Thoát
Vòng Tục Lụy
Nguyên tác Đại
Sư Tinh Vân
Việt dịch HT
Thích Quảng Độ
---o0o---
Chương
Một
Hôm ấy trong chùa
Sùng Ân các sư đang rộn rịp chuẩn bị để đón tiếp
một đại thí chủ, đó là Vương tiểu thư, con quan Tể Tướng
của đương triều sắp đến lễ Phật.
Khắp nơi trong
chùa đều được quét dọn sạch sẽ, duy có trên chính điện
thì trái lại vị hương đăng trẻ tuổi Ngọc Lâm, có
tiếng là chăm chỉ, hôm ấy lại để cho bề bộn, không
chịu dọn dẹp.
Thường ngày,
trên chính điện đèn nến lúc nào cũng sáng trưng, nhưng hôm
nay tại sao Ngọc Lâm lại tắt sớm? Trong lư trầm suốt ngày
nghi ngút, mà hôm nay thì không một làn khói quyện; chiếu
ngồi để lung tung và tàn hương, bụi bậm từ hôm qua vẫn
còn y nguyên không hề bao sái.
Thầy Duy Na (1)
đi quan sát một lượt, thấy trên chính điện bừa bãi như
thế, mới gọi sư bác hương đăng
Ngọc Lâm bảo dọn dẹp thì Ngọc Lâm chỉ ậm ừ, rồi
bỏ đấy. Ai cũng biết Ngọc Lâm là người đệ tử thứ
hai của Hoà Thượng Thiên Ẩn, trụ trì chùa Sùng Ân. Vì còn
ít tuổi nên Ngọc Lâm có
tính hiếu thắng ngạo nghễ, nhưng vì sợ Hoà Thượng trụ
trì nên thầy Duy Na cũng làm ngơ không nói.
Mọi người đều
hiểu cá tính của Ngọc Lâm, chàng an phận thủ thường,
gặp ai cũng niềm nở, duy đối với người quyền thế thì
không bao giờ chàng chịu cúi đầu; chàng còn coi thường
cả những ai khúm núm trước quyền thế. Chàng cũng biết là
hôm nay Vương tiểu thư sắp đến chùa, trong chùa đang rộn
ràng sửa soạn để nghinh tiếp, chính lúc mọi người
nhộn nhịp như vậy, thì Ngọc Lâm lại tỏ ra lãnh đạm
với việc đó. Song Ngọc Lâm cũng là người rất biết điều,
sau hai lần khuyên bảo của thầy Duy Na, chàng tự nghĩ bất
luận người nào đến chùa lễ, chàng cũng phải làm tròn
bổn phận của mình, vì công việc của Ngọc Lâm là bao sái,
quét dọn trên chính điện.
Chính lúc Ngọc
Lâm đang cầm chổi quét chùa thì trước mặt chàng một
giọng nói lanh lảnh vọng lên:
_ Hôm nay Thiên
Kim tiểu thư sắp lên dâng hương, tại sao bác không lo
quét dọn Phật điện cho sớm?
Đó là giọng nói
của Thúy Hồng, người tỳ nữ của Vương tiểu thư trong Tướng
phủ đến báo trước.
Ngọc Lâm
ngẩng đầu nhìn qua rồi lại lẳng lặng đưa ngọn chổi,
không nói nửa lời.
_ Thiên Kim
tiểu thư sắp đến nơi rồi! Bác quét mau lên!
Đứa thị tỳ
thấy Ngọc Lâm vẫn cứ đàng hoàng, không tỏ vẻ vội vàng,
nó thúc dục.
_Thiên Kim
tiểu thư của cô đã vào cái thá gì! Cô có biết tôi
đây là một vị Vạn Kim Hoà Thượng không?
Câu nói của
Ngọc Lâm làm cho Thúy Hồng phát tức, hơn nữa, cũng vì câu
nói đó mà cuộc đời tu hành của Ngọc Lâm gặp cơn giông
tố bão bùng.
_Hòa Thượng!
Bác cả gan thế kia à? Bác dám khinh thường tiểu thư
con Vương Tể Tướng? Tôi hãy mách
tiểu thư để xem Bác có mấy đầu?
_Úi cha! Cô có
thể đem quyền thế dọa nạt người khác chứ không
dọa nạt được tôi đâu. Thiên Kim tiểu thư nhà cô có
khác gì cô? Nàng thường dựa vào thế lực của cha, cũng
như cô dựa vào thế lực của nàng, để bắt nạt thiên
hạ.
_ Bác không
muốn sống nữa hả?
Đôi mắt Thúy
Hồng tròn xoe, nàng lại dùng lời hống hách hơn để uy
hiếp Ngọc Lâm.
_Sao không
muốn sống? Tôi không làm gì phạm pháp, ai dám bắt tôi
chết? Các người muốn đến chùa thì cứ đến, việc gì
phải báo trước? Còn quét chùa hay không là việc của Hòa
Thượng, can gì đến các người mà đến đây sai khiến!
_Song người
sắp đến lễ hôm nay là Thiên Kim tiểu thư, bởi thế tôi
có thể sai khiến bác?
_Người hiện
đang cầm chổi quét chùa đây là một Vạn Kim Hòa thượng,
bởi thế yêu cầu cô thu hồi mệnh lệnh đó về!
Ngọc Lâm vẫn
thản nhiên đưa ngọn chổi, Thúy Hồng tức ứ cổ không nói
thêm được một câu gì, lập tức trở về Tướng phủ, đem
chuyện thuật lại cho Vương tiểu thư.
Dọc đường nàng
càng nghĩ càng bực, chân nàng bước dồn; nàng nhớ lại
từ khi nàng vào Tướng phủ hầu hạ tiểu thư, nhờ được
tiểu thư coi như người thân tín, nên đến đâu ai cũng
phải kính nể, không ai dám trái lời, cãi lại, thế mà hôm
nay gặp phải ông sư dám khinh thường đến tiểu thư của
mình, nếu không nói cho tiểu thư biết, thì sau này ông ta còn
coi thiên hạ vào đâu. Nàng vừa đi vừa nghĩ lan man, mãi quá
nửa giờ sau mới về tới dinh Tể tướng, chính lúc đó thì
Vương tiểu thư đang sắp lên chùa.
- Thưa cô! - Thúy
Hồng vừa đi bên cạnh vừa nói - Ở chùa Sùng Ân có
một ông sư vô lễ quá ạ.
- Con quái, cô
cấm mày không đuợc nói xấu các sư!
Vương tiểu thư
tỏ một phong độ khuê môn đài các.
- Ông sư giữ
việc đèn hương trên điện Phật nói là cô cậy quyền
thế Tướng quốc...
- Ông ấy nói
sao thì nói, để ý làm gì?
- Con bảo Thiên
Kim của tôi sắp đến dâng hương, song ông ấy nói....
Thúy Hồng ngừng
một lát rồi nói tiếp:
- Nhưng con
chả dám nói với cô!
Vương tiểu thư tò
mò:
- Ông ấy nói
sao?
Thúy Hồng hờn mát
cong cớn:
- Thôi, con
chả dám nói nữa!
- Cứ nói đi,
cô không làm gì đâu mà sợ!
- Ông ấy bảo
ông là Vạn Kim Hòa thượng! Mười Thiên Kim tiểu thư
mới bằng một mình ông ấy kia!
-Thế hả, ông
ta dám nói thế kia à? - Vương tiểu thư cũng nghi ngờ -
Thúy Hồng! Lát nữa đến chùa con thử chỉ cho cô xem
mặt mũi ông sư đó ra sao nhé.
Thúy Hồng thấy
tiểu thư cũng phải tò mò vì câu nói của nó, nó khoái chí,
cười thầm, rồi im lặng theo sau xe.
Sau khi Vương
tiểu thư và Thúy Hồng lễ Phật xong, thầy tri khách (2)
mời họ xuống phòng khách uống trà.
- Thôi! - Tiểu
thư đáp - Điện Phật trang nghiêm thanh tịnh lắm, cho chúng
tôi đứng đây chiêm ngưỡng một lúc.
Theo thói quen trước
kia, mỗi lần Vương tiểu thư đến chùa, sau khi lễ Phật
xong, đều đi xem các nơi, hoặc xuống nhà khách uống trà.
Song hôm nay tại sao tiểu thư cứ ở ỳ trên Phật điện?
Ngoài Thúy Hồng là người duy nhất hiểu chuyện ra, còn không
ai biết hoặc chú ý đến việc ấy cả.
Vương
tiểu thư
tự nghĩ: "Xem vị sư đại ngôn ấy hình thù thế nào mà
dám tự xưng là Vạn Kim Hòa thượng, nếu là một vị sư lôi
thôi, lếch thếch thì phải thưa với Hòa thượng trụ trì
răn bảo vị ấy mới được!"
Thúy Hồng trong
tâm cũng tính toán: "Vương tướng quốc, phu nhân và
tiểu thư đều sùng tín đạo Phật, họ thường đến chùa
lễ bái, mà mỗi khi họ đến là mình phải đi báo tin trước,
nếu các sư ở chùa này khinh thường lời nói của mình, thì
trong tướng phủ còn uy phong gì nữa? Giết gà để dọa
khỉ, hôm nay phải xin tiểu thư cho cái ông đại ngôn ấy
một bài học để làm gương cho các sư khác, phòng sau này
mình đi lại trong chùa không còn ai dám ho he nữa!"
Thời gian mỗi
phút mỗi qua, Vương tiểu thư cố đợi chờ, song vẫn không
thấy bóng dáng Ngọc Lâm xuất hiện.
Vương tiểu thư
gọi Thúy Hồng đến bên:
- Tại sao không
thấy vị sư ấy đâu?
-Con cũng không
biết sao lúc này lại không thấy cái ông quỷ ấy!
- Vậy ông ta làm
chức gì ở trong chùa?
-Ông giữ
chức đèn hương trên Phật điện!
- Sao con biết?
-Con thấy ông
ta bao sái bụi bậm trên Phật điện.
Nghe xong, Vương
tiểu thư bèn nghĩ ra một kế, liền quay về phía thầy tri
khách, nói:
- Bạch thầy!
Chúng tôi xin về đây!
- Mời tiểu thư
ở lại dùng bữa cơm chay đã.
- Xin cảm ơn
thầy, má tôi dặn phải về ngay.
Vương tiểu thư
vừa nói vừa đưa ra một gói to hương và nến:
- Bạch thầy,
nhờ thầy kêu hộ sư bác hương đăng, đưa cho bác gói
hương nến này nhờ bác hàng ngày thắp cúng Phật, vì
chúng tôi không hay đến lễ luôn được.
- Vâng! Thầy
tri khách đáp.
Vương tiểu thư
bảo Thúy Hồng dở hết hương nến để lên mặt bàn.
- Ngọc Lâm,
Ngọc Lâm à! Tiếng thầy tri khách vang lên.
Tiếng gọi của
thầy tri khách xé tan sự trầm tĩnh trong Phật điện, song
không thấy ai đáp cả; trái lại chỉ thấy phản ứng trong
lòng Vương tiểu thư: nàng đã biết tên vị sư mà nàng
muốn nhìn mặt đó là Ngọc Lâm.
- Ngọc Lâm à,
Ngọc Lâm! Thầy tri khách lại cất tiếng gọi oang oang.
Ngọc Lâm từ
trong một căn phòng nhỏ đằng chái chùa sau Phật điện đi
ra đường hoàng, bệ vệ. Thầy tri khách thấy Ngọc Lâm
lại dục:
- Mau lên! Vương
tiểu thư có việc nhờ bác đây!
Thúy Hồng trông
thấy liền chỉ vào Ngọc Lâm và ghé sát tai Vương tiểu thư
khẽ nói:
- Đó, chính ông
sư ấy đó!
Vương tiểu thư
đưa mắt nhìn và vô cùng kinh ngạc. Thật vậy, thái độ
của Ngọc Lâm tuy đường bệ đĩnh đạc song không thể che
giấu nổi đôi mắt thông minh anh tuấn, bộ diện phương
phi, làn da trắng mịn và một vẻ đẹp trang nghiêm. Cuối cùng
Vương tiểu thư không quên mình là người con nhà khuê môn,
đài các, nên nàng khắc phục được tình cảm ngay và
chắp tay chào Ngọc Lâm, cố tỏ ra như không có gì khác thường.
- Bạch bác,
mỗi ngày trên Phật điện thắp hết bao nhiêu nến?
Vương tiểu thư
đăm đăm nhìn Ngọc Lâm.
- Hết ba ký -
Ngọc Lâm khẽ trả lời.
- Thế còn hương?
- Thắp hết
lại thắp, không có tính. Ngọc Lâm nói nhát gừng.
- Trong chùa có
tất cả bao nhiêu các sư?
- Cô hỏi
thầy tri khách, tôi không biết. Ngọc Lâm vừa nói vừa
chỉ vào thầy tri khách đang đứng bên cạnh.
- Có bốn trăm
hai mươi tám vị! Thầy tri khách đáp như đã thuộc lòng.
- Pho tượng chính
giữa kia có phải là tượng đức giáo chủ Thích Ca không?
Vương tiểu thư
vẫn cứ hỏi Ngọc Lâm.
- Bạch thầy
tri khách ạ! Ngọc Lâm lại nhờ thầy tri khách đáp hộ.
- Thưa phải,
đó là tượng đức Phật Thích Ca Mâu Ni! Thầy tri khách
đưa tay chỉ vào pho tượng.
Vương tiểu thư
thấy hỏi mãi không tiện, liền trao hương nến cho Ngọc Lâm
rồi cáo từ. Thúy Hồng thấy tiểu sắp ra về, nó đưa
mắt nhìn tiểu thư song nàng chỉ mỉm cười và giả vờ như
không biết. Thầy tri khách có mời tiểu thư lưu lại dùng
cơm một lần nữa, nhưng nàng nhất định về nên thầy
tiễn chân nàng ra khỏi cổng chùa.
Trên đường
về, mặc dầu cô Thúy Hồng theo bên cạnh xe, song Vương
tiểu thư không nói một câu gì. Cõi lòng nàng hoàn toàn đã
bị hình ảnh của một người nào ngự trị. Thúy Hồng oán
ngầm Vương tiểu thư sao không khiển trách Ngọc Lâm để nàng
cũng có cơ hội phụ họa để trả thù.
Thúy Hồng bưng
vào một tách trà:
- Thưa cô, cô
có vẻ mệt lắm.
- Cô cũng cảm
thấy thế!
- Vậy cô cần
phải nghỉ ngơi thật nhiều!
Vương tiểu thư
im lặng nhìn Thúy Hồng.
- Đáng hận là
trên thế giới này lại còn có một vị Vạn Kim hòa thượng
khiến cho vẻ xán lạn của Thiên Kim tiểu thư giảm
bớt!
Thúy Hồng như
tự nói với mình, nhưng chủ ý để khiêu khích Vương
tiểu thư.
- Tại sao người
ta lại không có quyền tự xưng là Vạn Kim Hòa thượng?
Bỗng nhiên Vương
tiểu thư trở mình ngồi dậy.
Vẻ ưu tú của
Ngọc Lâm, phong độ văn nhã và trầm mặc của người tu hành,
đã in sâu vào tâm trí Thiên Kim tiểu thư.
- Dĩ nhiên là
không thể được, cô bất quá cũng chỉ xưng là Thiên
Kim, có đâu một vị sư mà dám nhận là Vạn Kim?
Thúy Hồng là người
hầu gái của tiểu thư, ngoài Vương tể tướng và Vương
phu nhân ra, nàng chỉ còn biết có tiểu thư.
- Con nói đúng,
giả sử là vị sư khác thì không thể tự nhận như
thế được, song vị sư hương đăng mà chúng ta thấy
ở chùa Sùng Ân chỉ xưng là Vạn Kim hòa thượng chứ
dẫu có xưng là ức kim hò thượng cũng xứng đáng!
- Vị sư ấy
coi người có vẻ thanh tú nhưng tính tình quá kiêu
ngạo.
Lúc nầy Thúy
Hồng cũng đã hiểu được một phần nào tâm tư của Vương
tiểu thư, song nó vẫn hoàn toàn không nhận cử chỉ của nó
lúc mới đến chùa là vô lý.
- Con quái, mày
muốn các sư cũng phải khúm núm đối với mày hả?
- Dạ! Dạ! Thưa
Thiên Kim tiểu thư, con không dám nói nữa ạ!
Làm tôi tớ điều
cần nhất là phải hiểu ý của chủ nhà, sau khi Thúy Hồng
thấy được tâm tư của Vương tiểu thư, nó liền đổi
giọng nói:
- Đúng thế,
phong tư của vị sư ấy không phải tầm thường, nhất
định phải là người học rộng.
Cô thấy dáng người
thanh tú và thái độ văn nhã của ông liền cho ông là một
vị hòa thượng đáng giá vạn cân vàng!
Vương
tiểu thư
nằm xuống nở một nụ cười đắc ý rồi úp mặt xuống
giường.
Nàng là một người
con gái quí tộc, khuê các trong một xã hội cổ thời,
sống theo một nền luân lý nghiêm khắc và dưới một chế
độ "nam nữ thụ thụ bất thân" nên khi được
gặp Ngọc Lâm thì tình yêu cũng bắt đầu nẩy nở trong lòng
nàng. Song phong tục, lễ giáo và chế độ xã hội không cho
phép nàng được gần gũi người yêu như con gái thời nay,
nên Vương tiểu thư đành phải ôm mối tình thầm lặng,
một mình vò võ sống trong một thế giới ước mơ và tưởng
nhớ.
Từ đó trở đi
mỗi ngày nàng mỗi kém ăn kém ngủ, thân thể càng ngày càng
ốm gầy nàng đã mắc bệnh tương tư.
Trên giường
bệnh nàng luôn luôn mê mộng, có khi trong giấc chiêm bao, nàng
hoảng hốt nhớ lại quãng đời tiền kiếp của nàng và
Ngọc Lâm cách hai mươi năm về trước.
Cước Chú:
(1) Người có trách
nhiệm trông coi công việc của tăng chúng trong chùa, tương
đương một người giám thị trong một học đường.
(2)
Người có nhiệm vụ tiếp khách trong chùa.
Chương Hai
Đây là mẩu đời tiền
kiếp, cách hai mươi hoặc ba mươi năm về trước.Bấy giờ Ngọc Lâm cũng đi tu
và làm chức thư ký tại một cảnh chùa nọ. Vương tiểu thư lúc đó là con gái
của một nhà hào phú, cả gia đình nàng đều là tín đồ thuần thành của Phật
giáo.Cha nàng không may mất sớm. Mẹ nàng lên chùa xin tụng kinh lễ bái
trong bảy ngày để cầu nguyện cho vong hồn người quá cố được siêu sinh tịnh
độ. Nàng cũng theo mẹ nàng lên chùa. Khi đến cửa chùa nàng thấy hai con sư
tử bằng đá đứng một cách uy nghiêm, hùng vĩ; tiến vào trong, nàng thấy
trên tường hai tấm bảng trà và thang dán hai bên đầu hồi chùa.
- Má ạ, chữ viết trên hai tấm
bảng kia đẹp quá!
Nàng là người con gái yêu văn thơ; nàng đã được
cha nàng dạy làm thơ và chữ nàng viết rất tốt. Hôm nay tình cờ được thấy
nét chữ trên những tấm bảng ấy, bất giác nàng cảm thấy mê say.
- Chữ con viết cũng đẹp vậy Mẹ nàng âu yếm nói.
- Hư.... chữ của con đâu có được thế, thưa má
Nàng vừa nói vừa đưa tay chỉ lên những tấm bảng cho mẹ nàng coi.
- Thế từ hôm nay về con cố rán luyện tập thêm Mẹ
nàng nói.
- Con in lấy mấy chữ trên bảng về làm mẫu để tập
viết theo.
- Khỏi phải mất công! Mẹ nàng nói Để mẹ bạch hòa
thượng trụ trì xem sư ông nào viết chữ tốt như thế thì xin vị ấy viết cho
con cái phóng rồi đưa về mà tập.
- Dạ, phải đấy má ạ Nàng sung sướng nắm lấy tay
mẹ nàng Má thương con quá!
Hòa thượng trụ trì sai sư ông thư ký viết một
trang phóng đúng như chữ trên tấm bảng trà, thang, rồi sáng hôm sau ngài
đưa cho mẹ nàng.Chữ phóng giống hệt như lối chữ trên bảng, nàng được tờ
giấy chữ phóng như được một vậy báu; nàng chỉ cho mẹ nàng từng nét rồi
khen lấy khen để! Thật là thần bút! Mẹ nàng tuyệt không hiểu thế nào là
chữ tốt, chữ xấu, song thấy con tán tụng, bà cũng cứ gật đầu lia lịa để
chiều ý con.Nàng vân vê tờ giấy phóng, càng nhìn càng thấy đẹp, rồi từ chỗ
say mê nét bút nàng bắt đầu tưởng nhớ đến người đã viết nên những chữ đó.
Lúc đầu nàng tự nghĩ vẩn vơ: "Vị sư viết những
chữ này nhất định phải là một người có tài, và sợ có lẽ cũng đã bốn, năm
mươi tuổi, nếu không sao lại viết những nét già dặn như thế này. Mình đã
được thấy nét bút, nếu không được biết hình dáng người ấy ra sao thì thật
uổng lắm. Song mình là một người con gái, làm sao tiện ngỏ ý muốn gặp vị
sư ấy?" Lòng nàng cứ băn khoăn, thắc mắc về vấn đề đó đã hai ngày rồi,
cuối cùng nàng nghĩ ra một kế, nàng tưởng: "Muốn thấy vị sư ấy cũng không
khó, chỉ cần có cơ hội được gặp toàn thể các sư trong chùa một lượt, tất
sẽ được thấy vị sư viết những chữ này. Mình phải bàn với mẹ lên chùa cúng
trai tăng và phong bao mỗi vị một lạng bạc, mình đích thân dâng phong bao
cho từng vị, như vậy nhất định sẽ được thấy vị sư mình muốn biết!" Đang
lúc nàng tưởng dễ dàng như thế, bỗng nàng than dài: "Ờ, không được! Không
được! Không biết tên vị sư viết chữ ấy là gì, dung mạo ra sao, trong khi
bao nhiêu các sư đến nhận phong bao, làm thế nào mình nhận ra vị đó?"...
"À! Rất dễ!" Nàng thấy lòng khấp khởi "Mình cầm saün một tờ giấy, xin mỗi
vị khi đến lĩnh tiền viết tên vào đấy, chỉ cần nhìn nét bút là mình có thể
nhận ra ngay!"Hôm ấy trong chùa đông đủ. Sau khi thụ trai, mỗi vị sư đều
đến viết tên mình vào tờ giấy, nhận tiền phong bao của người con gái nhà
thí chủ đứng dâng. Các sư đến hết rồi nhưng người con gái vẫn chưa thấy
người nào có nét bút như lối chữ viết trên bảng. Lòng nàng ngờ vực:
- Còn vị nào trong chùa chưa đến nhận tiền
không? Nàng vừa nhìn tờ giấy ghi tên vừa hỏi sư chú thị giả của hòa thượng
trụ trì.
- Còn mỗi sư ông thư ký là chưa đến thôi Chú
tiểu ngây thơ đáp.
- Chú làm ơn đi mời sư ông đến nhận tiền đi!
Nàng có cảm giác hồi hộp và tim nàng đập mau
hơn, chắc là chữ của sư ông thư ký rồi!Một lát sau sư chú thị giả trở lại,
nói:
-Thưa cô, sư ông thư ký không
chịu đến! Người bảo tôi lĩnh thay cho người.
-Thay sao được? Tôi cần xin sư
ông viết tên của người kia mà!
Máu trong người nàng chạy rần rật, nàng muốn
được thấy mặt người nàng hằng mong ước, nhưng tại sao người ấy lại không
chịu đến?
- Từ xưa sư ông thư ký tôi ít
khi ra khỏi phòng, người cũng không muốn tiếp xúc với khách lạ, tôi tưởng
không nên ép buộc người!
- Ai cũng đích thân đến lĩnh,
chỉ có một mình sư ông sao không thể đến được? Chú hãy đi mời sư ông một
lần nữa, nếu sư ông đến, tôi sẽ dâng sư ông hai phong bao.
Nàng không phải là người gây khó dễ cho ai, song
mục đích duy nhất của nàng là muốn được thấy mặt sư ông thư ký.Chú thị giả
đem ý định của nàng nói cho sư ông thư ký biết.
Tại sao sư ông thư ký không chịu đến viết tên
của mình để lĩnh tiền? Đó là một sự thực khổ tâm của ông.Chả là ông nghe
nói tiểu thư đích thân đứng dâng phong bao, mà tướng mạo của ông thì thật
không nên phô bày trước mặt một người con gái: trên đầu ông đầy sẹo, mặt
rỗ, môi dày, răng vổ, mũi thấp gần như không còn trông thấy, trái lại, đôi
mắt thì lồi hẳn ra, ai cũng biết ông là một người tướng mạo xấu xí, như
vậy không nên đến trước một người con gái. Tuy ông thấy rõ điều đó, song
chú thị giả lại đến nói là tiểu thư không những muốn ông đích thân đến
lĩnh mà còn dâng ông hai phong bao, nên cuối cùng ông dùng hết sức can đảm
để đi.Từ đằng xa, nàng thấy sư ông thư ký đi lại. Một lát sau thì nàng hồn
phiêu, phách tán: trước mắt nàng thật là hình thù của một con quỷ dạ xoa
la sát chứ không phải người! Nàng sợ quá liền tung hết tất cả rồi vừa chạy
vừa la inh ỏi.Bao nhiêu người súm lại, bấy giờ nàng mới hoàn hồn; người
thì an ủi nàng, người thì trách mắng sư ông thư ký:
- Sao ông lại đi nhát con người
ta như vậy? Ông thử lấy gương soi lại tôn nhan của ông xem nào?
- Thấy tiền thì tối mắt lại!
- Ông làm mất hết thể diện
trong chùa rồi còn gì?
Ai cũng mắng sư ông thư ký, mỗi người một câu,
như những mũi kim xiên vào trái tim ông, làm cho đau nhói vô cùng!Tuy dáng
người xấu xí song sư ông thư ký cũng có lòng tự tôn như mọi người khác.
Sau lần tủi nhục ấy, ông thấy không còn đủ can đảm để sống nữa, bởi thế
một ý nghĩ đen tối nẩy ra trong đầu óc ông: lấy cái chết để rửa nỗi nhục
ấy là tốt hơn hết.
Đêm khuya thanh vắng. Vạn vật đang say sưa trong
giấc mộng triền miên. Ngoài kia bóng tối bao trùm cả bầu vũ trụ, và từ xa
xa vọng về tiếng dế kêu sầu. Chính lúc sợi giây oan nghiệt sắp kết liễu
một kiếp người, thì ngay giờ phút ấy, hòa thượng trụ trì xuất hiện. Ngài
dịu dàng đưa tay cởi sợi giây vừa được xiết chặt:
- Sư ông thư ký! Thầy không ngờ
con lại có hành động như thế. Sự đẹp, xấu của người ta đều có liên quan
đến kiếp trước. Nếu một người kiếp trước hay dâng hương hoa cúng Phật, hay
ca ngợi vẻ đẹp của người khác, thì đời này họ được thân tướng đẹp đẽ trang
nghiêm; trái lại, nếu một người kiếp này không chịu cúng dâng chư Phật và
Bồ Tát để gây nhân tốt, mà lại dèm chê người khác, thì kiếp sau họ sẽ chịu
quả báo xấu xa. Con đừng phàn nàn, đó chẳng qua là cái nghiệp lực kiếp
trước của con đưa đến. Con tưởng muốn lìa cái xấu xa để cầu được sự tốt
đẹp, mà nhờ vào cách tự sát thì thật không thể giải quyết được vấn đề.
Lời thuyết pháp của hòa thượng trụ trì như một
tiếng chuông giữa đêm trường xa vắng đã thức tĩnh được giấc mê mộng của sư
ông thư ký.
- Bạch hòa thượng! Hòa thượng
rủ lòng thương chỉ dạy con đã thấy rõ sự ngu muội của con, song con là
người xấu xí như thế này, làm cho ai trông thấy cũng ghê sợ, cũng phiền
muộn còn ích lợi gì mà sống nữa?Những giọt lệ nối nhau lăn xuống hai gò má
của sư ông thư ký.
- Người học Phật cần phải kiềm
chế lấy mình, đừng để cho ngoại cảnh chi phối và mê hoặc; con nên biết
rằng người ta sống trên cõi đời này không ai tránh khỏi những sự hưng suy,
vui, khổ, khen, chê, yêu và ghét, song những cái đó đều là cảnh tượng
trong chiêm bao, hư ảo, không thật có, con phải nhận chân như thế thì mới
làm chủ được mình và cuộc đời mới được bình thản yên vui.
