NGHIÊN CỨU UY LỰC CỦA
THIỀN ĐỊNH
(The
Mind of a Monk )
Stephen S Hall joins a neurological investigation into the
power of meditation
Nguyên tác: Stephan
S Hall
Việt dịch: Trần Như
Mai
---o0o---
Vào mùa Xuân năm 1992, chiếc máy
Fax trong văn phòng của giáo sư Richard Davidson ở khoa Tâm lý học thuộc
Viện Đại học Wisconsin bất ngờ in ra một bức thư của Tenzin Gyatso, vị
Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 của Tây Tạng. Giáo sư Davidson là một nhà thần kinh
học được đào tạo từ Viện Đại học Harvard, ông đã nổi danh nhờ công trình
nghiên cứu về các tình cảm tích cực, và tin đồn về những thành tựu khoa
học của ông đã lan truyền đến miền Bắc Ấn Độ. Vị lãnh đạo tinh thần lưu
vong của Phật Giáo Tây Tạng đã viết thư đề nghị rằng Ngài sẵn sàng cho
phép các vị sư đệ tử của Ngài được tham gia cuộc nghiên cứu khoa học về
não bộ của các vị sư ấy, đặc biệt là năng lực Thiền định của họ.
Hầu hết các nhà nghiên cứu về thần kinh học có lòng tự
trọng đều thối lui, nếu không nói là bỏ chạy trước một lời mời nghiên cứu
về Thiền định Phật giáo, vì họ xem đây là một lãnh vực rất khó xác định rõ
ràng, và như Davidson vừa qua đã thú nhận là “rất mơ hồ ”. Nhưng vị Giáo
sư của Viện Đại học Wisconsin này đã nhảy lên vì vui mừng trước cơ hội
này, vì chính ông là một người đã hành Thiền lâu năm – ông ta đã xin phép
nghỉ dạy ở đại học để đi du hành qua Ấn độ và Sri Lanka để học phương pháp
hành Thiền của Đông phương .
Vào tháng 9 năm 1992, ông đã tổ chức và khởi đầu một
cuộc hành trình đầy tham vọng để thu thập dữ kiện ở miền bắc Ấn Độ, ông
phải nhọc nhằn mang theo máy phát điện xách tay, máy điện toán xách tay,
các trang bị điện tử để ghi nhận những tổn thương não bộ, và đi đến tận
dưới chân các ngọn đồi của rặng Hy- mã- lạp- sơn . Mục tiêu của ông là để
đo lường một thực thể rất đặc biệt, nhưng cũng có vẻ rất phù du : đó là
những đặc điểm thần kinh não bộ của một vị sư Phật giáo đang lúc hành
Thiền. Giáo sư Davidson nói “ Những vị sư này là những lực sĩ Thế vận hội,
những lực sĩ đoạt huy chương vàng của bộ môn Thiền định”.
Công việc đã bắt đầu từng khoảng thời gian ngắn – lúc
đầu các nhà sư đã từ chối không chịu để cho mình bị nối vào dây điện –
nhưng bây giờ công trình nghiên cứu về Thiền đã đạt được uy tín mà trước
đây một thập niên người ta khó có thể tưởng tượng nổi. Trong 10 năm qua,
một số nhà sư Phật giáo do Matthieu Ricard dẫn đầu – ông này là một người
Pháp có bằng Tiến sĩ về sinh học phân tử - đã thực hiện một loạt nhiều
cuộc thăm viếng từ miền Bắc Ấn Độ và nhiều quốc gia Á châu cho đến phòng
thí nghiệm của Giáo sư Davidson ở Madison. Ricard và các bạn đồng sự đã
đeo một mớ dây điện rối rắm giống như một vòm cung gồm 256 điện cực của
mạng lưới điện não đồ trong lúc ngồi trên sàn nhà của một phòng nhỏ và đáp
ứng lại các kích thích thần kinh thị giác. Họ đã trải qua từ hai đến ba
giờ mỗi lần trong cái máy chụp hình cọng hưởng từ tính (magnetic resonance
imaging machine), cố gắng hành Thiền giữa những tiếng động lách tách và rì
rầm của dàn máy điện từ đang chụp hình não bộ.
