Truyện Cổ Phật Giáo
Tập 2
Thích Minh Chiếu
Sưu tập
---o0o---
Nàng kỹ nữ Phệ Sa
^
Ở thành Ma Ðồ La, có nàng kỹ nữ sắc
đẹp tuyệt trần tên là Phệ Sa.
Nàng thường để ý đứa thị tỳ của
nàng, khi nào đi mua phấn sáp gì thì cứ đến nhà một người lái buôn trẻ
tuổi tên là Ưu Bà Cấp Da.
Một hôm nàng kêu hòi:
- Ngươi có tình ý với chàng làm sao,
mà mua gì cũng đến đấy cả?
Ðứa Thị tỳ thưa:
-
Chàng người phong nhã, tánh tình thuần hậu, lại là người chí thành theo
đạo Phật, mọi người đều kính mến.
Nàng Phệ Sa nghe nói liền sai thị tỳ
đến mời chàng đến chơi.
Chàng bảo về trả lời:
-
Bây giờ chưa phải lúc gặp tôi.
Nàng nghĩ sợ chàng hiểu lầm phải có
tiền, nên sai đến nói lại. Chàng cũng vẫn trả lời:
-
Bây giờ chưa phải lúc gặp tôi.
Cách ít lâu, nàng Phệ Sa muốn bán mình
cho một nhà buôn giàu bèn mưu giết người nhân nghĩa cũ. Việc tiết lộ, bị
vua Na Ðồ La truyền bắt, cắt tay, cắt mũi rồi đày ra ở ngoài bãi tha ma.
Chàng Ưu Bà Cấp Da biết đầu đuôi câu
chuyện nghĩ bụng rằng: Khi nàng còn đẹp đẽ sung sướng thì người tu đạo
không nên đến làm chi.
Nay nàng đã bị cụt tay, cụt chân, đau
đớn khổ sở, chính là lúc ta phải đến thăm nàng. Nghĩ xong chàng cùng người
hầu cận đi đến thăm. Ðứa thị tỳ nay vẫn không rời bỏ nàng, trông thấy
chàng đến, liền hốt hoảng vào tin. Nàng Phệ Sa vội lấy miếng vải khoác
trên thân, khóc lóc tủi thẹn mà nói rằng:
-
Thưa chàng, khi người thiếp
thơm đẹp như đóa sen báu thì chàng không đoái hoài đến. Nay thiếp thân tàn
ma dại như thế này, chàng còn đến làm gì cho tủi cực lòng thiếp.
Chàng đáp:
-
Trước kia tôi không đến vì tôi không có tà tâm, ngày nay nàng bị nạn, tôi
đến để thăm nàng và chỉ cho nàng rõ những thảm trạng của sự khoái lạc gây
ra ở trong đời. Rồi chàng đem đạo Phật nói cho nàng nghe, chỉ rõ nhân quả
tội phước, khuyến hóa an ủi nàng.
Nàng Phệ Sa tự biết tội lỗi của mình,
phát lòng sám
hối, tâm được an vui nhẹ nhàng.
Và từ đó, chí thành cải hóa
theo lời Phật dạy,
nàng luôn luôn làm điều lành, tránh
điều ác, mở rộng thân tâm, quên nỗi đau khổ của mình, nghĩ đến đau khổ của
người.
Minh
Châu
“Người say mê
sắc dục như cá nuốt lưỡi câu, như tằm kén tơ, như thiêu thân bay vào đèn,
tự dấn thân vào chỗ chết mà không hay biết.”
Vàng ngọc phải chăng là hạnh
phúc
^
Thời Phật tại thế, có
một vị Quốc vương tên là Ða Vị Tả kính thờ cả 69 dòng ngoại đạo. Bỗng một
ngày vua phát thiện tâm muốn bố thí rất nhiều, bao nhiêu của báu chất đấy
như núi, rao rằng hễ ai đến xin đều cho bốc đi một nắm.