- Bạch hòa thượng! sư ông thư
ký lau nước mắt Kiếp này con đã xấu xí như vậy, không biết kiếp sau con có
còn phải chịu cái quả báo độc địa ấy nữa không?
-Con hãy chuyên cần lễ bái đức
Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Đức Phật này có nguyện rằng hễ ai cung kính
lễ bái Ngài thì người ấy sẽ được tướng mạo tốt đẹp, trang nghiêm.
Vâng theo lời chỉ dạy của hòa thượng trụ trì, từ
đấy trở đi, sư ông thư ký đêm ngày kính cẩn tinh thành trước tượng Phật
Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai dâng hương lễ bái. Kiếp trước Ngọc Lâm chính
là sư ông thư ký có thân hình xấu xí như vậy, nhưng nhờ công đức cung kính
lễ bái đức Phật Dược Sư mà kiếp này được dung nhan đẹp đẽ, mặt như vừng
trăng thu và thân như ngọc lưu ly chói rạng. Còn tiền thân của Vương tiểu
thư chính là người con gái yêu chữ đẹp, tuy nàng tin Phật, biết gây công
đức song chỉ cầu phúc báo ở cõi người và cõi trời, cho nên sau khi chết
được sinh làm con quan Tể tướng đại thần. "Chàng vì em mà chịu tủi nhục,
vì em mà toan tự sát, lại cũng vì em mà chuyên cầu lễ bái Phật Dược Sư để
cầu cho được cái thân sáng chói như ngọc lưu ly ngày nay, chàng là một
người đáng yêu, đáng kính lắm. Em nguyện mãi mãi được sống bên chàng!" Sau
khi mê mộng, Vương tiểu thư cứ sảng sốt và lảm nhảm nói những câu như thế.
Hình ảnh của Ngọc Lâm thân như ngọc lưu ly, mặt như trăng mùa thu, đã in
sâu vào trí óc nàng, mỗi khi nàng mê sảng thì hình ảnh ấy lại chập chờn
hiện ra trước mắt nàng.
Chương Ba
Hình dung của Vương
tiểu thư càng ngày càng tiều tụy. Không một vị danh y nào mà không được
mời vào tướng phủ, song rốt cuộc chẳng có hiệu nghiệm gì cả, mà bệnh tình
của tiểu thư mỗi lúc một trầm trọng thêm. Bầu không khí tưng bừng, vui
tươi trong tướng phủ trước kia, giờ đây đã bị một làn mây ảm đạm che kín,
Vương phu nhân vội viết thư cho người vào triều mời Tướng quốc về.Họ hàng
thân thuộc và những người quen biết đều lo thay, họ cho rằng Tướng quốc và
phu nhân chỉ sinh được một mình Thiên Kim tiểu thư, giả sử tiểu thư có
mệnh hệ nào, thì họ đau đớn biết mấy. Vả lại tiểu thư cũng là người quí
mến, từ trước đến nay không biết bao nhiêu người được tiểu thư giúp
đỡ.Tướng quốc và phu nhân lo sầu, bối rối, không biết làm thế nào, họ chỉ
còn cách hy sinh bất cứ cái gì nếu có thể làm cho con gái họ qua khỏi.Song
vẫn chưa ai biết rõ nguyên nhân chứng bệnh của tiểu thư.Sau đó phu nhân
thấy thắc mắc, bà cho rằng bệnh của tiểu thư thật kỳ dị: trong nhà không
có điều gì làng nàng trái ý, nàng cũng không hề cảm gió, cảm nắng, mà cũng
không ăn phải vật gì có thể gây nên bệnh, thế mà tự nhiên đau ốm rồi nằm
liệt giường liệt chiếu. Trong đó chắc có điều gì khúc mắc lắm.Phu nhân gọi
Thúy Hồng vào phòng riêng của bà:
- Thúy Hồng, bà chắc
con biết rõ bệnh của cô con?
Thúy Hồng run sợ rồi
phân trần:
- Thưa phu nhân, con
làm sao biết được bệnh của cô con?
- Con hãy ngồi xuống
kia! Bà chỉ vào chiếc ghế gần cửa phòng rồi từ tốn nói:
- Từ khi con vào giúp
việc trong tướng phủ, bà và cô rất yêu mến con, hiện giờ cô đau nặng và
con cũng biết bà chỉ có một mình cô, chẳng may cô có mệnh hệ nào thì bà
sống sao nổi?
Nói đến đấy bất giác
hai hàng nước mắt phu nhân ứa ra.
- Xin phu nhân đừng lo
buồn Thúy Hồng sụt sùi nói Con chắc cô con thế nào cũng qua khỏi.
- Tất cả thầy thuốc
danh tiếng trong thiên hạ bà đã mời đến cả rồi, cô đau ra sao và bị bệnh
gì, cho đến nay họ đều không biết.
- Con chắc nguyên nhân
chứng bệnh của cô là....Thúy Hồng ngập ngừng, không dám nói tiếp.
- Con cứ nói đi, Thúy
Hồng!
- Xin phu nhân đừng
trách mắng cô con thì con mới dám nói!
- Chỉ mong cô con khỏi
bệnh là mừng rồi, chứ bà còn trách mắng cô con cái gì?
- Con chắc có lẽ vì cô
con thấy ông Vạn Kim hòa thượng mà về sinh bệnh....
Nghe xong, Vương phu
nhân thở dài não nuột: ái tình ở đời làm khổ người ta đến thế! Vì quá
thương con, bà quyết định đến hỏi lại con cho rõ để tìm cách lo liệu.
Vương phu nhân tiến vào phòng và ngồi bên giường bệnh của con gái.
- Con, hiện giờ con
thấy trong người thế nào? Bà đưa tay sờ trán con rồi lại nắm lấy bàn tay
nàng.
- Mẹ, con sợ con khó
sống quá!
Vương tiểu thư nói qua
giọng nức nở.
- Con đừng nói dại! Mẹ
thương con lắm, con muốn gì con cứ nói, mẹ sẽ vui lòng làm cho con được
như ý.Vương tiểu thư ứa hai hàng lệ, nàng đưa bàn tay gầy yếu, trắng bệch,
nắm chặt lấy bàn tay của mẹ nàng:
- Mẹ! Con biết mẹ
thương con lắm, song con là đứa con bất hiếu! Con không còn muốn gì nữa,
con chỉ nghĩ đến công ơn của cha mẹ, con xin cha mẹ tha thứ, con nguyện
kiếp sau đền đáp lại.
- Con! Vương phu nhân
hiền từ gọi con Mẹ đã hiểu rõ bệnh trạng của con, đợi cha con về mẹ sẽ bàn
tính, mẹ nhất định làm đúng như ý nguyện của con.
- Mẹ nói gì cơ?
Sau khi nghe mẹ nàng
nói, Vương tiểu thư có cảm tưởng như vừa nghe tiếng sét đánh ngang đầu,
toàn thân nàng nóng bừng.
- Con ạ, con không nên
dấu mẹ nữa, vừa rồi Thúy Hồng đã nói cho mẹ biết hết rồi, con cứ yên tâm,
mẹ có phải người xa lạ đâu? Mẹ có bổn phận phải lo liệu cho con kia
mà.Trên đôi má xanh xao, tiều tụy của Vương tiểu thư, bỗng nổi lên một
ráng hồng hồng.
- Con xin cha mẹ tha
tội cho con, con đã không có đức tính của một người con gái, làm ô nhục
gia phong tổn thương danh dự, thực con không còn xứng đáng là một người
con của một vị Tướng quốc! Vừa nói nàng vừa khóc Song thưa mẹ, con không
biết làm cách nào để khắc phục được tình cảm của con, vì dầu sao, con cũng
chỉ là một người con gái!
- Không phải nói gì nữa
hết Vương phu nhân an ủi con Cha mẹ sẽ bàn tính việc này. Vì con không có
anh em trai, cha mẹ có thể bảo sư bác ấy hoàn tục và bắt vào làm rể trong
tướng phủ. Nghe xong, Vương tiểu thư vừa mừng vừa thẹn và lập tức nàng cảm
thấy trong người nhẹ nhõm, khoan khoái, bệnh tình thuyên giảm rất nhiều.
Hy vọng và hạnh phúc lại bừng lên trong lòng nàng.Vương tể tướng từ trong
triều xin phép về, Vương phu nhân đem hết tình hình thuật lại và bày tỏ ý
định của mình cho ông nghe, song Vương tể tướng cho rằng giải pháp ấy
không thể được. Ông là người rất thông hiểu Phật pháp, theo ông thì việc
xuất gia học đạo không phải dễ; từ xưa đã có câu "Xuất gia học đạo là việc
của kẻ đại trượng phu, không phải người tầm thường có thể làm được", mình
đã không thể khuyến khích được người khác học đạo thì thôi, chứ sao lại đi
khuyên người xuất gia hoàn tục, đó là việc làm trái đạo lý và rất tội ác!
- Phật pháp cũng như
lương tâm đều không cho phép chúng ta làm thế! Vương tể tướng kiên quyết
trả lời.
- Vậy ông nỡ nhẫn tâm
ngồi nhìn con chết sao?
Vương phu nhân vừa khóc
vừa hết sức thuyết phục chồng, cuối cùng Vương tể tướng buông một tiếng
thở dài rồi đành nhận lời đến chùa Sùng Ân gặp hòa thượng Thiên Ẩn sư phụ
Ngọc Lâm để thương lượng.
Sau khi gặp hòa thượng
Thiên Ẩn, Vương tể tướng thành thật kể lại câu chuyện đau lòng trong gia
đình cho hòa thượng nghe.Hòa thượng Thiên Ẩn tự nghĩ: 1) Vì quyền thế của
tể tướng nên không phải tội; 2) Mình đã biết rõ đây là nghiệp duyên của
Ngọc Lâm từ kiếp trước còn rớt lại để thử thách đạo tâm của Ngọc Lâm, bởi
thế ngài đáp:
- Theo ý lão tăng thì
Phật pháp là đạo cứu người, tể tướng đã nói là cần phải cứu sống lệnh ái
thì việc đó có thể phương tiện được, song không biết ý kiến của Ngọc Lâm
thế nào?
- Hòa thượng đã cho
phép, chúng tôi có thể nói chuyện với Ngọc Lâm?
Hòa thượng trụ trì cho
người gọi Ngọc Lâm lên, chỉ vào Vương tể tướng nói:
- Đây là đương triều
Vương tể tướng, từ hôm Thiên Kim tiểu thư gặp bác đến nay nhớ nhung mà
thành bệnh, bệnh này là do bác gây nên, bởi vậy, sau khi bàn tính, tể
tướng và thầy muốn bác đến để chữa cho tiểu thư...
- Bạch sư phụ, không
được! Ngọc Lâm sợ hãi, vội cắt ngang lời hòa thượng trụ trì Con không hiểu
gì về y học, mà từ trước đến nay cũng không học thuốc, vậy làm sao con có
thể chữa được bệnh?!
Nghe Ngọc Lâm nói hòa
thượng và Vương tể tướng nhìn nhau cười thầm.
- Chủ ý của Tể tướng
không phải muốn bác đến bắt mạch, kê đơn, mà là muốn bác vào làm rể trong
tướng phủ! Hòa thượng trụ trì bảo Ngọc Lâm ngồi xuống chiếc ghế nhỏ bên
cạnh.
Bây giờ Ngọc Lâm mới
hiểu rõ câu chuyện.
Nhìn vẻ mặt tuấn tú và
phong độ thanh nhã của Ngọc Lâm, Vương tể tướng thầm nghĩ: đẹp trai như
thế không trách con mình mê như điếu đổ là phải, mình được người con rể ấy
cũng xứng đáng lắm. Rồi ông nhanh nhẩu tự giới thiệu với Ngọc Lâm:
- Nhà tôi có chút ít
tài sản, nếu người vui lòng cứu con tôi, tôi sẽ giao tất cả cho người!
- Bạch hoà thượng Ngọc
Lâm vừa nói vừa đưa mắt nhìn Vương tể tướng việc này kỳ quá ạ! Người xuất
gia, nếu không thể giữ được giới cấm, mà phải bỏ để hồi tục, thì việc đó
chính Phật cũng cho phép, không phải chuyện xấu xa. Song con xuất gia đầu
Phật từ năm mười chín, đến nay đã hai mươi lăm tuổi, con chưa từng phạm
quy luật thuyền gia, mà cũng không có tình ý với Thiên Kim tiểu thư, nay
lại bảo con bỏ giới để hồi tục, thì ngay từ lúc đầu con xuất gia làm gì?
Vả nữa sự sống, chết và tất cả khổ não của kiếp người đều do lòng ái dục
mà có, con vì sợ đắm chìm trong bể sinh tử, ái dục, nên mới bỏ cả cha mẹ,
họ hàng, quê hương, bè bạn đến nương nhờ dưới bóng Phật đài, gần gũi hòa
thượng để cầu học, tại sao bây giờ lại bắt con bỏ con đường sáng sủa, bằng
thẳng, để trở về con đường tối tăm, khúc khuỷu, thì làm thế nào một ngày
kia con vượt qua được bể khổ sinh tử?
Vương tể tướng và hòa
thượng Thiên Ẩn tỏ vẻ cảm phục vô cùng.
- Bạch hòa thượng Ngọc
Lâm nói tiếp con xuất gia học đạo không phải để cầu sự sung sướng, vui thú
tạm bợ của kiếp người, và cũng không phải vì cuộc sống nhàn tản vô tư. Hòa
thượng đã từng dạy chúng con là một khi mất cái thân này rồi thì muôn kiếp
khó được sinh lại, vậy chúng con không nên sống cuộc đời vô vị cho qua
ngày đoạn tháng để luống phí một kiếp. Đại đa số người đời chỉ lăn lộn
trong vòng tài sắc, danh lợi, họ không bao giờ nghĩ đến con đường chung
cùng của họ sẽ đi đến đâu. Xin hòa thượng và Vương tể tướng nghĩ lại cho
con cũng như mọi người đều được giải thoát yên vui.
- Song vì cứu người nên
Phật pháp cũng cho phương tiện. Vương tể tướng tuy rất khâm phục nhân cách
của Ngọc Lâm, nhưng nghĩ đến con đang mê man trên giường bệnh và đôi mắt
đẫm lệ của phu nhân, ông bất đắc dĩ phải bày tỏ quan điểm của mình.
Ngọc Lâm sửa lại cổ áo
và giọng nói nặng nề:
- Tuy nói thì như thế,
song trên thực tế, nếu làm ra, danh dự của Phật giáo cũng như gia phong
trong quí phủ, đứng về phương diện phong tục tập quán mà xét, đều bị tổn
thương. Vậy tốt hơn đừng để vấn đề cá nhân làm mất ảnh hưởng của đại thể.
Song Vương tể tướng là
người rất thâm hiểu giáo lý nhà Phật:
- Tâm tốt thì có kết
quả tốt, Bồ Tát cứu người không màng đến sự khen, chê của thế gian!
- Ngọc Lâm, lời Tể
tướng nói rất đúng, con hãy bằng lòng đi! Hòa thượng Thiên Ẩn lại chêm vào
một câu.
Lòng Ngọc Lâm hoang
mang, bao nhiêu tư tưởng bời bời trong đầu óc chàng. Chàng tự nghĩ: xưa
nay hòa thượng là người coi việc giữ giới hơn cả tính mệnh, tại sao hôm
nay lại dễ dãi như thế? Nếu bảo sợ uy quyền của Vương tể tướng thì không
đúng, vì từ trước đến giờ hòa thượng vốn không sợ người quyền thế; còn ham
tiền tài cũng không phải, vì hòa thượng có tiền cũng cho người khác chứ có
giữ đâu. Có lẽ vì nghiệp chướng mình nặng nề? Hay mình kém phúc, không
xứng đáng sống trong cảnh thanh tịnh trang nghiêm?
- "Chao ôi! Sao mình
lại gặp ma nạn như thế này?" Ngọc Lâm than thầm.
- Ngọc Lâm! Hòa thượng
Thiên Ẩn cắt đứt dòng tư tưởng lan man của chàng - tinh thần lợi tha của
Bồ Tát không phải xa lánh chúng sinh, mà là tùy duyên hóa hiện để cứu độ
chúng sinh, đó mới là chân tinh thần của Bồ Tát, sao con cứ bo bo ôm lấy
khí phách hẹp hòi như vậy? Những lời thuyết pháp của Hòa thượng trụ trì
bỗng khiến Ngọc Lâm thức tỉnh, chàng trầm tư một lát, định tâm lại, rồi
thản nhiên nói:
- Hòa thượng đã dạy
thế, con cũng xin một việc.
- Việc gì?
- Nếu Vương tiểu thư
theo điều kiện của con, con sẽ bằng lòng ngay, bằng không, đã chẳng cứu
được người có khi lại bị người lôi cuốn.
- Rất dễ! Rất dễ! Vương
tể tướng mừng thầm Xin người cứ nói, chỉ mong người nhận lời, còn bất cứ
điều kiện nào chúng tôi cũng xin theo.
- Điều kiện của tôi
giản dị lắm, nghĩa là, phàm việc gì tiểu thư cũng phải theo tôi, tôi bảo
thế nào phải vâng như vậy.
Ngọc Lâm hùng dũng đưa
điều kiện của mình nói với Vương tể tướng!
- Phu xướng, phụ tùy,
cổ nhân đã dạy như thế, điều kiện của người rất hợp tình hợp ý, tôi có thể
thay cho con tôi để thừa nhận.
- Cũng cần tôn trọng sự
tự do của tiểu thư, phải tự lệnh ái thừa nhận mới được!
Lúc ấy, lời nói, thái
độ và âm thanh của Ngọc Lâm đúng như một người trung niên đã lão luyện và
từng trải việc đời.
Vương tể tướng cho ý
kiến Ngọc Lâm rất đúng, ông gật gù khen thầm, không ngờ người thanh niên
tu hành, mà hiểu rõ sự, lý như vậy, nói câu nào cũng như đinh đóng cột.
Ông có cảm tưởng cho rằng mình được người con rể có kiến thức như thế cũng
đáng mừng cho dòng họ Vương, và con mình cũng có một người chồng trẻ tuổi,
tuấn tú và có tài, thì chắc sung sướng trọn đời.
- Hòa thượng còn điều
gì chỉ giáo thêm?
Vương tể tướng hỏi hòa
thượng Thiên Ẩn.
- Thưa không còn điều
gì.
- Vậy tôi xin kiếu. Tôi
sẽ cho người đến trả lời ngay, song tôi có thể bảo đảm là nhất định con
tôi sẽ chấp thuận điều kiện đó.
Nói xong, Vương tể
tướng đứng dậy cáo từ ra về.
Không bao lâu, Vương tể
tướng cho người đến nói là Vương tiểu thư đã tự mình chấp nhận điều kiện
của Ngọc Lâm. Tin ấy như một vết dầu loang truyền khắp trong chùa. Những
người thiển kiến thấy hoàn cảnh của Ngọc Lâm mà thèm, vì họ cho rằng chàng
sẽ sống trong cảnh vinh hoa phú quý, không còn phải buồn lo việc gì; còn
những người tương đối có tâm tu học thì hối tiếc vô cùng, vì theo họ thì
viên ngọc trong sáng từ đây sẽ trở nên nhơ nhớp, lấm láp.
Ngọc Lâm là người Giang
Tô, thân phụ chàng họ Dương, chàng rất có hiếu với cha mẹ, song nhất đán
khẩn cầu cha mẹ cho phép xuất gia học đạo. Nghe tin ai cũng sửng sốt,
không ngờ một người thanh niên tự nguyện xuất gia, mà nay lại bỏ giới cấm
để trở về với tục lụy.Nhưng không một ai biết trong lòng Ngọc Lâm đang
toan tính những gì.
Chương Bốn
Cách mấy hôm, sau khi
biết Ngọc Lâm đã bằng lòng kết hôn với nàng, Vương tiểu thư trở lại khỏe
mạnh.Mọi người trong tướng phủ đều bận rộn, kẻ ra, người vào tấp nập cả
ngày; họ đang chuẩn bị cho lễ thành hôn của Vương tiểu thư.
Ngày cưới rể đã đến.
Ngọc Lâm vào từ biệt hòa thượng Thiên Ẩn:
- Bạch hòa thượng, con
chưa phải là người tu hành đắc quả, ra đi, không biết con có giữ được bản
chất của kẻ học đạo không, nhưng dầu sao con cũng xin hòa thượng từ bi chỉ
dạy đôi lời để con ghi nhớ luôn luôn. Còn chức đèn hương trên điện Phật,
xin hòa thượng tạm cử người thay con trong hai hôm, sau đó hãy quyết định.
Vậy giờ xin hòa thượng có điều gì chỉ dạy? Sau khi hiểu rõ ý câu nói của
Ngọc Lâm, hòa thượng Thiên Ẩn gật gù, nói:
- Chuyến đi này là vì
làm rạng tỏ cho Đạo, quí lắm! quí lắm!
Ngọc Lâm không nói gì
nữa, chàng từ biệt sư phụ rồi bước ra đi. Lúc đó những người phù rể trong
tướng phủ phái ra đón rước cũng đã đến. Ngọc Lâm đỡ lấy bộ áo lộng lẫy của
tướng phủ mặc vào, chàng cởi bỏ chiếc áo tu hành lam lũ ra rồi từ từ gấp
lại thật vuông vắn và tỏ vẻ luyến tiếc. Những người trong tướng phủ thấy
thế tủm tỉm cười, họ cho rằng chàng rể quá keo kiệt, bao nhiêu thứ trân
bảo ngọc ngà đang chờ đón chàng kia rồi, mà còn cứ mân mê thương tiếc mãi
manh áo nâu cũ mèm, rách mướp! Rõ thật lẩn thẩn! Song họ đâu có biết Ngọc
Lâm coi chiếc áo ấy như một của báu vô giá!
Trên đường về tướng
phủ, Ngọc Lâm ngồi trong xe suy nghĩ, những dòng tư tưởng lại cuồn cuộn
nổi lên, chàng luôn luôn nghĩ đến câu sư phụ nói lúc ra đi, "chuyến đi này
là vì làm rạng tỏ cho Đạo", đó là một việc thiêng liêng vinh diệu! Trong
lòng chàng đã lập chí kiên quyết, chàng tự nhận mình là người có sứ mạng
làm rạng tỏ cho đạo, chàng quyết không để cho sắc đẹp và vàng bạc lung
lạc, cám dỗ!Song Ngọc Lâm cũng cảm thấy việc đó hết sức khó khăn, tuy tha
thiết với đạo nhưng chàng vẫn là con người, nhất lại là thanh niên, trước
sắc đẹp và tiền tài liệu chàng có khống chế nổi tình cảm không? Liệu có
khỏi vẽ hổ đã chẳng thành lại hóa ra chó? Hơn nữa còn tình người, tuy
Vương tiểu thư si tình song dầu sao nàng cũng vì chàng mà thành bệnh,
ngoài chàng ra, liệu có phương pháp gì cứu thoát? Cho nên chàng có cảm
giác áo não, nhưng còn nhớ câu nói của hòa thượng trụ trì để tăng cường
lòng tự tin của chàng.
Hôm ấy trong tướng phủ
tưng bừng nhộn nhịp. Vương tể tướng cũng biết rằng cưới một vị sư về làm
rể là một việc khó coi, không hợp tình lý, cho nên ngoài một số họ hàng và
bạn bè chí thiết ra, ông không cho mời ai và cũng không muốn phô trương
đám cưới cho linh đình.
Sau lễ thành hôn, cặp
vợ chồng mới cưới được đưa đến động phòng, tân khách cũng dần dần ra về,
sau một hồi huyên náo.Ngọc Lâm ngẩng đầu nhìn Vương tiểu thư đang ngồi bên
cạnh giường: yêu kiều, diễm lệ, tưởng đâu một nàng tiên giáng trần. Bất
giác Ngọc Lâm cũng phải ngây ngất cảm thán trong lòng: "Ghê gớm thay nữ
sắc!"Ngọc Lâm lấy lại bình tĩnh và lòng nói với lòng: "Tiểu thư, nét mặt
như bông hoa phù dung của nàng chẳng qua cũng chỉ là một khối thịt, xương;
vẻ yêu kiều, diễm lệ của nàng chỉ là một lợi khí giết người mà thôi." Lúc
đó lòng chàng phẳng lặng như mặt biển dưới ánh chiêu dương sau một đêm
sóng gió, bão táp. Bầu không khí yên lặng bao trùm gian phòng bên ngoài
cũng không còn một tiếng động. Ngọc Lâm tưởng đã đến giờ phút nên chữa
bệnh cho tiểu thư, chàng mới quay sang nói khẽ với nàng:
- Tiểu thư, cô thật
sung sướng và cũng thật thông minh! Cô biết tìm đến tôi để đưa cô ra khỏi
bể khổ.
- Đúng vậy Vương tiểu
thư khẻ gật đầu mong chàng đừng bỏ em, em cảm động vô cùng!
- Vậy có làm theo việc
tôi chỉ bảo không?
- Dạ. Xin theo!
- Thế còn điều kiện của
tôi?
- Em đã sung sướng nhận
rồi!
- Thế thì tốt lắm, vậy
bây giờ chúng ta bắt đầu đi niệm hương nhé?
-...? Vương tiểu thư
ngơ ngác nhìn Ngọc Lâm.
- Tôi nói là bây giờ
chúng ta đi niệm một tuần hương!
Ngọc Lâm nói nhấn mạnh
lại một lần nữa.
- Em chả hiểu "niệm
hương" là gì cả!
- Đó là một phương pháp
tu hành trong các chùa Ngọc Lâm giải thích Chúng ta lấy một nén hương thắp
lên rồi đi vòng quanh, đợi khi nào nén hương ấy cháy hết thì nghỉ. Đó cũng
là một cách vận động bổ ích.
- Từ trước đến giờ em
chưa làm qua. Vương tiểu thư nhíu mày.
- Thế thì bấy giờ làm
đi Ngọc Lâm đứng dậy lấy hương và thắp lên.
Vương tiểu thư tỏ vẻ
khó chịu.
- Tôi mong cô phải tôn
trọng lời hứa!
Tiểu thư không biết làm
cách nào, bất đắc dĩ phải đứng dậy.
- Tôi đi trước, cô đi
sau, phải trông tôi và theo đúng như tôi mà đi.
Ánh sáng hồng tràn ngập
gian phòng, dưới mắt Ngọc Lâm, đó là một căn tịnh thất rất tốt để tu
luyện.Trong lòng Vương tiểu thư cũng ngầm thán phục đạo tâm của chồng, mặc
dầu hồi tục song chàng không quên việc tu trì.Như trước đã nói, Ngọc Lâm
tự nhận mình chưa phải người đắc quả, vậy trước sắc đẹp sao giữ cho khỏi
động tâm? Lúc này theo sau chàng, một người con gái đẹp như hoa, nàng thở
hổn hển, từ hai gò má trắng mịn, những giọt mồ hôi lấm tấm, trông như
những hạt châu, thỉnh thoảng một mùi thơm phưng phức hắt vào mũi chàng,
Ngọc Lâm đã phải vận dụng hết nghị lực và trí sáng suốt để chống lại dục
tình. Thật là một cuộc thử thách vô cùng cam go. Giờ phút ấy, phương pháp
quán tưởng đối với chàng là một của báu vô giá: người mà ta tưởng là xinh
đẹp kia chẳng qua chỉ nhờ sự trang diện bề ngoài, nếu đem mổ xẻ ra thì đó
chỉ là một chiếc túi da chứa đựng bao nhiêu thứ hôi thúi, và là tổ của vi
trùng. Nhờ thế mà lý trí chàng rất sáng suốt, và câu "chuyến đi này là vì
làm rạng tỏ cho Đạo", trở thành một bó đuốc rực rỡ soi đường chỉ nẻo cho
chàng để thực hiện kế hoạch.
Vạn vật như chìm trong
cảnh tỉnh mịch của đêm khuya, không một âm thanh đồng vọng, tai Ngọc Lâm
chỉ còn nghe thấy tiếng chân đi niệm hương của chàng và Vương tiểu thư
trong gian phòng trầm tỉnh của đêm tân hôn.Ngọc Lâm đi mỗi lúc một nhanh
hơn và càng nhanh thì tinh thần chàng càng phấn khởi. Trái lại, Vương tiểu
thư, vì không quen, khi đi nhanh nàng thấy gần như không theo nổi. Song
nén hương vẫn chưa cháy hết nên Ngọc Lâm không chịu nghỉ, vả lại chàng
định làm cho nàng mệt mỏi để dục tình bớt đi.Vương tiểu thư dùng hết sức
để đi theo.
Sau một thời gian khá
lâu, tóc trên đầu nàng xổ ra, rối bù, những bông hoa gài trên tóc cũng lần
lượt rơi xuống, tàn tạ, lớp phấn trên má nàng gợn thành ngấn vì những giọt
mồ hôi, ngoằn ngoèo như những con giun. Ngọc Lâm biết là nàng không thể đi
được nữa, chàng mới bảo nàng dừng lại bên cạnh một tấm gương. Lòng tiểu
thư khấp khởi mừng thầm. Nàng đứng sát vào Ngọc Lâm.