Chưa có dữ kiện nào từ những cuộc nghiên cứu ấy được
xuất bản chính thức, tuy nhiên , trong tập “ Những Viễn Kiến về Lòng Từ
Bi”, một công trình sưu tập các bài diễn văn được xuất bản năm qua, Giáo
sư Davidson đã ghi nhận rằng, trong số 175 đối tượng của công trình nghiên
cứu, một vị sư được mời tham dự đã có những dấu hiệu năng động nhất khi bị
kích thích nhiều điểm ở vùng thùy não trái phía trước đỉnh đầu, đây là
vùng não bộ được liên kết với những tình cảm tích cực theo các công trình
nghiên cứu gần đây.
Trong những năm kế tiếp kể từ khi Giáo sư Davidson nhận
bức điện thư từ Ngài Đạt Lai Lạt Ma, việc nghiên cứu thần kinh học về
phương pháp hành Thiền của các vị sư Phật giáo đã vượt qua ngưỡng cửa của
những điều có thể chấp nhận được để trở thành một đề tài đáng chú ý về mặt
khoa học. Một phần của lý do này nằm ở chỗ ngày càng có nhiều kỹ thuật
hiện đại đo lường não bộ có khả năng tiết lộ không những tình trạng tâm
thức của hành giả đang lúc hành Thiền mà lại còn những đổi thay lâu dài
trong sinh hoạt não bộ sau một thời gian hành Thiền liên tục. Và cũng
chẳng có gì phải tổn thương tự ái khi các khoa học gia về thần kinh nổi
tiếng trong ngành này bây giờ cũng bị tính tò mò kích thích do các phúc
trình sơ khởi về những năng lực tinh thần phi thường của các vị sư Phật
giáo. Giáo sư Paul Ekman của Đại học California ở San Francisco và Giáo sư
Stephen Kosslyn của Đại học Harvard đã bắt đầu các công trình nghiên cứu
riêng của họ về những năng lực tinh thần của các vị sư. Thêm vào đó, một
vài cuộc nghiên cứu được kiểm soát chặt chẽ đã gợi ý cho thấy là những
bệnh nhân Tây phương thực hành kiểu Thiền định Phật giáo có thể tạo nên
những thay đổi về sinh lý não bộ và hệ miễn nhiễm.
Tính chất sinh học của Thiền định ngày càng được kính
nể, dù có vẻ miễn cưỡng, và gần đây đã đạt được một điểm mốc quan trọng
khi một số khoa học gia hàng đầu của Hoa kỳ về khoa thần kinh và tâm lý
ứng xử đã gặp gỡ các vị sư Tây Tạng, gồm cả Đức Đạt Lai Lạt Ma, ở một hội
nghị được tổ chức tại Viện Kỹ Thuật Massachusetts ( MIT). “Bạn có thể nghĩ
đến các nhà sư như những trường hợp chứng minh tiềm năng gì có thể đạt
được trong lãnh vực Thiền định”, Jon Kabat- Zinn, vị cựu giáo sư Y khoa ở
Đại học Y khoa Massachusetts, người đã có những nghiên cứu tiền phong về
những lợi ích sức khỏe của Thiền. “ Nhưng bạn không cần phải làm một người
kỳ dị, hay là một Phật tử, hoặc ngồi trên đỉnh một ngọn núi ở Ấn độ, để có
thể rút ra được những lợi ích của Thiền. Kiểu nghiên cứu này đang còn
trong thời kỳ phôi thai, nhưng chúng ta đang tiến gần đến việc khám phá ra
nhiều điều vô cùng hấp dẫn”.
