có khắc tượng Phật hoặc một câu
trong kinh điển; lại có những khuôn dấu của Nalanda Ðại học viện. Như
khuôn dấu "Sri Nalanda Màhà Vihàrìyarya Bhikhsu Sanghasya", dịch là:
"Của Giáo hội Ðại đức tại tinh xá ở Nalanda". Hàng chữ khắc này có hình
Pháp luân với hai con nai hai bên. Nhiều khuôn dấu chứng tỏ một tinh xá
hoặc trú xá đều có dấu riêng. Lại cũng có những khuôn dấu thuộc của Vua
Narasinha Gupta và Kumà-Ragupta 2 thời Gupta, Bhàskaravarman ở Assam,
Harshavaàrdhama ở Kanauj và nhiều vị vua hoặc thái tử khác. Những khuôn
dấu ấy chứng tỏ các nhà vua đều đặc biệt chú trọng và ủng hộ Nalanda,
Học viện có tiếng nhất ở Ấn Ðộ.
D. Ðồ gốm - Những đồ gốm được tìm thấy ở Nalanda chứng tỏ
trình độ văn minh của dân chúng thời ấy đã lên một mức độ khá cao.
"Với núi dài, đồng rộng, hố sâu thẳm,
Người giữ gìn tăng trưởng Bồ-đề tám.
Chân thành ta cảm ơn người.
Và mong được sống bên người muôn năm. (T.C.)
Mục đích thành
lập
Nalanda
mới là Viện nghiên cứu Pàli và Phật học, không chỉ cho Ấn Ðộ mà cho cả
nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước ở Ðông Nam Á. Người đề xướng
và theo dõi công việc thành lập là Ðại đức Kassapa. Cố Tổng thống Dr.
Rajendra Prasad làm lễ đặt đá cho khu nhà đầu tiên vào ngày 19 tháng 11
năm 1951. Phó tổng thống Dr. S. Radhak-Rishnam, Thủ tướng Nehru cũng đến
thăm Nalanda.
Trong buổi lễ đặt đá, cố Tổng thống R. Prasad có nói: "Muốn làm sống lại
cái quá khứ sáng chói của Nalanda, một trung tâm học vấn của thế giới,
Chánh phủ Bihar xây dựng Nalanda mới để giúp các học giả đi sâu vào ngôn
ngữ Pàli và Sanskrit, văn chương và triết học Phật giáo. Chúng tôi hết
sức tán thành sáng kiến cao đẹp ấy. Tên Nalanda đã ghi những dòng chữ
vàng trong quyển lịch sử của đất nước chúng ta; không những nó đã làm
nẩy nở rất nhiều bông hoa tư tưởng ở tại quốc nội, mà đã là trung tâm từ
đó nền giáo dục tốt đẹp đã truyền rộng ra các nước trên thế giới".
Qua những lời của cố Tổng thống R. Prasad, chúng ta thấy người Ấn Ðộ rất
hãnh diện về Nalanda trong quá khứ. Do đó họ cố gắng thành lập Nalanda
mới. Trong quyển giới thiệu Nalanda mới có ghi:
-
Thiết lập tại Nalanda một Ðại học viện
theo lối Vihàra (trong đó người dạy và người học sống chung với nhau,
kính mến lẫn nhau, để theo dõi công việc nghiên cứu cao đẳng) cho sự
thăng tiến công việc nghiên cứu ngôn ngữ Pàli, văn chương và Phật học
qua chữ Phạn, Tây Tạng, Trung Hoa, Mông Cổ, Nhật Bổn và các ngôn ngữ
khác ở Á châu.
-
Tổ chức một thư viện tân thời đầy đủ kinh
sách Phật giáo bằng chữ Pali, Sanskrit và các ngôn ngữ khác, bằng
những bản in hoặc bằng bối diệp, gồm những tác phẩm mới xuất bản và
tác phẩm nghiên cứu bằng Pali và Phật học cũng như các học thuyết mới,
để giúp cho sự so sánh và nghiên cứu được dễ dàng.
-
Thiết lập nơi an trú cho sinh viên tu sĩ
và học giả cư sĩ thông bác nền cựu học và giúp họ quen thuộc với lối
học ngày nay, lối học nghiên cứu và so sánh. Thâu nhận sinh viên tốt
nghiệp ở các Ðại học được thừa nhận và huấn luyện họ theo chương trình
cao đẳng và hướng dẫn họ nghiên cứu Phật học được ghi chép bằng Pali,
Sanskrit và ngôn ngữ khác, làm cho họ quen thuộc với sự sâu sắc của
nền cổ học.
Với mục đích hay đẹp ấy, Nalanda mới đã tiếp nhận rất nhiều sự tán thành
và ủng hộ của nhiều nước Phật giáo. Chính phủ Tây Tạng đã sai một Ðại sứ
từ Lhasa mang về tặng đầy đủ Tam tạng kinh điển bằng chữ Tây Tạng và rất
nhiều tượng Phật. Chính phủ Thái Lan và Hội Phật giáo Nhật Bản gửi tặng
rất nhiều kinh sách có giá trị. Chính phủ Hoa Kỳ đã viện trợ trên 10.000
Dollars để trang bị thư viện, hội Phật giáo Trung Hoa tặng Tam tạng kinh
điển bằng chữ Hán. Chính phủ Trung Hoa và trung ương Ấn Ðộ giúp tiền xây
dựng một thư viện và những phòng nghiên cứu rất qui mô.
Vị trí Nalanda mới
Nalanda mới tọa lạc trên vùng đất rộng rãi, cách Nalanda cũ bởi hồ Indra
đầy sen về mùa hè, nước xanh về mùa thu. Bối cảnh của nó là núi Vương Xá
bao quanh. Nalanda nằm giữa đường Patna - Bồ-đề Ðạo-tràng và cách Vương
Xá độ 10 cây số. Chương trình kiến thiết hiện đang được tiếp tục. Hiện
nay không kể khu cư xá của Viện trưởng. Giáo sư và sinh viên trường.
