Trang tiếng Việt

 Trang Nhà Quảng Đức

Trang tiếng Anh

Thiền Định Phật Giáo


 

 

 

Tào Động Tông Nhật Bản

Nguyên tác: Azuma Ryushin (Đông Long Chơn)
Việt dịch: Thích Như Điển

Chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc và
quý Phật Tử tại Mỹ Châu – Úc Châu
ấn tống năm 2008

 

Lời Cuối Sách

 

Nếu có ai đó hỏi rằng đã là Thiền, có Thiền Lâm Tế sao còn có thêm Thiền Tào Động nữa. Điểm giống và khác nhau như thế nào giữa hai loại Thiền nầy?

Xin thưa rằng đã là Thiền tất cả đều giống nhau, bất kể là Thiền Minh Sát, Thiền Nguyên Thỉ, Thiền Đại Thừa, Thiền Công Án, Thiền Thoại Đầu, Thiền Mặc Chiếu v.v... Vì sao vậy? Vì mục đích của Thiền giúp tất cả những ai, đang sống trên thế giới nầy nếu hành trì Thiền, sẽ chấm dứt loạn tưởng, phát triển năng lực nội tại của tự thân, thực chứng trí tuệ và giải thoát sanh tử, khổ đau, phiền não.

Sở dĩ có nhiều loại Thiền khác nhau, bởi vì như một thân cây cổ thụ mấy ngàn năm lịch sử, có vô số cành lá khác đang đâm chồi nẩy lộc, dù cành có khác nhau, nhưng gốc ấy vẫn là một, Phật Giáo cũng thế, tuy cùng một gốc giải thoát sanh tử, nhưng vẫn hiện hữu; nào Thiền Lâm Tế nổi tiếng qua tiếng hét của Thiền Sư Lâm Tế làm cho người học đạo tỏ ngộ, có những công án làm cho Thiền Sinh suy nghiệm để đập nát vô minh tỏ ngộ chân lý tự tâm qua thiền định tư duy; nào Thiền Tào Động siêu việt được gọi là Thiền Mặc Chiếu, những gì đang xảy ra với tự thân, khi ngồi Thiền, cứ để mặc cho nó xảy ra, hãy quán chiếu thực tướng của vạn pháp, sẽ tỏ ngộ khi thật sự nhận chân thân nầy là Phật (Tức Thân Thị Phật), như Thiền Sư Oánh Sơn, Nhật Bản chứng ngộ từ câu thoại đầu nầy, được Thầy, Thiền Sư Nghĩa Giới ấn chứng cho, và nhiều nữa nào là Tịnh Độ Tông, Mật Tông, Chơn Ngôn Tông, Thiên Thai Tông v.v...

Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) trước khi bước vào thế giới Thiền Tào Động với Thiền Sư Như Tịnh, người Trung Hoa, tại Chùa Thiên Đồng Sơn Cảnh Phước Tự, tỉnh Chiết Giang, Ngài đã từng tầm nghiên học hỏi Thiền Lâm Tế Nhật Bản, thuộc Tông Thiên Thai, nhưng khi đến đất Tổ Trung Hoa vào thế kỷ thứ 13 Ngài mới tự chứng “Thân Tâm Thoát Lạc” nghĩa là cả thân lẫn tâm đều tự tại an vui. Về lại Nhật Bản, Ngài xiển dương Thiền Tào Động, Ngài luôn cảm niệm sâu xa Thầy mình, Thiền Sư Như Tịnh, vị Thầy đặc biệt.

Thiền Lâm Tế có mặt tại Trung Hoa vào thế kỷ thứ 9 do Thiền Sư Lâm Tế Nghĩa Huyền khai sáng. Đến thế kỷ thứ 13, có rất nhiều biến đổi trong Thiền gia, cho nên hình thành nhiều điểm khác nhau giữa hai phái cùng một Tông nầy. Riêng tại Việt Nam, đa phần các Thiền Sư ở phía Bắc thuộc Tông Tào Động, chư Tăng miền Trung và miền Nam thuộc Tông Lâm Tế, mà tiêu biểu là