Vì số người đến xin đã dài ngày mà núi báu vẫn
chưa suy suyển.
Ðức Phật biết Quốc vương có nhiều phước duyên về
trước có thể hóa độ, liền hóa làm một vị Phạm Chí đến thăm. Vua rất mừng
rỡ, làm lễ xong hỏi rằng:
- Ngài muốn cần dùng
gì xin cho tôi biết? Tôi vui lòng cúng dường.
Vị Phạm Chí đáp:
- Tôi từ xa đến đây,
cốt xin nhà vua ngọc báu để đổi lấy vật liệu làm nhà ở.
Vua đáp:
- Tôi rất vui
lòng xin Ngài bốc lấy một nắm.
Vị Phạm Chí bốc một nắm, đi bảy bước, trở lại
trả chỗ cũ.
Vua hỏi:
- Cớ sao Ngài không
lấy?
- Với số báu ấy thật
đủ làm nhà, nhưng khốn cho tôi về sau còn phải cưới vợ nữa, thì không đủ
dùng, nên tôi không lấy.
- Thôi, Ngài lấy thêm
ba nắm.
Vị Phạm Chí bốc ba nắm, đi bảy bước trở lại trả
chỗ cũ.
- Sao Ngài lại thế?
- Với số báu vật ấy
thật đủ cả cưới vợ, nhưng lấy gì sắm
ruộng đất, đầy tớ, trâu ngựa, tôi tính không đủ, nên thôi là hơn.
- Thôi, Ngài lấy thêm
bảy nắm.
Vị Phạm Chí lấy xong, đi bảy bước lại trở lại
trả chỗ cũ.
- Cớ gì Ngài vẫn chưa
vừa ý?
Nếu tôi có con cái phải lo cưới gả, sắm sửa, lại
còn việc nhà đám kỵ, giao tiếp thân bằng, tôi tính vẫn cứ thiếu, nên không
lấy.
- Tôi vui lòng cúng
tất cả, Ngài lấy về dùng cho đủ!
Vị Phạm Chí bước lên núi báu rồi trở xuống không
nhận.
Nhà vua rất quái lạ thưa rằng:
- Ý Ngài thế nào, tôi
thật không hiểu.
- Bản ý tôi đến xin
Ngài để mưu cầu sự sống. Xong tôi xét lại
mạng con ngưòi sống chẳng bao lâu, muôn vật cũng không thường sáng còn tối
mất, khó giữ lâu bền.
Dầu tôi được cả núi báu, vị tất đã lợi ích hoàn
toàn cho bản thân. Lo toan tham muốn bao nhiêu, luống công nhọc nhằn bấy
nhiêu, chẳng bằng dứt bỏ dục vọng, cầu đạo giải
thoát, rèn luyện các đức tính tốt cho bản thân, cho gia đình, cho xã hội,
đều hướng về mục đích từ bi, trí tuệ là hơn, nên tôi không lấy.
Khi đó nhà vua tỉnh ngộ, tâm ý sáng suốt cầu
được nghe pháp.
Vị Phạm Chí liền nói bài kệ rằng:
Tuy được núi vàng báu
Chất cao đến trời xanh.
Thế gian nhiều như thế
Chẳng bằng thấy nguồn đạo.
Ðời không lành tưởng lành,
Ưa mà thấy như ghét
Lấy khổ dùng làm vui,
Cuồng phi bị tai hại.
Nói bài kệ xong, Ngài đã hiện Phật
thân phóng hào quang sáng rực rỡ, vua và quần thần vui mừng hớn hở xin thọ
ngũ giới, chứng quả Tu Ðà Hoàn.
Viên
Minh
“Ðời người ngắn
ngủi lắm, thoáng qua lẹ làng như bóng chớp. Không ai sống mãi mà khỏi
chết, thì con người có trường thọ được đâu. Vậy nên ta diệt lòng tham lam
và bố thí cho kẻ nghèo. Sự giàu sang
phong phú không phải thuộc về ta mãi mà thường thường vì nó mà ta lụy
thân.”