Nalanda mới hiện có hai khu nhà rất rộng lớn: một gồm nhà ở, nơi ăn,
phòng họp chung cho các Tăng và học giả ngoại quốc, một thư viện, thính
đường gồm văn phòng và các phòng nghiên cứu. Tuy xa phố phường (cách
Patna, thủ đô của tiểu bang Bihar gồm 40 triệu dân số, độ 80 cây số),
Nalanda vẫn có đủ tiện nghi như: điện nước, xe hỏa, xe bus, xe taxi...
không khí ở đây trong sạch an lành, cảnh trí thanh tịnh trang nghiêm,
thi vị, rất thích hợp cho sự tu học nghiên cứu và đời sống giải thoát,
xung quanh còn có một tàng cổ viện, chứa nhiều di tích Phật giáo và chùa
kỷ niệm ngài Huyền Trang.
Nội dung
- Thư viện: Nói đến một Viện Nghiên cứu, người ta nghĩ ngay đến thư
viện. Tuy mới thành lập trong khoảng 12 năm, thư viện Nalanda đã thâu
góp được một số sách có giá trị gần 40.000 tập đủ các bộ môn văn chương
và triết học bằng nhiều thứ chữ: Pali, Sanskrit, Hindi, Tây Tạng, Trung
Hoa, Nhật Bản, Anh, Pháp, Ðức, Thái Lan, Miến Ðiện, Cam Bốt.... có thể
nói đây là một thư viện về cổ ngữ và Phật học lớn nhất ở Ấn Ðộ.
- Ban giáo sư: Vị Viện trưởng hiện tại của Nalanda là Tiến sĩ Mookejree,
một học giả hữu danh về Sanskrit và luận lý học. Ban giáo sư gồm có
nhiều vị Tiến sĩ (Ph.D) và thạc sĩ (M.A) người Ấn Ðộ, Tích Lan, Nhật
Bản, Tây Tạng. Năm nay, Chính phủ thể theo lời của ngài Viện trưởng mời
Thượng tọa Minh Châu dạy về Pali và đạo Phật. Nhiều vị giáo sư khác sẽ
được mời thêm trong niên khóa mới.
- Học giả và sinh viên: Ngoài một số đông học giả và sinh viên người Ấn,
Nalanda còn có học giả và sinh viên của nhiều nước đang theo học như:
Ðức, Nhật Bản, Việt Nam, Hồi Quốc, Thái Lan, Miến Ðiện, Cam Bốt, Lào,
Tây Tạng.... Nalanda có tính cách một học viện hơn là một tu viện. Tuy
thế, đời sống sinh viên ở đây khác hẳn các nơi khác. Phần lớn, học giả
và sinh viên ngoại quốc ở đây là tu sĩ nên cuộc sống rất giản dị và
thanh tịnh. Hội Phật giáo Nalanda mà Thượng tọa Minh Châu là Chủ tịch
giúp đỡ một phần lớn cho đời sống tinh thần của sinh viên. Theo thiển ý,
ngoài Nalanda có lẽ khó mà tìm được một nơi nào khá thuận tiện cho sự tu
học của sinh viên, tu sĩ. Hơn nữa Nalanda là trường của Chính phủ chứ
không phải thuộc một môn phái nào nên đời sống tu hành, tư tưởng của
sinh viên, tu sĩ không bị xáo trộn.
- Chương trình giáo dục: Chương trình giáo dục Nalanda chỉ dành riêng
cho sinh viên cao đẳng và học giả nghiên cứu. Pa là môn học chính cho
những lớp cao đẳng, gồm có bốn ban:
1. Ban A: Văn chương.
2. Ban B: Luận học (Abhidhamma)
3. Ban C: Lịch sử và Bia ký.
4. Ban D: Ðại thừa Phật giáo, gồm có luận lý học, nhận thức học và
siêu hình học.
Vì có nhiều sinh viên ngoại quốc cho nên Anh ngữ được dùng để giảng
giải, trong tất cả các lớp, trừ kỳ thi Acariya Pali (Master of Pali),
phải viết hoàn toàn bằng Pali, còn kỳ thi M.A có thể viết bằng Pali,
Hindi, hay Anh ngữ.
Ngoài ra viện còn mở những lớp dạy Hindi, Sanskrit, Anh ngữ, Tây Tạng,
Trung Hoa và Nhật Bản. Với sinh viên ngoại quốc, Hindi là sinh ngữ bắt
buộc.
Về học giả nghiên cứu thì có những Giáo sư chuyên môn hướng dẫn. Luận án
Tiến sĩ phải được viết với những luận đề có tương quan với Phật học bằng
một trong những thứ chữ Anh, Hindi và Pali.
Phải nói thêm rằng Nalanda là nơi khai triển giáo hệ Ðại thừa, nên Phật
giáo Ðại thừa ở Tây Tạng, Népal, Trung Hoa, Việt Nam, Cao ly, Nhật Bản,
Cam Bốt, Thái Lan, Lào.... trong thời kì Phật giáo mới truyền vào cũng
đều chịu ảnh hưởng của các giáo hệ được khai triển tại Nalanda.