- Thiền Sư Thủy Nguyệt sanh năm 1636, sang Hồ Châu, Trung Hoa năm 20 tuổi, tham học Thiền với Thiền Sư Nhất Cú Tri Giác tại núi Phụng Hoàng. Ba năm sau, Ngài về nước xiển dương Tông Tào Động được vua Lê sắc phong “Đại Thánh Đông Sơn Tuệ Nhãn Từ Giác Quốc Sư“,

- Thiền Sư Thạch Liêm, hiệu Đại Sán Hán Ông, người Trung Hoa thuộc Tông Tào Động được chúa Nguyễn Phúc Chu cung thỉnh sang nước ta năm 1695 để khai đàn truyền giới trong Giới Đàn Chùa Thiền Lâm.

- Thiền Sư  Nguyên Thiều, người Trung Hoa đến đất Qui Nhơn thuộc Thiền Lâm Tế

- Thiền Sư Minh Hải Pháp Bảo đến Quảng Nam truyền Thiền Lâm Tế Chúc Thánh

Cuối cùng, cả hai Tông Thiền ở Việt Nam đều nghiêng qua Tịnh Độ vào đầu thế kỷ 20, trong khi đó tại Nhật Bản cho đến ngày nay vẫn thuần nhất một Tông 2 phái như tự thưở ban đầu.

Ở Nhật, Tịnh Độ Tông cũng có nhiều phái, trong đó 2 phái chính là Tịnh Độ Tông và Tịnh Độ Chơn Tông. Song Thiên Thai Tông cũng tin Ba Kinh Tịnh Độ và cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà; nhưng cả hai Tông nầy đều có quan niệm khác nhau về Hóa Độ và Báo Độ (Tịnh Độ). Trong khi Tịnh Độ Chơn Tông tin tưởng rằng “Tức Thân Thành Phật“ như quan niệm của Ngài Thân Loan, Nhật Bản ở thế kỷ thứ 13, khi được vãng sanh thì ở vào ngôi Chánh Định Tụ hay còn gọi là Nhứt Sanh Bổ Xứ, chờ đợi ở đó một đời nữa là thành Phật, để đi giáo hóa các nơi, theo nguyện ước của mình. Trong khi đó, Tông Thiên Thai tin rằng Đức Phật A Di Đà vì  muốn cứu độ chúng sanh ở thế giới Ta Bà, phát ra 48 Lời Nguyện, để làm phương tiện độ sanh, quốc độ mà chúng sanh được vãng sanh là Hóa Độ, chứ không phải là Báo Độ (Tịnh Độ). Cõi Tịnh Độ thật sự chỉ có chư Bồ Tát và Chư Phật mà thôi.

Tại Trung Hoa có 13 Tông tất cả đó là: Tì Đàm Tông, Thành Thực Tông, Luật Tông, Tam Luận Tông, Niết Bàn Tông, Địa Luận Tông, Tịnh Độ Tông, Thiền Thông, Nhiếp Luận Tông, Thiên Thai Tông, Hoa Nghiêm Tông, Pháp Tướng TôngChơn Ngôn Tông. Nhật Bản có 12 Tông đó là: Tam Luận Tông, Pháp Tướng Tông, Hoa Nghiêm Tông, Câu Xá Tông, Thành Thật Tông, Luật Tông, Thiên Thai Tông, Chân Ngôn Tông, Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Tịnh Độ Chơn Tông và Nhựt Liên Tông, song cũng có nơi gọi 20 Tông, bởi vì trong Tịnh Độ Tông chia ra 2 Tông khác và Pháp Hoa Tông chia thành 3 Tông, do vậy mà số lượng Tông tăng thêm, song chủ trương chung của mỗi Tông vẫn là một, .

Ở Việt Nam, hiện tại ở thế kỷ thứ 21, chỉ có 2 Tông chính đó là: Thiền Tông Tịnh Độ Tông. Còn Thiên Thai Tông, Mật Tông cũng như những Tông khác không được truyền thừa một cách liên tục, bị thất truyền, hoặc nhập vào hai Tông chính, không thấy lưu hành riêng biệt nữa.