Trong 2500 năm lịch sử của Phật giáo, tôn giáo này đã
hướng năng lực của họ vào nội tâm trong một nỗ lực rèn luyện tâm thức để
hiểu được trạng thái tinh thần của hạnh phúc, nhận diện và giảm thiểu
nguồn gốc của những tình cảm tiêu cực, nuôi dưỡng và phát triển những
trạng thái tình cảm như là lòng từ bi để đem lại niềm an lạc cho cá nhân
và xã hội. Trong nhiều thập niên, các cuộc nghiên cứu khoa học ở phương
Tây đã tập trung vào những ảnh hưởng ngắn hạn của Thiền trên hệ thống não
bộ, họ đã tìm thấy rằng Thiền giúp giảm thiểu những dấu hiệu của căng
thẳng như là nhịp đập của tim và sự bài tiết mồ hôi. Cuộc nghiên cứu này
đã trở thành căn bản cho phương pháp “đáp ứng thư giãn” do Giáo sư Herbert
Benson của Viện Đại học Harvard phổ biến trong những năm 1970. Tuy nhiên,
Thiền Phật giáo nhấn mạnh đến những thay đổi lâu dài trong hoạt động tinh
thần chứ không phải chỉ những kết quả ngắn hạn. Và chính tác dụng thần
kinh và vật lý của những đổi thay dài hạn đạt được sau nhiều năm tinh tấn
hành Thiền đã kích động tính tò mò của các khoa học gia.
Giáo sư Davidson giải thích “ Trong truyền thống Phật
giáo,‘Thiền’ là một từ có ý nghĩa tương đương với chữ ‘thể thao’ của Mỹ.
Đó là một nhóm các hoạt động liên hệ với nhau chứ không phải chỉ một hoạt
động”. Theo các hành giả Phật giáo, mỗi phần thực hành Thiền định đòi hỏi
những kỹ năng tinh thần khác nhau. Ví dụ, các nhà nghiên cứu ở đại học
Wisconsin đang tập trung vào ba hình thái Thiền định Phật giáo. Giáo sư
Davidson nói : “Hình thái thứ nhất là tập trung sự chú ý . Với hình thái
này, họ tư huấn luyện để tập trung sự chú ý vào một đối tượng trong một
thời gian dài. Hình thái thứ hai là họ phát nguyện tu tập lòng từ bi. Đó
là điều họ làm hằng ngày, và họ có những luyện lập đặc biệt mỗi khi họ
tiên liệu sắp có những biến cố tiêu cực xảy ra, những gì làm họ tức giận
hay bực bội, và rồi họ tìm cách chuyển hóa nó và truyền cho nó một liều
thuốc giải độc, đó là lòng từ bi. Họ nói họ có thể làm điều đó dễ như búng
ngón tay” Ông ta nói và búng ngón tay để diễn tả, “ Hình thái thứ ba gọi
là ‘ tỉnh thức’. Đây là một trạng thái nhận biết rất rõ ràng bất cứ ý
niệm, tình cảm hay cảm giác nào đang khởi lên mà không có phản ứng gì cả.
Họ mô tả việc đó như là một sự tỉnh thức thuần tuý”.
Não bộ có thể nhận biết, thích ứng và tự điều chỉnh các
phân tử trên căn bản kinh nghiệm và sự luyện tập, điều này cho thấy rằng
Thiền tập có thể để lại dấu tích sinh học trên não bộ - và chúng ta có thể
chụp hình và đo lường được dấu tích này nhờ kỹ thuật chụp hình não bộ hiện
đại ngày càng tinh xảo. Nhà thần kinh học Kosslyn nói: “Điều này cũng phù
hợp với các văn bản nghiên cứu chuyên khoa thần kinh học, trong đó người
ta nghiên cứu trí nhớ về không gian của những tài xế xe taxi và cảm giác
về độ cao âm thanh của các nhạc sĩ dàn nhạc hoà tấu . Nếu bạn làm một cái
gì đó, bất cứ cái gì, ngay cả chơi bóng bàn, trong 20 năm, mỗi ngày 8 giờ,
thì trong não bộ của bạn sẽ có một cái gì đó khác với những người không
làm những việc ấy. Nó phải như vậy thôi.
Giáo sư Jonathan D Cohen, một chuyên gia về sự chú ý và
khả năng điều khiển nhận thức của Đại học Princeton, đã bị kích động tính
tò mò khi đọc các phúc trình nói rằng một số vị cao tăng Phật giáo có thể
duy trì sự chú ý trong một thời gian dài. Ông nói : “ Kinh nghiệm của
chúng ta – và bằng chứng ở phòng thí nghiệm thì rất nhiều – cho biết rằng
con người có một khả năng chú ý giới hạn. Khi chúng ta cố gắng duy trì sự
chú ý trong những khoảng thời gian dài hơn, giống như các nhà điều khiển
không lưu cần phải làm, thì chúng ta xem điều đó là một nỗ lực phi thường
và hết sức căng thẳng. Phật giáo lại nói nhiều về khả năng điều khiển sự
chú ý một cách linh hoạt, và họ nói đến một sự tập trung chú ý đươc duy
trì lâu dài mà hành giả vẫn ở trong một trạng thái an lạc chứ không còn
căng thẳng nữa”.