- Ấy chớ! Cô hãy đứng
thẳng lên!
Vừa nói Ngọc Lâm vừa
đưa tay đỡ thân hình mềm mại, ẻo lả của Vương tiểu thư định ngả vào người
chàng. Nàng miễn cưỡng đứng thẳng lại.
- Cô xem tôi có đẹp
không? Ngọc Lâm hỏi.
- Dĩ nhiên là chàng đẹp
rồi!
Giọng tiểu thư nũng nịu
và nàng mỉm cười duyên.
Thân hình của Ngọc Lâm
vốn đã đẹp trai, sau khi đi niệm hương, cặp má chàng lại ửng hồng trước
mắt Vương tiểu thư, chàng là một thần tượng tượng trưng cho vẻ đẹp trang
nghiêm.
- Tiểu thư, mời cô hãy
đến trước tấm gương xem!
Vương tiểu thư lắc đầu.
- Cô hãy nhìn lại dung
nhan một chút.
- Thôi....
Không soi gương thì
thôi, chứ nếu soi Vương tiểu thư cũng phải ngán, cái thân yêu kiều, diễm
lệ của nàng lúc này trông như một con ma trơi: đầu bù tóc rối, những vệt
phấn loang lổ đầy mặt, mồ hôi nhễ nhãi, thật nàng không tưởng tượng được
rằng, đêm tân hôn, trước mặt người chồng, thân hình nàng bỗng trở nên khó
coi đến thế
Ngọc Lâm mời Vương tiểu
thư ngồi bên cạnh chàng trên chiếc trường kỷ:
- Nếu nói theo quan
niệm đẹp, xấu của thế gian, thì dung mạo của cô như thế này có đáng làm vợ
tôi không? Giả sử một người chưa từng biết cô bao giờ mà lúc này được thấy
cô, chắc họ phải chạy!Vương tiểu thư xấu hổ, cúi đầu, nàng bỗng nhớ lại
quãng đời tiền kiếp khi dâng phong bao, nàng đã làm cho sư ông thư ký
(tiền kiếp của Ngọc Lâm) phải hổ nhục.
- Tiểu thư, có phải cô
thấy tôi đẹp đẽ nên muốn trọn đời sống bên tôi?
Vương tiểu thư khẽ gật
đầu.
- Song, với tôi, trái
lại, chính vì đẹp đẽ thế này nên tôi mới xuất gia!
Ngọc Lâm bỏ mũ ra, để
lên mặt bàn:
- Điều đó có lẽ cô
không hiểu, vì tôi muốn đem vẻ đẹp của hình hài để đổi lấy vẻ đẹp của sự
sống. Bởi lẽ vẻ đẹp hình hài của chúng ta ngắn ngủi, tạm bợ, như bông hoa
sớm nở, tối tàn, còn vẻ đẹp của sự sống thì mãi mãi bất diệt. Cô đừng
tưởng vẻ thanh tú của tôi sẽ mãi mãi như thế này, năm tháng trôi qua, một
ngày kia tuổi xuân tàn tạ, tôi sẽ trở thành một ông lão tóc bạc, da mồi,
chính cái thân của cô rồi cũng vậy. Đang lúc thanh xuân mặt hoa da phấn,
điểm trang lộng lẫy, nhưng rốt cuộc rồi cũng chỉ là một đống xương tàn
chôn ngoài đồng hoang, nội cỏ. Nghĩ đến kiếp sống vô thường của con người,
chúng ta há lại ham mê vẻ đẹp hình hài giả dối và ngắn ngủi hay sao?
Mấy giọt lệ lượn quanh
tròng mắt của Vương tiểu thư, Ngọc Lâm nói tiếp:
- Chao ôi! Cuộc hành
trình của kiếp người mờ mịt, chúng sinh trôi dạt trong biển khổ mênh mông
mà ít người nghĩ đến bến bờ chung cùng của mình.
Ngọc Lâm như nói với
Vương tiểu thư, nhưng cũng lại nhắc nhở cho bản thân chàng. Vương tiểu thư
gục đầu xuống bàn nức nở.
- Bao nhiêu người đang
sầu não, đắm chìm trong sự mê muội, tại sao chúng ta không nghĩ đến họ,
lại cứ khăng khăng tìm hạnh phúc cho riêng mình? Tôi vì muốn thoát vòng
tục lụy và vì chân hạnh phúc của mọi người, mới xuất gia học đạo, mong
vượt qua bể khổ sinh tử, không ngờ kiếp trước đã có duyên nghiệp với cô,
nay phải bỏ giới, hồi tục, thế là cô muốn tôi phải chìm đắm mãi trong vòng
luân hồi...
- Chàng, chàng đừng nói
nữa, em đau lòng lắm rồi!
Vương tiểu thư có vẻ
đau đớn, chặn ngang lời Ngọc Lâm.
- Tôi thấy chúng ta đắm
đuối như thế này, há không đau lòng thật hay sao?
- Em đã biết rõ sự ngu
si của em rồi, em không nên ràng buộc chàng, không nên hại chàng, không
nên ép chàng hồi tục, sáng mai chàng hãy trở về chùa tiếp tục tu học!
Vương tiểu thư vừa nói
vừa lau nước mắt, tỏ ra cương quyết, không còn một chút "nhi nữ thường
tình" trong thái độ của nàng.
- Song, tôi yêu tất cả
mọi người, tôi cũng yêu cô tha thiết, tôi không nỡ thấy cô phải khổ!
Vương tiểu thư quá xúc
động, bất giác những giọt lệ lại từ từ lăn xuống hai gò mà nhợt nhạt của
nàng. Lúc này nàng thấy Ngọc Lâm không phải người con trai có thân hình
đẹp làm nàng mê say, mà nàng có cảm tưởng chàng là một vị hiện thân Bồ
Tát, từ bi, thanh tịnh!
- Ngọc Lâm! ? không,
thầy! Xin thầy đừng lo!
Vương tiểu thư nắm chặt
lấy tay Ngọc Lâm:
- Tôi đã hiểu mình phải
tìm cách vượt ra ngoài hố sâu của khổ đau rồi; tôi rất kính phục thầy,
nhân cách và tình thương của thầy đã làm tôi cảm động, giờ đây tôi chỉ
thấy thầy là người cao cả, siêu việt! Tôi đã phạm một tội lớn, đã cản trở
bước tu tiến của thầy, xin thầy tha thứ; nếu thầy vẫn thương tôi, xin thầy
hãy chỉ cho con đường nên đi, để tôi cũng được siêu thoát!
- Tôi sợ cô chưa bỏ
được sự sung sướng giả tạm ở thế gian!
- Tôi xin hứa trước mặt
thầy, thầy hãy tin tôi!
- Sau đừng hối hận?
- Quyết không bao giờ
hối tiếc!
- Vậy tôi khuyên cô
cũng nên xuất gia tu học.
Sau khi suy nghĩ một
lát, Vương tiểu thư nói một cách quả quyết:
- Vâng. Tôi xin tuân
theo lời chỉ dạy của thầy. Mai tôi sẽ bẩm với cha mẹ tôi, tôi chắc người
cũng sẽ vui lòng, và tôi tin rằng người còn sung sướng hơn khi thấy tôi
gặp được một vị minh sư.Ngọc Lâm rút tay mình ra khỏi bàn tay của Vương
tiểu thư, trên môi nở một nụ cười khoan khoái, hiền từ.
Từ phía đông, vừng hồng
cũng bắt đầu ló dạng.
Chương Năm
Trời đã sáng hẳn.Vương
tiểu thư mở toang các cửa phòng ra, thấy phía ngoài vẫn còn yên lặng.Hôm
qua, tỳ nữ và những người giúp việc trong nhà làm lụng vất vả nên còn ngủ
cả; họ cho rằng những cặp vợ chồng mới cưới bao giờ cũng say sưa trong
giấc mộng tình tối tân hôn, nếu dậy sớm quá sẽ làm tan giấc nồng của họ,
cho nên, mặc dầu trời đã sáng, một bầu không khí tịch mịch vẫn còn bao phủ
khắp dinh tể tướng.Vương tiểu thư không muốn đánh thức con hầu, tự đi lấy
nước rửa mặt rồi đích thân hâm một chén trà nóng đưa cho Ngọc Lâm:
- Thầy uống một chén
trà!
- Giờ này cô để tôi về
chùa được chưa?
Ngọc Lâm nhìn ánh nắng
xuyên vào cửa sổ, từ chiếc ghế đứng dậy:
- Chúc cô vui, mạnh, tể
tướng và phu nhân ở bên kia, tôi không tiện đến để từ biệt, tất cả xin nhờ
cô nói hộ.
- Đừng! Tôi thiết tưởng
thầy hãy đợi tôi bẩm cha mẹ đã, lúc đó thầy về cũng chưa muộn?
Đêm qua, những lời đạo
vị, thiết tha của Ngọc Lâm rót vào tai nàng. Vương tiểu thư thấy những
niệm tình ân ái trong một lúc đã lắng xuống, song giờ đây, trước nét mặt
tuấn tú của Ngọc Lâm, nàng lại chỉ thấy người tu hành trẻ tuổi đó là một
người con trai có hình hài đẹp đẽ, chứ nàng không thấy một tâm hồn cao cả,
trong trắng; mắt nàng lại long lanh ngấn lệ.
- Nếu cha mẹ cô không
bằng lòng cho phép chúng ta được như thế thì sao?
Ngọc Lâm tỏ vẻ băn
khoăn và lại ngồi xuống chỗ cũ.
Ngọc Lâm băn khoăn
không phải vì sợ cha mẹ nàng không cho phép, nhưng thầy sợ sóng tình trong
lòng nàng chưa lắng hẳn; bây giờ thầy có thể thoát thân về chùa, song nếu
Vương tiểu thư cứ ôm mối si tình, tưởng nhớ thầy rồi ốm lại thì chắc gì
thầy đã được yên thân? Bởi thế trước khi về, thầy muốn thử lại tình cảm
của nàng, thầy muốn ngọn lửa dục tình trong lòng nàng phải được dập tắt
hoàn toàn, thì thầy mới yên tâm ra về.
- Ngọc Lâm, tuy tôi
không nên ràng buộc thầy, song tôi không hiểu tại sao tôi cũng không muốn
xa thầy!
Dầu sao Vương tiểu thư
vẫn là người con gái, tình cảm của nàng sau khi đi niệm hương đêm qua và
bây giờ khác hẳn, câu nói của nàng đã chứng tỏ nỗi lòng băn khoăn của Ngọc
Lâm.
- Cô lại để cho tình
cảm cám dỗ và trói buộc rồi, cô vẫn chưa thể vượt hẳn ra ngoài cái lưới
tình cảm. Tình cảm si mê thường đưa con người đến chỗ nguy hại!
Không phải Ngọc Lâm
không biết yêu đương, thầy cũng như muôn vạn người khác! Trước vẻ đẹp tình
tứ của Vương tiểu thư, thầy cũng thấy lòng rung động. Nhưng thầy hơn người
ở chỗ thầy có một sức mạnh tinh thần vững chắc, lý trí của thầy thường
sáng suốt, tỉnh táo và thầy luôn luôn nhớ câu: "Quay đầu lại trăm năm già
quách. Sẩy chân ra muôn kiếp giận hoài" nên thầy khắc phục được tình cảm
một cách dễ dàng.
Vương tiểu thư cúi đầu
trầm tư, nàng lại bắt đầu bị quay cuồng trong trận gió lốc tình cảm. Nàng
yêu chân lý nhưng cũng yêu Ngọc Lâm, nàng muốn nắm được cả hai trong bàn
tay nhỏ bé của nàng, bởi thế qua một phút im lặng, nàng tỏ bày ý kiến mới
của nàng:
- Ngọc Lâm, tấm lòng
nhiệt thành vì đạo và tinh thần cầu chân lý của thầy tôi hiểu lắm, và tôi
cũng đã thừa nhận, tôi không ăn năn, tôi không muốn ép buộc thầy phải nhận
điều mà thầy cho là khổ; hiện giờ tôi chỉ nguyện theo dấu chân của thầy,
vậy xin thầy hãy nghĩ đến tôi, thầy đi rồi, một mình tôi đến nơi nào để
xuất gia thành đạo? Giả sử có nhờ quyền thế của cha mẹ đưa đến một ngôi
chùa to lớn nào đó cũng được đấy, song xuất gia mà không có người chỉ dạy,
không hiểu Phật pháp, thì xuất gia có ý nghĩa gì? Nếu thầy muốn, tôi sẽ
cho cất một ngôi chùa để thầy trụ trì, khỏi phải trở về với chức vị hương
đăng khó nhọc ở chùa Sùng Ân nữa, thầy nghĩ sao?
- Điều đó không thể
được cô ạ!
- Sao không? Thầy đừng
lo, sức tôi có thể nuôi thêm năm bảy người để trông nom quét dọn trong
chùa, mà không dám phiền đến ai đâu.
Vương tiểu thư hiểu lầm
ý câu nói của Ngọc Lâm.
- Ý tôi không phải thế
- Ngọc Lâm cảm thấy vấn đề thật khó đối phó.
- Thầy còn lo ngại gì?
Lúc đó tôi xin đảm đang hết, tôi chỉ mong có chỗ nào không hiểu, tôi có
thể nhờ thầy chỉ dạy, vậy xin thầy thương tôi mà nhận lời thỉnh cầu đó!
Vương tiểu thư vẫn chưa
hoàn toàn gỡ được mối si tình.
- Việc đó không hợp với
tinh thần xuất gia học đạo, đã phát nguyện xuất gia, không thể chỉ nghĩ
đến lợi ích riêng của mình, vả lại sống chung như thế không tiện, xin cô
đừng nghĩ vậy!
- Thầy nói thế có nghĩa
là từ nay về sau thầy sẽ không muốn nhìn thấy tôi, có lẽ nào là con người
đáng sợ đến thế?
Vương tiểu thư cảm thấy
lòng tự trọng của mình bị thương tổn, cho nên giọng nàng chua chát.
- Không! Không phải
thế! Cô đừng hiểu lầm. Ngọc Lâm sợ "già néo đứt giây", nên thầy vội đổi
giọng nói:
- Không phải tôi không
biết thành tâm, thiện chí của cô, song cô nên hiểu rằng, người xuất gia
học đạo cần làm những việc khó khăn, nhẫn những điều khó nhẫn. Bỏ nhà đi
tu, đó là việc khó làm, nhưng nếu không quyết tâm hy sinh sự vui sướng
riêng của mình, không phát nguyện phục vụ những người khổ đau, thì làm thế
nào để đạt được mục đích xuất gia? Nếu cô không dứt bỏ được thường tình
đàn bà, cứ bịn rịn như mọi người khác, thì làm sao hoàn thành nhiệm vụ
xuất gia?Lời nói nghiêm trang của Ngọc Lâm lại như một tiếng chuông cảnh
tỉnh vang dội trong lòng trầm mê của nàng. Vương tiểu thư ngồi
trên chiếc ghế bên cửa
sổ, nàng ngẩng đầu nhìn ra ngoài, trên trời mấy sợi mây trắng lướt qua; từ
một ngọn cây gần đấy vọng vào tiếng chim kêu ríu rít. Vương tiểu thư không
đáp câu hỏi của Ngọc Lâm, nàng chỉ buông một tiếng thở dài, rồi im lặng
trầm ngâm.
- Tiểu thư, cô hãy nhìn
những cánh hoa rơi trên mặt bàn xem, mới hôm qua hãy còn tươi thắm, mỹ
miều, thế mà sáng đã úa vàng, tàn tạ! Ai dám bảo đảm tuổi thanh xuân của
chúng ta? Ai dám nói chúng ta trẻ mãi, không già, sống hoài, không chết?
Bởi thế người thông minh phải tỉnh táo, sáng suốt: "Đừng toan già mới tin
theo Phật, bao nấm mồ hoang rặt thiếu niên!". Tôi mong cô hãy mở rộng nhãn
quang, và mạnh dạn tiến bước trên con đường sống mới!
- Tôi hoàn toàn hiểu
lời thầy nói - Vương tiểu thư nhíu mày, lẩm bẩm.
- Hiểu sao vẫn chưa
quyết định?
Ngọc Lâm nắm được cơ
hội.
- Tôi chỉ hy vọng được
thầy dạy bảo luôn luôn.
- Điều đó có thể được,
song cần nhất là cô phải thật giác ngộ.
Ngọc Lâm thấy trời sáng
đã lâu, trong lòng chỉ mong chóng thoát khỏi dinh tể tướng, nên thầy nói
cho qua chuyện.
- Vậy thầy về đi, lát
nữa tôi sẽ bẩm với cha mẹ tôi, và tôi xin gánh chịu mọi cách khó khăn cho
thầy!
Vương tiểu thư cuối
cùng quyết định.
- Thế tôi về, cô hãy
giữ mình cẩn thận!
Ngọc Lâm sáng chói như
viên Bạch Ngọc, lúc thầy vừa ra khỏi cổng thì nghe thấy tiếng Thúy Hồng
vọng lại:
- Thưa cô, sao cô thức
sớm thế!
Chương Sáu
Sau khi từ giã Vương
tiểu thư và tướng phủ, Ngọc Lâm lủi thủi một mình trở về chùa Sùng Ân,
thầy có cảm tưởng như một tù binh vừa được phóng thích, thầy thấy nhẹ
nhõm, khoan khoái.Ánh nắng ban mai hòa dịurọi trên hai gò má Ngọc Lâm, gió
sớm hây hẩy lướt qua mặt thầy, trên đường vẫn chưa có người qua lại, và sự
tịch mịch còn tràn ngập mặt đất; thời khắc ấy, Ngọc Lâm có cảm tưởng như
mình vừa mất một vật gì, song chỉ một phút sau, thầy nghĩ đến sự tôn quý
và thanh sạch của cuộc đời còn nguyên vẹn, bất giác thầy đắc ý và mỉm cười
một mình!Ngọc Lâm bước nhanh thêm. Cửa tam quan chùa Sùng Ân đã hiện ra
trước mặt thầy. Hai con sư tử oai hùng ngồi trước cửa tam quan như mỉm
cười tiếp đón thầy ca khúc khải hoàn, Ngọc Lâm cũng hãnh diện đưa mắt nhìn
chúng.Trong lòng thầy tưởng sư phụ biết tin thầy về sớm chắc cũng vui
mừng.Ngọc Lâm đang nghêng ngang tiến vào cửa, thì từ sau pho tượng Bồ Tát
Di Lạc có chiếc bụng thật to, người sư huynh duy nhất của thầy - Ngọc Lam
một vị sư suốt ngày chỉ ăn rồi ngủ - vội chạy ra chặn thầy lại.
- Sư đệ, chú mình đã từ
Cực Lạc thế giới trở về đây hả?
- Sư huynh chỉ nói nhảm
mà, tôi sẽ mách sư phụ cho coi!
Ngọc Lâm biết sư huynh
vốn lười biếng, nên xưa nay cứ coi thường, thậm chí còn chán ghét là khác.
- Sư phụ cũng đã hiểu
thế giới cực lạc được xây cất ngay trên sự nhơ nhớp và đau khổ của chúng
sinh.
- Tôi không thèm nói
với sư huynh!
Ngọc Lâm nhìn Ngọc Lam
với ánh mắt khinh miệt, Ngọc Lâm vẫn chưa hết tính kiêu ngạo, nhất là đối
với sư huynh Ngọc Lam.
- Tôi nói cho chú biết,
hoa sen sạch sẽ, thơm tho cũng từ nơi bùn lầy, nước đục mà nhô lên.
- Sư huynh có biết lúc
nầy tôi đang muốn gặp sư phụ không?
Ngọc Lâm tỏ vẻ bực dọc.
- Phải tìm sư phụ đâu
xa, chú gặp tôi, tôi nói chuyện với chú cũng thế.
- Sư huynh cả gan thế
kia à? Sư huynh nói không sợ sư phụ?
- Âm thanh ngôn ngữ đều
là vô thường, lời nói của tôi không có cả gan!
- Xưa nay sư huynh
không thích nói chuyện với ai, sư huynh là người chỉ thích ăn, không muốn
làm, chỉ thích ngủ, không chịu tu, tại sao hôm nay cứ nói lải nhải hoài
vậy?
- Xin Bồ Tát chỉ giáo!
- Tôi đâu dám!
- Tiền đồ của chú xán
lạn vô cùng, thanh danh sẽ tràn khắp muôn phương!
- Tôi không thích nghe
lời khen của sư huynh!
- Xin mời!
Ngọc Lam cười khà, đứng
tránh sang một bên nhường lối cho Ngọc Lâm, Ngọc Lâm ngẩng đầu đi
thẳng.Ngọc Lâm rẽ qua lối vào tịnh thất của hòa thượng trụ trì, lòng thầy
đang rộn lên niềm hân hoan vì tưởng tượng đến Vương tiểu thư đã được cứu
sống và cảm hóa, thì từ nãy giờ lại bị ông sư huynh làm cho cụt hứng.Thầy
hồi tưởng từ khi đi tu, thầy đã phải nghe bao nhiêu người đàm tiếu về sư
huynh, thầy nhớ rõ đã có lần họ nói:
- Sư huynh của Ngọc Lâm
có bữa ăn hết tám tô cơm!
- Nói đến sư huynh của
Ngọc Lâm thì chán mớ đời, chỉ thích ăn, cấm chịu cất nhất việc gì!
- Sao mà hòa thượng trụ
trì nuôi được ông đệ tử quý thế!
- Các ông không biết
chứ hòa thượng trụ trì thiên lệch thấy mồ, ngài thường khen là ngài nuôi
toàn đệ tử giỏi cả, cứ như rồng như voi, nhưng kiểu rồng, voi mà cứ ăn với
ngủ thế thì chẳng thà nuôi mèo, chó để chúng bắt chuột giữ nhà còn
hơn.Những lời chê cười của những kẻ thiển kiến, nông nổi ấy như mũi dao
đâm xói vào tim Ngọc Lâm, thầy tự nghĩ: có một sư huynh như vậy thật xấu
hổ!
- Ngọc Lam là Ngọc Lam
- Ngọc Lâm nói với các người dèm chê - Các ông nói thì nói một người, việc
gì cứ phải nói "sư huynh của Ngọc Lâm" để dây dưa cả đến tôi.
- A! Hể động đến ông
anh quý là ông em lại bênh ngay.
Mọi người đáp một cách
chế riểu.Ngọc Lâm cho rằng có một người sư huynh như vậy thật xấu hổ suốt
đời, bởi thế thầy càng chán ghét ông anh.
Còn đang nghĩ lan man
thì Ngọc Lâm đã đến cây nhãn trước cửa tịnh thất của hòa thượng, lúc ấy
thầy mới sửa soạn lời lẽ để thuật lại cho hòa thượng nghe các việc đã xẩy
ra trong đêm tân hôn hôm qua tại tướng phủ, đồng thời những ý nghĩ về ông
sư huynh cũng chìm xuống dần dần.Ngọc Lâm chắp tay chào hòa thượng rồi
đứng sang một bên và kể lại đầu đuôi câu chuyện một cách rất tỉ mỉ. Nghe
xong, hòa thượng khẽ nở một nụ cười hiền từ, ngài khen trí sáng suốt và
chí kiên quyết của Ngọc Lâm đã không để cho danh lợi và tài sắc cám dỗ,
song ngài lại sợ Ngọc Lâm vì thế mà kiêu ngạo hơn, nên với giọng vừa khen
ngợi, vừa khuyên bảo, ngài nói:
- Ngọc Lâm, con đã cắt
đứt được mối duyên nghiệp giữa con và Vương tiểu thư một cách rất hợp
tình, hợp lý, thầy cũng biết trước là con sẽ hành động như thế; lần này
con đã tỏ được niềm kiên trinh xuất gia học đạo, và nêu cao nhân cách
thuần khiết của con, con đã biết giữ mình song thầy khuyên con cũng phải
tôn kính người khác, hai đức tính đó người học Phật không thể thiếu được!
- Con xin ghi nhớ lời
sư phụ chỉ dạy!
- Bây giờ con lại trở
về với chức đèn hương trên điện Phật, công việc của con sau này sẽ rất bề
bộn, sự quang vinh của tăng đồ sẽ hoàn toàn nhờ cậy nơi con, con phải giữ
mình thận trọng!
Ngọc Lâm chưa hiểu hết
ý nghĩa sâu xa của lời hòa thượng trụ trì.Lúc ấy sư chú thị giả vào thưa
là có mấy vị lão tăng đến thăm hòa thượng, Ngọc Lâm chắp tay cúi đầu rồi
lui ra.Ngọc Lâm trở về căn phòng nhỏ của mình đàng chái chùa, sau Phật
điện. Thấy Ngọc Lâm mới từ tướng phủ trở về, mọi người trong chùa ngạc
nhiên, xúm lại hỏi thăm. Sư ông trực nhật là người đầu tiên nói với Ngọc
Lâm:
- Sư ông Ngọc Lâm, ồ
không, công tử con quan tể tướng! Thầy mặc bộ áo này trông càng đẹp trai
thêm!
- Thầy thật là "chuột
sa chĩnh gạo", Vương tể tướng quyền cao, chức trọng, ngài lại gọi thầy vào
làm rể, đã được vợ đẹp lại nhiều tiền của, sau này ông nhạc lại cất lên
làm quan, thật là sung sướng, ai thấy cũng phát thèm! Nhưng mới có một
đêm, tại sao thầy đã về?
Sư ông coi vườn hỏi.
Ngọc Lâm không trả lời
câu hỏi của họ vội, thầy nhìn họ mỉm cười, rồi chỉ vào chiếc giường của
mình mời họ ngồi, còn mấy người thấy căn phòng chật hẹp không vào ngồi,
chỉ đứng ngoài cửa, trông họ như những ký giả đi săn tin, trước mắt họ,
lúc này Ngọc Lâm là một nhân vật rất uy quyền, không ai muốn bỏ qua dịp
phỏng vấn hiếm có này.Ngọc Lâm vội cởi bộ áo mới của chàng rể ra, rồi từ
từ khoác tấm áo nâu cũ mèm, rách mướp vào, đồng thời ngỏ lời cám ơn người
đã thay chức hương đèn cho mình trong ngày hôm qua.
- Sao sư ông lại mặc áo
nhà chùa nữa vậy?
Chúng tôi nghe nói hôm
qua sư ông đã thành hôn với Vương tiểu thư rồi mà? Thế sư ông không vào
tướng phủ nữa?Sư bác trông việc gánh nước ngạc nhiên hỏi.
- Không vào nữa!
Ngọc Lâm thong thả vuốt
lại những nếp gấp nhăn nheo trên áo.
- Sao không vào nữa?
Chúng tôi nghe nói Thiên Kim Tiểu Thư thương yêu sư ông lắm mà? Nàng yêu
sư ông thế nào? Sư ông có thể kể lại cho chúng tôi nghe một lượt không?
Sư bác trông nom cửa
ngõ hỏi.Mọi người reo lên như phụ họa:
- Đúng! Đúng! Việc này
ngoài sư ông Ngọc Lâm ra không ai có thể biết được!
Người này một câu,
người kia một câu, Ngọc Lâm thấy khó chịu, song cũng không thể tìm cách
thoái thác, thầy đưa mắt nhìn một lượt, rồi thung dung đỉnh đạc, nói với
mọi người:
- Thưa quý vị, xưa nay
tôi vốn là người an phận thủ thường, chưa từng cùng ai thảo luận qua vấn
đề luyến ái, và thật cũng không biết thảo luận ra sao; còn đối với Vương
tiểu thư, từ thuở cha sanh mẹ đẻ, hôm qua chúng tôi mới gặp nhau lần đầu
tiên, chẳng ai dám nói đến yêu đương, vậy dĩ nhiên là tôi không gì để kể
lại!
- Sư ông nói dối, hôm
qua sau khi sư ông vào tướng phủ, thầy tri khách mới nói là hôm Vương tiểu
thư đến chùa lễ, đã tỷ tê nói chuyện với sư ông mà!Đó là nguyên nhân mà sư
bác trông nom cửa ngõ muốn Ngọc Lâm thuật lại chuyện luyến ái giữa thầy và
Vương tiểu thư.
- À, hôm ấy cô chỉ hỏi
có mấy câu, và cũng có cả thầy tri khách ở đấy!
- Nhất định hôm ấy còn
nói nhiều chuyện ấm ớ lắm ạ!
Nói xong, chú gánh nước
cười sằng sặc.
- Vậy sư ông thử thuật
lại hôm Vương tiểu thư đến lễ xem nào!
Họ vẫn cứ tò mò, và
hình như không hỏi cho ra nhẽ thì họ không chịu.