Các vị tổ sư như ngài Long Thọ, Ðề Bà, Vô Trước, Thế Thân, Hộ Pháp, Giới
Hiền... của các giáo hệ Ðại thừa như Không tôn, Trung luận tôn, Duy thức
tôn,.. là Viện trưởng hay Giáo sư của Nalanda cũ. Những vị có công trong
việc dịch thuật và khai triển Ðại thừa ở Trung Hoa như ngài Cưu Ma La
Thập, Chơn Ðế, Huyền Trang... đều thụ giáo ở Nalanda cũ. Nhưng ngày nay
thì cơ duyên thay đổi. Chư Tăng các xứ Nam Tông đông hơn Bắc Tông và các
giáo sư cũng rành Phật giáo Nam Tông hơn. Do đó, giáo hệ Ðại thừa chưa
được giảng dạy tích cực ở đây. Chỉ có Thượng tọa Minh Châu, một giáo sư
và một học giả Nhật, nghiên cứu Ðại thừa mà thôi, các vị Lạt-ma Tây Tạng
cũng đang học Sanskrit thuộc Ðại thừa giáo. Thầy Thiện Châu và thầy
Huyền Vi là số ít nên phải theo số đông và hai thầy cũng muốn học Pali
và tìm hiểu giáo hệ Nam tông. Theo Thượng tọa Minh Châu thì nếu hiểu rõ
giáo hệ Nam tông, chúng ta mới có thể thông suốt được những giáo lý cao
rộng của Ðại thừa.
Một vài thành quả
Tuy Nalanda mới được xây dựng sau khi Ấn Ðộ thâu hồi độc lập, trong thời
gian không bao lâu, nhưng nhờ danh thơm của Nalanda cũ, nên hầu hết các
học giả trên thế giới đều biết và khi có dịp đến thăm Ấn Ðộ là họ đến
thăm Nalanda mới. Do đó, sinh viên Nalanda cũng tiếp nhận được nhiều
luồng tư tưởng mới lạ. Hơn nữa, Tam Tạng kinh điển gồm 42 bộ và những
tập nghiên cứu có giá trị của toàn thể giáo sư, học giả Nalanda được
Chính phủ ấn hành dưới sự quản đốc của Ấn loát vụ Nalanda và có gửi tặng
các thư viện lớn trên thế giới. Nhờ vậy Nalanda được nhiều người biết
đến và được xem như là trung tâm nghiên cứu Phật giáo duy nhất ở Ấn Ðộ,
sau gần 10 thế kỷ Phật giáo im hơi, bặt tiếng ở tịnh xá này.
Ðiều quan trọng hơn nữa là 142 vị M.A và 4 vị Tiến sĩ (năm nay có 26 vị
thi M.A và 8 vị trình luận án Tiến sĩ) do Nalanda đào tạo hiện rải rác
khắp mọi nơi, trên đất Ấn cũng như các nước ngoài là những bằng chứng
đầy đủ để nói lên sự trưởng thành của Nalanda mới. Phật tử Việt Nam
chúng ta còn được thêm một điều vui mừng nữa là Thượng tọa Minh Châu là
người Việt Nam đã đỗ đầu một kỳ thi M.A, một mối vinh dự mà từ trước đến
nay chỉ để dành cho người Ấn Ðộ. Thượng tọa cũng là người đầu tiên đỗ
bằng Tiến sĩ của Nalanda mới. Phần nhiều sinh viên ngoại quốc chỉ học
tới M.A, rồi chuyển sang ngành khác hoặc về nước vì ngành cổ ngữ Pali và
triết học này tương đối khó, không những cho người ngoại quốc mà ngay cả
người Ấn Ðộ nữa. Bản luận án và những tập nghiên cứu của Thượng tọa được
các vị học giả hữu danh tán thưởng.
Tóm lại, Nalanda mới tuy mới mà cũ, vì trước nó đã có Nalanda cũ rực rỡ
một thời. Chúng tôi ước mong chính phủ Ấn Ðộ trong chương trình khôi
phục và phát triển nền văn hóa cao đẹp luôn luôn lưu tâm và tiếp tục mở
rộng Nalanda mới.
Cuộc chiêm bái của chúng tôi chấm dứt với Tân Phật học viện Nalanda,
đúng một tháng trời thăm viếng 12 Thánh tích quan trọng bậc nhất và một
số đô thị khá lớn tại Ấn Ðộ. Chúng tôi không bao giờ quên hai mục tiêu
chính của cuộc hành hương này, và đi đến đâu chúng tôi cũng thay mặt
toàn thể Phật tử Việt Nam đảnh lễ cúng dường các Phật tích quan trọng,
cầu nguyện quốc thái dân an, giới thiệu Phật giáo Việt Nam và ghi chép
tỷ mỷ những di tích đã được thăm. Và cũng nhờ đạo niệm thuần nhất của
bốn chúng tôi, và nhờ tấm lòng tuy xa nước nhưng không bao giờ quên nòi
của chúng tôi, cuộc chiêm bái được kết thúc trong thành công, vui vẻ và
quyền "Ðường về xứ Phật" này được ra đời để đưa các Phật tử và những
người bạn của Phật tử Việt Nam cùng với chúng tôi theo gương Ngài Huyền
Trang, người Trung Hoa và ngài Ðại Thặng Ðăng, người Việt Nam, đi chiêm
bái các Thánh tích Ấn Ðộ.
Minh Châu, Thiện Châu,
Huyền Vi, và Pasadika
Vesàli
cách Nalanda độ 200 cây số nhưng vì đường sá cách trở nên mãi đến năm
nay cũng vào dịp lễ Puja chúng tôi mới đi được. Phải về Patna ở lại một
đêm để sáng hôm sau đi tàu thủy sớm. Bài học "sớm 3 giờ hơn trễ một
phút" chúng tôi học mãi mà chưa thuộc. Chỉ chậm có 3 phút thôi mà chúng
tôi bị trễ một chuyến tàu và còn xảy ra nhiều chuyện lôi thôi. Vì ra đi
trong lúc trời còn tối cộng thêm sự hấp tấp vội vàng của chúng tôi, nên
cảnh sát, công an để ý theo dõi. Trước kia dưới mắt của phần đông người
Ấn, chúng tôi là người Miến Ðiện hay Tây Tạng. Nhưng trong những ngày
chiến sự Trung Ấn xảy ra tại biên giới, chúng tôi bỗng nhiên trở thành
người Tàu. Vì chúng tôi có bộ mặt "giống Tàu" và màu da vàng vàng. Chúng
tôi biết có sự theo dõi và dòm ngó nhưng không muốn đính chánh. Nhớ lại
lời Phật dạy về sự tai hại của thành kiến, trong lúc ấy thật là đúng
lúc. Ðức Phật dạy: "Kiến chấp - Thành kiến sai lầm - làm cho người ta
không thể thấy được sự thật".