Niềm tin vào một Tôn Giáo hay một Tông Phái có tính cách thể nghiệm của mỗi tự thân, không cần chứng minh. Khoa học, toán học cần phải có những luận chứng và những phương trình, mà người ta căn cứ vào đó để giải và tìm ra đáp số, song Tôn Giáo ngược lại. Thể nghiệm của bản thân được nhìn nhận là vô cùng quan trọng, bởi vì cuộc đời và sự nghiệp của một Tăng Sĩ không phải chỉ thành tựu ở bằng cấp, học lực, năng khiếu v.v... phạm trù ngoại vi của Ngũ Minh, mà quan trọng là phải trải dài cuộc sống tu hành của mình qua sự hành trì, dụng công miên mật, thực chứng giáo lý của Đức Phật đã dạy. Nếu một Thiền Sư, không Tọa Thiền, một hành giả Tịnh Độ không niệm Phật; một Du Già không trì chú v.v... kết quả chỉ là những đồ trang sức bên ngoài, chắc chắn không thể là Kim Cang bất hoại của tự thân được.

Lục Tổ Huệ Năng khi còn là cư sĩ, nghe Kinh Kim Cang đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà ngộ đạo nên mới xin Ngũ Tổ xuất gia. Ngài chỉ chứng ngộ được pháp tánh ấy vốn từ quá khứ đến nay trong sạch, thanh tịnh, chứ không phải bây giờ mới có. Sỡ dĩ mê vọng, điên đảo vì còn chấp trước, bởi vì phàm cái gì có hình tướng đều là hiện tượng giả hợp mà thành, ngay cả vũ trụ nầy, thế giới nầy cũng vậy. Ngài Triệu Châu hỏi Thiền Sư Nam Tuyền: “Cái gì là cốt tủy của đạo?” được trả lời rằng: “Bình Thường Tâm Thị Đạo”. Ngài Nhật Liên, Ngài Pháp Nhiên, Ngài Thân Loan, Ngài Đạo Nguyên, Ngài Oánh Sơn v.v..., tất cả cũng đều ngộ rõ lý chân như qua thể nghiệm của tự thân mà làm sáng cho nền đạo mà thôi.

Vậy thì cái gì đúng và cái gì sai? Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau. Người đi tìm chân lý tùy theo căn cơ của mình mà tự tìm lối trên bản đồ để đến nơi cần đến, không thể quyết đoán rằng con đường của tôi đi tốt hơn của anh, hoặc chỉ có pháp môn tôi tu mới là đúng, còn anh tu như thế là sai rồi v.v..., bởi vì một khi quan niệm như thế, chân lý không hiện hữu rồi. Mọi người cứ tự hiểu mình cho là đại diện chân lý nhưng thật ra chân lý không cần ai đại diện cả, bởi vì tự thể của nó đã là chân lý rồi. Chân lý vượt lên và vượt ra khỏi đối đãi kia mà.

Năm nay 2007, chúng tôi đã có 5 lần đến Úc để nhập thất, tịnh tu tại Tu Viện Đa Bảo trong thời gian từ 2 đến 3 tháng mỗi năm. Trong thời gian ngắn ngủi của kiếp nhân sinh ấy, riêng tôi cảm thấy giá trị rất khó sánh với một kiếp phù du mộng ảo nầy. Ở đây, từ sáng tinh sương sau giờ Tọa Thiền và trì tụng Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm, chúng tôi được nghe nhiều âm thanh diệu vợi, âm thanh từ gió đưa cành lá vi vu, âm thanh từ tiếng chim hót líu lo đón ánh bình minh, âm thanh từ tiếng côn trùng  bé nhỏ đang hòa chung cùng nhịp với chuông mõ ban mai. Chúng tôi được thấy ngoài xa những chú thỏ đang gặm sương mai trên đầu ngọn cỏ, những chú két đủ màu bay liệng khắp sân, những chàng chim khách, chú quạ ca hát nói chuyện suốt ngày.

Có những buổi sáng đẹp làm sao, có những hoàng hôn tuyệt vời, có những ngày trôi qua êm ả, khi tôi dịch sách, khi tôi bách bộ trong sân chùa, khi tôi lắng lòng nghe không biết bao nhiêu âm thanh như bản hòa âm không hai trên cuộc đời nầy.