- Hôm ấy cũng chả có gì
đáng nói. Sau khi Vương tiểu thư lễ xong, thầy tri khách kêu tôi lên, tôi
không thể không tuân mệnh. Khi tôi lên thì cô ấy chỉ hỏi tôi có hai câu.
- Hỏi sao sư ông đẹp
trai thế? Phải không?
Bác coi vườn sỗ sàng
hỏi và mọi người phá lên cười!Ngọc Lâm hơi đỏ mặt, thầy đã hiểu tính tình
của họ, và cho họ là những người không đáng kể!
- Cô ấy hỏi tôi có hai
câu một cách rất lễ phép.
- Hai câu gì? - Sau câu
hỏi của bác gánh nước, mọi người đều nhìn Ngọc Lâm.
- Lúc đầu cô ấy hỏi là
mỗi ngày thắp hết bao nhiêu hương, nến.
- Thế sư ông trả lời
thế nào?
- Tôi nói thắp hết lại
thắp, chứ không có tính.
- Cô ta hỏi gì nữa?
- Sau cô ấy lại hỏi
trong chùa có bao nhiêu người, và pho tượng chính giữa có phải tượng Phật
Thích Ca Mâu Ni không, câu này tôi nhờ thầy tri khách trả lời hộ, chứ tôi
không nói, sau đó cô ấy và người hầu gái ra về.
Trong khi họ chất vấn
như một ông quan tòa hỏi khẩu cung, Ngọc Lâm thấy lòng bực bội, nếu câu
chuyện không liên quan đến vấn đề rắc rối, thì nhất định thầy phải cho họ
một bài học.
- Thôi, thế đủ rồi. -
Sư ông coi kho nói vọng vào - Giờ xin hỏi thầy Ngọc Lâm: Người đi tu nếu
không giữ được giới cấm mà hồi tục, thì việc đó Phật cũng cho, tại sao
thầy không nhờ cơ hội này nắm lấy hạnh phúc mà lại trở về? Hay Vương tiểu
thư không biết chiều chuộng, hoặc tiền tài, danh vọng của họ không đáng
quý bằng lý tưởng của thầy? Dứt lời, sư coi kho đưa mắt nhìn mọi người, tỏ
ra mình có kiến thức cao minh.
- Sư ông nói rất đúng!
Nếu không giữ được giới, Phật cũng cho hồi tục, và đó không phải là việc
xấu xa, song sư ông nên hiểu rằng, tôi không phải là người không giữ được
giới. Còn nói đến hạnh phúc, chiều chuộng, danh vọng và tiền tài, thì
những người tu hành chân chính không nên ham cầu. Mục đích của người học
Phật chân chính là giải thoát khỏi vòng sinh tử, khổ não, đến cảnh giới
vĩnh viễn yên vui. Tôi vào tướng phủ làm rể là theo tiếng gọi từ bi phát
ra tự đáy lòng; vì muốn cứu Vương tiểu thư mà tôi bắt buộc phải đi, hiện
giờ mục đích cứu người đã đạt, tôi còn ở lại làm gì?Những lời của Ngọc Lâm
như một tiếng chuông buổi sớm, thức tỉnh bao nhiêu người ngu si trong mê
mộng, mọi người đều tỏ vẻ cảm phục và nhìn Ngọc Lâm bằng ánh mắt tôn kính.
Ngọc Lâm mỉm cười đắc ý!
- Sư ông cùng với con
gái người ta bị nhốt trong phòng một đêm mà?
Sư ông coi kho hỏi gạn.
- Đúng vậy! Song tôi
nhờ cơ hội ấy để thuyết Pháp!
- Sư ông thuyết những
gì?
Ngọc Lâm lại đem chuyện
tối hôm qua kể lại một lượt, và cuối cùng nói:
- Sau hết Vương tiểu
thư không phải người con gái tầm thường, nghe lời tôi, nàng giác ngộ ngay
cho nên mới chịu để tôi trở về; không bao lâu có lẽ nàng sẽ xuất gia.
- Nghe nói người hầu
gái của Vương tiểu thư rất tức với sư ông, tại sao vậy?
Họ còn đang hỏi lai
rai, thì đúng lúc ấy thầy tri khách và thầy Duy Na mở cửa Phật điện tiến
vào. Những người hiếu sự và tò mò ấy thấy họ liền ngậm miệng, chắp tay,
cúi đầu và đưa mắt nhìn nhau.
- Ngọc Lâm! Mừng Bác đã
về!
Thầy tri khách và thầy
Duy Na đều cười.
- Bạch quý thầy, tôi
đang định lên chào quý thầy, thì quý thầy lại đến đây rồi, xin quý thầy
tha lỗi! Ngọc Lâm chắp tay, tỏ vẻ ân hận.
- Vừa giờ chúng tôi đưa
mấy vị khách tăng vào thăm hòa thượng (chỉ hòa thượng trụ trì), hòa thượng
đã đem chuyện của bác nói hết cho chúng tôi nghe, ý chí bác thật là sắc
đá!
Thầy tri khách đối với
vị sư hương đăng trẻ tuổi ấy bất giác cũng khởi lòng kính mến!
- Các người không còn
việc gì làm nữa sao mà súm sít cả lại đây?
Thầy Duy Na đứng bên
cạnh, thái độ uy nghiêm như một ông tướng lãnh, hỏi những người tò mò.
- Nếu lát nữa hòa
thượng trụ trì đưa các vị khách tăng đi xem các nơi, họ mà thấy các người
tụ tập cả một đống ở đây, họ sẽ cười là chùa này không có qui cũ, thế bây
giờ không đi làm đi, còn đứng thưỡn cả ra đây hả?
Cả bọn lui lủi giải
tán, sau mấy lời khen ngợi và khích lệ Ngọc Lâm, thầy tri khách và thầy
Duy Na cũng đi làm phận sự của mình. Lúc này Ngọc Lâm mới có thì giờ xếp
đặt lại căn phòng lung tung, bừa bãi của mình.Vừa thu dọn, Ngọc Lâm vừa
nhớ những lời nói của mọi người lúc nãy, thầy hơi tức mình, đồng thời cũng
lại buồn cười. Thầy tự nghĩ: Đại đa số những người ấy không biết làm cách
nào nữa, mới đến ở chùa, tăng không ra tăng, mà tục cũng chẳng phải tục;
lúc bé ở nhà không được học hỏi, khi đến chùa cũng không chịu tìm hiểu đạo
lý, suốt ngày làm quần quật những việc khổ cực và cứ nghe lời nói và nhìn
cử chỉ của họ cũng đủ biết họ là những người không hơn gì bọn phàm phu tục
tử.Rồi cũng nhân những người ấy mà Ngọc Lâm nghĩ đến những người xuất gia
không hạn chế. Xuất gia là một việc cao quý, khó làm, mỗi vị sư phải là
người gương mẫu, mô phạm và là bậc thầy của dân chúng, song chế độ xuất
gia quá bừa bãi đến nỗi di hại cho Phật Giáo rất nhiều. Một số lớn tăng
chúng không nhận chân được nhiệm vụ cao quý của người xuất gia, sứ mệnh
thiêng liêng của Tăng già, nên phần nhiều họ đã có phụ chí xuất gia.Có
người tưởng rằng dành cho được chức vị trụ trì hoặc đương gia là đã đạt
mục đích xuất gia; cũng có người cho rằng, mỗi ngày vài buổi tụng kinh,
niệm Phật thế là đã làm trọn nhiệm vụ người tu hành rồi; lại còn một số
như sư huynh Ngọc Lam, ngoài việc ăn, ngủ ra, không còn việc gì khác. Một
đoàn thể xuất gia phức tạp như vậy thì làm sao duy trì và hoằng dương được
Phật pháp?
Đang lúc Ngọc Lâm suy
nghĩ lan man về những vấn đề ấy, thì hòa thượng trụ trì cùng mấy vị tăng
khách mở cửa tiến vào Phật điện. Ngọc Lâm thấy họ đứng trước Phật điện
chắp tay, cúi đầu, vội đến đánh ba tiếng chuông để tỏ lòng cung kính các
bậc tôn túc. Các vị khách tăng lễ Phật xong, hòa thượng trụ trì chỉ vào
Ngọc Lâm nói với họ:
- Đây là tiểu đồ đệ
Ngọc Lâm.
Mắt các vị khách tăng
đều hướng về Ngọc Lâm. Hòa thượng trụ trì lại bảo Ngọc Lâm:
- Ngọc Lâm, con hãy lại
chào các vị đi!
Ngọc Lâm vội đến vái
mỗi vị một vái. Các vị khách tăng mỉm cười nhìn Ngọc Lâm và đều nói Ngọc
Lâm là người thông minh, nếu có dịp, phải cho đi các nơi để học hỏi thêm.
Lúc họ đi ra, Ngọc Lâm nghe thấy một trong những vị khách tăng hỏi hòa
thượng trụ trì:
- Hòa thượng được tất
cả mấy người đồ đệ?
- Không dám, mới chỉ
được có hơn một người!
Một trận cười vang lên.
Họ đi ra hồ sen phía trước chùa.Sau khi hòa thượng trụ trì nói với các vị
khách tăng như thế, một làn mây nghi ngờ vẫn lên đầu óc Ngọc Lâm. Thầy cho
rằng hòa thượng trụ trì nói hơn một người đồ đệ, thì một nửa người nhất
định phải là sư huynh Ngọc Lam, còn một người là chỉ chính mình, vì sư
huynh là người lười biếng, nhất định sư phụ không thể coi như một đồ đệ.
Tuy nghĩ thế, song Ngọc Lâm vẫn không tin một cách quyết đoán, lòng hiếu
thắng cứ ray rứt thầy.Mãi đến tối, Ngọc Lâm tưởng phải lên hỏi sư phụ cho
ra nhẽ.Thầy rón rén bước vào phòng hòa thượng trụ trì, lúc đó ngài đang
ngồi ngay ngắn, nhắm mắt trên giường.
- Bạch sư phụ, sư phụ
đã yên nghỉ chưa ạ?
Hòa thượng trụ trì khẽ
mở đôi mắt.
Ngọc Lâm ấp úng:
- Sư phụ nói là sư phụ
có hơn một người đệ tử?
- Ừ!
- Con và sư huynh là
hai người kia mà?
- Không, con chỉ có thể
được xem như một nửa thôi!
- Sư phụ nói một người
là chỉ cho sư huynh?
Hòa thượng trụ trì gật
đầu:
- Ừ!
Lời hòa thượng trụ trì
như một bát nước lạnh dội lên đầu Ngọc Lâm, thầy không dám hỏi gì thêm,
thầy lui ra, thầy không thể tưởng tượng hòa thượng lại có thể nói như thế!
Ngọc Lâm trở về phòng
ngủ, mở tung cửa sổ ra, nhìn ánh trăng lấp lánh trên các tầu lá chuối, lẩm
bẩm:
- Mình chỉ được coi là
một nửa đồ đệ thôi!
Chương Bẩy
Từ khi biết sư phụ coi
mình chưa hẳn là một người đồ đệ, Ngọc Lâm thấy lòng tự ái bị thương tổn
rất nhiều. Thầy tự nghĩ: giả sử mình có một người sư huynh hơn mình cả về
tài, đức và trí tuệ, thì sư phụ bảo mình là nửa đồ đệ, mình cũng cam lòng,
đằng này sư huynh Ngọc Lam chẳng những đã không có tài, đức, học thức, mà
lại lười như bọ, chỉ ăn với ngủ thế mà được coi là một đồ đệ, như vậy thử
hỏi trên cõi đời này công lý ở đâu?
Theo ý Ngọc Lâm thì hòa
thượng trụ trì thật bất công, bởi thế tâm tư thầy thường thắc mắc bấn
loạn. Ngọc Lâm tự nghĩ mình chịu khó, chăm chỉ không phải mong người đền
bù, thưởng công, song cũng phải biết cho lòng mình, bây giờ mình lại không
bằng cái ông sư huynh lười biếng ấy, thì biết rằng sự lý ở đời này thật éo
le!Vì có tâm trạng như thế, cho nên Ngọc Lâm ngoài mấy thời công phu ra,
cũng chẳng chịu cất nhắc việc gì nữa; nét mặt lúc nào cũng ủ rũ, trong
chùa ai cũng bảo là thầy nhớ Vương tiểu thư, hoặc cho rằng sau khi rời bỏ
Vương tướng phủ, thầy hối tiếc, cho nên buồn rầu suốt ngày. Kỳ thực nỗi
lòng của Ngọc Lâm duy có hòa thượng trụ trì và sư huynh Ngọc Lam mới biết,
còn sự phỏng đoán của mọi người chỉ là theo sự nông nổi và thiển cận của
thế gian.Biết thế nên hòa thượng trụ trì và sư huynh Ngọc Lam không lấy
làm lạ khi thấy Ngọc Lâm trở nên chểnh mảng với việc tu trì. Thanh niên ai
cũng có tính hiếu thắng, và chính vì không chịu để ai hơn mình nên mới có
lòng tự tôn, tự ái. Ngọc Lâm vốn có tính dương dương tự đắc và không bao
giờ tự ty mặc cảm.Thầy vào làm rể trong tướng phủ và đã cảm hóa được Vương
tiểu thư một cách nhanh chóng, rồi lại trở về khoác manh áo tu hành, đó
đều nhờ ở điểm lý trí thắng tình cảm, thế mà không bỏ dẹp được tính hiếu
thắng để tỏ ra đức tính hoàn toàn trong trắng như một đóa hoa sen thơm tho
vừa nhô lên khỏi vũng bùn lầy!Ngọc Lâm buồn bã như thế đã mấy ngày. Một
hôm, mọi người trong chùa vừa ăn điểm tâm xong thì hòa thượng trụ trì gọi
cả Ngọc Lâm và sư huynh Ngọc Lam vào phòng riêng của ngài.
- Gần đây hai con đều
tỏ ra tu hành chăm chỉ lắm! Nói xong hòa thượng Thiên Ẩn bảo họ ngồi xuống
chiếc trường kỷ bên cạnh phòng.
- Hằng ngày con không
ngủ nghĩ, chỉ cố công tu trì, song rất tiếc đến nay vẫn chưa biết được
mình!
Sư huynh Ngọc Lam nói
với hòa thượng về công lao tu hành của mình, cố nhấn mạnh ba chữ "không
ngủ nghĩ" mục đích để Ngọc Lâm nghe rõ.
- Bạch sư phụ từ mẫn,
con không dám nói dối và che dấu sư phụ, hàng ngày mà con không ngủ nghĩ
thì không được.
Nghe Ngọc Lam nói, Ngọc
Lâm thấy ngứa tai, vì thầy cho là ông sư huynh nói dối thế mà sư phụ lại
nhận là một đồ đệ. Bởi thế giọng Ngọc Lâm có vẻ châm biếm, nhưng Ngọc Lam
cứ cười khà và lờ đi như không nghe.
- Hai con đều chịu khó
cả, nhất là Ngọc Lam, thầy biết xưa nay chăm chỉ lắm!
Nói xong, hòa thượng
Thiên Ẩn đứng dậy đi đến cái tủ để kinh, sách ở góc phòng, Ngọc Lam vẫn
giữ nguyên nét mặt thản nhiên sau câu khen ngợi của hòa thượng.Lúc đó Ngọc
Lâm đã thấy khó chịu, thầy đưa mắt nhìn hòa thượng, cái nhìn bao hàm nhiều
lời muốn nói. Thầy nghĩ: xưa nay sư phụ rất sáng suốt, không hiểu ông sư
huynh đấu hót thế nào mà khiến cho sự phụ mờ đi, có lẽ nào sư phụ không
nghe thấy một lời phê bình của mọi người trong chùa? Thầy lại quay sang
nhìn ông anh quý đang cười khà, lòng chán ghét của thầy tự nhiên như lại
trào lên; thầy cho rằng ông anh vốn là người chỉ thích ăn chứ không thích
làm, mà giờ dám nói với sư phụ là "không ngủ nghĩ", thật trơ trẽn, dối
trá! Thầy tin rằng dối trá như thế, sư huynh sau này nhất định sẽ gặp
những việc rủi ro, khổ sở.Ngọc Lam chỉ nhìn Ngọc Lâm, mỉm cười tựa hồ như
đã đọc thấy tư tưởng của ông em.Lúc đó hòa thượng trụ trì trở ra, tay bưng
một chồng sách:
- Từ xưa kinh Phật được
lưu truyền, đều nhờ ở công sao, chép; đây là hai bộ kinh Pháp Hoa chép
bằng tay, hai con mỗi người phải sao lại một bộ, viết cho đằng tả càng
chóng càng hay, tối đa là nửa tháng, đây là dịp để thử tài viết của hai
anh em xem ai hơn ai?
- Xin phụng mệnh sư
phụ, con tưởng hạn nửa tháng là đủ lắm rồi! Ngọc Lâm tỏ vẻ kiêu hảnh và
lại ái ngại nhìn ông anh.
Ngọc Lam cười hì hì,
không nói năng, đỡ lấy chồng sách, chắp tay chào hòa thượng rồi ra về. Khi
từ biệt, Ngọc Lam gọi Ngọc Lâm ra chái nhà khẽ nói:
- Sư đệ, chú hãy giữ
gìn sức khỏe, đừng cố gắng quá!
- Sư huynh muốn tôi
phải cảm tạ nổi quan tâm của sư huynh đối với tôi?
- Đó là lòng thành thực
của anh đó thôi!
- Cảm ơn lòng tốt của
sư huynh!
- Kinh Pháp Hoa có bảy
quyển và tất cả gần tám vạn chữ! Ngọc Lam vừa nói vừa chỉ vào chồng sách
dày cộm ôm trên tay, và tỏ vẻ lo lắng.
- Ai bảo sư huynh ngày
thường không chịu gắng công, ngoài ăn với ngủ, chẳng chịu mó đến việc gì,
bây giờ tôi còn cách nào giúp sư huynh được?
- Không phải tôi muốn
nhờ chú chép hộ, trong nửa tháng trời sợ phần chú cũng vội vàng lắm rồi;
có điều tôi mong là trước mặt sư phụ, chú đừng nói tôi chỉ ăn với ngủ suốt
ngày, sợ nếu sư phụ giận mà đuổi tôi ra khỏi chùa, thì tôi không biết đi
đâu.
- Hôm nay sư huynh mới
biết thế hả? Sư huynh tự hỏi xem hàng ngày sư huynh có sống đúng cuộc đời
của người xuất gia không? Ăn rồi ngủ, ngủ chán sư huynh lại đi lang thang,
người ta chê cười, bình phẩm sư huynh không thèm để ý, quần áo lôi thôi,
đi đứng thì lắc la lắc lư, nói không giữ lời, chẳng còn có uy nghi, lễ độ
gì; hành vi của sư huynh như thế ai người ta còn nể hòa thượng, và làm mất
cả thể diện của tăng đồ.
- Thật oan cho tôi!
Ngọc Lam nói.
- Những lời tôi nói có
đúng sự thật không?
Ngọc Lâm hỏi vặn.
- Tôi không muốn nói
với chú những việc ấy tôi chỉ yêu cầu chú trước mặt sư phụ, chú đừng bảo
tôi là người lười biếng, thế thôi!
- Tôi tưởng chúng ta
cùng theo một thầy, tôi nói như thế là mong sư huynh sửa đổi, cũng là vì
danh dự chung của Phật Giáo, còn nghe hay không, hoàn toàn quyền sư huynh.
Từ nay trở đi, tôi sẽ không nói nữa, sư huynh cứ yên tâm, song sư huynh
nên nhớ rằng: "cái kim bọc rẻ, lâu ngày cũng ra", sư huynh dấu mãi sư phụ
sao được!
- A Di Đà Phật, chú
mình tốt lắm! Tôi biết không phải chú nói những chỗ xấu của tôi để phô
trương những cái tốt của chú! Ngọc Lam cười xòa rồi bỏ đi thẳng.
Ngọc Lâm cũng trở về
phòng riêng, vừa đi vừa tự nghĩ: sư huynh biếng nhác, ngày thường không
chịu luyện tập viết lách, trong nửa tháng trời mà bộ kinh dày như thế thì
chép xong làm sao? Lúc ấy sư phụ mới biết sư huynh là người vô dụng, và
không thể coi mình kém sư huynh được.
Từ hôm ấy những nỗi
buồn vơ vẫn trong lòng Ngọc Lâm tan biến, thầy ra công chép, không kể ngày
đêm, mục đích viết cho xong bộ kinh trước ngày hạn định càng tốt để tranh
hơn với sư huynh. Thỉnh thoảng thầy lại lén đến phòng của Ngọc Lam để dò
xét tình hình, song lần nào thầy đứng ngoài khe cửa nhìn vào cũng thấy
Ngọc Lam nằm khèo ngủ trên giường, ngáy o o. Tuy mừng thầm, song Ngọc Lâm
nghĩ đến tính lười biếng của sư huynh vẫn không đổi, phụ lòng tin tưởng
của sư phụ, thầy cũng thấy lòng buồn rười rượi!
Thấm thoát đã đến ngày
thứ mười bốn của thời hạn chép kinh, chiều hôm ấy Ngọc Lâm đã hoàn thành
công việc, lòng thầy phấn khởi vô cùng; thầy dự bị mang kinh lên trình sư
phụ ngay để ngài biết công việc của thầy, dù sư huynh Ngọc Lam có chép
xong chăng nửa cũng đến mai mới đem lên, thời gian đó vẫn chậm hơn thầy.
Vả lại nửa tháng nay Ngọc Lâm vẫn thấy sư huynh ngủ hoài, dù có là thánh
mà không làm việc cũng chẳng xong. Nghĩ đến đấy, Ngọc Lâm cảm thấy thỏa
mãn và khắp khởi bưng kinh lên phòng hòa thượng trụ trì.
Khi đến cửa, Ngọc Lâm
sửa lại khăn, áo chỉnh tề, đưa tay gõ vào cánh cửa ba cái, phía trong có
tiếng vọng ra: Cứ vào, lập tức Ngọc Lâm mở cửa bước vào.
- Bạch sư phụ, con đã
chép xong kinh rồi ạ! Vừa nói Ngọc Lâm vừa đưa bộ kinh mới chép cho hòa
thượng.
- Chép mất mười bốn
ngày! Hòa thượng trụ trì bấm đốt ngón tay.
- Vâng con sợ sư phụ
mong nên cố chép xong sớm một ngày!
- Mãi hôm nay con mới
đem lên, đâu có sớm!
- Con chắc sư huynh con
chậm hơn con nhiều! Ngọc Lâm nói một cách rất trang trọng và quyết đoán.
- Sư huynh Ngọc Lam đã
đưa lên cách đây ba hôm rồi! Hòa thượng trụ trì đưa tay chỉ vào chồng kinh
cao ngất trên chiếc bàn đối
diện.
- Sư huynh chép xong đã
ba ngày rồi? Ngọc Lâm kinh ngạc.
- Con đến dở ra mà xem,
chữ ông ấy viết rất rõ ràng và đẹp đẽ!
Ngọc Lâm mở quyển kinh
thứ nhất ra coi, thì ngay ở trang đầu đã thấy một hàng chữ rất ngay thẳng:
"Sa Môn Ngọc Lam kính sao"!
- Quái thật? Ngọc Lâm
tự hỏi.
Hòa thượng trụ trì hiểu
rõ tâm trạng của Ngọc Lâm lúc ấy, liền an ủi:
- Con cũng chưa quá
ngày hạn định, vả lại sư huynh đã xuất gia lâu năm hơn con, sự thật như
vậy, con bất tất phải buồn!
- Bạch sư phụ, con
không buồn - Ngọc Lâm gấp quyển kinh lại - không phải con thấy sư huynh
hơn con mà con ghen ghét, trái lại,
không lúc nào con không
mong cho sư huynh hơn con; nếu trí tuệ, đạo đức và tài năng của sư huynh
đều hơn người, thì điều đó không những sư phụ vui mừng mà còn vẻ vang cả
cho con, song thật con không biết sư huynh dụng công ở chỗ nào?
- Hàng ngày con chỉ
thấy sư huynh ăn rồi ngủ?
- Con tưởng sư phụ cũng
thừa biết điều đó!
- Vậy mỗi lúc sư huynh
làm việc gì phải nói với mọi người mới được sao?
Ngọc Lâm không đáp. Hòa
thượng trụ trì tiếp:
- Đại đa số chỉ thích
xét người qua một khía cạnh, chỉ thích tìm những chỗ xấu của người mà
không chú ý đến điểm tốt của họ, do đó mới thường khinh người. Ngọc Lâm,
con là người thông minh mà cũng không hiểu được sư huynh con! Cõi đời này
là một cõi vĩnh viễn không bao giờ phân biệt được đen, trắng, phải, trái;
bao nhiêu người hiền tài đã bị hiểu lầm và mai một vì người đời không có
mắt nhận xét, còn bao nhiêu kẻ tiểu nhân khéo trang diện bề ngoài, thì
người ta cho là hiền nhân quân tử. Trên thế giới có người nào có trí nhận
xét một cách chân chính? Sư huynh con bề ngoài tuy hiện tướng hình phàm
nhưng trong tu mật hạnh của Bồ Tát, nếu dùng con mắt thế tục thì không thể
nhận xét được sư huynh đâu!Ngày nay tuy trong đoàn thể xuất gia hết sức
phức tạp, song trong đó không phải không có những vị Bồ Tát có đạo tâm
lớn, họ không màng đến tiểu tiết, phóng đãng hình hài, vượt hẳn ra ngoài
thế tình, nếu khinh khi họ, sẽ phải chịu tội báo!Nghe xong, Ngọc Lâm sững
sờ, đứng ngây người như một pho tượng, một lát sau, với giọng ăn năn, thầy
nói:
- Con thực cũng không
hơn gì người đời, con đã lầm hiểu sư huynh, nay nghe sư phụ chỉ dạy, con
thấy lòng xấu hổ vô cùng!
- Con biết thế là tốt
lắm rồi! - Hòa thượng trụ trì gật lia lịa - Cuối cùng con vẫn có trí tuệ
hơn người và một phong độ cao thượng; thầy rất hiểu tinh thần tự tôn, tự
trọng và nhân cách đặc biệt của con, song so với sư huynh, thì con chỉ có
thể xem được như một nửa người đệ tử của thầy mà thôi!Ngọc Lâm hổ thẹn,
cúi đầu.
- Con yên tâm về dụng
công thêm, con rất có phúc báo và thiện duyên, con chỉ cần cố gắng hơn
nữa, sự nghiệp của con sẽ huy hoàng và tương lai nhất định sẽ hơn sư
huynh!
- Con nguyện không phụ
ân của Tam Bảo và không phụ lòng mong mỏi của sư phụ! Con sẽ làm theo lời
sư phụ đã chỉ dạy!
- Được lắm! không biết
sau này thầy còn sống để được thấy không! Thôi con hãy về nghỉ đi!
Ngọc Lâm bái biệt sư
phụ rồi kéo lê những bước nặng nề trở về phòng riêng. Nửa tháng trời hí
hửng đến đây là kết thúc, càng nghĩ lại, thầy càng thấy hổ thẹn, càng hổ
thẹn, chàng càng thấy lòng ray rứt; tại sao từ trước đến giờ mình cứ khinh
dễ sư huynh? Bây giờ chỉ còn cách lên trước bàn Phật để sám hối. Nghĩ thế
rồi, Ngọc Lâm mặc áo chỉnh tề lên Đại Hùng Bảo Điện, ngồi trước tượng Phật
Thích Ca có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, thành kính lễ
bái; nhìn gương mặt từ bi, hỷ xã của đấng cha lành, tuy thầy có cảm giác
lâng lâng, song vẫn không xua đuổi được lòng buồn phiền, tự trách.
Ngọc Lâm tự lẩm bẩm:
- Lẽ ra mình không nên
coi thường sư huynh, bây giờ làm thế nào để sám hối người?
Chương Tám
Tử đấy trở đi Ngọc Lâm
lúc nào cũng thấy lòng băn khoăn, thầy chỉ mong có cơ hội để xin lỗi sư
huynh.Song hình bóng Ngọc Lam đã biến mất từ mấy hôm nay, không ai còn
thấy ông nằm khoèo trong căn phòng vắng vẻ ấy nữa.Một người đã thấy mình
có lỗi với kẻ khác, thì lương tâm lúc nào cũng cắn rứt?Khi gặp ai, Ngọc
Lâm có cảm tưởng như người ấy đang nhìn mình và nói:
- Ông là người khinh
mạn, ông thường coi rẻ sư huynh, song thật thì sư huynh là người tu mật
hạnh của Bồ Tát.
Ngọc Lâm cúi đầu, nhắm
mắt, không dám tự nhìn mình.