Tuy bị xét hỏi giấy tờ, nhưng chúng tôi vẫn vui vẻ và nghĩ rằng: "Vì bổn
phận đối với đất nước trong lúc loạn, người ta có quyền xét hỏi, mình là
người ngay thật thì không có gì đáng sợ". Sau khi biết chúng tôi là
người Nalanda, họ xin lỗi và cám ơn chúng tôi.
Chúng tôi rời khỏi Patna vào chuyến tàu 8 giờ sáng. Có ra xa mới thấy
được địa thế vững vàng rộng rãi của Patna, xưa gọi là Pataliputra, một
đô thị quan trọng và xưa trong những đô thị xưa nhất trên thế giới.
Patna là kinh đô của tiểu bang Bihar gồm 47 triệu dân. Bihar có nghĩa là
chùa tháp vì ngày xưa xứ này có rất nhiều chùa tháp của Phật giáo, Ấn
giáo. Kinh thành nằm bên bờ sông Hằng rất thuận tiện cho việc giao thông
và canh nông. Vua Asoka đã đóng đô ở đây. Hội nghị kết tập kinh điển lần
thứ ba cũng được Vua Asoka giúp đỡ tổ chức tại đây. Ðến Ấn Ðộ mà không
thăm Patna thì chưa thấy hết Ấn Ðộ. Vì rằng các thành phố lớn như Delhi,
Bombay, Calcutta, Madras là những thành phố bị Âu hóa rất nhiều. Duy
Patna còn giữ lại rất nhiều dấu vết và phong tục của Ấn Ðộ "huyền bí"
ngày xưa. Bihar tuy nghèo về vật chất nhưng giàu về tinh thần và đạo
đức. Các vị Giáo chủ của các tôn giáo lớn ở Ấn như đức Phật, Giáo chủ
Mahavira, Jain (Thắng Luận sư)... đều đã thành đạo và truyền đạo tại xứ
này trong nhiều năm. Các nguồn triết học lớn như Không tôn, Duy thức
tôn, Trung luận tôn... cũng đều phát xuất và thịnh hành ở đây. Rajgir
(Vương Xá), Vesàli (Tỳ Xa Li), Nalanda, Buddhagaya (Bồ-đề Ðạo-tràng) là
những vùng có rất nhiều núi non, hang động chùa đền, nơi tu hành và
truyền bá đạo đức ngày xưa. Chính cố Tổng thống R. Prasad, vị Tổng thống
đầu tiên của nước Cộng hòa Ấn Ðộ cũng là người Bihar. Trong khoảng từ
thế kỷ thứ 4 cho đến thế kỷ thứ 12 đã có những trường Ðại học tuy là của
Phật giáo nhưng đầy đủ các môn như triết lý, luân lý, văn phạm, ngôn
ngữ. Ðại học Nalanda với 10.000 sinh viên lúc ngài Huyền Trang sang học;
Ðại học Vikramasila ở Bhagalpur, mà danh sách giáo sư qua nhiều thế hệ
đã lên đến 10.000; đại học Odantapuri ở Biharsharip cũng to nhưng không
bằng Nalanda; Mithila một Ðại học khác của Ấn Ðộ giáo hình thức vĩ đại
và đồng thời với Nalanda.
Sông Hằng thật là rộng, rộng gấp 3 khoảng rộng của khúc sông Ðồng Nai ở
Biên Hòa. Mùa nắng thì bãi cát ở sông lại rộng thêm ra. Ngày xưa đức
Phật đã dùng số lượng cát của sông Hằng để ví dụ cho số nhiều không thể
đếm được, như "Hằng hà sa số chư Phật, Hằng hà sa số thế giới"... Tàu đi
dọc dòng sông một đoạn xa rồi vượt qua bờ bên kia.
Ði thêm xe lửa từ bến tàu và độ 12g30 thì chúng tôi đến Mazaffarpur. Cơm
nước xong, nghỉ ngơi độ nửa giờ, chúng tôi thuê xe đi Vaisali. Gặp được
bác tài xế vui vẻ và thành thạo nên chúng tôi khỏi phải kiếm người hướng
dẫn.
Vesàli cách Muzaffarpur độ 30 cây số. Vesàli xưa là thủ đô của nước Cộng
hoà Licchavi của giống người Vajji. Nước này do Visala, con của Vua
Ikshvaku lập thành. Những nguyên tắc sinh hoạt theo tinh thần dân chủ
của nước này được đức Phật đề cập và tán thán.
"Này Ananda, người có nghe rằng những người Vajji thường hội họp với số
lượng đông đảo không?"
"Bạch Thế Tôn! Con có nghe!" ngài Ananda đáp.
"Tốt, Ananda, chừng nào người Vajjian thường hội họp với số lượng đông
đảo, lúc ấy sự thịnh vượng của họ tăng thêm mà không suy giảm".
"Này Ananda, chừng nào người Vajji hội họp với nhau trong sự hòa hợp,
chừng nào họ quyết định và làm việc với nhau trong sự hòa hợp, chừng nào
họ giữ trọn luật lệ mà không có sự xáo trộn trật tự, chừng nào họ kính
trọng và lễ bái những bậc trưởng thượng và vâng lời những bậc ấy; chừng
nào phụ nữ và thiếu nữ của họ đi ra ngoài mà không bị sự hiếp bức, chừng
nào họ tôn kính và lễ bái đền chùa của họ, chừng nào họ còn gìn giữ mà
không khinh bỏ phong tục, chừng nào họ còn bảo vệ tôn kính và ủng hộ các
bậc tu hành đạo đức, thì lúc ấy sự thịnh vượng của người Vajji tăng thêm
mà không suy giảm".