Có những đêm về, tôi nghe rõ hơn tiếng dế nỉ non, tiếng muôn loài hòa khúc nhạc lòng, lúc cao, lúc thấp, lúc buồn, lúc vui, lúc khổ đau, lúc giải thoát nhiệm mầu, trong khi chúng tôi trì chú Đại Bi, Niệm Phật và hành trì Kinh Kim Cang. Có những buổi trưa ngồi nhìn ra sân, ra rừng tôi thấy con ve sầu lột vỏ, con kiến tha mồi, con nhện giăng tơ bẫy mồi, con Kangaroo nhút nhát, con thỏ dễ thương thật muôn hình muôn trạng phô diễn như một bức tranh mà không một nghệ nhân nào có thể diễn đạt được hết.

Có những buổi chiều tôi tưới từng chậu hoa lan, hoa bạch liên, những cây hoa dại dọc đường như ban cho những giọt nước từ bi xoa tan độ nóng đang tỏa nhiệt trong thân của chúng, tôi thấy lòng tôi cũng được chan hòa cùng cảnh sắc thiên nhiên. Với tôi, những âm thanh ấy, những màu sắc ấy là những hộ pháp nhiệm mầu từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây, từng sát na đã, đương và sẽ hộ trì Tu Viện Đa Bảo ngày càng khởi sắc thêm hương, cho cuộc sống tu hành của những ai đến đây ngày thêm hướng nội.

Năm nay, tôi dịch tác phẩm của Ngài Đông Long Chơn – Amazu Ryuushin, về Thiền Tào Động Nhật Bản, giới thiệu cho Phật Tử Việt Nam biết thêm và biết rõ hơn về một Tông Phái đang lớn mạnh tại Nhật. Với tôi, đây cũng là một quyển sách rất cần thiết cho những ai muốn nghiên cứu về Phật Giáo Nhật Bản, một quyển sách có thể giúp cho những Tăng Ni Việt Nam hoài bão sang đất nước Hoa Anh Đào du học, trước khi lên đường nên đọc để biết, mà việc nầy chính tôi ngày trước rời nước sang Nhật năm 1972, không có một tài liệu nào hướng dẫn về Phật Giáo Nhật Bản tận tường như quyển sách nầy.

Năm 2003 tôi dịch được tác phẩm Đại Đường Tây Vức Ký từ chữ Hán sang tiếng Việt cùng Thầy Đồng Văn, năm ấy cũng viết thêm một quyển sách khác nhan đề là “Làm Thế Nào Để Trở Thành Người Tốt”. Đến năm 2004, tôi dịch quyển: “Đại Thừa Tập Bồ Tát Học Luận” từ chữ Hán sang tiếng Việt, viết thêm quyển: “Dưới Cội Bồ Đề”. Đến năm 2005 tôi dịch sách tiếng Nhật bắt đầu tác phẩm “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” và viết tiểu thuyết “Giai Nhân và Hòa Thượng”. Năm 2006, tôi dịch “Tịnh Độ Tông Nhật Bản” từ tiếng Nhựt sang tiếng Việt và năm nay, 2007, tôi dịch tác phẩm nầy cũng là quyển sách thứ 50 của mình, nhan đề “Thiền Tào Động Nhật Bản” cũng như viết xong tiểu thuyết “Giả Tưởng về Phật Giáo và Khoa Học”. Trong 5 mùa tịnh tu, chúng tôi dịch và viết được 9 tác phẩm như thế, quả là một sự cố gắng không nhỏ của mình với cái tuổi gần 60, mỗi ngày ngồi ròng rã 5 tiếng đồng hồ như thế, không phải là chuyện dễ dàng chút nào. Tôi hy vọng nhân duyên còn dài với Đa Bảo để dịch tiếp các tác phẩm tiếng Nhật như Pháp Hoa Tông và Mật Tông sang tiếng Việt, giới thiệu những Tông Phái chính của Nhật Bản cho người Việt mình làm quen và sau 2 năm nữa, tôi sẽ chọn ngôn ngữ khác để dịch ra Việt ngữ, nhằm cống hiến cho các Phật Tử những món ăn tinh thần bổ dưỡng hơn.