Một hôm, Ngọc Lâm đang
làm việc ngoài vườn, bỗng cảm thấy đói lòng, song cách bữa ăn còn xa, thầy
thất thểu về phòng ngủ, vừa đặt chân lên ngưỡng cửa, thầy thấy trên bàn
một gói gì to to, thầy bèn mở ra xem thì đó là gói thức ăn, ngoài đề mấy
chữ: "Biếu thầy Ngọc Lâm", lòng thầy bắt đầu nghi ngờ:
- "Ai mà tốt thế? Tại
sao họ biết đúng lúc mình đang đói mà đưa đến cho những thức ăn ngon thế
này? Thôi, mặc kệ, mình cứ ăn mấy miếng đã, rồi nói sau".
Đang lúc đói như cào
ruột nên Ngọc Lâm cũng chẳng muốn biết ai là người đã đưa gói thức ăn đến
cho thầy.Rồi cách ít lâu Ngọc Lâm lại thấy gói thức ăn trên bàn, Ngọc Lâm
cứ ăn, xong tuyệt nhiên không biết ai đưa đến, mà cũng không tìm ra tung
tích người ấy.
Ngày tháng thoi đưa,
tiết trời đã dần dần trở nên lạnh, và trời bắt đầu vào đông; ngoài song
cửa, gió bấc thổi vù vù, tuyết rơi lả tả.
Một hôm như thường lệ,
vào khoảng canh năm, Ngọc Lâm thức giấc rồi lên thắp đèn, hương trên điện
Phật, sau đó thầy ra hiên chùa dóng một hồi khánh để đánh thức các sư
trong chùa dậy lên khóa sáng thầy vừa bước ra khỏi cửa thì một cơn gió
lạnh hắt vào người thầy làm cho toàn thân cóng buốt. Đánh hiệu xong, thầy
thấy hai bàn tay cứng đơ, tuy thầy không cảm thấy khổ sở, song mùa đông
giá rét mà quần áo mỏng manh, thì người ta ai ai cũng khó chịu.Ngọc Lâm
tưởng vào phòng lấy tấm cà sà khoác thêm cho đỡ lạnh, khi đến nơi thầy
thấy một chiếc áo bông, mới, dày không biết ai đưa đến, gấp rất gọn gàng
để trên giường. Ngọc Lâm nhìn kỹ, thấy áo may rất cẩn thận và dày dặn, khi
dở ra, thầy lại thấy một mẩu giấy nhỏ gấp bên trong và trên đề mấy chữ:
"Trời lạnh, biếu thầy Ngọc Lâm để mặc cho đỡ rét!", thầy càng hoài nghi và
vô cùng kinh ngạc. Thầy tự nghĩ: Lúc này trời vẫn chưa sáng, và các sư
trong chùa cũng vừa mới thức giấc, ai đã đưa chiếc áo này đến đây sớm thế?
Mà cũng không để tên lại, hơn nữa trong chùa thì không ai có áo này, đến
sư phụ cũng chỉ mặc áo vải thô sơ, chứ đâu có thứ tơ lụa mịn màng thế này?
Ai để tâm săn sóc đến mình tốt quá thế? Do chiếc áo ấy, Ngọc Lâm lại nhớ
đến gói thức ăn cách đây mấy hôm; nhìn nét bút trên mẩu giấy, thầy biết đó
là chữ của một người học giỏi, song suy nghĩ mãi, thầy vẫn không đoán ra
người tốt bụng đó là ai, cuối cùng thầy tự nghĩ:Có lẽ Vi Đà Bồ Tát giúp
ta? Chắc ngài thấy mình là người thanh niên học đạo, xa cha mẹ, xa quê
hương. Ngài thương lòng nhiệt thành của mình, nên lúc đói thì cho thức ăn,
mà khi rét thì cho áo mặc. Thật là một việc không thể tưởng tượng! Song
nếu là Vi Đà Bồ Tát giúp mình, thì tại sao ngài phải gọi mình là thầy Ngọc
Lâm? Suy đi, nghĩ lại, rốt cuộc, Ngọc Lâm cũng không hiểu rõ.Ngọc Lâm tự
an ủi: Thôi, không cần nghĩ nhiều, đã đề rõ tên mình, vả lại trời đang
lạnh buốt, mình cứ mặc đại rồi sau sẽ hay.Ngọc Lâm không dám tiết lộ những
điều bí mật đó với ai, thầy chỉ khắp khởi mừng thầm và mang lòng hoài nghi
một mình.Từ đấy, Ngọc Lâm gia công lễ bái Vi Đà Bồ Tát để tạ ơn, vì theo
thầy thì ngoài đức Vi Đà Bồ Tát ra, không ai giúp đỡ thầy như thế. Thầy đi
tu đã năm, sáu năm nay, tuy trong chùa người trên, kẻ dưới ai cũng yêu quý
thầy, song về phương diện ăn, mặc thì thật
không ai đặc biệt quan
tâm đến thầy. Trước kia đại khái thầy nghe người ta kể nhiều chuyện về đức
hộ pháp Vi Đà Bồ Tát, nên giờ thầy chỉ biết tin thế thôi!
Một hôm sau khóa lễ
tối, Ngọc Lâm trở về phòng thì thấy một người đang nằm trên giường của
thầy, nhìn kỹ thầy mới biết đó là sư huynh Ngọc Lam đã biến mất mấy hôm
nay.
- Sư huynh! Sư huynh
đấy à! Lần đầu tiên Ngọc Lâm gọi Ngọc Lam một cách thân mật và cung kính.
- Ừ! Tôi đây!
Ngọc Lam bước xuống
giường, cặp mắt sáng quắc.
- Tôi đợi chú mà ngủ
thiếp đi; đáng lẽ tôi đi lâu rồi, nhưng lại nghĩ đến ngày mai chú sẽ bị
thầy Duy Na mắng, nên phải nán lại để báo cho chú biết trước.
- Tại sao mắng? Ngọc
Lâm ngạc nhiên hỏi.
- Tôi cũng không biết
tại sao, nhưng làm việc gì chú cũng nên để ý là hơn.
- Tôi chả làm gì nên
tội!
- Biết rồi!
- Vậy tại sao sẽ bị
mắng?
- Tôi có cảm tưởng như
sáng mai chú sẽ làm cho cả chùa đều lỡ công phu.
- Sư huynh nói thế là
thế nào?
- Tôi không còn thì giờ
để giảng giải, chú hãy cẩn thận coi chừng thời giờ!
Nói xong, Ngọc Lam đi
ra cửa.
- Sư huynh, xin sư
huynh cho tôi giải thích rõ với sư huynh một vài chuyện!
Ngọc Lâm không để ý đến
chuyện riêng của mình, trước kia thầy hay khinh thường sư huynh, mấy hôm
rồi được sư phụ chỉ bảo cho, nên lương tâm thì ân hận, thầy tưởng nhân cơ
hội này, thầy tỏ bày lòng ăn năn, hối cải của mình.
- Sự giải thích hay
nhất là đừng giải thích gì cả! Ngọc Lam cười xòa rồi bước ra khỏi phòng.
- Sư huynh, sư huynh
vẫn còn ghét tôi?
- Đừng nói thế, tất cả
sự tình ở đời đều là hiểu lầm cả, người ta biết căn cứ vào sự tưởng tượng
chủ quan, chứ thật không có gì đáng ghét hay không đáng ghét!Ngọc Lâm nhìn
bóng Ngọc Lam mờ trong bóng đêm.Nếu trước kia mà như thế thì Ngọc Lâm đã
mời ông anh ra khỏi phòng tự bao giờ rồi, song hiện giờ thì Ngọc Lâm đã
biết sư huynh Ngọc Lam bề ngoài tuy tỏ vẻ bình phàm, song trong tu mật
hạnh của một vị Bồ Tát. Cho đến hôm nay Ngọc Lâm mới thấy lời nói của sư
phụ chứa đựng một triết lý sâu xa. Thầy tự trách mình trước kia cho là lời
nói của Ngọc Lam là hàm hồ, rồ dạ, thật oan uổng cho người.Lúc nầy Ngọc
Lâm trở lại ngồi phân tích những lời của Ngọc Lam. Ông nói sáng mai Ngọc
Lâm sẽ làm lỡ công phu của mọi người trong chùa, lại bảo thầy phải cẩn
thận nhớ giờ giấc, và còn nói ngày mai thầy sẽ bị mắng nữa, nghĩ một lát
thầy chợt hiểu ra.Ngọc Lâm cho rằng sư huynh biết chắc sáng mai thầy sẽ
ngủ trưa, không nhớ giờ giấc để đánh thức mọi người dậy lên khóa sáng, cho
nên nói lỡ công phu. Vì ngủ trưa tức là không làm trọn bổn phận, mà đã
không trọn bổn phận thì đương nhiên là thầy Duy Na sẽ khiển trách. Sư
huynh quá lo xa. Ngày mai mình sẽ dậy đúng giờ, không sai một phút, làm
cho lời phỏng đoán của sư huynh trật lấc để tỏ cho sư huynh biết mình cũng
không phải người vô dụng!Trước khi lên giường ngủ, Ngọc Lâm nhớ lại lời
nói của sư huynh, thầy lại nhất định không chịu nằm, cứ ngồi chờ cho trời
sáng để đi đánh thức mọi người, khiến cho sư huynh không thể coi thường
được thầy.Nghĩ thế lòng Ngọc Lâm càng phấn khởi, thầy ngồi xem kinh đợi
cho trời sáng.
Đêm khuya, gió lạnh
cảnh chùa trở nên tịch mịch, thanh u không khác gì lãnh cung của một Vương
Phi thuở xưa, một mình Ngọc Lâm ngồi trong căn phòng vắng vẻ, ngọn đèn dầu
lạc tỏa ra một ánh sáng mờ, vàng nhạt, hình bóng của Ngọc Lâm in trên
tường, một mình, một bóng với chiếc giường, ngoài ra không còn vật gì
khác.Ngọc Lâm xem kinh Hoa Nghiêm, thầy đã hết tư tưởng vào chân lý viên
dung vô ngại trong Hoa Tạng thế giới, thầy thể nhập được trí tuệ sâu xa
của chư Phật và Bồ Tát, sau thầy lại nghĩ đến tinh thần cầu đạo của Thiện
Tài Đồng Tử, năm mươi ba lần đi tham học, lòng thầy kính ngưỡng vô cùng!
Thầy xem đã khá lâu,
nhưng đêm đông dày đặc, vẫn chưa thấy tiếng gà kêu sương. Ngọc Lâm thấy
tinh thần mỏi mệt liền gấp quyển kinh lại và ngồi nhắm mắt tham thiền.
Thần trí Ngọc Lâm trở
nên hôn mê.Thời gian như một giòng nước chảy đều đều, mỗi khắc mỗi trôi
qua.Trời đã sáng rõ, Ngọc Lâm vẫn còn tọa thiền!
- Cộc, cộc! Mở cửa!
Tiếng thầy Duy Na oang oang trên Phật điện.
Ngọc Lâm bừng tỉnh:
- A! Chết chửa! Sáng
trật ra rồi!
Ngọc Lâm vội vàng và
làu nhàu lên mở cửa chính điện.
- Ngủ như chết giả ấy!
Bác nhìn xem, bây giờ là mấy giờ rồi?
Thầy Duy Na trừng mắt
mắng Ngọc Lâm.
- Tôi nhớ lắm song trót
lỡ. Ngọc Lâm tự nhận lỗi.
- Hư... Trời sáng thế
này mà chưa dậy dánh hiệu, còn bảo là nhớ. Gần đây tôi coi bộ bác cũng
không khác gì ông anh quý của bác, chỉ ăn với ngủ!
- Tôi đâu sánh được với
sư huynh tôi, xin thầy đừng quá khen, tôi và cả thầy nữa, chúng ta còn kém
người xa lắm! Ngọc Lâm tỏ ra không chịu.
- Bác dám láo với tôi
à?
- Thầy Duy Na, xin thầy
đừng giận! Trước kia tôi cũng như thầy, chúng ta đều tự phụ, cho mình là
ghê gớm lắm, kỳ thực chúng ta đều là những người kém cỏi! Những người thật
hiền tài thì ta lại cho họ là vô dụng, đó là điểm ngu si của loài người!
- Giờ bác lên giọng dạy
đời hả? Thầy Duy Na cáu thêm.
Ngọc Lâm không nói nữa,
đến cầm chiếc dùi khánh đóng một hồi. Thầy Duy Na đứng mắng theo, nhưng
Ngọc Lâm giả đò như không nghe.Trong lòng Ngọc Lâm nghĩ: Sao sư huynh biết
hôm nay mình nhỡ giờ? Và sao biết trước thầy Duy Na sẽ mắng mình? Bây giờ
Ngọc Lâm mới nhận thực sư huynh không phải là người tầm thường!Ngọc Lâm đi
tìm sư huynh, nhưng không thấy.Đến tối, ngất ngưởng như say rượu, sư huynh
Ngọc Lam bước vào phòng ngủ của Ngọc Lâm.
- Sư đệ, làm chú bực
mình quá hả?
- A! Sư huynh! Mời sư
huynh ngồi, Ngọc Lâm đứng dậy.
- Tôi không có thì giờ
ngồi nói chuyện với chú, tôi có việc phải đi ngay.
- Sư huynh, sao sư
huynh biết hôm nay tôi nhỡ giờ?
- Tôi cũng không biết!
- Hôm qua sư huynh nói
rõ ràng như thế mà.
- Chú cho là rõ ràng
thì nó rõ ràng. Tôi bảo chú hãy cẩn thận giờ giấc, mà chú sợ nhỡ giờ, kết
quả là nhỡ giờ thật! Điều đó chả có gì lạ cả!
- Sợ nhỡ giờ, đâm ra
nhỡ giờ thật! Ngọc Lâm suy nghĩ câu nói của sư huynh.
- Sư đệ, tôi xem chú có
vẻ còn thắc mắc một vấn đề gì?
- Kể thì tôi còn thắc
mắc nhiều vấn đề, xin sư huynh chỉ giáo!
Lúc này bất cứ Ngọc Lam
nói gì, Ngọc Lâm cũng sung sướng tiếp thụ.
- Không! Ngọc Lam nhìn
chiếc áo bông mới trên mình Ngọc Lâm - Gần đây chú lại có thêm một vấn đề
chưa rõ ràng trong đầu óc chú!
- Gần đây? Gần đây thì
có người đưa thức ăn và chiếc áo này cho tôi, tôi không dám dấu sư huynh,
có lẽ là Vi Đà Bồ Tát giúp đỡ tôi chăng?
- Vi Đà Bồ Tát giúp
chú? Ha... ha...! việc lạ! Tiếng cười của Ngọc Lam phá tan sự tĩnh mịch
trong Phật điện.
- Không phải Vi Đà Bồ
Tát? Ngọc Lâm đỏ mặt!
- Chú có muốn gặp vị Vi
Đà Bồ Tát ấy không?
- Làm thế nào gặp được?
- Điều đó rất dễ, ngài
đã đến tìm chú nhiều lần, đều bị tôi cản lại; đại khái ngày mai ngài lại
đến tìm chú, độ gần trưa chú ra đứng giữa đường phía ngoài chùa mà đợi,
chú sẽ được thấy, ha....ha.... Vi Đà Bồ Tát!
Nói xong, không đợi
Ngọc Lâm đáp, Ngọc Lam cười xòa rồi bỏ đi, Ngọc Lâm đứng thẫn thờ trong
giây lát!
Chương Chín
Sáng sớm hôm sau, Ngọc
Lâm trở dậy tuy cũng làm việc theo thời khóa biểu như thường lệ, song lòng
thầy không khỏi bồn chồn, thấp thỏm.Hình tượng của Vi Đà Bồ Tát mặc áo
nhung, cầm bảo chử, cứ lởn vởn hiện ra trong đầu óc thầy, lúc nào thầy
cũng nhớ lời của sư huynh Ngọc Lam nói là hôm nay thầy sẽ được gặp Vi Đà
Bồ Tát, song hình thù của thật của Vi Đà Bồ Tát không biết có giống như
pho tượng mà mình lễ hàng ngày?
Trên Phật điện, đèn nến
sáng trưng, khói hương nghi ngút, tiếng tụng kinh của các sư họa theo nhịp
mõ trầm hùng, thỉnh thoảng lại điểm lẫn tiếng chuông, ngân nga, văng vẳng
và du dương như một điệu nhạc; mọi ngày thường, khung cảnh và thanh âm ấy
đã làm cho Ngọc Lâm say sưa, ngây ngất và cảm động. Nhưng hôm nay, trái
lại, Ngọc Lâm chỉ mong cho chóng hết khóa lễ sáng, vì tâm trí của thầy đã
dồn cả vào việc đi gặp chân thân của Vi Đà Bồ Tát.Sau khóa lễ chấm dứt,
Ngọc Lâm từ Đại Hùng Bảo Điện đi ra, đến trước tượng Vi Đà Bồ Tát lạy mấy
lạy, lúc đó trời cũng đã mờ mờ sáng.Ngọc Lâm quỳ trước tượng Vi Đà Bồ Tát
và lâm râm khấn khứa, chúc tụng:
- Lạy Bồ Tát, ai cũng
nói ngài thường cảm ứng khắp ba châu để hộ trì Phật pháp, ai cũng nguyện
lễ bái ngài. Đã mấy lần ngài đưa thức ăn và cả áo rét đến cho con, con cảm
kích vô cùng! Ngọc Lâm này tuổi còn ít, lại không có đức, đâu có xứng đáng
với lòng thương xót của ngài! Sư huynh Ngọc Lam bảo con gần trưa hôm nay
ra đứng ở giữa đường phía ngoài chùa sẽ được thấy chân thân của ngài, lúc
ấy kính xin ngài rủ lòng thương chỉ cho những chỗ ngu muội của con!Đang
lúc Ngọc Lâm khấn thầm như thế thì bỗng sau lưng có tiếng thét lên:
- Không! Không được!
Hôm qua tôi bảo chú sáng nay đi gặp vị Hộ Pháp Vi Đà đã mang thức ăn và áo
đến cho chú, chứ không phải vị Vi Đà bằng gỗ chạm khắc này!
Ngọc Lâm chưa hiểu vỡ
lẽ, vội ngoảnh đầu nhìn lại thì đó là sư huynh Ngọc Lam!Ngọc Lâm đứng dậy,
đi đến trước sư huynh Ngọc Lam, cất tiếng: Chào sư huynh!
- Sao chú lẩn thẩn vậy!
Ngọc Lam lắc đầu hỏi.
Một luồng gió lạnh hắt
vào mặt Ngọc Lâm, thầy ngơ ngác nhìn sư huynh Ngọc Lam bằng ánh mắt hoài
nghi.
- Chú cầu vị Bồ Tát
bằng gỗ này chỉ cho chú những điểm ngu muội để làm gì?
- Rất mong sư huynh chỉ
giáo cho! Ngọc Lâm đã hiểu lời nói của sư huynh.
- Tất cả Phật đã nói
hết rồi, chỉ giáo, còn gì nữa mà chỉ giáo? Ngọc Lam lắc đầu.
- Song - Ngọc Lâm nói -
Chân lý của Phật không phải ai cũng có thể hiểu được, vậy nhờ thiện tri
thức chỉ bảo, dắt dẫn há không cần thiết lắm sao?
- Thế tôi là thiện tri
thức? Ha... ha...! Tiếng cười ha ha của Ngọc Lam làm cho mấy con chim đang
đậu trên cây ngọc lan phía trước chùa cũng phải giật mình và cất cánh bay.
- Sư huynh - Ngọc Lâm
nói một cách cung kính - Trước kia Ngọc Lâm này không biết, có điểm vô lễ
đối với sư huynh; gần đây tôi cứ mong có dịp để sám hối sư huynh, nhưng
lúc nào cũng thấy sư huynh vội vội vàng vàng, mà đến phòng riêng cũng
không gặp sư huynh, sư huynh là người đạo cao, đức trọng, chắc sư huynh
chả để ý đến những việc đã qua.
- Không nói quá khứ và
vị lai, ngay việc hiện tại cũng chưa xong.
Ngọc Lam nhìn thẳng vào
mắt Ngọc Lâm; nói tiếp:
- Tôi hỏi chú việc hiện
tại mà người xuất gia phải làm là việc gì?
- Hoằng dương Phật
pháp, cứu giúp chúng sinh!
- Thế chú đã Hoằng
Dương Phật Pháp chưa?
- Tôi vẫn chưa hiểu gì.
- Thế chú đã cứu giúp
chúng sinh chưa?
- Nếu có cơ hội tôi sẽ
làm! Ngọc Lâm lại nhớ đến việc cứu Vương tiểu thư.
- Này chú! Chưa đến giờ
điểm tâm, không khí buổi sớm trong sạch thế kia, chú với tôi hãy ra cửa
Tam Quan đi dạo một lúc.
Ngọc Lâm gật đầu, theo
sau Ngọc Lam.Lần đầu tiên hai anh em họ đi chung với nhau và cũng là lần
đầu tiên Ngọc Lam tỏ thái độ của một vị sư đường bệ, siêu việt.Họ dừng lại
bên bờ hồ phía ngoài cửa Tam Quan.
- Sư đệ! Ngọc Lam thân
mật gọi Ngọc Lâm.
- Chú bảo hiểu được
Phật pháp mới đi Hoằng dương, nếu thế không bao giờ chú hiểu được Phật
pháp, vì chính lúc hoằng dương phật pháp mới có thể hiểu Phật pháp. Ngày
ngày cứ đóng khung trong cảnh chùa và nhai đi nhai lại mấy cuốn sách cổ,
như thế đâu có thể hiểu được Phật pháp?
- Đúng thế, đó chỉ hiểu
được bề ngoài của Phật pháp, mà chưa hiểu được phần thực dụng của Phật
pháp. Ngọc Lâm đồng ý với Ngọc Lam.
- Phật pháp chân chính
không phải ở xa lìa chúng sinh, tu học Phật pháp là phải tìm Phật pháp
ngay giữa chúng sinh; chú có thấy hiện nay phần nhiều người học Phật muốn
ly khai chúng sinh? Ngọc Lâm gật đầu.
- Chú nói có cơ hội chú
sẽ cứu chúng sinh, kỳ thực cho đến nay chú vẫn chưa cứu được người nào.
Thí dụ có người té xuống hồ - Ngọc Lam chỉ xuống hồ nước - chú muốn cứu
họ, chú phải nhảy xuống vớt họ lên bờ, cứu họ khỏi chết đuối, thế mới là
cứu người; song hiện giờ chú chưa cứu người theo cách ấy, chú thấy chúng
sinh đắm đuối trong bể ái dục, chú muốn cứu, song chỉ đưa họ lên khỏi mặt
nước để thở trong giây lát, rồi lại quăng họ xuống và thung dung rũ áo ra
đi, như thế mà chú tưởng là chú đã cứu người?
Câu nói của Ngọc Lam
đánh trúng tâm bệnh của Ngọc Lâm, Ngọc Lâm xấu hổi, cúi đầu, yên lặng
không đáp.
- Từ nay về sau, chú
cứu ai phải cứu đến nơi đến chốn, đừng đem con bỏ chợ!
Giọng Ngọc Lam như ra
lệnh.Ngọc Lâm biết sư huynh muốn ám chỉ việc mình vào làm rể trong Vương
tướng phủ, thầy nghĩ cũng đúng: thầy vào tướng phủ tuy đã thuyết phục được
Vương tiểu thư, nàng đã khỏi bệnh, song thầy vẫn chưa cứu nàng ra khỏi bể
sinh tử, ái dục.
Ái tình của con người
vốn là chủng tử từ kiếp trước, không phải năm ba câu nói mà đoạn từ ngay
được. Trong đêm tân hôn, tuy Ngọc Lâm đã dùng câu nói cảm hóa được Vương
tiểu thư và vẫn giữ được tâm hồn trong trắng để trở về với sự nghiệp tu
hành, song tình yêu của Vương tiểu thư đối với Ngọc Lâm vẫn chưa hoàn toàn
chết hẳn, chính Ngọc Lâm cũng hiểu rõ điều đó.Dĩ nhiên Ngọc Lâm cũng không
thể quên hẳn được vẻ đẹp yêu kiều và tình tứ của Vương tiểu thư, song thầy
cứ cố quên, vì thầy hiểu rằng ái tình có sức mạnh ghê gớm, nếu không cẩn
thận sẽ bị lôi cuốn theo. Bồ Tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả, Ngọc Lâm luôn
luôn ghi nhớ câu nói ấy.Giờ đây nghe sư huynh nói, biết rằng sư huynh cho
mình chỉ mới đưa Vương tiểu thư lên khỏi mặt nước, rồi lại buông nàng ra,
chứ chưa thật cứu nàng ra khỏi bể khỏi, song làm thế nào để cứu nàng? Lúc
ấy Ngọc Lâm bắt đầu cảm thấy buồn phiền!
Từ trên cây ngô đồng
bên bờ hồ mấy chiếc lá vàng rơi xuống vai Ngọc Lâm, thầy đưa tay rủ chiếc
áo bông mới để gạt những lá xuống đất.
- Chú mặc chiếc áo mới
ấy có thấy ấm không? Ngọc Lam nhìn Ngọc Lâm từ đầu đến chân.
- Đây cũng là nhờ ơn Vi
Đà Bồ Tát.
- Ủa, lại cũng Vi Đà Bồ
Tát! Ha... ha...
- Sư huynh nói là hôm
nay tôi sẽ được thấy ngài hộ pháp Vi Đà Bồ Tát mà?
Ngọc Lâm nhìn sư huynh
Ngọc Lam chằm chặp bằng ánh mắt dò hỏi: - Phải rồi, hôm nay chú sẽ được
thấy ngài Hộ Pháp đã đưa thức ăn và áo đến cho chú, Ngọc Lam không nói đến
bốn chữ "Vi Đà Bồ Tát" nên dù có thông minh, Ngọc Lâm cũng không hiểu ngụ
ý câu nói của sư huynh.Ngọc Lâm biết thế nên cũng không hoài nghi
nữa.Boong! Boong! Boong!.... Tiếng chuông báo hiệu điểm tâm trong chùa
vọng ra. Trời đã sáng hẳn.
- Sư huynh, đến giờ ăn
điểm tâm rồi!
- Ăn! Suốt ngày chỉ có
ăn, ngoài việc ăn ra, hình như con người không còn việc gì khác.
Ngọc Lâm nghe sư huynh
nói thế, biết là mình đã nói vội, thầy thấy đỏ mặt!
- Chú về ăn đi, tôi còn
đi đàng này có chút việc.
Không đợi Ngọc Lâm trả
lời, nói xong, Ngọc Lam rũ tay áo và đi thẳng.Ngọc Lâm nhìn theo Ngọc Lam,
một cảm giác mang mang thoáng hiện trong óc thầy.Gần đây sao sư huynh lại
tỏ thái độ kỳ lạ và bí ẩn, ông không có một chức vụ gì ở trong chùa, hơn
nữa, không ai chơi bời với ông, ai cũng cho ông là người điên điên, khùng
khùng, không thèm lai vãng, và chính ông cũng vậy, ngoài việc ăn xong lại
ngủ ra, ông coi như cõi đời này không có liên quan gì đến ông. Trước kia
Ngọc Lâm không những chẳng thèm đếm xỉa đến ông, mà còn ghét ông vô hồi kỳ
tận. Từ sau hôm chép lại bộ kinh Pháp Hoa, Ngọc Lâm mới biết ông là một
người phi phàm; rồi hòa thượng trụ trì lại bảo là ông tu mật hạnh của một
Đại Thừa Bồ Tát, nên từ đấy Ngọc Lâm không dám khinh thường. Song từ khi
Ngọc Lâm hối cải, thay đổi thái độ đối với ông, thì ông lại càng tỏ ra
thần bí, ông đi, về bất định; lúc muốn tìm ông thì đâu cũng không thấy,
lúc không tìm kiếm ông thì tự nhiên ông xuất hiện. Khi Ngọc Lâm thấy ông,
ông chỉ nói câu được, câu chăng rồi lại bỏ đi, nếu Ngọc Lâm muốn nói gì
với ông cũng khó.Ngọc Lâm nhìn hỉnh ảnh sư huynh đã khuất xa rặng cây
ngoài đầu đường mới quay gót trở về. Vừa đi thầy vừa nhìn tứ phía, đâu đâu
cũng vắng lặng. Ngọc Lâm tự nghĩ tình cảm con người xưa nay cũng vắng lặng
như thế, không có mừng, giận, thương, vui, lo sầu, khổ não, song chỉ vì để
ngoại cảnh chi phối mà lòng người trở nên xáo trộn, cũng như một trận gió
thổi qua, làm cho cây rung động, hay một viên đá rớt xuống, khiến mặt hồ
gợn sóng.
Khi còn tấm bé, tâm hồn
Ngọc Lâm trong sạch, vắng lặng không một điểm nhơ, khi lớn lên, những nổi
bất bình ở đời, những lo âu của kiếp người, sự suy vong của Phật giáo và
một đoàn thể tăng đồ phức tạp, đã khiến cho tâm hồn thầy xao xuyến, bất
an. Thêm vào đấy, hiện giờ Vương tiểu thư và sư huynh Ngọc Lam, việc họ
làm, lời họ nói đều gây tiếng vang trong lòng thầy, do đó, Ngọc Lâm thấy
tình cảm bị khích động.