Chính những lời dạy này đã làm cho vua Ajatasatru bỏ ý định chinh phục
nước này vì sợ không thể thắng được một nước mà toàn dân sống tự do,
đoàn kết dưới chế độ dân chủ. Chúng tôi nghĩ rằng dân tộc Việt Nam chúng
ta nếu muốn thịnh vượng cũng không thể làm gì khác hơn là áp dụng những
nguyên tắc dân chủ trên.
Vesàli bây giờ chỉ là một quận nhỏ thuộc Bihar. Cây cối vườn ruộng ở đây
rất phì nhiêu. Chung quanh có rất nhiều hồ nước rộng xanh. Dân chúng
lịch sự và biết trọng khách. Chúng tôi dừng xe lại trong một khu thành
cũ. Thượng tọa Minh Châu chỉ cho chúng tôi biết, ở đây người ta đang đào
bới để khảo cổ.
Ðức Phật đến Vesali lần thứ
nhất
Theo Mahavatsu, lúc bấy giờ dân chúng Vesàli bị nạn dịch hạch, người
chết rất nhiều. Tất cả danh y đều bó tay. Cuối cùng họ nghĩ đến đức
Phật. Tổng thống Tomara mang lời thỉnh cầu của toàn dân sang Magadha cầu
Phật. Ðức Phật nhận lời nhưng Vua Bimbisàra bắt buộc dân chúng Vesàli
phải ra tận biên giới để thỉnh Phật. Lễ đưa Phật sang Vesàli rất trọng
thể. Vua Bimbisàra tiễn đưa Phật đến tận sông Hằng. Dân chúng Vesàli với
nghi lễ trang nghiêm rực rỡ quá sức tưởng tượng của Vua Bimbisàra, đến
biên giới thỉnh Phật. Ðức Phật qua sông Hằng và lên bờ sang nội địa của
Vesàli.
Ngài đi qua nơi nào thì ở đó sấm sét nổi lên và mưa tuôn xuống, tật bệnh
tiêu trừ, người người lành mạnh. Khi về đến thành, đức Phật thuyết kinh
Ratana, Tam bảo. Và bảo ngài Ananda truyền lại cho người tụng đọc. Chính
đức Phật cũng đọc kinh này trong Pháp hội và sau đó hằng vạn dân chúng
xin Quy y. Dân chúng và Chính phủ hợp lực xây tinh xá trong rừng
Mahavana để thỉnh Phật và chư Tăng ở lại. Sau 7 ngày đức Phật trở về lại
Magadha, lễ tiễn đưa long trọng xấp mấy lần lễ đón rước.
Ðức Phật sau đó còn đến Vesàli nhiều lần nữa. Chính những năm gần nhập
Niết-bàn, Ngài ở lại Vesàli. Nhiều bộ kinh như Mahali, Mahasìhanadas,
Cula Saccaka Mahasaccaka... được Phật thuyết tại Vesàli, trong đó Ngài
có diễn tả những điều lý thú trong khi Ngài ở tại Vesàli. Và trong các
kinh điển khác, chúng ta cũng thấy có nhiều sự việc xảy ra tại đây có
liên hệ tới giáo pháp:
- Thành lập Ni bộ: Ðã ba
lần, bà Mahaprajapati xin Phật xuất gia nhưng Ngài đều từ chối, lý do vì
phụ nữ khó mà lìa bỏ gia đình sống đời sống khất sĩ khổ hạnh được. Nhưng
bà vẫn không thối chí. Trong khi đức Phật ở tại Vesàli, bà Mahaprajatati
đến xin gặp Ngài với bộ áo nâu sòng, đầu không tóc, chân cẳng đầy bụi,
sưng phồng, vì bà đi bộ từ Kapilavastu đến Vesàli. Theo sau bà có rất
nhiều phụ nữ dòng Sakya cũng muốn xuất gia. Bà sợ không dám vào và đứng
ngoài cửa ngõ. Hình ảnh tín thành của bà Mahaprajapati và đoàn phụ nữ
dòng Sakya làm cho Ananda xúc động, nên Ngài bèn thay mặt bà vào xin đức
Phật. Ngài nhấn mạnh: "Như đức Thế Tôn dạy phụ nữ nếu tu hành tinh tấn
cũng có thể chứng quả A-la-hán thì tại sao họ không được nhận vào Giáo
hội như nam giới, nhất là bà Mahaprajapati là người đã thay thế Hoàng
hậu Maya nuôi dưỡng săn sóc đức Thế Tôn khi còn nhỏ".
Nhờ sự thỉnh cầu tha thiết của ngài Ananda, đức Phật nhận lời cho bà
Mahaprajapati và đoàn phụ nữ Sakya xuất gia với điều kiện là phải giữ
đúng 8 điều cung kính. Ðây là những điều đáng chú ý trong 8 điều trên:
1. Tỳ-kheo-ni phải kính trọng Tỳ-kheo dầu
là đối với thầy Tỳ-kheo chỉ mới có một tuổi Ðạo (hạ).
2. Tỳ-kheo-ni phải học đạo lý nơi Tỳ-kheo.
3. Tỳ-kheo-ni phải học đạo lý nơi Tỳ-kheo.
4. Hằng nửa tháng Tỳ-kheo-ni phải kính lễ đại chúng Tỳ-kheo.
5. Một Tỳ-kheo-ni không có quyền phê bình và chê bai một Tỳ-kheo. Trái
lại, một Tỳ-kheo thì có quyền ấy đối với một Tỳ-kheo-ni.