Oanh Vũ cứu đàn
^
Ngày xưa, bên một sườn núi cao là cụm rừng
hoang, lá xanh bao phủ độ vài mươi mẫu đất, đấy là nơi trú ngụ của hàng
vạn gia đình hươu, nai và chim chóc.
Một buổi trưa hè, vạn vật như bị tê liệt dưới
sức nóng của những tia lửa mặt trời thiêu đốt. Chim thú uể oải gần như
chết ngạt trong bầu không khí nặng nề oi bức. Tiếp theo đó những ngọn lửa
hồng khe khắt bừng cháy từ góc rừng này qua góc rừng khác. Ngọn lửa độc
ác cứ lên cao, lan rộng, bao vây dồn lần thú rừng, chim chóc vào những cụm
rừng chưa kịp cháy…
Ảo não thay! Những tiếng kêu la thảm thiết,
tuyệt vọng vang động một góc trời…
Trước cảnh bi thương, nhìn thấy sự chết chóc đau
đớn của đồng loại, một chiếc chim bé nhỏ trong đoàn oanh vũ vụt bay qua
làn khói đen nghi ngút làm cho đàn ngạc nhiên và hoảng sợ.
Thì sau đó vài phút, cũng chiếc chim nhỏ bé ấy
trở về với một thân hình ướt đẫm, rồi đập mạnh đôi cánh và vung văng cho
nước tưới vào lửa.
Chiếc oanh vũ ấy bay đi bay lại nhiều lần như
thế. Với nắm thân bé nhỏ, với sức lực không bao nhiêu, oanh vũ mệt nhoài,
không bay được nữa. Nhưng một lát sau người ta thấy oanh vũ lại làm công
việc đã làm…
Cũng khi ấy đứng chợi trên đồi cao, một chủ trại
vô tình trông thấy nghĩa cử của oanh vũ vô cùng thương xót, đem tâm cảm
phục, bèn sai người nhà ra cứu lửa và kết quả ngọn lửa bạo tàn kia bị dập
tắt.
Khi lửa đã tàn, thú rừng chim chóc kêu nhau trở
về nơi quê hương tổ ấm sum họp trong cuộc sống an lành của gia đình thân
mến.
Chim Oanh Vũ ấy là tiền thân của Ðức Phật Thích
Ca.
Thiện
Châu
“Trước khi làm
phước tứ phương, hãy giúp đỡ cho ngay
người ở gần mình đi đã.”
Tinh Tấn
vì đạo hay là Tôn Giả Phú Lâu Na
^
Mùa Ðông đã tàn, khí trời dần dần ấm áp.
Dưới ánh sánh bình minh, muôn cánh hoa đang vươn
mình phô sắc. Trên cành, chim chóc đã rời
tổ cất tiếng hát trong trẻo, như để chào mừng ánh sáng đã trở về, hay để
tiễn chân nhà Ðạo sĩ sắp lên đường quên mình vì Ðạo.
Trong thành Ba La Nại ngôi Tịnh xá Trúc Lâm kiến
trúc trên một canh đồi rộng rãi, cây cối um tùm tĩnh mịch dần dần hiện rõ
trong đám sương mù.
Lúc bây giờ Ðức Thế Tôn đang an tọa trong Tịnh
xá Trúc Lâm, dùng đạo nhãn thấy dân chúng ở nước Rô Na Ba Răn Ta đang chịu
nhiều điều thống khổ dưới quyền thống trị của nhà cầm quyền Kê Hoa Ðà
người Bà La Môn giáo. Người ấy đã dùng bạo thế lực sẵn có trong tay, ép
buộc dân chúng phải tôn thờ Phạm Thiên và ngược đãi bắt bớ những người
chống đối lại.