- Chú có thấy thầy Ngọc
Lam và sư ông Ngọc Lâm đi ra không?
Lúc Ngọc Lâm sắp bước
vào cửa Tam Quan thì nghe tiếng sư bác trực nhật hỏi sư chú gác cửa ngõ.
- Không! Quái nhỉ, hai
người có thể cùng đi với nhau kia à? Sư chú gác cửa hỏi lại bác trực nhật,
vì theo họ, ai mà cùng đi với Ngọc Lam thì người ấy là cái mốc cho họ
cười, huống chi đây lại là Ngọc Lâm vốn ghét cay ghét đắng sư huynh.
- Không biết họ đi làm
cái ma gì?
- Đã hai ba lần tôi
thấy Ngọc Lam đứng nói chuyện với một người con gái trẻ măng ở phía ngoài
Tam Quan, không biết họ nói chuyện gì!
- Ừ, tôi cũng bắt gặp
một lần, không ngờ cái ông điên điên, khùng khùng ấy mà vẫn còn động lòng
trần!
Ngọc Lâm vốn không
thích nghe những lời nói xấu sau lưng, nên tảng lờ như không nghe, song
vừa đi được mấy bước thì những tiếng
"Ngọc Lam.... con
gái..... lòng trần" rót vào tai thầy, bất giác thầy dừng bước một cách tò
mò.
- Lần nào cô ả cũng
đứng xa xa ngoài Tam Quan nói chuyện với Ngọc Lam, trông diện mạo cô ta
không phải là con nhà tầm thường, và tôi nhớ mang máng như đã thấy cô ở
đâu, rất tiếc chỉ nhìn được có một bên, chứ nếu nhìn thẳng mặt tôi có thể
nhận ra ngay.Sư chú gác cửa cao hứng nói và tỏ ra ta có một nhãn lực phi
thường.
- Cô ả coi bộ chưa lập
gia đình, trong chùa có sư ông Ngọc Lâm xinh trai đáo để, sao cô ả không
đến mà ve vãn lại đi dấm dớ với ông tổ nội nửa rồ nửa dại ấy không
biết?....
Ngọc Lâm không muốn
nghe, cúi đầu bước mau về phòng riêng sau điện Phật.Lúc này Ngọc Lâm thấy
bất mãn với người đời, thầy tự nghĩ tuy cũng có lúc sư huynh tỏ ra điên
khùng, song đó là người cố ý giả tạo, nếu không, sao lời nói của sư huynh
hàm súc một ý nghĩa xâu xa như thế? Một vị Thánh Tăng có lẽ nào lại bị
người đời khi rẻ, chê bai và trào lộng như vậy?
Ngọc Lâm bực tức đến
nỗi quên cả ăn sáng. Ngọc Lâm tự nghĩ nếu lời nói của sư chú gác cửa và sư
bác trực nhật đúng sự thật, thì nhất định sư huynh phải có một việc gì bí
ẩn lắm. Nhưng người con gái ấy là ai? Nàng ở đâu đến? Ngọc Lâm chịu không
thể nghĩ ra.Ngọc Lâm quét dọn trên Phật điện tươm tất cả rồi, tuy vẫn còn
sớm, song thầy sợ nhỡ giờ hẹn không được gặp Vi Đà Bồ Tát, bởi thế thầy
thành khẩn ra đứng giữa đường phía ngoài chùa chờ đợi thật sớm. Con đường
này trừ những ngày đình đám tấp nập, ngày thường rất ít người qua lại.
Ngọc Lâm luôn luôn đưa
mắt nhìn tứ phía, càng gần trưa, lòng thầy lại càng bồn chồn hồi hộp.
Xa xa một hình bóng
thiếu nữ đang đi đến.
- Mình không nên nhìn
nàng, nhỡ ra Vi Đà Bồ Tát xuất hiện đằng phía sau, thấy thế ngài sẽ quở
trách mình. Trong lòng Ngọc Lâm tự nghĩ như thế nên thầy ngoảnh nhìn sang
hướng khác. Không bao lâu, Ngọc Lâm nghe sau lưng có tiếng chân bước dồn
và tiếng người vang lên:
- Tế lang, à Vạn Kim
Hòa thượng, ấy chết thầy Ngọc Lâm! Thầy.... thầy ở đây hả?
Ngọc Lâm quay lại, buột
mồm kinh ngạc:
- A! Thúy Hồng! Vẫn lại
là cô!
Chương Mười
Thúy Hồng cong cớn và
hờn dỗi, nói với Ngọc Lâm:
- Thầy thật là một nhân
vật quan trọng, gặp được thầy khó quá lên trời!
- Cô muốn đến chùa lễ
Phật? Ngọc Lâm nhìn Thúy Hồng với vẻ hoài nghi, và giả vờ như không nghe
rõ câu nói của Thúy Hồng, thầy lại nhấn mạnh giọng nói tiếp:
- Mời cô cứ vào đi, tôi
còn ở lại đây có chút việc cần!
- Bạch thầy - Thúy Hồng
đã được Vương tiểu thư dạy cách xưng hô - Hiện giờ ai không biết thầy là
một Vạn Kim Hòa Thượng, một người phi phàm, song xin thầy cũng không nên
coi chúng tôi như những con hổ cái, thầy xem, thầy sợ tôi thế kia!
- Không phải! Tôi đâu
dám thế! Hiện đã tới giờ rồi, xin cô đi ngay cho!
Ngọc Lâm nhìn mặt trời,
nhớ đến lời dặn của sư huynh là gần trưa sẽ thấy Vi Đà Bồ Tát, bởi thế
thầy giục Thúy Hồng.
- Thầy bảo tôi đi đâu
bây giờ? Thúy Hồng hỏi.
- Cô tự hỏi cô xem!
- Tiểu thư bảo tôi đến
tìm thầy mà!
- Tiểu thư bảo cô đến
tìm tôi?
- Nếu không tìm thầy
tôi đến đây hai ba lần làm gì?
- A!...
Ngọc Lâm thấy khó nghĩ.
Lúc này thầy thấy bối rối muôn phần. Từ khi ở tướng phủ trở về chùa, tuyệt
nhiên thầy không biết gì về tình hình của Vương tiểu thư, nàng đau lại?
Hay đã đi tu rồi? Một đôi khi vì tiếng gọi của lòng từ bi, thầy cũng nghĩ
đến nàng, song từ xưa đến nay, giữa trai, gái hình như vẫn có một khoảng
cách rất sâu rộng. Khoảng cách đó người ta đều không dám vượt qua vì sợ sa
lầy, bởi thế mới có sự thần bí giữa trai, gái.Phật Thích Ca vì nhận bát
sữa của nàng mục nữ dâng cúng, mà bọn ông Kiều Trần Như bỏ ngài ra đi; A
Nan bị nàng Ma Đăng Già cám dỗ, mà ai cũng trách người là chỉ thích nghe
nhiều, học rộng, mà coi thường giới hạnh. Những điều đó đã in sâu vào tâm
trí Ngọc Lâm. Quan niệm về nhân sinh của Ngọc Lâm và sư huynh Ngọc Lam
hoàn toàn mâu thuẩn nhau, theo Ngọc Lam thì bất cứ làm việc gì, không hổ
thẹn với lương tâm là được rồi, không cần để ý đến dư luận khen, chê của
người đời. Song quan niệm của Ngọc Lâm thì khác, thầy có tính hiếu thắng,
có lòng danh dự, rất e dè trước dư luận của quần chúng. Cho nên, để tránh
sự bàn tán của người đời, thầy đành âm thầm, đau đớn, đem tấm lòng từ bi
thương xót của Vương tiểu thư chôn sâu vào tâm khảm!Ngọc Lâm biết rõ ràng
rằng, một người xuất gia phải hoàn toàn chế ngự những ý niệm nhơ nhớp
trong lòng, đối với mọi người phải có tâm bình đẳng, không phân biệt già,
trẻ, trai, gái nhưng người đời vì quan niệm truyền thống lại cho thế là
không hợp lý. Họ muốn mình phải phân biệt, phải sợ hãi đàn bà, phải xa
lánh chúng sinh, Ngọc Lâm đành cúi đầu trước những quan niệm ấy.
Hiện giờ, từ cửa miệng
Thúy Hồng nói ra là Vương tiểu thư sai nàng đến tìm thầy, hình ảnh mỹ
miều, dịu hiền và tình tứ của Vương tiểu thư lại hiện ra trong trí nhớ của
thầy: Ngọc Lâm có cảm giác rằng, tuy thầy hoàn toàn không có trách nhiệm
gì đối với sự sống, chết và buồn vui của Vương tiểu thư, song về phương
diện đạo nghĩa, thầy không thể hoàn toàn làm ngơ.
- Cô tôi đã cho tôi đến
hỏi thăm thầy đã ba lần rồi. - Thúy Hồng nói.
- Thúy Hồng, lúc này
quả thật tôi không thể nói nhiều với cô, xin cô hãy quá bộ vào chùa vãng
cảnh, đợi tôi về hãy nói chuyện!
Lòng Ngọc Lâm tuy nhớ
đến Vương tiểu thư, song lại nghĩ cơ hội được gặp Vi Đà Bồ Tát là ngàn năm
một thuở cho nên thầy tạm gác việc hỏi chuyện Thúy Hồng.
- Trông thầy bồn chồn
có vẻ như chờ đợi người yêu nào đây, vì sợ tôi thấy nên thầy cứ giục tôi
đi riết? Thúy Hồng nói móc.
- Ấy chết, xin cô đừng
làm nhục một vị Bồ Tát! Ngọc Lâm xị mặt, nói gắt.
- Eo ơi, ghê chưa! Thế
ra thầy là một vị Bồ Tát! Giọng Thúy Hồng châm biếm.
- Không phải tôi tự
nhận là Bồ Tát, tôi muốn nói là cô đừng làm nhục Vi Đà Bồ Tát!
- Tôi có làm nhục Vi Đà
Bồ Tát đâu!
- Cô nói Vi Đà Bồ Tát
là người yêu của tôi!
- Thế ra thầy đứng đây
để đợi Vi Đà Bồ Tát? - Thúy Hồng chớp chớp đôi mắt và tỏ vẻ kinh ngạc.
- Còn gì nữa? Bởi thế
tôi xin cô tránh xa nơi này, cô đi ngay cho!
- Nghe nói người phàm
trần nghiệp chướng sâu nặng, phiền não trói buộc, không dễ gì được thấy
chân thân của một vị Bồ Tát, đây là cơ hội hiếm có, xin thầy hãy cũng cho
tôi được thấy Bồ Tát.Thúy Hồng nghe nói được thấy Bồ Tát liền vội năn nỉ
với Ngọc Lâm xin ở lại.
- Không những không còn
phiền não nghiệp chướng mà lại cần phải có nhân duyên mới được thấy Bồ
Tát, nếu cô vô duyên thì không thấy được Bồ Tát đâu!
- Thế thầy có nhân
duyên gì mà được thấy Bồ Tát?
- Tôi à? Tôi cũng chẳng
có nhân duyên gì cả.
- Thế sao thầy có thể
thấy được Bồ Tát?
- Sư huynh Ngọc Lam bảo
tôi, người dặn tôi vào giờ này đến đợi ở đây sẽ được thấy Bồ Tát Tát Vi
Đà, thì tôi cũng biết vậy thôi.
Xưa nay Ngọc Lâm không
nói dối ai, thầy thật thà bảo Thúy Hồng, mục đích mong nàng hiểu rõ ràng
để tránh đi cho rồi.
- Tôi cũng được một vị
sư bảo tôi đến đây đúng vào giờ này để gặp thầy.
- Ai thế?
- Vị sư trông như điên,
như khùng ấy!
- Vậy người là sư huynh
Ngọc Lam tôi đó!
- Mỗi lần tiểu thư sai
tôi đem các thức ăn đến cho thầy, tôi đều gặp vị sư điên khùng ấy, ông bảo
tôi không dễ gì tìm được thầy, mà dù có tìm được, thầy cũng không muốn
tiếp tôi, bởi thế ông bảo đem các thức ăn cho ông để ông mang cho thầy;
mỗi lần về tiểu thư lại hỏi thầy có nói gì không, tôi chả biết trả lời ra
sao cả. Sáng sớm nay ông sư điên khùng lại vào tướng phủ gặp tiểu thư, tôi
không biết họ nói chuyện gì, một lát sau tiểu thư bảo tôi tìm đến thầy.
- Tiểu thư bảo cô tìm
đến tôi có việc gì? Và đưa thức ăn gì cho tôi?
- Mấy lần trước đem các
thức ăn điểm tâm và sau cùng đưa chiếc áo bông đến.
- Đó là tiểu thư cho
mang đến? - Ngọc Lâm kinh ngạc - Tôi cứ tưởng là Vi Đà Bồ Tát giúp tôi.
Lúc ấy Ngọc Lâm mới vỡ
lẽ, thầy tự nghĩ ra các thứ đó đều do sư huynh đem đến, mình cứ lầm tưởng
là của Vi Đà Bồ Tát, thảo nào sư huynh cứ vừa nói vừa cười. May mà biết rõ
chuyện chứ không thì người ta cho mình là nói dối.Bây giờ Ngọc Lâm mới
thấy rõ là việc này đều do sư huynh xếp đặt, song tại sao sư huynh lại làm
như vậy? Ngọc Lâm cảm thấy hoang mang.
- Thúy Hồng, xin cô hãy
nói qua tình hình của Vương tiểu thư sau khi tôi rời khỏi tướng phủ ra
sao?
Hỏi thế không phải Ngọc
Lâm vẫn còn luyến tiếc Vương tiểu thư, điều mà thầy chưa hoàn toàn yên tâm
là sợ tấm si tình của nàng có thể đưa đến kết quả bi thảm.
- Thầy thật không khác
gì gỗ, đá, chẳng có lấy một chút tình nghĩa nào. Tiểu thư đã thương yêu
thầy thắm thiết, trái lại thầy thì hắt hủi tiểu thư. Ai cũng tưởng người
xuất gia có lòng từ bi, kỳ thực tôi thấy thầy chả có chút từ bi nào hết.
Đã nhận lời vào làm rể trong tướng phủ, tại sao chỉ được một đêm thầy lại
bỏ về? Hiện giờ tướng phủ không khỏi mang tiếng, và mọi người biết chuyện
đều lấy làm lạ tại sao Vương tể tướng không dùng quyền lực bắt thầy trở
về. Đã vô tình như thế, sao lúc này thầy còn giả bộ quan tâm đến tiểu thư
tôi?Những lời của Thúy Hồng chứa đựng đầy ý trách móc, dá như trước kia,
một người trong phủ tể tướng, mà thốt ra những lời ấy trước mặt Ngọc Lâm,
thì thầy không nhẫn được, nhưng giờ đây thầy biết việc đó không nên nóng
nẫy, bởi thế thầy chậm rãi đáp:
- Thúy Hồng, xin cô
đừng chê tôi không có tình nghĩa, vì tình nghĩa có thể cứu người mà cũng
có thể hại người. Tiểu thư là một người đa tình, lẽ ra nàng sống những
ngày rất yên vui, sung sướng, song chỉ vì đa tình mà nàng phải lo âu, sầu
khổ. Xem thế đủ biết tình nghĩa thực là nguồn gốc của khổ não, mà đã là
nguồn gốc của khổ não, thì tại sao chúng ta lại cứ khư khư ôm lấy nó? Còn
nói đến lòng từ bi của người xuất gia, thì từ bi chính nghĩa là cứu người
chứ không hại người, nếu tôi cũng đắm say tài sắc và danh lợi trong tướng
phủ cùng tiểu thư sống cuộc đời u mê, thì một ngày kia sẽ phải nổi chìm
trong bể khổ, như thế không những đã hại cho tiểu thư mà còn hại cả co
tôi. Bởi vậy tôi vào tướng phủ rồi trở về ngay, đó cũng là vì lòng từ bi,
thương Vương tiểu thư mà cũng thương cả cho tôi nữa.
- Thầy đừng nói những
lời đường mật ấy nữa, lúc nào thầy cũng bảo vì tiểu thư và vì chính thầy -
Giọng Thúy Hồng tức giận
- Nếu thầy vì tiểu thư
thật thì đáng lẽ thầy phải ở lại tướng phủ, chớ sao thầy lại bỏ về chùa?
Thầy không hề tỏ một chút quan tâm nào đối
với sự sống, chết của
tiểu thư, thầy thung dung rũ áo ra đi, để một mình tiểu thư đêm ngày vò
võ. Thầy thử nghĩ coi như thế thầy có chút lòng từ bi nào không?
- Thúy Hồng, cô vẫn
chưa hiểu được tâm ý của tôi.
- Tâm ý của thầy thế
nào? Tôi chỉ biết rằng, ngoại trừ tính ích kỷ của thầy, tôi không hiểu
thầy còn có tâm ý gì? Thầy chẳng có tâm tình gì hết, mối tình của tiểu thư
đối với thầy khắng khít biết chừng nào, vì thầy mà tiểu thư không tưởng
đến ăn uống, ngủ nghĩ cho đến sự sống nữa, người coi thầy như linh hồn và
tính mệnh của người, không giờ phút nào muốn xa thầy, thế mà thầy không
hiểu gì đến ái tình hết!
- Thúy Hồng, cô không
nên nói khích như thế, cô hãy bình tĩnh chú ý nghe tôi nói - Ngọc Lâm khẽ
đằng hắng - Các cô đã bị cái lưới ái tình ràng buộc, đã mất hết tự do. Các
cô vẫn chưa hiểu rõ được chính bản thân của các cô, thì làm sao có thể
hiểu được ái tình của các cô? Tôi đứng ngoài vòng ái tình nhìn các cô mới
thấy các cô thật là người ngu si dại dột!Cô đừng giận để tôi thuật lại một
sự tình chính mắt tôi thấy cho cô nghe. Lúc tôi còn nhỏ, ở gần nhà tôi có
một cậu công tử con nhà họ Lưu mới cưới vợ, nhưng chưa đầy nửa năm thì Lưu
công tử lâm bệnh, vợ cậu hàng ngày khóc lóc thảm thiết, gặp ai cũng nói
Lưu công tử là sự sống của nàng, là linh hồn của nàng, thiếu chàng thì
nàng không thể nào sống được. Sau không may Lưu công tử qua đời. Vào
khoảng gần nửa năm sau khi chàng chết, lúc ấy tôi vẫn còn nhớ, chính tôi
lại thấy người vợ Lưu công tử đứng trong vòng tay của một người con trai
khác và miệng luôn luôn nói với người con trai ấy "Anh, anh là linh hồn
của em, anh là lẽ sống duy nhất của đời em!". Bấy giờ tuy tôi còn nhỏ,
thấy thế tôi cũng hiểu rằng đó không phải là lỗi của người đàn bà kia,
song chính là trò đời vô thường, biến ảo diễn ra! Trò đời đều như một giấc
mộng xuân, tại sao ta lại nhận mộng là thật? Thúy Hồng, tiểu thư của cô
hiện giờ thấy thân hình của tôi đẹp đẽ, bởi thế mới yêu tôi, giả sử nàng
được thấy một người con trai khác thanh lịch và tuấn tú hơn tôi, liệu lúc
đó nàng còn yêu tôi không? Cô cho tôi là người không hiểu gì về ái tình,
nhưng thật thì chính tôi là người hiểu rõ ái tình hơn ai hết!
Nghe Ngọc Lâm nói, Thúy
Hồng đỏ mặt, nàng bẽn lẽn cúi đầu nhìn mấy chiếc lá vàng khô nằm trên mặt
đường.
Sau một chút yên lặng,
Ngọc Lâm hỏi:
- Hiện giờ tiểu thư ra
sao?
- Từ khi thầy trở về
chùa, tuy khá hơn trước nhiều, song tiểu thư có vẻ vẫn khổ sở lắm. Vừa
nói, mấy giọt nước mắt từ từ lăn xuống gò má Thúy Hồng.
- Tiểu thư khổ sở thế
nào?
Ngọc Lâm cũng thương
nàng, nên vừa nghe Thúy Hồng nói thầy cảm thấy lòng bứt rứt, áy náy.
- Thầy vẫn không biết,
thầy tưởng thầy đi khỏi là mọi việc êm thấm. Thầy đâu có biết Vương tể
tướng uất ức đến chết đi được. Người nói là thầy đã khinh thường người như
thế thì người nhất định không thể dung thứ, nhất là Ngô Sư Gia cứ xúi dục
tể tướng cho thầy một bài học. Họ nói rằng thầy đã vào làm rể trong tướng
phủ, vì thể diện trong tướng phủ cũng như vì hạnh phúc của tiểu thư, nếu
không bắt thầy trở lại thì không được. Song tiểu thư không hiểu tại sao
lúc này hoàn toàn thay đổi, người đã mấy lần khóc lóc, van xin thân phụ
cho phép người được xuất gia theo thầy; người đã hoàn toàn gánh chịu mọi
khó khăn cho thầy, chứ không thì làm sao thầy có thể được yên thân thế
này?Nghe Thúy Hồng nói đến đấy, Ngọc Lâm cảm thấy vững dạ. Nhưng thầy lại
bị những lời của Thúy Hồng làm cho cảm động, thầy tuyệt không sợ thủ đoạn
khủng bố của Vương tể tướng và Ngô Sư Gia, thầy cảm động vì thấy Vương
tiểu thư là người con gái có nhiều thiện duyên và thầy cho rằng chuyến đi
của thầy vào tướng phủ không phải là vô ích vậy.
- Hay lắm! - Ngọc Lâm
đưa mắt nhìn tứ phía - Tiểu thư hiện giờ phải chịu cực một chút, song sau
này nàng sẽ thoát được nhiều thống khổ; cô về hãy nói với tiểu thư là tôi
gửi lời thăm, và mừng cho tiểu thư. Thôi tôi về chùa đây.
Thúy Hồng vội hỏi:
- Tiểu thư muốn được
gặp thầy một lần để nói chuyện, có được không?
- Đợi khi nào tiểu thư
xuất gia, lúc ấy hãy nói!
Dứt lời, Ngọc Lâm cắm
cổ chạy. Thúy Hồng đứng ngây người nhìn sau lưng Ngọc Lâm, lòng nàng vừa
căm tức vừa kính phục.
Chương Mười
Một
Thời gian thấm thoát
trôi qua, bỗng chốc trời đã sang xuân; hoa đua nhau nở, đến đâu cũng thấy
một màu xanh biếc và trên khắp các nẻo đường tràn ngập hương xuân.Hôm ấy
Ngọc Lâm dậy sớm, làm các việc thường lệ xong, rồi lên xin phép hòa thượng
Thiên Ẩn, sư ông tri khách và sư ông Duy Na nghỉ hai ngày để đi dự lễ xuất
gia của Vương tiểu thư được cử hành tại Thiên Hoa Am.Từ sau ngày Thúy Hồng
được gặp Ngọc Lâm, về thuật lại cho Vương tiểu thư biết là trừ phi nàng
quyết chí xuất gia, thì Ngọc Lâm mới gặp nàng để nói chuyện.Trong thời
gian đó, Vương tiểu thư vẫn viết thư tin cho Ngọc Lâm, mỗi lần Thúy Hồng
mang thư đến đều trao tận tay cho Ngọc Lâm, Ngọc Lâm thấy lời lẽ trong thư
rất lưu loát và hết sức vui mừng khi biết Vương tiểu thư nhất định xuất
gia, vì thầy cho rằng nàng đã nhận thức được con đường nên đi!Vương tiểu
thư muốn Ngọc Lâm đến dự lễ xuất gia của nàng, lúc đầu thầy từ chối, vì
thầy tự nghĩ Vương tiểu thư tuy có nhiều thiện căn, song dầu sao nàng cũng
chỉ là một người con gái, thầy đã từng làm lễ thành hôn với nàng, cùng tế
bái trời đất, bây giờ xuất gia, tuy là việc rất đáng mừng, song lúc cử
hành lễ, vốn dĩ đa tình, làm sao nàng có thể tránh khỏi xúc động và thương
cảm. Thêm vào đấy, Vương tiểu thư cử hành lễ xuất gia rất trọng thể, cha
mẹ nàng và họ hàng thân thích đều có mặt, lúc đó thầy sẽ nói với họ thế
nào? Ngọc Lâm nghĩ tới đây liền nhất định không tham dự. Song Vương tiểu
thư không những chỉ mời Ngọc Lâm chứng kiến lễ xuất gia của nàng, mà còn
muốn tự tay Ngọc Lâm xuống tóc cho nàng. Không thể từ chối được, hơn nữa
thầy vẫn còn nhớ lời sư huynh Ngọc Lam nói là cứu người phải cứu đến nơi
đến chốn, nên cuối cùng Ngọc Lâm phải miễn cưỡng nhận lời.Trước khi lên
đường, Ngọc Lâm suy nghĩ một hồi nên phục sức thế nào. Thầy có một chiếc
áo bông do Vương tiểu thư biếu, chiếc áo đó vừa mới vừa đẹp, nhưng hiện
giờ tiết xuân ấm áp ai lại đi mặc áo bông? Mà dù có mặc được chăng nữa,
thầy cũng không nên mặc chiếc áo ấy để đi dự lễ. Ngoài chiếc áo ấy ra,
Ngọc Lâm không còn cái nào đáng kể là cái áo. Nếu mặc chiếc áo đó thầy sẽ
tăng thêm vẻ mỹ quan, người ngoài có thể lầm tưởng thầy vẫn còn muốn mưu
đồ gì. Người tu có mầu sắc của người tu, bởi thế thầy quyết định mặc chiếc
áo cũ hàng ngày đến Thiên Hoa Am dự lễ.
Khi tới Thiên Hoa Am,
Ngọc Lâm đã thấy người ra vào tấp nập, ngoài cửa am có bốn người tỳ nữ
đứng đón khách, những người này Vương tể tướng mới mướn để hầu hạ Vương
tiểu thư. Hôm nay họ được cắt đứng ở cửa đón khách.Lúc đó Ngọc Lâm định
tiến vào cửa, bốn người tỳ nữ đưa mắt nhìn thầy một lượt từ đầu đến chân,
rồi với giọng riễu mát, họ hỏi:
- Ngài từ đâu đến ạ?
Ngọc Lâm thật thà nhìn
họ:
- Tôi từ chùa Sùng Ân!
- A! Ngài từ chùa Sùng
Ân? Thế có phải Vạn Kim Hòa Thượng Ngọc Lâm cho ngài đến để báo tin trước?
Chả là những người tỳ
nữ ấy thấy Ngọc Lâm còn ít tuổi, lại mặc áo cũ, rách nên lầm tưởng là
người hầu của Ngọc Lâm!Bị hỏi dồn như thế, lúc đầu Ngọc Lâm nhíu mày, mắm
môi, sau đó thầy biết là họ lầm, vì họ tưởng Ngọc Lâm là một vị Vạn Kim
Hòa Thượng, đường đường tăng tướng, đâu có ăn mặc rách rưới như thế, nên
Ngọc Lâm tự nghĩ: tại sao những người này chỉ nhìn người bằng phục sức bề
ngoài mà không để ý đến những điểm khác; giả sử bây giờ đem một bộ áo long
bào của nhà vua mặc cho một người bằng gỗ, không biết sau họ có chịu kết
hôn với người đó không?Ngọc Lâm lại nghĩ rằng, cuộc đời vốn là một tấn
tuồng, lúc thì đóng vai con cái, lúc thì đóng vai cha mẹ. Họ đã tưởng mình
là người hầu của Ngọc Lâm đến báo tin trước, tại sao mình không lợi dụng
cơ hội ấy để diễn một hồi kịch?
- Ngọc Lâm hòa thượng
cũng sắp đến ạ! Không biết khỏi trễ giờ không?
- Có phải Ngọc Lâm hòa
thượng sắp đến thì thôi, ông đừng nói lải nhải nữa!
Đó là câu nói của Thúy
Ngọc, một trong bốn người tỳ nữ. Với một giọng hết sức kiêu mạn, nàng nói
tiếp:
- Lúc này Vương tể
tướng và các quan khách cùng các đại lão hòa thượng hiện đang ngồi trong
phòng khách nói chuyện, tiểu thư và cô Thúy Hồng đang ở nhà trong, ông
đừng có xông xáo, đây có căn phòng nhỏ, ông hãy vào ngồi tạm một lát đi!