Bà Mahaprajapati hết sức sung sướng chấp nhận những điều kiện trên và
thành lập Ni bộ. Từ đó về sau tất cả phụ nữ xuất gia đều do bà hướng dẫn
và dạy dỗ.
Những nhà sử học cho rằng sự cho phép thành lập Ni bộ của đức Phật quả
là một việc hết sức cách mạng. Không kể ngày xưa mà ngày nay, trừ những
đô thị lớn, người phụ nữ Ấn Ðộ vẫn còn chịu số phận hẩm hiu. Sự phiền
phức lớn nhất của kẻ làm cha mẹ là sinh con gái. Họ phải lo cưới chồng
cho con gái và tốn số tiền hồi môn cho nhà con trai. Người phụ nữ phần
nhiều phải sống kín trong phòng khuê, một số theo Hồi giáo khi ra đường
phải lúp mặt lại. Những công việc nhỏ như bán trầu thuốc, buôn rau cải
cũng do đàn ông đảm đương. Vấn đề giáo dục cho nữ giới còn thiếu sót rất
nhiều. Theo người Ấn, đó là chân lý của họ. Nhưng chúng ta thấy có một
cái gì thiếu bình đẳng giữa nam và nữ. Nhất là các tôn giáo ở đây, trừ
Phật giáo, không hề có nữ tu sĩ.
Ðức Phật ra đời cách đây hơn 2500 năm nhưng Ngài đã nâng cao giá trị phụ
nữ. Trong kinh đức Phật dùng danh từ Màtugàma (những bà mẹ) để chỉ cho
những phụ nữ lớn tuổi và Paramàsakhà (những người bạn tốt của chồng họ)
để chỉ cho những phụ nữ có gia đình. Ðức Phật xác định phụ nữ có thể
chứng quả A-la-hán. Họ được gọi là Ưu-bà-di ngang hàng với Ưu-bà-tắc
(nam nữ Phật tử tại gia). Tỳ-kheo-ni ngang hàng với Tỳ-kheo, sau khi thọ
Cụ túc giới.
Có nhiều người căn cứ vào "tám điều cung kính" và sự nhiều hơn về giới
luật của Tỳ-kheo-ni đối với giới luật Tỳ-kheo rồi bảo không có sự bình
đẳng giữa nam và nữ trong Phật giáo. Ðiều này không đúng. Vì duyệt kỹ
lại nguyên tắc bình đẳng và tinh thần giới luật của tôn giáo thì chúng
ta thấy đức Phật quả là một nhà cách mạng sáng suốt. Phật giáo chủ
trương bình đẳng giữa nam và nữ. Nhưng sự bình đẳng này phải được xây
dựng trên hai phương diện tài và đức, nghĩa là có đồng đẳng về phương
diện khả năng và đức hạnh thì sự bình đẳng mới có ý nghĩa và không sinh
ra sự lộn xộn, thiếu trật tự. Những điều cung kính được đặt ra vì đức
Phật muốn giữ gìn hòa khí giữa Tăng ni và nhất là bắt buộc Tăng bộ có
bổn phận dìu dắt và ủng hộ Ni bộ. Còn giới luật nhiều hơn Tỳ-kheo là vì
ai cũng thừa nhận phụ nữ là phái yếu, yếu cả thể xác lẫn tinh thần, đau
nhiều thì phải uống thuốc nhiều. Nếu uống nhiều thuốc thì bệnh mau lành.
Như thế đức Phật đã nâng cao giá trị của phụ nữ một cách hợp lý vậy.
- Phật độ cho nàng Ambapali:
Ambapali là một kỹ nữ kiều diễm và có tiếng ăn chơi nhất của kinh thành
Vesàli. Sắc đẹp của nàng đã làm mê hồn không những các công tử ở Vesàli
mà cả các nước lân cận. Vua Bimbisàra ở Magadha suýt bị mất tánh mạng
cũng vì say mê sắc đẹp của nàng.
Một ngày kia đức Phật ghé nghỉ tại vườn xoài của nàng ở ngoài thành.
Ðược tin vui này, nàng cho đánh chiếc xe lộng lẫy đến ngay chỗ Phật
nghỉ. Dung mạo và đức hạnh trang nghiêm của Phật cảm hóa nàng kỹ nữ này.
Nàng thỉnh cầu đức Phật và chư Tăng ngày mai đến thọ trai nhà nàng. Ðức
Phật nhận lời. Trên đường trở về nàng gặp một đoàn xe của những người
Licchavis sang trọng cũng đi bái yết đức Phật. Họ dừng xe nàng và hỏi
nàng đi đâu về. Nàng cho biết: Ðức Phật và chư Tăng ngày mai sẽ thọ trai
nhà nàng. Những người Licchavis này tức giận và hỏi nhau: "Tại sao đức
Phật lại nhận lời thọ trai ở nhà của một kỹ nữ?" Rồi để cản ngăn không
cho nàng Ambapali cúng dường Phật, họ bèn bảo với nàng, nếu nhường cho
họ được cúng dường đức Phật trong ngày mai thì họ sẽ đưa cho nàng 10.000
đồng tiền vàng. Nàng trả lời: "Cả tài sản của Vesàli, tôi cũng không
chịu". Sau lễ cúng dường nàng đã dâng lên đức Phật vườn xoài rộng tốt để
là nơi thường trú cho Phật và chư Tăng. Vườn xoài của nàng Ambapali là
một lễ vật vĩ đại của cá nhân cúng Phật lúc bấy giờ.
Không ai ngờ nàng kỹ nữ đã hồi tâm hướng Phật xuất gia tu hành và trở
nên một người thanh tịnh trang nghiêm. Chính chúng tôi cũng suy nghĩ về
câu chuyện này và nhận rõ thêm lòng từ bi, đức bình đẳng của đức Phật.