Trước hành động bạo ác và bất công ấy, Ðức Thế
Tôn thương hại cho Kê Hoa Ðà là một nhà trí thức mà hiện tại không có
người hướng dẫn sáng suốt tương lai không tránh khỏi ác báo trong ba
đường.
Bấy giờ Ðức Thế Tôn thấy trong hàng đệ tử, chỉ
có Tôn giả Phú Lâu Na là người có thiện duyên với Kê Hoa Ðà và dân chúng
xứ ấy nên sai đến đó để giáo hóa.
Ðức Thế Tôn biết rằng:
Trên con đường truyền bá Chánh Pháp dắt người
trở về con đường tươi sáng của ánh đạo Từ bi, tôn giả Phú lâu Na sẽ gặp
nhiều trở ngại thử thách của đối thủ.
Biết vậy, nên Ðức Thế Tôn gọi Tôn giả Phú lâu Na
đến dạy rằng:
- Dân xứ ấy và
Kê Hoa Ðà độc ác lắm, ta sợ ngươi không đủ can
đảm để chịu đựng.
- Bạch Thế Tôn, con
nguyện đem hết năng lực để làm tròn sứ mạng.
- Nếu đến đó bị chửi
mắng, thì ngươi nghĩ sao?
- Con nghĩ:
Những lời chửi mắng kia cũng như những tặng phẩm
nếu họ đem đến tặng cho con, con không nhận, họ sẽ mang về, và con nghĩ
rằng: Những người ấy còn hiền từ lắm, vì
họ chỉ chửi mắng mà không nhận nước con.
- Nếu họ đem nhận
nước ngươi?
- Con nghĩ rằng:
Họ là những người tối dạ, và chỉ nhận nước mà không lấy đá ném vào đầu
con.
- Nếu họ dùng đá ném
vào đầu ngươi?
- Con nghĩ rằng:
Họ rất tốt vì chỉ lấy đá ném vào đầu mà không dùng gậy đập con.
- Nếu họ dùng
gậy đập ngươi:
- Con nghĩ rằng:
Họ rất hiền từ vì chỉ dùng gậy đập mà không giam cầm, ngăn cản bước đường
truyền đạo của con.
- Nếu họ giam cầm
ngươi?
- Con nghĩ rằng:
Những người ấy rất tử tế, vì họ giúp con có thời gian tịnh dưỡng tinh thần
để nung luyện thêm ý chí, mà không dùng gươm đâm chém con.
- Nếu họ lấy gươm đâm
chém ngươi?
- Con nghĩ rằng:
Họ rất tốt dạ, vì chỉ đâm chém mà không giết chết con.
- Nếu họ giết chết
ngươi?
- Bạch Thế Tôn, con
rất vui mừng, vì những người kia đã dùng tâm từ bi giúp cho con sớm thoát
khỏi tấm thân giả tạm đau khổ này, để chóng thành quả vị Vô Thượng Giác.
Ðức Thế Tôn dạy: Hay
thay! Hay thay! Phú Lâu Na ngươi đã có một ý chí mạnh mẽ. Ngươi đã biết
khinh thường thân mạng để phụng sự chân lý. Ngươi thật là một người đệ tử
trung kiên của ta, đáng thay ta đến xứ ấy truyền bá Chánh pháp hướng mọi
người trở về con đường sáng đầy an lạc và giải thoát.
Tôn giả Phú Lâu Na đảnh lễ, vâng lời Phật dạy
rồi từ giã lên đường sang xứ Rô Na Ba Răn Ta.
Thiện
Bình
“Chúng sanh cần
con đến
Ðạo pháp cần con đi
Không nề gian lao,
không từ khó nhọc,
Quyết tâm làm tròn nhiệm vụ của vị
NHƯ LAI SỨ GIẢ”
Công chúa Ly Cấu
^
- Em cài thêm hoa lên
mái tóc cho ta.
- Chà Công chúa đẹp
quá!