Nếu không có gì thay đổi thì hội nghị ở Viện Kỹ thuật
Massachusetts (MIT) chứng tỏ rằng Giáo sư Davidson, một trong số những
người tổ chức hôị nghị, đã tìm cách thuyết phục được một số nhân vật danh
tiếng cùng tham gia với ông để khẳng định rằng nghiên cứu các phương pháp
hành Thiền là một công việc đáng kính nể về mặt khoa học. Các thành phần
tham dự gồm những nhà khoa học chính mạch như Eric Lauder, nhân vật lãnh
đạo của dự án Di Truyền Tử của Con Người; Cohen, một nhà nghiên cứu danh
tiếng về các cơ cấu thần kinh của những quyết định đạo đức và kinh tế; và
Daniel Kahneman, một nhà kinh tế đoạt giải Nobel ở Viện Đại học Princeton,
người đã đi tiền phong trong việc nghiên cứu tâm lý của những quyết định
tài chánh.
Giáo sư Cohen thú nhận: “Các nhà thần kinh học muốn duy
trì cả phẩm chất lẫn hình ảnh nghiêm túc trong phương pháp nghiên cứu, vì
thế họ không muốn thiên hạ thấy họ phóng vào một vùng đất mơ hồ của việc
nghiên cứu tâm thức. Mặc khác, riêng cá nhân tôi thì tin rằng lịch sử khoa
học đã hạ thấp giá trị của chúng ta khi làm cho chúng ta ngạo mạn nghĩ
rằng chúng ta đã biết tất cả mọi thứ”.
Cuộc “ thí nghiệm với các nhà sư” ở Madison đang bắt
đầu chen lẫn một số nghiên cứu nhỏ nhưng gợi ý chứng tỏ rằng Thiền định
Phật giáo có thể mang lại hiệu quả không những về mặt tình cảm mà còn có
những hiệu quả rõ ràng về mặt sinh lý nữa. Có nghĩa là, năng lực Thiền
định có thể được những người không theo Phật giáo vận dụng bằng một cách
nào đó để đồng thời với việc giảm căng thẳng và lắng dịu những tình cảm
tiêu cực, họ còn có thể cải thiện các chức năng miễn nhiễm nữa.
Sức mạnh tinh thần có ảnh hưởng trực tiếp đến chức năng
của cơ thể là điều mà các nhà khoa học đã quan tâm từ lâu, nhất là những
liên hệ giữa hệ thống não bộ, hệ miễn nhiễm và tuyến nội tiết. Chẳng hạn,
Janice Kiecolt-Glaser và Ronald Glaser, là hai nhà nghiên cứu ở Viện Đại
Học Ohio State University, đã thực hiện một loạt nghiên cứu chứng tỏ rằng
sự căng thẳng đã làm suy yếu chức năng miễn nhiễm, mặc dù bản chất đích
thực của những liên hệ đó vẫ còn chưa rõ ràng.
Thật là thú vị khi chính những đối tượng nghiên cứu là
các nhà sư Phật giáo lại rất cởi mở đối với việc giải thích khoa học về
những công phu tu tập của họ. “Phật giáo, cũng giống như khoa học, dựa
trên nền tảng kinh nghiệm và nghiên cứu thực nghiệm, chứ không phải trên
giáo điều”. Tháng qua, Tiến sĩ Ricard đã giải thích cho tôi như vậy. “Tôn
giáo này có thể được xem như là ‘một khoa học về Thiền định’ ”, ông viết
như vậy, và nói thêm: “Đức Phật luôn luôn nói rằng người ta không nên chấp
nhận giáo lý của ngài chỉ vì kính trọng ngài, nhưng phải khám phá lại sự
thật qua chính kinh nghiệm bản thân, cũng như khi chúng ta kiểm tra phẩm
chất của vàng bằng các chà xát nó trên một miếng đá hay nấu chảy nó… vv”.