Phải thành thật mà nói nếu không có Hòa Thượng Thích Bảo Lạc, Phương Trượng Chùa Pháp Bảo Sydney Úc, bào huynh của tôi, giảo chánh lại phần nội dung cũng như kiểm tra các chữ thì, mà, là, v.v... câu văn sẽ không được trong sáng. Nếu không có Thượng Tọa Thích Đồng Văn nhuận văn, những tác phẩm tôi dịch từ tiếng Nhật sang tiếng Việt, quý vị phải tư duy thêm chút nữa khi đọc. Điều đặc biệt khác cũng không kém phần quan trọng là đánh máy và layout sách, nếu không có Sư chú Hạnh Bổn thực hiện, bản dịch viết tay của tôi vẫn còn nằm nguyên vẹn ở đó. Một lời cảm ơn chân thành cho những việc trên và cũng không quên cảm ơn Đại Đức Thích Nguyên Tạng, Phó Trụ Trì Chùa Quảng Đức tại Melbourne Úc, cố gắng chính mình và đốc thúc những người cận sự của mình trình bày cho những bìa sách thật trang nhã và rất ý nghĩa, khiến ai mới nhìn vào bìa sách cũng muốn mở xem, mặc dầu chưa biết nội dung của sách trong đó có gì.

Điều không dám quên ơn quý Thầy quý Cô tại chùa Pháp Bảo là lúc nào cũng ưu ái giúp đỡ cho chúng tôi từ vật chất cho đến tinh thần, để Thầy trò chúng tôi an ổn tịnh tu, dịch Kinh viết sách. Trong đó có Thầy Phổ Huân Trụ Trì Chùa Pháp Bảo mỗi tuần đều mang đến cho chúng tôi món ăn tinh thần (báo chí) cũng như thăm viếng hỏi han, Cô Giác Anh, Cô Giác Duyên, Cô Giác Trí, Cô Giác Niệm, Giác Thuần v.v...

Những điều đóng góp tích cực khác để in ấn tác phẩm nầy là do quý Phật Tử Chùa Pháp Bảo như Đạo Hữu Tâm Huệ, Đạo Hữu Diệu Yên chủ xướng cùng với các Đạo Hữu khác tại chùa cũng như quý Phật Tử tại Âu Châu và Mỹ Châu mà tác phẩm nầy mỗi lần in ra từ 5.000 đến 10.000 cuốn để tặng không đến những người hữu duyên học Phật, thật là một công việc vô cùng ý nghĩa và thật “Bất Khả Tư Nghì”.

Anh Thiện Minh và những người thân quen, Bác Chúc Liêm tiệm chay Thiên Trúc, Bác Diệu Mai và còn nhiều vị khác nữa đã chan hòa trang trải trợ lực cho sức khỏe Thầy trò chúng tôi, mà quý vị đã chăm sóc từng miếng ăn, cái mặc, chai dầu v.v... tất cả đều là những ân nghĩa nghìn trùng. Xin nguyện “hành trì báo ân” như trong phần “Tu Chứng Nghĩa” và dành phần cuối của sách nầy để nói lên tấm lòng của người đã nhận ơn từ quý vị.

Xin niệm ân tất cả và nguyện cầu tất cả quý vị sớm chứng được quả “Vô Thượng Bồ Đề”.

 

Viết xong Lời Cuối Sách nầy

 vào lúc 10 giờ 30 phút sáng ngày 1 tháng 12 năm 2007

 tại Tu Viện Đa Bảo Úc Đại Lợi.

Thích Như Điển

Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức quốc.

 

Mục lục

 

----o0o---

Vi tính: Hạnh Bổn
Trình bày: Vĩnh Thoại
Cập nhật: 1-2008


Webmaster:quangduc@quangduc.com

Trở về Trang Mục Lục

Đầu trang

 

Biên tập nội dung: Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng
Xin gởi bài mới và ý kiến đóng góp cho Trang Nhà qua địa chỉ: quangduc@tpg.com.au
Địa chỉ gởi thư: Tu Viện Quảng Đức, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic. 3060. Tel: 61. 03. 9357 3544