Hoa Nô thốt ra câu nói ấy trong khi nàng cúi
xuống cài đôi chim sẻ nạm toàn kim cương lên đôi cẩm hài của Công chúa.
Trước điện Quỳnh La 50 vị Phạm Chí đã túc trực
sẵn sàng, hai hàng Ngự lâm quân đứng nghiêm như
tượng, mấy chục nàng cung nữ xiêm y rực rỡ, tiếng lục lạc vàng dưới mấy
chục chân tròn trắng cùng tiếng xao xuyến chạm vào nhau hòa thành một điệu
nhạc lạ mà hay.
Tất cả đang chờ Công chúa. Bỗng tiếng vọi thổi
lên để dẹp đường, người ta đều đổ dồn đôi mắt
vào chính điện. Bức rèm nhung tơ màu hồng
lạt thêu đôi phụng hoàng bằng kim tuyến lay động. Công chúa, một con người
ngọc đài các bước ra.
Những ai đứng sau xa phải kiễng chân lên mới
nhìn rõ Công chúa để mà thì thầm khen ngợi cái sắc đẹp đoan trang lộng lẫy
của nàng, cũng như thầm phục đức khiêm tốn của con người đẹp khi đi ngang
qua hàng Ngự lâm quân người đã cúi đầu kính cẩn đáp lễ.
Ðây là một buổi lễ hành hương của Công chúa Ly
Cấu con vua Ưu Ðiền.
Cũng giờ phút ấy, trong ngày hôm ấy, ở Tịnh xá
Trúc Lâm các vị đại đệ tử của Ðức Thế Tôn sau thời thanh đán xả thuyền
định rồi. Các Ngài phân phó nhau đi khất thực theo lệ thường.
Trước khi ra đi, Trưởng lão Xá Lợi Phất bắt đầu
chú nguyện: Tôi nguyện cho tất cả chúng sanh đều thâm hiểu pháp tứ đế, y
theo tu hành và thành tựu quả vô sanh, Ðại đức Mục Kiền Liên:
Tôi nguyện tất cả chúng sanh đều tránh khỏi sự
ma chướng, phát tâm bồ đề cầu đạo vô thượng,
Tôn giả Ðại Ca Diếp: Tôi nguyện cho tất cả chúng
sanh đều phát thiện tâm, tu hành giải thoát hưởng phước vô lượng, thành
tựu đạo quả, Thánh giả Tu Bồ Ðề: Tôi nguyện cho tất cả chúng sanh thâm hiểu
vạn pháp như huyễn trừ sạch tâm chấp trước, cầu chứng quả Niết bàn, Tôn
giả A Nan: Tôi nguyện cho tất cả chúng sanh bỏ dữ làm lành, đầy đủ phước
đức hiện sống tâm hồn ly dục, khi thác được sanh về các cõi an vui…
cho đến Ngài A Nan Luật Ðà, ngài Phú Lâu Na, La
Hầu La… mỗi Ngài đều có chú nguyện cho
chúng sanh trước khi ra đi.
Xe giá Công chúa vừa ra khỏi cửa thành phía Bắc
thình lình nghe tiếng hô lớn: “Dừng xe”, bọn Phạm Chí và tất cả tùy tùng
đều kinh ngạc, có một vị Trưởng lão trong bọn Phạm Chí ra thưa: “Tôi thấy
xa xa ở bên cửa phía đông có một đoàn đệ tử của Cù Ðàm (chỉ Ðức Phật)
đương hướng về ngã này, nếu chúng ta gặp những người ấy chắc là có việc
không hay xin công chúa hãy truyền cho lui xe về ngã khác”. Nghe tâu, Công
chúa để ý ngó xa quả thấy những vị tu hành ấy khoan thai trong chiếc áp
vàng, đĩnh đạc và giải thoát làm sao, lòng nàng
bỗng nhiên kính mến lạ: Sự thông cảm đến với Công chúa một cách đột ngột,
nên chẳng những nàng không cho lui xe mà còn truyền xe giá ngừng hẳn lại,
rồi Công chúa xuống kiệu để chờ đón đoàn người đức hạnh kia.