Vào tháng 7, tôi (tác giả bài này) đã tham gia vào cuộc
nghiên cứu của Giáo sư Davidson và nhiều đồng nghiệp khác của ông khi
chúng tôi đứng trong phòng điều khiển để theo dõi diễn tiến của cuộc thí
nghiệm. Trên một màn hình vô tuyến trong phòng điều khiển, một thiếu nữ
ngồi trên một cái ghế ở một phòng kế bên, ngồi trầm tư một mình. Những ý
niệm ấy – và nói một cách chính xác hơn, cách cô ta cố gắng kiểm soát
chúng khi bị kích động – là trọng tâm của cuộc thí nghiệm.
Davidson đặt giả thuyết rằng một thành tố trong cơ cấu
tình cảm của con người phản ảnh một sức mạnh tương đối, hay là tính bất
tương xứng, trong hoạt động của hai vùng võ não phía trước đỉnh đầu – mà
cuộc nghiên cứu của Giáo sư Davidson đã lý luận rằng phía bên trái liên hệ
với tình cảm tích cực, và phía bên phải khi tăng cường hoạt động thì có
liên hệ với sự lo âu, trầm cảm và những biến đổi tâm tính bất thường khác.
Nhóm nghiên cứu của ông đã thực hiện những cuộc thí
nghiệm trên các ấu nhi và các vị cao niên, những thiền giả tài tử và các
vị cao tăng Đông phương, trong một nỗ lực xác định một mạch thần kinh phức
tạp nối liền võ não trước đỉnh đầu với các cấu trúc não bộ khác như hạch
amygdala, là nơi phát xuất sự sợ hãi, và hạch vòng đai cingulate phía
trước, được xem là có liên hệ đến việc “theo dõi xung đột”. Một vài cuộc
thí nghiệm cũng đã chứng tỏ rằng kích thích hoạt động ở thùy não trái phía
trước đỉnh đầu có liên hệ đến việc nâng cao hoạt động miễn nhiễm nhờ các
tế bào có khả năng tiêu diệt tự nhiên và các dấu hiệu miễn nhiễm khác.
Khi một khoa học gia trong phòng kiểm soát nói: “Được
rồi, đây là bức hình thứ nhất”, người thiếu nữ có vẻ rất căng thẳng, nắm
chặt khuỷu tay. Các điện cực bò ra khỏi da đầu và từ hai điểm ngay dưới
mắt trái của cô. Và rồi, nhìn chăm chú vào màn hình, người thiếu nữ ngắm
một loạt các hình ảnh rùng rợn đang chiếu trên màn ảnh trước mắt cô - một
thân thể con người bị cắt rất ghê rợn, một bàn tay bị chặt đứt, một con
rắn độc đang chuẩn bị tấn công. Qua ống nghe, cô gái được nhắc nhở để điều
chỉnh các phản ứng tình cảm khi mỗi hình ảnh xuất hiện, hoặc nâng cao hoặc
đè nén nó, trong lúc điện cực dưới mắt cô âm thầm đập nhẹ vào một mạch
thần kinh chứng tỏ rằng cô đã điều chỉnh thành công các phản ứng tình cảm
tích cực hoặc tiêu cực trước các hình ảnh đó”. Davidson giải thích rằng “
Cái đang được đo lường là khả năng của một người có thể tự ý điều chỉnh
phản ứng tình cảm của họ.”
Daren Jackson, trưởng nhóm nghiên cứu nói thêm: “Thiền
định có khả năng thúc đẩy việc loại trừ các phản ứng tiêu cực nhanh hơn và
tự nhiên hơn”.
Những vị sư được mời tham dự, cũng như một nhóm nhân
viên văn phòng có thực tập Thiền ở một công ty sinh học gần đó, đã được
cho nhìn những hình ảnh rùng rợn ấy với cùng một mục đích: để xác nhận cái
mà Davidson gọi là “ phong cách tình cảm”
( Ví dụ, nếu họ có khuynh hướng cứ bám chặt những phản
ứng tình cảm tiêu cực ) và tìm hiểu xem những phong cách ấy có thể điều
chỉnh nhờ những nỗ lực tinh thần theo kiểu Thiền định hay không. Chính
Giáo sư Davidson và các cộng tác viên của ông là Giáo sư Kabat-Zinn hy
vọng rằng uy lực của Thiền định có thể được trang bị để hỗ trợ không những
cho sự an vui về tình cảm mà còn về sức khỏe thể chất nữa.