Dứt lời, Thúy Ngọc đưa tay chỉ vào căn phòng ở đầu hồi dẫy nhà bên tay
mặt.Ngọc Lâm không thèm nói gì thêm vì thầy cho rằng nói với những người
ấy cũng vô ích, thầy chỉ thương hại cho họ đem thân làm tôi
tớ người ta, đã không
biết tủi hổ thì thôi, lại còn hợm hĩnh lên mặt, tưởng ta đây danh dự lắm,
thật cũng đáng thương!Ngọc Lâm tiến vào căn phòng, đưa mắt nhìn một lượt
mới biết đó là phòng ngủ của người làm.Ngọc Lâm ngồi xếp bằng, nhắm mắt
trầm tư.Ngọc Lâm cứ ngồi yên trong căn phòng, không ai đoái hoài đến thầy,
cũng không ai cho một chén nước. Một lúc sau, lại vẫn con hầu Thúy Ngọc
chạy vào, nói:
- Tiểu thư cho cô Thúy
Hồng ra hỏi tại sao giờ này mà thầy Ngọc Lâm vẫn chưa tới?
- Tôi không biết, hỏi
họ xem! Ngọc Lâm đáp.
- Thế thì Ngọc Lâm có
dặn ông gì không?
- Người nói đến là khắc
đến, không có dặn gì ai hết?
- Chán mớ đời, cái ông
sư này thật ngốc quá!
Thúy Ngọc cũng đúng như
Thúy Hồng lúc ban đầu đến chùa Sùng Ân, cậy thế của Vương tể tướng và tiểu
thư, ra bộ ta đây giọng khinh khỉnh, miệt thị Ngọc Lâm.
Thúy Ngọc bước ra, Ngọc
Lâm nhìn sau nàng bất gian than dài: "Thế mà loài người tự cho là thông
minh lắm!"Sau một lúc lại vẫn con Thúy Ngọc kiêu mạn ấy vào, nói:
- Tiểu thư cho Thúy
Hồng ra hỏi ông đó, ông ra ngay đi!
Ngọc Lâm lẳng lặng bước
ra khỏi phòng.
Thúy Hồng vừa thấy Ngọc
Lâm vội cúi đầu rồi quỳ xuống:
- Bạch thầy, thầy đã
đến rồi!
Hiện nay Thúy Hồng vì
cảm phục nhân cách của Ngọc Lâm và lại được Vương tiểu thư dạy bảo, nên
đối với lễ nghi trong Phật Giáo nàng đã hiểu rất nhiều.
- Tôi cũng mới đến,
ngồi nghỉ trong này một lúc cho khỏe.
Thúy Hồng nhìn bốn
người tỳ nữ:
- Thầy đến mà các người
không chịu đón tiếp, lại nói thầy chưa đến, tôi hãy mách tiểu thư xem các
người sẽ nói sao!
Thúy Hồng lấy tư cách
của một người tỳ nữ kỳ cựu khiển trách những người hầu mới, làm họ không
dám hé răng và toàn thân run như cầy sấy.
- Đừng trách họ, họ
không biết tôi đến là vì tôi không nói rõ tên.
Ngọc Lâm nhận lỗi về
phần mình để gỡ cho những người tỳ nữ.
- Bạch thầy, tiểu thư
đang nóng lòng chờ đợi thầy, xin thầy vào ngay!
- Không được! - Ngọc
Lâm nói - Để tôi vào chào Vương tể tướng đã.
Thúy Hồng đưa Ngọc Lâm
vào nhà khách.
- Bạch thầy, sao hôm
nay thầy lại mặc áo rách vậy? - Thúy Hồng khẽ hỏi Ngọc Lâm.
- Phục sức chẳng qua là
để che đậy thân thể và ngăn ngừa gió rét; còn mặc xấu hay mặc tốt thì cũng
thế. Người ta cần có nhân cách và đức tính, chứ y phục không quan trọng
lắm. Vả lại chiếc áo này của tôi vẫn còn tốt, mặc chưa được năm năm mà!
- Hôm nay là lễ Thế
Phát Xuất Gia trọng thể của Vương tiểu thư, Vương tể tướng tuy không mời
ai, song những khách quý đến dự lễ cũng rất đông, mặc áo cũ kỹ sợ có mất
thể diện chăng?
- Cô nói đúng, người
đời phần nhiều thích hào nhoáng bên ngoài!
Ngọc Lâm cho rằng
trường hợp ấy không nên bàn cãi cao xa, nên thầy phụ họa với Thúy Hồng
bằng một giọng trầm buồn.Khi Thúy Hồng đưa Ngọc Lâm đi ngang qua Phật
điện, thầy đứng chính giữa vái ba vái. Thầy để ý nhìn cách kiến trúc ở
Thiên Hoa Am, rất nguy nga tráng lệ, Vương tể tướng đã xây cất ngôi chùa
này cho con gái trong sáu tháng trời.Sau đó Ngọc Lâm tiến vào nhà khách,
gặp Vương tể tướng và thầy được Vương tể tướng giới thiệu với mọi người.
Ngọc Lâm không có vẻ gì luống cuống cả, nhưng rất thản nhiên. Sau khi giới
thiệu, Vương tể tướng khen ngợi Ngọc Lâm, nói với quan khách:
- Một người chân chính
xuất gia học đạo, tài sắc, danh lợi không thể làm động tâm, thật đáng quý!
Sau khi Vương tể tướng
nói, trong số quý khách có người nhìn Ngọc Lâm bằng ánh mắt kính mến, song
cũng có người hoài nghi cứ nhìn thầy chằm chặp. Ngọc Lâm ngồi xuống ghế
được một lát thì Thúy Hồng đứng bên cạnh đưa mắt ra hiệu giục thầy vào nhà
trong gặp Vương tiểu thư, nhưng Ngọc Lâm cứ tảng lờ như không biết.Giờ làm
lễ thế phát đã đến, tất cả quan khách đều được mời lên chính điện Vương
tiểu thư quỳ trên chiếc chiếu giữa bàn Phật. Ngọc Lâm đứng bên cạnh nàng
tay cầm con dao, khi các vị tăng, ni đứng hai bên, dâng hương, trì chú
xong Ngọc Lâm đặt con dao lên đầu Vương tiểu thư và nhẹ nhàng cạo ba đường
tóc, rồi nói với Vương tiểu thư:
- Dao thứ nhất: dứt trừ
hết mọi điều ác.
- Dao thứ hai: nguyện
làm hết thảy mọi điều thiện.
- Dao thứ ba: thề độ
hết thảy chúng sinh.
Lúc mái tóc đen huyền
của Vương tiểu thư rơi xuống đất, Ngọc Lâm vẫn bình thản và Vương tiểu thư
thì lặng lẽ cúi đầu, những người đàn bà quý phái đứng ngoài, thấy thế đều
rớt nước mắt. Xưa nay thấy một người thế phát xuất gia tức là người ấy bỏ
con đường khổ não mà trở về con đường yên vui, điều đó là một việc đáng
mừng, chính họ cũng thường nói như thế, họ cho rằng Vương tiểu thư đi xuất
gia tức là từ nay nàng sẽ sống một cuộc đời thanh tịnh, tự tại, kiếp trước
quả nàng đã có nhiều thiện căn.Song dù sao thì đàn bà vẫn là đàn bà, họ
nói và nghĩ thế, nhưng giờ đây nhìn những sợi tóc của Vương tiểu thư kế
tiếp nhau rơi xuống họ lại thở ngắn than dài và chan hòa nước mắt. Tâm lý
của người đàn bà thật phức tạp, người ngoài khó mà hiểu được.Ngọc Lâm đối
với việc Vương tiểu thư thế phát xuất gia, bề ngoài tuy tỏ ra bình thản,
song trong lòng không khỏi cảm khái. Mặc dầu còn ít tuổi, chưa từng trải
nhiều về trường đời, nhưng xưa nay thầy vốn không đồng ý việc để con gái
còn trẻ tuổi đi xuất gia. Vì không còn cách nào để thoát ra khỏi vòng tình
ái mà Vương tiểu thư đã lôi cuốn thầy vào, nên Ngọc Lâm đành phải dùng
biện pháp khuyên nàng xuất gia. Nhưng đồng thời thầy cũng ký thác một hy
vọng lớn lao vào việc xuất gia của Vương tiểu thư, vì thầy nhận thấy rằng
đàn bà cũng chiếm một số lớn trong đoàn thể xuất gia của Phật Giáo. Trên
danh nghĩa, tuy họ là đệ tử của Phật, có nhiệm vụ giác ngộ cho đời, song
trên thực tế, chính họ cũng mê mờ như người trong mộng, đại đa số ở chùa,
ngoại trừ sớm, tối hai thời công phu ra, họ không còn hiểu gì Phật pháp,
như vậy thử hỏi làm thế nào Phật Giáo có thể hưng thịnh và tồn tại? Giả sử
một số ít người có quan tâm đến sự sống còn của Phật Giáo thì họ lại cho
đó là trách nhiệm của các vị tăng, cho nên, những trang sử huy hoàng của
Phật Giáo Trung Quốc trong khoảng hơn một nghìn năm đều do các vị tăng ghi
lại. Ni chúng là một phần tử trong xã hội Trung Quốc, địa vị của nữ giới
Trung Quốc chưa được ngang hàng với nam giới, ni bộ trong Phật Giáo cũng
chưa cho phép ni chúng được ngang hàng với tăng chúng, mà chính ni chúng
cũng chưa hề tranh thủ địa vị bình đẳng cho mình.Hiện giờ Ngọc Lâm đặt hy
vọng vào Vương tiểu thư, mong nàng có thể thành con hạc trắng giữa đám
chim sẻ, vì nhờ ở tài trí thông minh, thêm vào đó là hoàn cảnh thân thế
rất có thể nàng vì Phật Giáo mà cũng vì bản thân tạo nên một sự nghiệp
oanh liệt, bởi thế thầy mới khuyên nàng xuất gia, mong có cơ hội chỉnh đốn
lại ni chúng.Khi xuống tóc, Vương tiểu thư cúi đầu, nhắm mắt, nàng muốn
nhìn Ngọc Lâm và muốn nói với thầy: "Đấy, bây giờ thầy đã thấy tôi xuất
gia!", trong lòng nàng thầm nghĩ như vậy, song bầu không khí trang nghiêm
trong điện Phật, khói trầm nghi ngút, thơm tho làm nàng không thể biểu lộ
được tâm tư, lúc đó lòng nàng cũng chẳng phân biệt được buồn hay vui, nàng
chỉ biết rằng nàng xuất gia là do Ngọc Lâm muốn thế. Vì vẫn còn yêu Ngọc
Lâm, và cũng vì biết rõ đời rốt cuộc cũng chỉ là khổ, nên Vương tiểu thư
chỉ còn biết hăng hái đón nhận lấy lẽ sống mới để trở thành con người hoàn
toàn mới.
Sau lễ thế phát, Ngọc
Lâm đặt pháp hiệu cho Vương tiểu thư là Giác Chúng, có nghĩa là ngày nay
Vương tiểu thư không những tự mình đã giác ngộ, mà sau này nàng sẽ giác
ngộ cho người khác.Sau cuộc lễ, quan khách lần lượt ra về, Vương tiểu thư
vào tịnh thất nghỉ, bảo Thúy Hồng tiếp đãi Ngọc Lâm và mời thầy lưu lại
mấy hôm, nàng còn nhiều vấn đề muốn hỏi thầy.Thúy Hồng dĩ nhiên phải vâng
mệnh tiểu thư, nhưng do đó mà Ngọc Lâm phải một hồi chịu oan uổng!
Chương Mười
Hai
Ngọc Lâm ở Thiên Hoa Am
chưa được mấy hôm thì bao nhiêu chuyện khó chịu kế tiếp xẩy ra. Số là
trong Thiên Hoa Am có viên quản lý sự vụ, người thân tín của Vương tể
tướng.Ngô Sư Gia đã bốn mươi lăm tuổi, người cao dong dỏng, nước da thiết
bì; lúc Vương tể tướng còn là Lại Bộ Thượng Thư thì ông ta được tuyển vào
làm thư ký riêng. Ông ta là người nhiều thủ đoạn, mưu kế, bản tính hay
tranh đua, hiếu thắng, lời nói thì cay chua, khinh bạc, song vì mấy lần
ông ta giúp mưu mà Vương tể tướng được nhà vua đặc biệt tin cậy, do đó,
Vương tể tướng mới coi ông ta như một người tâm phúc.Vì việc nước bề bộn
nên sau khi lễ thế phát của con chấm dứt, Vương tể tướng lại vội vàng về
Kinh. Trước khi đi, Vương tể tướng giao hết công việc trong Thiên Hoa Am
và tiểu thư cho Ngô Sư Gia trông nom. Ông cũng dặn mọi người trong chùa
phải đặc biệt cung kính và săn sóc Ngọc Lâm.Việc đó khiến cho Ngô Sư Gia
sinh lòng ghen ghét, ông ta cho rằng đối với một vị sư trẻ tuổi bất tất
người trong tướng phủ phải tỏ ra ân cần. Hơn nữa ông lại người tâm phúc
của Vương tể tướng trong phủ ai cũng phải kính sợ ông ta. Song Ngọc Lâm
vốn dĩ là người không sợ quyền thế, không chịu quî lụy, thái độ nghiêm
trang, lời nói chính chắn của thầy khiến Ngô Sư Gia tưởng là thầy kiêu
mạn, do đó trong lòng vô cùng oán ghét.
Trong Thiên Hoa Am, từ
Giác Chúng (pháp hiệu của Vương tiểu thư) đến các sư nữ mà Giác Chúng mời
ở lại và tất cả tỳ nữ, không ai là không cung kính Ngọc Lâm, thấy thế Ngô
Sư Gia lại càng ghen tức. Ông ta tự nghĩ: "Từ khi mình vào tướng phủ đến
nay, nhờ được tể tướng tín nhiệm, ngoài tể tướng, phu nhân và tiểu thư ra,
trong tướng phủ không ai dám coi thường mình, ai cũng phải theo răm rắp,
thế mà bây giờ một ông sư trẻ tuổi dám ngang nhiên định xâm chiếm địa vị
của mình".Tay cầm cái tẩu hút thuốc, đầu đội chiếc mũ bằng da cáo, mình
mặc áo trường bào, Ngô Sư Gia đi đi lại lại trong buồng ngủ; lúc thì bỏ
chiếc mũ ra và đưa tay lên gãi đầu, lúc lại vứt cái tẩu xuống và xoa xoa
hai bàn tay, ông ta đang tìm cách để làm mất thể diện của Ngọc Lâm giữa
công chúng hòng giảm bớt thanh danh của thầy, khiến mọi người đừng tin cậy
và tôn trọng thầy nữa.Nhưng Ngọc Lâm rất sáng suốt và lỗi lạc, thái độ của
thầy nghiêm nghị như một bậc lão thành, mỗi ngày ngoài hai tiếng đồng hồ
dạy Phật pháp và qui luật thiền gia cho mọi người ra, thầy không đoái hoài
đến một việc gì khác, Ngô Sư Gia tuy bực tức song cuối cùng không nghĩ
được cách gì làm nhục Ngọc Lâm.Một hôm, sau khi suy nghĩ khá lâu, ông ta
đã tìm được một biện pháp, nghĩa là trong lúc Ngọc Lâm giảng Phật pháp cho
mọi người, ông ta sẽ đưa ra một vài vấn đề để nạn vấn, làm cho Ngọc Lâm
không thể trả lời, như thế thầy sẽ mất uy tín, và dù có vì tình mà Vương
tiểu thư cố giữ thầy ở lại chăng nữa, chắc chắn thầy cũng không còn mặt
mũi nào ở lại.
Buổi chiều hôm ấy, sau
buổi giảng, Ngọc Lâm sắp đứng dậy, thì lúc đó Ngô Sư Gia bắt đầu hé một nụ
cười hiểm độc rồi tiếp đó nói với Ngọc Lâm:
- Tôi có một vài điều
thắc mắc, không biết có nên đưa ra xin thầy chỉ giáo?
- Chỉ giáo thì tôi
không dám, song có điều gì xin cứ nói để chúng ta cùng thảo luận! Ngọc Lâm
vừa nói vừa trở lại ngồi xuống ghế.
- Nếu thầy không trả
lời được thì sao? Ngô Sư Gia cố ý nói tức.
- Nếu ông biết tôi
không đáp được thì xin ông đừng hỏi tôi.
- Đâu có được thế, thầy
là một người xuất gia Hoằng Dương Phật Pháp kia mà!
- Ông nói đúng, vậy có
điều gì cần chỉ giáo xin ông cứ hỏi!
Lúc đó Ngọc Lâm đã hiểu
Ngô Sư Gia cố ý kiếm chuyện.
- Giả sử thầy không trả
lời được? Ngô Sư Gia lại khiêu khích.
- Thì lần sau ông đừng
lên nghe tôi giảng!
- Không được, lần sau
thầy không thể giảng ở đây được nữa!
- Ông nói đúng, nếu tôi
không thể trả lời câu hỏi của ông, thì lần sau tôi không nên giảng ở đây
nữa.
Ngọc Lâm lại ngồi xếp
bằng như trước, nhắm mắt, nét mặt bình tĩnh không có vẻ gì là người bị nạn
vấn cả.
- Phàm người đã đọc
sách thánh hiền đều biết rằng quốc gia ta được xây dựng trên nền tảng
trung, hiếu, thầy đi xuất gia thế này, tôi thiết tưởng không hợp với căn
bản quốc gia của chúng ta!Vừa nói Ngô Sư Gia vừa tỏ ra dương dương tự đắc
cho là câu nói của mình sẽ làm Ngọc Lâm phải thất điên, bát đảo.
- Thế có nghĩa là thế
nào?
Tuy Ngọc Lâm đã đi guốc
trong bụng Ngô Sư Gia, song thầy hỏi vậy cốt để cho ông ta nói lại cho
sáng tỏ vấn đề.
- Tôi tin rằng thầy
cũng thừa hiểu làm người cần phải có trung hiếu - ông ta nói - vì nếu một
người bất trung, bất hiếu, thì người đó không còn tư cách làm người. Tôi
xem thầy còn trẻ tuổi mà đã thế phát xuất gia, hằng ngày ăn không ngồi
rồi, không chịu sinh sản, không đem sức mình để phụng sự quốc gia. Như thế
đâu có thể gọi được là trung? Lại nữa, cha mẹ sinh con vốn mong nhờ cậy
trong lúc tuổi già, bởi thế mới chăm lo nuôi nấng cho thành người, thế mà
giờ thầy nỡ bỏ cả cha mẹ để đi tu, như vậy đâu có thể gọi được là hiếu!
Xin thầy trả lời tôi! Câu hỏi của Ngô Sư Gia làm cho những người đến nghe
Ngọc Lâm giảng ngồi ngay cán tàn. Họ đều nhìn Ngọc Lâm và trông chờ Ngọc
Lâm trả lời, nhất là Giác Chúng và Thúy Hồng lại càng tỏ vẻ sốt sắng mong
Ngọc Lâm đừng e dè, vì nể, cứ thẳng thắn đáp câu hỏi của Ngô Sư Gia.Ngọc
Lâm không hề "bối rối", thầy rất bình tĩnh, thầy biết Ngô Sư Gia có ác ý
và xưa nay thầy vốn không muốn biện luận với những hạng người như vậy. Vì,
với những kẻ thô bạo, khinh mạn, ngoan cố thì không có đạo lý nào có thể
giảng giải cho họ được, dạo lý chỉ ở trong lòng những người có tâm hồn cao
thượng mà thôi. Song Ngô Sư Gia đã cố ý hỏi vặn, tuy những vấn đề đó không
đúng sự thật, song nếu giải thích và xuyên tạc thêm cũng có thể khiến cho
nhiều người hiểu lầm. Bởi thế Ngọc Lâm từ từ mở mắt và, với giọng hết sức
ôn hòa, nói:
- Ông nói rất đúng, một
người có tư cách là đối với quốc gia phải hết lòng trung, đối với cha mẹ
phải hiếu kính. Song xuất gia đầu Phật là đã hiến thân cho công cuộc cứu
người, giúp đời, điều đó không thể cho là bất trung, bất hiếu. Ông nói
người xuất gia hàng ngày chỉ ăn không ngồi rồi, không chịu sinh sản, đó là
ông không hiểu nhiệm vụ của người xuất gia là Hoàng Pháp, Lợi Sinh. Công
việc của người xuất gia là đem Phật pháp dạy cho người đời. Còn nói đến
phụng sự quốc gia, không nhất định cứ phải làm ruộng và sinh sản mới là
phụng sự. Chúng tôi dùng giáo pháp của đức Phật để cải thiện lòng người,
an ninh xã hội, khiến cho nhân dân bớt phạm pháp, và cuộc sống có thêm giá
trị, như thế cũng có thể nói là phụng sự quốc gia, phục vụ xã hội một cách
trực tiếp vậy. Nếu phủ nhận điều đó thì tôi e rằng Ngô Sư Gia và cho đến
cả Vương tể tướng cũng không khác gì những người xuất gia, cũng bị người
ta cho là ăn không, ngồi rồi, không làm việc để phụng sự quốc gia. Còn bảo
xuất gia là bất hiếu với cha mẹ, thì điều đó tôi chưa từng nghe thấy trong
Phật Giáo; xuất gia có nghĩa là ra khỏi cái nhà phiền não trong ba cõi.
Nếu nói đến sự hiếu thuận cha mẹ, thì người xuất gia chân chính mới thật
hiểu rõ ý nghĩa của chữ hiếu. Thông thường người đời tưởng hiếu thuận cha
mẹ là chỉ cung phụng cha mẹ về phương diện vật chất, như dâng các thức ăn
ngon ngọt, hay may sắm quần áo tốt đẹp, thế đã cho là hiếu kính rồi. Song
xét kỹ thì hiếu kính đối với cha mẹ về phương diện vật chất chưa thể gọi
được là hiếu thuận triệt để. Là vì cha mẹ tuy được tạm thời thỏa mãn (thực
ra không bao giờ thỏa mãn) về phương diện vật chất, song những nỗi đau khổ
của cha mẹ không thể do đó mà tiêu tan được. Không ai tránh khỏi cái khổ
già, ốm và chết. Người xuất gia hiếu kính cha mẹ, một mặt mong cha mẹ
không thiếu thốn về vật chất, mặt khác lại khuyên cha mẹ tin lý nhân quả,
tội, phúc báo ứng, xa lánh các việc ác chăm làm các điều thiện, mong cha
mẹ thoát khỏi cái khổ sinh, tử mà hưởng sự yên vui vĩnh viễn, đó mới là
hiếu thuận triệt để. Những điều đó thật ra rất dễ hiểu, tôi tưởng Ngô Sư
Gia là bậc quán thế, đầy mưu lược, lẽ ra phải hiểu hơn ai hết vấn đề rất
phổ thông ấy mới phải chứ?Ngọc Lâm nói một cách thản nhiên và bình tĩnh,
thầy vốn có tài biện thuyết, lại xuất gia đã lâu năm và rất thông hiểu
Phật pháp. Lúc đó tất cả mọi người ngồi nghe đều tỏ vẻ thích thú và họ
chăm chú nhìn Ngô Sư Gia bằng ánh mắt chán ghét.Ngô Sư Gia thấy ai cũng tỏ
vẻ tín phục Ngọc Lâm, ngọn lửa ghen ghét trong lòng ông ta lại bốc lên
ngùn ngụt. Nếu không có Giác Chúng (Vương tiểu thư) ngồi đấy thì ông để
ngọn lửa đó phóng ra rồi, và trong trường hợp ấy khỏi nói đến đạo đức,
nghĩa lý!
Ngô Sư Gia lại hỏi Ngọc
Lâm bằng một giọng hậm hực:
- Những vấn đề đó hãy
tạm gác lại, tôi không muốn biện bác với thầy trong lúc nầy, tôi chỉ xin
hỏi thầy là hiện giờ cõi lòng thầy còn yêu tiểu thư nữa không?Nghe câu hỏi
của Ngô Sư Gia, mọi người đều tỏ vẻ bất mãn, họ tự hỏi tại sao ông ta lại
nêu lên vấn đề ấy trước mặt Ngọc Lâm.
- Ông muốn tôi trả lời
ông câu hỏi ấy, nhưng nó có ích lợi gì cho ông không?
Ngọc Lâm ngồi ngay
thẳng, hỏi lại Ngô Sư Gia:
- Tôi muốn thầy cho
biết, ngay giờ phút này, lòng thầy còn yêu tiểu thư không?
Ngô Sư Gia lúc ấy tỏ
thái độ rất quan liêu hách dịch, vì ông ta tự nghĩ nếu không lật đổ được
ông sư thanh niên này, thì còn hống hách với người trong tướng phủ sao
được.
- Giác Chúng hiện giờ
thế phát xuất gia, còn quá khứ của chúng tôi ông hiểu quá rồi.
- Đúng thế, tôi hiểu
lắm, trước kia tiểu thư rất yêu thầy, và tôi tin rằng hiện giờ lòng tiểu
thư vẫn còn yêu thầy, song còn thầy? Thầy hãy nói!Câu hỏi của Ngô Sư Gia
không làm cho Ngọc Lâm thay đổi nét mặt, nhưng Giác Chúng thì thấy bẽn lẽn
và vội cúi đầu, đôi má nàng ửng hồng và nàng cảm thấy luống cuống.Ngọc Lâm
chậm rãi, nói dằn từng tiếng:
- Ông nói thế nào cũng
được, nói tôi yêu cũng được, mà bảo tôi không yêu cũng được.
- Tôi biết lòng thầy
nhất định còn yêu tiểu thư, hôm nay tôi muốn đem phơi bày bộ mặt đạo đức
giả của thầy ra. Tiểu thư yêu thầy, thầy cũng yêu tiểu thư, nhưng thầy lại
không chịu kết nghĩa với tiểu thư, khiến tiểu thư phải hy sinh cả tuổi
thanh xuân, bỏ hết hạnh phúc ở đời, đem mình chôn vùi vào cuộc sống buồn
tẻ thế này. Trên hình thức, thầy và tiểu thư tuy không yêu nhau, song
trong tinh thần ái tình giữa hai người vẫn kết hợp; nếu cùng yêu thương
nhau trong tinh thần, thì sao ngay từ lúc đầu thầy không bỏ luôn lớp áo
nhà tu để chung sống với tiểu thư một cách đường hoàng cho rồi, lại còn
giả bộ đạo đức đến nỗi làm hại cả cuộc đời tươi đẹp của tiểu thư!Ngô Sư
Gia muốn thăm dò tư tưởng của Giác Chúng, cho nên lời nói của ông ta như
thổ lộ nỗi bất bình trong can trường thay cho nàng, vì lợi ích của nàng mà
nói, ông ta tưởng nói thế chắc mọi người cũng phát ghét Ngọc Lâm, và Giác
Chúng cũng không thể oán trách ông ta.Ngọc Lâm bị Ngô Sư Gia dồn vào ngõ
bí, thầy nghĩ không thể không bày tỏ rõ ý tưởng, bởi thế thầy ôn hòa nói:
- Ông nói đúng! Trong
lòng tôi rất yêu tiểu thư, tôi không những chỉ yêu tiểu thư mà còn yêu cả
ông nữa, và yêu tất cả nhân loại. Ý nghĩa của chữ yêu rất rộng, cha mẹ yêu
con cái, chồng yêu vợ, vua yêu nhân dân, Phật và các Bồ Tát yêu chúng
sinh, song nghĩa chữ yêu ấy có nhiều điểm khác nhau. Thông thường trai,
gái yêu nhau là do lòng tư dục kích thích. Cũng như ông nói tôi yêu tiểu
thư, nhưng tôi không chịu lòng tư dục thúc đẩy, tôi yêu tiểu thư là mong
cho tiểu thư xa lìa được sự khổ, đến cảnh giới yên vui, cũng đúng như tôi
yêu và mong cho những người khác tránh khổ, đến vui vậy!Ngọc Lâm dựa lưng
vào tòa ngồi, trông thầy như chân thân của một vị Bồ Tát. Những lời nói
phóng ra từ cửa miện Ngọc Lâm, ai nghe cũng cảm động, mọi người đều tỏ vẻ
kính ngưỡng.Thấy thế, Ngô Sư Gia càng tức, ông ta bèn quát lên:
- Thầy có biết tôi là
người thế nào không?
- Ai cũng biết ông, ông
là bậc đại danh Ngô Sư Gia!
- Thầy đã biết là Ngô
Sư Gia, vậy thầy có biết tất cả chủ trương trị nước của Vương tể tướng đều
là kế hoạch của tôi?
- Dạ biết! Song điều đó
không quan hệ gì đến tôi! Tuy giọng Ngọc Lâm ôn hòa song vẫn biểu lộ cá
tính cứng cỏi của thầy.
- Không quan hệ gì đến
thầy! Thầy định khinh thường tôi hả? Nước da thiết bì trên mặt Ngô Sư Gia
tái đi, và một tia nhìn dữ tợn, hung hiểm phóng ra từ đôi mắt của ông ta.