Bọn Phạm Chí và tất cả tùy tùng như bộ máy bị
phanh, không một lời thưa lại.
Ðoàn người ly dục đương từ từ đi đến, bước đi
thong thả nhẹ nhàng trong im lặng, phải chăng ý niệm của người đương mải
chú nguyện cho chúng sinh và cử chỉ oai nghi ấy còn ham lo ái hộ loài sâu
kiến.
Ðầu đoàn là Trưởng lão Xá Lợi Phất vừa đến nơi
thì Công chúa quỳ sụp xuống cúi đầu đảnh lễ, tất cả bọn tùy tùng bất giác
cũng sụp xuống quỳ theo.
Ðoàn người cao khiết ấy, cứ im lặng đi qua, cho
đến khi Công chúa ngẩng lên và nhìn theo chỉ còn thấy những tà áo vàng bay
nhè nhẹ.
- Ủa, Công chúa hành
hương ở miếu Kỳ Bà sao mãi đến bây giờ vẫn chưa về?
Trẫm phiền khanh truyền người xuống điện Quỳnh
La xem thử.
Buổi hành hương của Công chúa bị về trễ, vua Ưu
Ðiền ở nhà lo ngại.
Từ khi Hoàng hậu Băng Sa thăng hà, để lại cho
nhà vua một nỗi nhớ nhung vô hạn và một người con gái yêu quý vô cùng. Vua
cha đã cô đọng tình thương con cả cha lẫn mẹ, thêm vào đó những đức hạnh
cao quý của Công chúa, nên đức Vua để ý lo cho con từng cử chỉ.
Ngoài cái việc làm người con hiếu,
Công chúa còn giúp vua cha nhiều ý kiến lành
mạnh để trị nước an dân, nhờ vậy mà các nịnh thần tham quan ô lại không
mọc lên, nên nhà vua tận hưởng thái bình, mà dân chúng thời ấy thật đã
sống đúng nghĩa an cư lạc nghiệp. Vì thế
nhà vua đối với Công chúa chẳng những yêu quý mà còn kính nể như một ngườ
bạn vậy.
Nhà vua đã ngoài 60 tuổi, không có con trai,
Ngài vẫn canh cánh bên lòng ước ao được người rể quý để ký thác non sông
lúc tuổi già. Nhưng Công chúa không bao giờ nghĩ
đến chuyện trăm năm, nên mặc dù đã 19 tuổi mà vua cha cũng không dám đá
động đến lương duyên của con.
Sau buổi lễ hành hương hôm ấy, Công chúa trở về
thâm cung chí xuất gia bỗng manh nha trong lòng người đẹp.
Thời ấy có bà Ðại Ái Ðạo là Ma Ha Ba Xà Ba Ðề,
Di Mẫu của Ðức Thế Tôn đã xuất gia lãnh đạo một đoàn thể Ni Lưu (phái nữ
tu sĩ) hiện an trú tại Kiều Ðàm Tịnh Xá.
Công chúa xin phép vua cha được thường thường
đến hỏi đạo với Ngài.
Một hôm Công chúa đem ý nguyện cầu xuất gia thưa
với Di Mẫu nhưng Công chúa đã thất vọng, vì theo qui luật nhà Phật thì
phải có sự thỏa thuận của gia đình, việc ấy Công chúa chắc chắn không bao
giờ được vua cha cho phép.
Chí cầu giải thoát, lòng thương cha già đương
phân tranh, thì Di mẫu đã tìm cho nàng một giải pháp vẹn toàn là có thể
thực hiện hạnh xuất gia của bực Thượng Nhân (nghĩa là thân gia, tâm cầu
xuất gia tam giới).
Vâng lời Di Mẫu, Công chúa như phăng được mối tơ
lòng, nàng liền thực hành theo hạnh Bồ Tát tại gia.