Kể từ khi thành lập Trung Tâm Y Tế Giúp Giảm Thiểu Căng
Thẳng ở trường Y Khoa thuộc Viện Đại học Massachusetts vào năm 1979, Giáo
sư Kabat-Zinn và các đồng nghiệp đã chữa 16,000 bệnh nhân và dạy cho hơn
2,000 chuyên viên y tế về kỹ thuật “Thiền Tỉnh Thức”, theo đó họ giảng
dạy một phương pháp Phật giáo về sự tỉnh thức toàn diện trong phút giây
hiện tại “ mà không phê phán”, như một cách để giảm thiểu căng thẳng.
Trong thời gian đó, ông đã xuất bản những công trình nghiên cứu nhỏ nhưng
rất đáng chú ý, ông đã chứng minh rằng những người mắc bệnh vẩy cá có thực
tập Thiền đã lành bệnh nhanh gấp 4 lần những người không thực tập Thiền,
và các bệnh nhân ung thư có thực tập Thiền đã có những biểu hiện tình cảm
tốt hơn rất nhiều so với nhóm người không thực tập Thiền; và không những
Thiền đã giúp các bệnh nhân chấm dứt các triệu chứng của bệnh lo âu và đau
nhức mãn tính mà lại còn kéo dài những lợi lạc ấy đến 4 năm kể từ khi được
huấn luyện để hành Thiền. Giáo sư Kabat-Zinn đang thực hiện một công trình
nghiên cứu cho công ty Chăm Sóc Sức Khoẻ Cigna để xem thử có phải Thiền
giúp giảm bớt phí tổn chữa trị các bệnh nhân có hội chứng mệt mỏi kinh
niên, bệnh sưng khớp và hội chứng ruột già bất ổn.
Trong thời gian chờ đợi này, khoa học về Thiền định vẫn
còn mắc kẹt vào một địa hạt văn hóa đang còn trong vòng tranh chấp, giữa
một điều có vẻ như mâu thuẫn nghịch lý và một cái gì có vẻ rất có thực.
Davidson nói: “Chúng tôi đang ở trong giai đoạn đầu của cuộc nghiên cứu”,
và ông công nhận rằng “đại đa số các cuộc nghiên cứu về Thiền đều có phẩm
chất kém”. Nhưng một công trình nghiên cứu được hoạch định kỹ lưỡng do
Davidson, Kabat-Zinn và các đồng nghiệp của họ xuất bản vào tháng 7 sẽ
cung cấp thêm bằng chứng cho thấy đề tài nghiên cứu là hợp lý.
Vào tháng 7, 1997, Davidson đã tuyển mộ các đối tượng
nghiên cứu ở một công ty kỹ thuật sinh học bên ngoài Madison gọi là
Promega để nghiên cứu tác dụng của Thiền định Phật giáo trên các hoạt động
thần kinh và hệ miễn nhiễm của nhân viên văn phòng Mỹ bình thường. Não bộ
của các nhân viên này được gắn dây điện và đo trước khi họ bắt đầu một
khóa huấn luyện về Thiền do Kabat-Zinn giảng dạy. Đây là một công trình
nghiên cứu trong đó các đối tượng được chọn một cách tình cờ và được kiểm
soát kỹ, và sau 8 tuần, các nhà nghiên cứu đã trắc nghiệm lại não bộ và
các dấu hiệu miễn nhiễm để đánh giá tác dụng của Thiền.
Có vài nhân viên tỏ vẻ do dự không muốn tình nguyện
tham gia, nhưng cuối cùng khoảng 48 nhân viên đã tham dự cuộc nghiên cứu.
Mỗi tuần một lần trong vòng 8 tuần, Giáo sư Kabat-Zinn sẽ xuất hiện ở công
ty Promega với cái hộp có cán dài, các băng cassette nhạc Thiền màu đỏ và
tím, và cái chuông chùm kiểu Tây Tạng, và số nhân viên của công ty Promega
đã được tập họp lại - gồm có các nhà khoa học, nhân viên tiếp thị, nhân
viên kỹ thuật phòng thí nghiệm và cả những viên quản đốc nữa - họ sẽ ngồi
trên sàn nhà của phòng hội nghị và thực tập Thiền trong 3 giờ.