Ðức Phật thương tất cả chúng sanh và cứu độ bất cứ ai có thể cứu độ. Ðệ
tử của Ngài không những chỉ có những bậc vua chúa như Vua Bimbisara,
Basenadi mà có cả những người cùng đinh như Upali, Cunda, không những
chỉ có những người đức hạnh như công chúa Yasodhara mà có cả những nàng
kỹ nữ như Ambapali. Theo Phật giáo, trong những người xấu ác nhất cũng
vẫn có thiện tâm. Nếu họ biết hướng thiện và gặp được đạo lành, thầy
hay, bạn tốt thì vẫn được đắc đạo.
Nơi kết tập kinh điển lần
thứ 2
Hội nghị kết tập kinh điển lần thứ hai được tổ chức tại Vesàli vào
khoảng 377 năm trước T.L, gồm có 700 Tỳ-kheo tham dự. Thật ra đây chỉ là
Hội nghị duyệt lại giới luật. Nguyên nhân là một số Tỳ-kheo ở Vesàli
hành động sai giới luật như:
- Giữ muối để thêm vào những món ăn lạt.
- Ăn hơi quá giờ ngọ.
- Nhận hai bữa ăn trong một buổi mai.
- Nhận tiền bạc....
Kết quả cuộc Hội nghị là phái Thượng tọa thắng. Và từ đó Giáo hội chia
ra thành hai bộ phái. Phái Tỳ-kheo không đúng theo giới luật được gọi là
phái tiến bộ (Maha-Sanghika). Phái này đông hơn và cũng đã tổ chức một
Hội nghị kết tập kinh điển khác. Người ta cho rằng mầm mống của sự chia
thành Nam tông và Bắc tông có ra từ đây, và do đó, người ta có thành
kiến là Bắc tông không xem trọng giới luật như Nam tông, và có nhiều
người đi xa hơn nghĩ rằng Nam tông là chánh truyền. Thành kiến này đã
gây ra sự chia rẽ giữa khối Phật tử đông đảo không ít. Gần đây nhờ sự
gần gũi trao đổi, thành kiến trên lần lần giảm đi, nhất là ở Nam Việt
đang được xóa bỏ.
Thành thật mà nói thì những hành động sái giới luật những điều nhẹ, có
cả ở hai tông Nam tông và Bắc tông. Có điều, dù sao Nam tông vẫn còn giữ
được nhiều phong tục nguyên thủy hơn như quấn y vàng, đi khất thực....
trong khi đó Bắc tông cũng vì phong tục địa phương đã bỏ đi nhiều phong
tục nguyên thủy. Nhưng có điều sai lầm lớn của số đông là căn cứ vào bên
ngoài để đánh giá bên trong. Ví dụ trong những cuộc gặp gỡ đầu tiên của
chúng tôi - đại diện cho Bắc tông - với chư Tăng Nam tông đã không tránh
khỏi sự lạ lùng và tìm hiểu của quí vị Nam tông. Sau những buổi chuyện
trò và chung đụng, chúng tôi ở chung với ba thầy Nam tông 3 nước Miến,
Thái, Cam Bốt, quí vị ấy đã thấy nơi chúng tôi không phải là "Bắc tông"
như quí vị ấy cũng biết qua sự tuyên truyền thiếu thiện chí. Vì chúng
tôi cũng sống đời sống Phạm hạnh, cũng giữ giới Tỳ-kheo. Chúng tôi có
giới thể Bồ-tát nhưng chúng tôi xem đó là mật nguyện mật hạnh riêng của
chúng tôi. Do đó, quí vị ở nhà không lấy làm lạ rằng chúng tôi, những
chư Tăng Việt Nam thuộc "Bắc tông" sống hòa hợp vui vẻ với phần đông chư
tăng Nam tông. Bằng chứng cụ thể là Thượng tọa Minh Châu là giảng sư của
Viện mà cũng là Hội trưởng Hội Phật giáo Nalanda. Ðại đức Thiện Châu là
Tổng thư ký, và giúp việc cho văn phòng có hai vị: một thuộc về Nam Tông
Ấn Ðộ, một thuộc về Bắc tông Tây Tạng. Chúng tôi rất đồng ý với Ðại đức
Sangharakshita, người Anh, về sự thoát ngoài những cố chấp tông phái.
Ðại đức nói: "Tông phái nếu cần có là để phụng sự Chánh pháp". Và theo
Ðại đức, một Tăng già gương mẫu là một Tăng-già có nếp sống đạo đức
"nguyên thủy" và tâm đạo Bồ-tát. Chúng tôi mong mỏi Phật giáo Việt Nam
sẽ là một nền Phật giáo tổng hợp, trong đó chư Tăng và Thiện tín cố gắng
hòa hợp những "tiểu dị" để đi đến chỗ đại đồng.
Chúng tôi xem xét và chuyện trò ở đây hồi lâu rồi sang thăm Tàng cổ
viện. Tàng cổ viện ở đây không lớn lắm, song có rất nhiều bảo vật lịch
sử. Nhìn qua các đồ gốm, đồ trang sức của phụ nữ như chuỗi hột xoàn,
ngọc thạch và nhiều tượng Phật đẹp, chúng tôi đoán biết dân chúng Vesàli
và các tiểu bang thuộc Vesàli đã có một nền văn minh khá cao vào thời kỳ
xa xưa. Ông Giám đốc đón tiếp chúng tôi niềm nở và kính trọng như các
Sadhu (tu sĩ Ấn giáo). Ông đưa chúng tôi sang thăm khách xá và mời chúng
tôi ở lại. Khách xá nằm bên một hồ nước xanh mát thanh tịnh. Tiếc rằng
vì hoàn cảnh chiến sự nên chúng tôi đã không dự định ở lại nên đã thuê
xe đi và về. Chúng tôi cũng được ông đưa sang thăm một khu đất đang được
đào bới. Theo các nhà khảo cổ thì đây là một bảo tháp tôn thờ Xá-lợi của
Phật mà dân chúng Vesàli được chia một phần trong tám phần tại Kusinara
sau khi Phật nhập Niết-bàn.