Công chúa ngày nay không còn trang điểm như
xưa, nàng ăn mặc thô sơ theo lối tu hành. Ðồng
thời nàng đã tìm nhiều phương tiện đưa vua đến yết kiến Ðức Thế Tôn, nhờ
vậy mà vua Ưu Ðiền cũng trở thành một Phật tử chân chánh và tận lực phục
vụ đạo. Vả chăng cao hạnh của người ai lại phủ nhận?
Vì vậy, cung điện Quỳnh La nay đã biến thành
một tịnh thất trang nghiêm thuyền vị, mỗi tháng cứ đến ngày trai Công chúa
lại thỉnh Di Mẫu vào cung truyền giới “Bát quan trai” và dĩ nhiên tất cả
cung nữ đều thừa nhận theo tu tập thuần thành.
Mấy kho châu báu là tư sản của vua cha cho để
chờ ngày xuất giá, Công chúa đã đem ra bố thí cho dân nghèo. Nàng tâu vua
cha mở mang nền kinh tế, dạy dân nghề nghiệp thiện, Công chúa đứng lên mở
các trường huấn luyện đạo đức cho phái phụ nữ, nhất là người khéo áp dụng
Phật pháp vào lối sống của dân chúng. Công chúa
chủ trương các viện dưỡng lão, tế bần và lập một bệnh viện mà nàng phát
nguyện tự thân săn sóc bệnh nhân.
Công chúa Ly Cấu là người đầu tiên tham gia công
việc xã hội ở nước Ấn Ðộ thời ấy vậy.
Nàng vui với đạo say với việc làm:
Năm năm qua đều đều như thế. Một hôm, người ta
khệ nệ khiêng đến một bệnh nhân bệnh tình trầm trọng, người bệnh phung lác
lở cùng cả mình, một chứng bệnh khốc liệt đã ăn cụt mười ngón tay chân,
còn chảy nước cùng mình, mặt mày lở loét trông rất dễ sợ.
Bệnh nhân rên la thảm thiết, mới thoạt trông
thấy con người đáng thương kia. Công chúa phải rung mình nghĩ đến khi tay
mình đụng nhằm để tắm rửa săn sóc. Nhưng lòng từ bi cứu khổ đã thắng, đôi
bàn tay tròn thuôn thuôn như ngọc chuốt từ từ khoát nước nhẹ nhẹ rửa cho
bệnh nhân, tay Công chúa lầy lụa nước ghẻ, bệnh nhân thì giẫy giụa quằn
quại nàng phải ôm đỡ bệnh nhân và không nhẫn tâm được, Công
chúa đã tràn đầy đôi mắt lệ, nàng phải nhắm lại để rơi hai giọt nước mắt
từ bi.
Nhưng khi mở mắt, thì lạ thay bệnh nhân đâu mất
mà trước mắt nàng ánh sáng chói lòa Ðức Như Lai uy nghi đứng như pho tượng
độc tôn. Công chúa sung sướng quá nàng sụp xuống
đảnh lễ Phật. Tất cả nhân dân trong bệnh
viện lúc bấy giờ tâm hồn nhẹ nhàng, bao bệnh nhân đều thoát khỏi bệnh khổ.
Ðức Như Lai tán thán công hạnh của Công chúa và
thuyết lý “Tứ Diệu Ðế” cha nàng nghe, Công chúa
liền chứng quả Tu Ðà Hoàn và tất cả chúng hội nghe pháp đều chứng được ly
dục.
Thể
Quán
“Dẫu
xây chín đợt phù đồ,
Không bằng làm phúc cứu cho một
người”
- o0o -
Tập 01 |
Tập 02 | Tập
03 | Tập 04
- o0o -
| Mục lục Tác giả || Tủ
Sách Phật Học |
---o0o---
Vi tính: Tịnh
Hương, Tịnh Tâm
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật : 01-09-2002