Vào tháng 7, kết quả cuộc thí nghiệm ở công ty Promega
đã được xuất bản trong tạp chí Y Học về Thân và Tâm, và các nhà
khoa học gợi ý rằng quả thật Thiền có thể để lại một dấu ấn rõ ràng và kéo
dài trên tâm thức và thân thể của hành giả. Trong số các nhân viên của
công ty Promega có thực tập Thiền trong 2 tháng, các nhà nghiên cứu ở Viện
Đại học Wisconsin đã tìm thấy sự gia tăng đáng kể các hoạt động trong
nhiều vùng của thùy não trái phía trước đỉnh đầu – các hoạt động gia tăng
này đã kéo dài ít nhất 4 tháng sau cuộc thí nghiệm, khi các đối tượng được
trắc nghiệm trở lại. Hơn nữa, những người có thuỳ não trái phía trước đỉnh
đầu gia tăng hoạt động nhiều nhất sau khi thực tập Thiền thì họ cũng
chứng tỏ có khả năng tạo ra các kháng thể mạnh mẽ hơn để chống trả vi
khuẩn khi họ được chích ngừa bệnh cúm. Giáo sư Kabat-Zinn gợi ý rằng, kết
quả cuộc nghiên cứu chứng tỏ những chuyển đổi chất lượng trong hoạt động
của não bộ chỉ sau 2 tháng hành Thiền đã phù hợp với những kết quả sơ khởi
được tìm thấy nơi các hành giả chuyên nghiệp như các vị sư Phật giáo.
Vào thời điểm thuận lợi nhất, những kết quả ấy vẫn còn
được đón nhận một cách thận trọng. Thật vậy, theo giáo sư Davidson, cuộc
nghiên cứu của Viện Đại học Wisconsin phải mất 5 năm mới được xuất bản
từng phần bởi vì nhiều nguyệt san danh tiếng đã từ chối ngay cả việc gửi
các kết quả nghiên cứu ấy cho các nhà chuyên môn thẩm định giá trị. Tuy
nhiên, vào lúc cuộc nghiên cứu chấm dứt, những kinh nghiệm chủ quan cuả
các tham dự viên đã bổ sung cho các dữ kiện khách quan: Thiền tập cuối
cùng đã giúp cho con người cảm thấy khỏe mạnh hơn, tích cực hơn và giảm
bớt căng thẳng. Michael Slater, một nhà sinh học phân tử ở công ty Promega
đã nói :“Quả thật tôi là một nhà khoa học thực nghiệm trong mọi lãnh vực
của đời tôi. Tôi nghi ngờ giáo điều, và tôi đã thử thực tập Thiền. Tôi đã
thực hành tại phòng thí nghiệm nhưng cũng tại nhà riêng. Và Thiền đã hấp
dẫn tôi bởi vì tôi có thể cảm nhận được sự hạ giảm căng thẳng trong tôi.
Tôi có thể nói là tôi bớt cau có gắt gỏng. Tôi có khả năng tiếp nhận nhiều
áp lực công việc hơn. Vợ tôi cũng cảm thấy tôi thoải mái hơn khi bà ấy đến
gần. Như vậy đã có những tác dụng rõ rệt. Đối với một nhà khoa học thực
nghiệm, như vậy là đủ”.
Cứ cho vậy là đúng đi, nhưng điều đó cũng chưa đủ đối
với nhiều người khác, nhất là những người đa nghi về khoa học. Nhưng
Slater đã buột miệng đưa ra một lời nhận xét mà tôi cho là một cách thẩm
định giá trị có tính thuyết phục rất cao, mặc dù hoàn toàn không chính
thức. Slater nói rất nhỏ nhẹ: “ Vợ tôi hết sức cầu mong cho tôi bắt đầu
hành Thiền trở lại”.
Sources: Australian Financial Review, 7
November 2003. Bài báo này xuất hiện
lần đầu tiên trên
tờ New York Times Magazine. Stephen S Hall là tác giả của cuốn Merchants
of Immortality: Chasing the Dreams of Human Life
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01- 11 -2004