Sau lễ hỏa táng thi hài của đức Phật, dân chúng Malla thu nhặt được
Xá-lợi rất nhiều. Họ định không chia cho ai và giữ lại tất cả để tôn
thờ. Nhưng sứ giả của vua Ajatasatru ở Magadha, của Vesàli, của dòng họ
Sakya ở Kapilabastu, vua nước Koliya ở Ramagrama, nước Buliya của
Alkappa, những vị Bà-la-môn ở Vedhadwipa ... đến xin chia Xá-lợi. Ðầu
tiên, dân chúng Malla từ chối. Nhưng các sứ giả hăm dọa và nhờ lời
khuyên bảo của vài vị Bà-la-môn lớn tuổi nên họ chịu chia Xá-lợi ra làm
tám phần và trao cho các sứ giả các nước đem về dựng tháp thờ. Sứ giả
nước Pippalivana đến chậm nên chỉ lãnh được phần tro còn lại. Dân chúng
Vesàli tôn thờ Xá-lợi Phật trong bảo tháp này. Ngài Huyền Trang có được
thấy tháp này vào thế kỷ thứ bảy còn nguyên vẹn.
Rời khỏi nơi đây, chúng tôi đến viếng trụ đá Asoka. Trụ tròn cao độ 10
thước, trơn láng, trên đầu có hình một con sư tử, không đẹp bằng con sư
tử ba đầu ở Sarnath. Nhờ những trụ đá Asoka này mà người ta tìm ra những
nơi Phật tích một cách dễ dàng. Bên cạnh có một ngôi chùa đã bị đổ nát,
một ngôi tượng Phật bằng đá còn lại. Diện tượng rất nghiêm từ song khác
hẳn với tượng ở các nơi khác vì đầu đội mão tương tự như mão Tì lư. Sự
kiện này nó cho ta biết tượng và chùa được xây vào thời kỳ "Bắc tông"
thạnh hành nơi đây.
Cảnh chiều về ở đây thật là đậm đà, êm ái. Cuộc sống của dân quê ở Ấn Ðộ
chẳng khác gì Việt Nam mấy. Ðàn trâu chậm rãi về chuồng, theo sau vài
chú mục đồng với những ống tiêu trên tay. Từng cụm đôi ba mái nhà tranh
nằm giữa nương khoai, ruộng lúa. Nhưng chúng tôi cảm thấy thiếu thốn một
cái gì; ấy là hồi chuông thu không...
Ðang lặng nhìn những chiếc lá Bồ-đề xanh sáng nhịp nhàng rung chuyển
theo gió chiều thì có tiếng của thầy Huyền Vi gọi về, chúng tôi thong
thả rời khỏi phiến đá bên cạnh gốc cây, rồi lên xe trở về Muzaffarpur.
Trong xe, trên đường về, cảnh tượng và lời dạy của đức Phật lúc Ngài từ
giã Vesàli lần lượt hiện ra qua trí nhớ của chúng tôi: Trong những năm
gần nhập Niết-bàn, đức Phật thường trú tại Vesàli. Từ chùa Capala, đức
Phật đi đến Kutagarasala với ngài Ananda. Ðến nơi đức Phật bảo ngài
Ananda họp tất cả các thầy Tỳ-kheo ở Vesàli lại. Trước Ðại hội đức Phật
dạy: "Này các Tỳ-kheo! Các ngươi hãy tinh tấn thực hành những lời Như
Lai dạy bảo bấy lâu nay. Hãy suy tư chín chắ những chơn lý mà các ngươi
đã nghe được từ Như Lai rồi truyền rộng những chơn lý ấy ra để đem lại
sự an vui hạnh phúc cho mọi người và trời. Hãy diệt trừ sự mê lầm và tu
tập theo chánh đạo. Ba tháng nữa Như Lai sẽ nhập Niết-bàn". Ðức Phật còn
dặn thêm. "Hãy tích cực làm việc, thận trọng và tao nhã - Cứu lấy tâm
linh của các người bằng cách làm tròn bổn phận trong cuộc sống hướng
thượng. Người nào tinh tấn trong Giáo pháp của Như Lai sẽ được ra khỏi
mê lầm, phiền não và giải thoát sanh tử luân hồi" (Mahaparinibbana).
Sau buổi họp, đức Phật cùng với ngài Ananda lặng lẽ từ giã Vesàli đi về
phía Kusinara.
Ðược tin đức Phật sắp nhập Niết-bàn và từ giã Vesàli, dân chúng chạy
theo càng lúc càng đông. Họ khóc lóc van xin đức Phật ở lại. Nhiều lần
Phật bảo họ lui về, nhưng không ai vâng chịu. Cuối cùng Ngài phải dừng
lại khuyên lơn và trao tặng chiếc bình bát của Ngài thường dùng để thọ
trai. Theo ngài Pháp Hiển, người Trung Hoa chiêm bái Ấn Ðộ vào thế kỷ
thứ 5, thì sau nhiều lần khuyên bảo dân chúng Vesàli lui về nhưng vô
hiệu, đức Phật bèn vận dụng thần thông biến ra con sông nước chảy mạnh
ngăn cách giữa Ngài và đoàn người theo Ngài. Dòng sông ly biệt này bắt
buộc họ trở lại Vesàli và đức Phật từ từ đi qua Kusinara để xả bỏ xác
thân vô thường, đi vào cảnh giới tịch diệt, an lạc. Sau đó dân chúng
Vesàli đã xây dựng một bảo tháp chính nơi thầy trò ly biệt để muôn đời
ghi nhớ. Ngài Pháp Hiển có thấy bảo tháp này.
- Hết -
Source: http://www.budsas.org/