Lúc này Giác Chúng thấy
không còn nhịn được nữa, cặp má vẫn ửng hồng như một áng mây chiều, nàng
khẻ cất tiếng:
- Ngô Sư Gia, cha tôi
mới về Kinh chưa bao lâu, ông đừng sinh sự một cách vô lý. Thầy Ngọc Lâm
bây giờ là thầy tôi, tôi mời thầy ở lại để dạy chúng tôi tu học Phật pháp,
ông không được vô lễ đối với thầy; ông sinh sự hỏi thầy trước, thầy đã lấy
thiện ý trả lời ông, sao ông không thỏa mãn mà lại còn cáu kỉnh như vậy?
Ngô Sư Gia tưởng nói
thế sẽ được Giác Chúng biểu đồng tình, nào ngờ lại bị nàng quở trách, lửa
giận trong lòng ông ta tuy bừng bừng, song trước mặt Thiên Kim Tiểu Thư
của một vị tể tướng, ông ta đành nén giận, và khẻ buông một câu:
- Tiểu thư đã....
- Xin ông đừng nhắc đi
nhắc lại tiểu thư hoài, ông không biết hiện giờ tên tôi là Giác Chúng!
- Giác.... Giác Chúng
đã nói thế thì tôi cũng chịu kém vậy!
Ngô Sư Gia biết tiểu
thư không bằng lòng, nên đành đầu hàng và chẳng nói chẳng rằng, cầm chiếc
tẩu rút lui trước.Ngọc Lâm cũng đứng dậy, ra khỏi Phật điện giữa những
tiếng khen ngợi của mọi người.
Chương Mười Ba
Sau khi bị Ngô Sư Gia
kiếm chuyện gây gỗ, ai cũng cho rằng Ngọc Lâm buồn phiền lắm, nhất là Giác
Chúng thấy ân hận vô cùng bởi thế đích thân không tiện đến thăm hỏi, song
nàng luôn luôn cho người đến an ủi thầy.Nhưng họ đã nghĩ lầm: Ngọc Lâm vẫn
vui vẻ như thường và thản nhiên như không có chuyện gì xẩy ra. Giác Chúng
thấy thế cũng yên lòng.
Một hôm, về buổi chiều,
Thúy Hồng vâng lệnh Giác Chúng đến thăm Ngọc Lâm, Ngọc Lâm nói với nàng:
- Người tu học Phật
pháp, cần nhất là phải biết rõ mình, hoàn toàn làm chủ lấy mình, đừng để
ngoại cảnh chi phối. Trên đời này không có gì tuyệt đối cả, chúng ta đừng
để những cái không đâu làm rối trí ta. Nếu người khác nói một vài câu khen
ta thì ta vui, họ có chê ta mấy lời thì ta buồn, xị mặt ra, cuộc sống của
ta như thế là hoàn toàn trong tay người khác, họ muốn ta vui, họ khen ta
vài câu, nếu họ muốnta buồn, họ chê ta mấy lời, như vậy là ta trở thành đồ
chơi trong tay họ; cho nên, người tu Phật chỉ cần làm lợi cho người, bất
chấp sự khen, chê, vinh, nhục của chính mình! Thúy Hồng, nhờ cô chuyển lời
của tôi nói với Giác Chúng đừng bận tâm về việc Ngô Sư Gia.Mấy năm gần
đây, Ngọc Lâm được thấy tình đời biến ảo, thầy lại càng thâm hiểu Phật
pháp, đối với việc thế gian, thầy đã có một nhân sinh quan như thế, thật
cũng đã tiến bộ rất nhiều!
- Bạch thầy, Ngô Sư Gia
là người xấu bụng nhất trong tướng phủ, ông ta dựa vào lòng tin yêu của tể
tướng thường làm mưa làm gió, chúng tôi đã chịu không biết bao
nhiêu...Ngọc Lâm cắt ngang lời Thúy Hồng:
- Cô đừng nói thế, Ngô
Sư Gia không phải là người xấu như cô tưởng đâu, tôi thấy ông không những
không phải là người xấu, mà còn là người thẳng thắn nữa!
- Thẳng thắn? Ông ta là
người rất nhiều quỷ kế, đâu có xứng đáng với danh từ đó. Ông ta đã không
bằng lòng ai thì người ấy phải khốn đốn.
Thúy Hồng đứng cạnh
chiếc bàn trước mặt.
Ngọc Lâm, vừa nói vừa
nhíu mày.
- Cô không ưa vấn đề
Ngô Sư Gia đưa ra để thảo luận với tôi thì cho ông ấy là người không tốt,
chứ thật ông ấy là người rất tốt, ông nghĩ thế nào thì nói thế!
- Trời ơi! Ông ta mà là
người tốt thì trên đời này không biết thế nào mới là người xấu?
Thúy Hồng vẫn không
chịu, hỏi lại.
- Tôi thấy ở đời này
không có ai là người xấu cả, hết thảy đều là bạn tốt của ta!
- Thế giặc cướp, thổ
phỉ và những kẻ sát nhân đều là người tốt cả?
- Giặc cướp, thổ phỉ và
những người sát nhân đều có nỗi khổ tâm riêng của họ, vì hoàn cảnh mà bất
đắc dĩ họ phải nhúng tay vào tội
ác. Vả lại, người làm
ác và xấu xa cũng là tấm gương sáng cho chúng ta, chúng ta đừng bắt chước
hành vi của họ. Bởi thế ai cũng là thầy, bạn tốt, chứ không phải là kẻ
địch của ta. Dù có là kẻ địch chăng nữa, ta cũng cứ coi họ như người bạn
tốt, không nên cho họ là người xấu. Trước kia, tôi cũng đã hiểu lầm sư
huynh Ngọc Lam tôi, tôi chỉ nhìn bề ngoài để phán đoán sư huynh, kỳ thực,
người hơn chúng ta trăm nghìn lần, cho nên tôi thường hối hận việc đó.
- Thầy nói gì mà tôi
chẳng hiểu chi hết, chỉ biết Ngô Sư Gia là một người tồi, nếu thầy không
cẩn thận, có khi ông ta mắng cả thầy!
Thúy Hồng vẫn không
thay đổi ý kiến của nàng.
- Mắng tôi cũng không
sao, chỉ cần ông ấy đừng đánh tôi là được!
- Thậm chí ông ta có
thể đánh thầy!
- Đánh cũng không hề
gì, miễn ông ấy không giết tôi là được!
- Tuy ông ta không dám
đánh chết thầy song ông ta có thể bầy mưu giết thầy!
Giọng Thúy Hồng nghiêm
trọng.
- Chết cũng được, người
ta ai cũng có một lần.
Ngọc Lâm vẫn thung
dung, thanh thản, thầy nhìn đời cũng như người gỗ ngắm chim hoa, không gì
có thể làm thầy nao núng, động tâm.
Thúy Hồng yên lặng,
nàng có cảm giác Ngọc Lâm là một người kỳ diệu, lời nói và việc làm của
thầy hoàn toàn khác với người đời.
Họ yên lặng trong một
lúc, tay Ngọc Lâm cầm chuỗi tràng, mồm lẩm nhậm niệm danh hiệu Phật.
Đó là một gian nhà thờ
Phật rất trang nghiêm, dành riêng cho Ngọc Lâm ngồi xem kinh và niệm Phật;
sau gian nhà đó là phòng ngủ của Ngọc Lâm, bầy biện rất lộng lẫy, sang
trọng, vừa gọn gàng tinh khiết và không thiếu một thứ cần dùng nào, song
Ngọc Lâm đối với các thứ ấy vẫn dửng dưng, không hề ham đắm. Thầy chỉ mong
có cơ hội thoát ly được chỗ này càng sớm càng hay, vì thầy tự nghĩ nếu
hưởng thụ vật chất quen rồi, thường sẽ bị vật chất trói buộc.Từ hôm bị Ngô
Sư Gia làm phiền, lòng thầy không hề oán giận, thầy càng gia công niệm
Phật; thầy không trách ai, chỉ cho đó là tại thầy ít phúc, bởi thế thầy
luôn luôn quỳ trước bàn Phật sám hối để cầu phúc cho mọi người.Mỗi khi lễ
Phật, hình ảnh của sư huynh Ngọc Lam lại hiện ra trong đầu óc Ngọc Lâm,
lúc ấy thầy có cảm tưởng khi người ta tự do, siêu thoát được đến mức ấy
mới thật hiểu ý nghĩa của con người!Hoa đào đẹp, nhưng chẳng bao lâu sẽ
tàn tạ, vàng bạc quý, song không thể mua được tuổi thanh xuân; vạn vật
chuyển biến không ngừng, sự sống, chết vô thường không ai tránh khỏi. Ngọc
Lâm đã thâm hiểu lẽ ấy, nên thầy chẳng bận tâm đến việc khen, chê của
người đời, hoặc oán trách Ngô Sư Gia.Sau khi niệm Phật một hồi, Ngọc Lâm
cất tiếng hỏi Thúy Hồng để phá tan sự yên lặng giữa hai người:
- Sao cô không đi làm
việc đi, Thúy Hồng?
- Tôi chả có việc gì
làm cả, tiểu thư sợ những người mới đến không quen việc nên cho tôi hầu
thầy, hơn nữa sợ thầy ngồi một mình vắng vẻ, không có ai để nói chuyện.
- Vắng vẻ! Đời người
còn bao nhiêu việc, sợ làm không kịp chứ có thì giờ đâu mà để ý đến sự
vắng vẻ?
Thật vậy, ai cũng tưởng
Ngọc Lâm nhàn hạ lắm, nhưng thực thì lúc nào thầy cũng vội vàng, nhất là ở
chùa Sùng Ân, lúc mọi người đang ngon giấc thì thầy đã phải dậy thắp đèn
hương, lấy nước cúng, rồi đánh hiệu; buổi tối, khi mọi người đã đi ngủ thì
thầy còn phải xem cửa ngõ, tắt đèn nến, hơn nữa thầy lại là người có chí
cầu tiến, cố gắng trau dồi trí tuệ, nên ngoài công việc thường nhật ra,
thầy lại đọc kinh, xem sách, không còn thì giờ để nói chuyện.
- Bạch thầy, tôi thật
không hiểu tại sao tình cảm thầy có thể lại bình tĩnh như thế? Dứt lời
Thúy Hồng đi ra mở cửa sổ, bên ngoài, bầu trời xanh biếc, mấy đám mây
trắng đục đang lững lờ trôi qua.
Khi thấy Thúy Hồng mở
cửa sổ, Ngọc Lâm đưa mắt nhìn theo thầy thấy phía ngoài cửa một bóng người
lướt nhanh, nhưng thầy không chú ý. Thầy khẽ nói với Thúy Hồng:
- Tôi cũng rất mong làm
sao giữ cho tình cảm của mình luôn luôn bình tĩnh, khốn nỗi tôi chưa phải
là thánh thần gì, cho nên đôi khi cũng rất khích động. Cũng như bầu trời
xanh biếc ngoài kia, nếu một trận cuồng phong thổi tới thì chắc mây đen sẽ
kéo lên ùn ùn. Nếu ta có thể nhận định sự vật một cách sáng suốt, đừng để
cho si mê che lấp, hiểu rõ rằng sự vật trên đời này đều là vô thường, giả
dối, như trò ảo thuật, thì tức nhiên ta không còn bị khích động nữa.
Thúy Hồng tỏ vẻ thẹn
thò:
- Bạch thầy, mỗi lần
thầy nói đều khiến cho người nghe phải cảm động, thảo nào mà tiểu thư đã
hăng hái vứt bỏ hết để đi tu, cũng chỉ vì thâm cảm nhân cách của thầy,
thầy xem tôi có phúc duyên như tiểu thư, nghĩa là có thể xuất gia được
không?
- Tại sao cô cũng có ý
nghĩ ấy? Ngọc Lâm ngạc nhiên hỏi, vì thầy không muốn người ta hiểu ý nghĩa
xuất gia một cách hồ đồ, và coi việc xuất gia quá dễ dãi.
- Nghĩ đến tiểu thư còn
có thể vứt bỏ hết vinh hoa, phú quý nữa là chúng tôi, những người tầm
thường còn có gì đáng lưu luyến trên cõi đời tạm bợ này?
- Luật pháp nhà Thanh
không cho phép người ta tự ý xuất gia, mà phải qua một kỳ khảo thí và nhà
vua chuẩn y mới được, cô không bì được với tiểu thư, cô đừng nghĩ thế. Giả
sử cô đã hiểu được lẽ vô thường ở đời mà muốn học Phật, thì không nhất
định cứ xuất gia mới là học Phật!
Ngọc Lâm vừa nói đến
đấy thì ngoài cửa thoáng có bóng người, Thúy Hồng nhìn ra, kinh ngạc, tiếp
đó bóng người tiến vào, tưởng là ai, hóa ra Ngô Sư Gia.
Vẻ đẹp của Thúy Hồng
rất lả lướt, tươi thắm như một bông sen vừa nhô lên khỏi mặt nước, nhưng
lúc thấy Ngô Sư Gia nàng bỗng thất sắc, nàng sợ ông ta đã nghe thấy những
lời của nàng dị nghị vừa rồi. Song Ngọc Lâm vẫn cứ điềm nhiên.
Sau khi bước vào phòng,
Ngô Sư Gia đưa đôi mắt cú vọ nhìn một lượt, rồi lẳng lặng bước ra.
Thấy Ngô Sư Gia đã đi
xa, Thúy Hồng mới nói:
- Bạch thầy, làm thế
nào được? Có lẽ ông ta nghe rõ những lời tôi nói về ông ta?
- Chính ra sau lưng
không nên nói xấu người khác, lần sau cô đừng làm thế. Hiện giờ cô đừng
sợ, nếu ông ấy hỏi thì cô cứ bảo là tôi nói chứ không phải cô, như thế ông
ấy sẽ không làm gì cô.
- Đâu được ạ! Ông ta
nghe rõ tiếng của tôi mà!
- Cô có thể nói với ông
ấy là vì tôi hỏi nên bất đắc dĩ cô phải nói!
Ngọc Lâm rất vui lòng
chịu lỗi thay cho Thúy Hồng.
- Thế cũng không xong,
tôi không thể để thầy vì tôi mà chịu sự khiển trách của Ngô Sư Gia.
- Điều đó không hề chi!
Cô phải ở đây luôn luôn, không nên gây oán với ông ấy, còn tôi, tôi chỉ ở
một hai ngày nữa rồi đi, một khi tôi đã đi thì ông ấy cũng sẽ không giận
tôi nữa.
Lúc đó mấy nén hương
trước bàn Phật đã cháy hết, Ngọc Lâm bước xuống rồi lấy ba nén hương khác
thắp lên.
Từ mấy nén hương mới
thắp một làn khói bốn lên rồi tỏa ra trong gian Phật đường và tan hòa vào
bầu không khí trang nghiêm, thanh tịnh. Lời nói của Ngọc Lâm vẫn không xua
đuổi được sự sợ hãi và lo lắng trong lòng Thúy Hồng, song nàng quá xúc
động vì lòng từ bi, vị tha của Ngọc Lâm, nên bất giác mấy giọt lệ cảm động
từ từ chảy xuống sống mũi nàng. Do đó, Ngọc Lâm lại nói tiếp:
- Ngô Sư Gia không làm
gì cô đâu, cô cứ yên tâm đi làm việc đi, trên đời này có gì vĩnh viễn đâu,
kể cả ân, oán, yêu, ghét của người ta cũng vậy.
Thúy Hồng yên lặng,
cũng không muốn đề cập đến việc nàng xuất gia nữa; lúc đó thấy Ngọc Lâm
sắp sửa lên tụng kinh, nên nàng chắp tay chào, rồi đi.
Sau khi Thúy Hồng đi
khỏi, Ngọc Lâm lên trước bàn Phật tụng kinh. Tụng kinh xong, bao nhiêu
việc lại dồn dập diễn ra trong đầu óc thầy, nhất là việc đến dự lễ xuất
gia của Vương tiểu thư; trước khi đi thầy chỉ xin phép hòa thượng Thiên Ẩn
cho đi có hai ngày, mà hiện giờ ở lại Thiên Hoa Am thấm thoát đã tám ngày
rồi, điều đó thầy tin chắc rằng hòa thượng cũng sẽ tha thứ, song thầy lại
sợ những người không hiểu có thể tưởng lầm cho thầy lần này đã bị tài sắc
cám dỗ thật. Việc Giác Chúng xuất gia là do thầy chỉ bày, bây giờ nàng đi
tu thì tất nhiên thầy cũng có trách nhiệm trong đó. Thầy ở lại Thiên Hoa
Am, về phương diện vật chất tuy hơn hẳn ở chùa Sùng Ân, song thầy thấy tâm
thần không được tự tại. Nếu trở về Sùng Ân ngay e sẽ phụ lòng tốt của
người, cũng như lúc trước Thúy Hồng đã trách thầy là không có một chút
tình nghĩa nào, chẳng khác gì gỗ, đá! Giờ đây thầy đã thấy rõ Ngô Sư Gia
bất mãn đối với thầy, cho nên thầy muốn rời Thiên Hoa Am sớm ngày nào hay
ngày ấy. Sau khi thế phát, Giác Chúng trở nên trầm mặc, ít nói, thấy nàng
tỏ ra có thể sống cuộc đời xuất gia đạm bạc và bình thản, thầy cảm thấy
rất vững tâm. Thầy nhất định chỉ trong ba hoặc năm ngày nữa thầy sẽ trở về
Sùng Ân.Cứ như thế Ngọc Lâm ở Thiên Hoa Am đã thêm bốn ngày, hôm ấy thầy
đã nói với Giác Chúng là chiều hôm sau thầy sẽ về, Giác Chúng thấy ý thầy
đã quyết, không thể giữ lại, nên chỉ xin thầy là lần sau lại tới, đồng
thời, nàng cho gói các phẩm vật biếu thầy để đem về, song Ngọc Lâm không
hề đoái tưởng những thứ đó mà cũng chẳng nói một lời cảm ân.
Tối hôm ấy, Ngọc Lâm
gói cà sa, áo thụng gọn gàng rồi để trước bàn Phật để hôm sau tiện đem
đi.Nhưng sáng hôm sau, Ngọc Lâm đợi mãi Thúy Ngọc - người tỳ nữ hôm đầu đã
lầm tưởng thầy là người hầu của hòa thượng Ngọc Lâm
- không thấy nàng bưng
cơm sáng lên cho thầy. Một khắc, hai khắc, rồi ba khắc trôi qua cũng không
thấy Ngọc Lâm tưởng đâu hôm nay mọi người quên không cho thầy ăn sáng,
thầy ngồi trầm tư, không thể nào định tâm được, thầy tìm chuỗi tràng hạt
thì chuỗi tràng cũng biến mất, đang lúc lòng thầy bồn chồn, bỗng từ phía
ngoài tiếng người hỗn loạn vọng vào, ai cũng hô hoán, kinh ngạc,
Ngọc Lâm đứng dậy, ra
khỏi gian Phật đường thì lúc ấy, mới có người vào cho biết là Thúy Ngọc đã
bị giết chết, nằm trên vũng máu.Tất cả các sư nữ, những người hầu và người
làm trong chùa đều đổ ra xem; họ đứng vòng trong vòng ngoài và bàn tán
không ngớt, Ngọc Lâm buông một tiếng thở dài rồi lặng lẽ trở vào Phật
đường.
Tin trong Thiên Hoa Am
có người bị giết đã được loan truyền đi các nơi như một luồng gió, vị trụ
trì Thiên Hoa Am là Vương tiểu thư, con của đương triều tể tướng, quan
huyện địa phương biết tin cũng vô cùng kinh ngạc, liền tức khắc cho người
đến đến điều tra để tìm hung thủ.
Nhân viên trong huyện
vào yết kiến Giác Chúng, họ nói họ được lệnh của quan huyện đến, điều tra
tại chỗ bắt kẻ sát nhân.
Được tin Thúy Ngọc bị
giết, Giác Chúng hoảng hốt và hoài nghi, nàng bảo nhân viên trong huyện
nếu tìm ra thủ phạm sẽ được trọng thưởng.Bốn nhân viên ra khám xét thi thể
của kẻ xấu số thì thấy các đồ nữ trang đều mất hết, chỉ thấy trong tay có
một chuỗi tràng hạt.Tiếng Ngô Sư Gia vọng lên trong đám người đứng xem:
- Tại sao chuỗi tràng
của Ngọc Lâm thường dùng lại ở trong tay nàng?
- Ngọc Lâm là ai? Một
trong những nhân viên điều tra hỏi.
- Đó là một vi sư trẻ
tuổi từ chùa Sùng Ân đến, hiện đang ở đây.
Vừa nói, Ngô Sư Gia vừa
giơ tay chỉ về gian Phật đường, chỗ Ngọc Lâm ở.Như đã thấy được một tia
sáng cho vụ án mạng, những nhân viên điều tra tiếng thẳng vào gian Phật
đường của Ngọc Lâm, họ khám xét trong phòng, khi dở chiếc khăn gói của
Ngọc Lâm ra thì thấy tất cả đồ nữ trang của nạn nhân được bọc cẩn thận
trong tấm cà sa của thầy.Không còn nghi ngờ gì nữa, nhân viên hữu trách
liền bắt Ngọc Lâm, cho thầy là giết người để đoạt của.Lại một phen Thiên
Hoa Am kinh hoàng, náo động, kẻ thì oán trách Ngọc Lâm, nỡ vì một chút
tiền tài mà làm một việc cực ác như vậy; cũng có người thì thương Ngọc
Lâm, cho rằng thầy là người văn nhã, có đạo đức, có học thức, quyết không
bao giờ làm một việc táng tận lương tâm như thế.
Song sau khi Ngọc Lâm
bị bắt, Thúy Ngọc bị giết như thế nào, người ta vẫn bàn tán phân vân, chưa
rõ manh mối, không khác nào người đi trong đám sương mù dày đặc!
Chương Mười
Bốn
Tin Ngọc Lâm bị bắt đến
tai Giác Chúng như một tiếng sét long trời, mắt nàng trợn lên, miệng nàng
há hốc, không thốt được lời nào.Điều đó dù ngay trong chiêm bao cũng không
thể có, chứ đừng nói chi một sự thật trước mắt nữa; "Ngọc Lâm giết người
đoạt của", không. Giác Chúng không thể tin được việc ấy.Nhưng tại sao
chuỗi tràng của Ngọc Lâm lại nằm trong tay nạn nhân? Và tại sao tiền bạc
và các đồ nữ trang của nạn nhân lại ở trong gói cà sa của Ngọc Lâm? Điều
đó không những làm cho Giác Chúng suy nghĩ nát óc, mà tất cả mọi người
trong chùa đều cho là một vụ án mạng hết sức ly kỳ!Nói là Ngọc Lâm giết
người để lấy của thì phi lý, vì tiền của và cả sắc đẹp nữa ở trong tướng
phủ thầy còn chẳng thèm, thế rồi hôm qua biếu thầy một gói phẩm vật, thầy
cũng thờ ơ như không, một chút tiền bạc nữ trang của một con hầu gái đáng
kể vào đâu mà bảo thầy giết người để lấy của?
Suy đi nghĩ lại, Giác
Chúng cho đó là một án mạng rất bí ẩn, nhất định Ngọc Lâm bị oan uổng, dựa
vào quyền thế của tướng phủ tuy có thể cứu được thầy, nhưng làm thế nào để
rửa sạch tiếng oan? Nghĩ đến đây nàng cảm thấy thương Ngọc Lâm vô cùng.Lập
tức Giác Chúng sai Thúy Hồng đến nói với Ngô Sư Gia, lấy danh nghĩa của
tướng phủ viết một bức thư bảo chứng cho quan huyện, nói là dù thế nào
chăng nữa cũng không được đối xử với Ngọc Lâm như những phạm nhân khác.Một
lát sau, Thúy Hồng trở về nói, Ngô Sư Gia cho rằng đó là một vụ án giết
người, không nên dựa vào uy quyền của tướng phủ làm cho linh hồn người
chết không được thân oan, mong tiểu thư đừng quá vì cảm tình cá nhân.Nghe
xong, Giác Chúng hằm hằm nổi nóng nàng tự nghĩ Ngô Sư Gia là kẻ lòng lang,
dạ thú, chỉ vì bất mãn với Ngọc Lâm hôm kiếm chuyện mà giờ nỡ khoanh tay
ngồi nhìn như thế.Ngay lúc đó Giác Chúng đích thân viết một phong thư, rồi
sai Thúy Hồng đưa vào cho quan huyện họ Lưu. Trong thư nàng kể rõ nhân
cách và lòng từ bi của Ngọc Lâm, xưa nay chỉ mong cứu người còn chưa đủ,
huống chi lại có hành động sát nhân? Trong vụ này còn có nhiều uẩn khúc,
mong quan huyện minh xét, đừng để cho người hiền lương phải oan uổng.
Trong khi viết thư, bao
nhiêu việc đã qua lại lần lượt diễn ra trong óc Giác Chúng như một cuốn
phim, từ khi mới gặp Ngọc Lâm trên Đại Hùng Bảo Điện ở chùa Sùng Ân, cho
đến đêm động phòng hoa chúc bị Ngọc Lâm thuyết phục, làm nàng cảm động;
rồi từ khi Ngọc Lâm bỏ tướng phủ trở về chùa Sùng Ân cho đến hôm thầy tới
Thiên Hoa Am mới được trùng phùng, nàng thấy lúc nào Ngọc Lâm cũng tỏ ra
một ý chí sắt đá, thiết tha vì đạo, lúc nào cũng biểu dương một tinh thần
cứu người giúp đời ai ngờ đâu một người đáng tôn kính như thế chỉ vì mình
muốn giữ lại mấy hôm, đến phải gặp sự rủi ro thế này, thật là một việc
ngoài sức tưởng tượng!
Giác Chúng viết xong,
trao bức thư cho Thúy Hồng, nói:
- Thúy Hồng, con đưa
phong thư này lên quan huyện, nói là cô mong người phải điều tra thêm để
tìm hung thủ, và trả tự do cho Ngọc Lâm vì người là thầy của cô, hơn nữa
thầy không phải là kẻ giết người!
- Nhưng chuỗi tràng của
thầy và tiền bạc trong khăn gói, thật cũng khiến người ta khả nghi? Thúy
Hồng đỡ lấy phong thư từ tay tiểu thư, nàng có cảm tưởng là một tội trạng
khó bào chữa.
- Con cũng có thể tin
thầy Ngọc Lâm tham của giết người, hả Thúy Hồng?
Hình ảnh cao cả và tinh
khiết của Ngọc Lâm lại hiện ra trong óc Giác Chúng không hề vì câu nói của
Thúy Hồng mà lòng nàng lay chuyển.
- Ý con không phải nghi
ngờ cho thầy - Thúy Hồng đáp - Cô muốn cứu thầy, nhưng làm thế nào để phủ
nhận những chứng cứ ấy? Mà dù thầy có được tha chăng nữa, danh dự cũng tổn
thương rất nhiều, làm thế nào để rửa sạch được vết nhơ ấy!
- Thúy Hồng, con nói
rất đúng! Nhưng tại sao chuỗi tràng của thầy lại ở trong tay nạn nhân? Và
tiền bạc, tư trang của nạn nhân lại nằm trong khăn gói của thầy?
- Điều đó phải hỏi thầy
mới biết được.
- Thầy Ngọc Lâm giết
người thật sao? Giác Chúng la lên thất thanh, hai hàng nước mắt ứa ra, và
lảo đảo đi vào giường.
- Không! Không! Điều đó
phải hỏi chính kẻ đã giết Thúy Ngọc mới được!
Thúy Hồng vội cải chính
lời mình vừa nói.
- Ai nỡ giết nó? Nó mới
đến chưa ở được bao lâu, chẳng ai thù hằn gì nó, vậy người nào đang tâm
hại nó?
- Vấn đề khó ở chỗ đó!
- Thôi, việc ấy sẽ nói
sau, giờ con hãy đưa ngay bức thư này đi, cô ở nhà đợi tin con!
Thúy Hồng cầm phong thư
đi ra, dọc đường nàng nghĩ cũng thương tâm và gần như muốn khóc! Nàng nghĩ
Ngọc Lâm là một người không những tiểu thư quí mến, kính phục, mà chính
nàng cũng đã được thầy cảm hóa rất nhiều.Khi nàng đến cửa huyện Nghi Hưng,
lính gác cửa thấy nàng còn trẻ tuổi mà dám đến huyện, nhìn nàng một lượt
từ đầu đến chân, rồi hỏi nàng đến có việc gì?Thúy Hồng kiêu hãnh đưa phong
thư của Vương tiểu thư ra, ngoài bao thư, một con dấu trong văn phòng
tướng phủ đỏ chói, thấy thế, chú lính gác cửa vội đưa nàng vào gặp quan
huyện Nghi Hưng.Quan huyện họ Lưu tiếp được thư của Giác Chúng tỏ vẻ tươi
cười, nhưng sau khi xem xong thư, mặt ông lại sa xuống.
- Rất tiếc chúng tôi
không thể làm theo như lời chỉ thị trong thư.
Giọng nói của quan
huyện vừa nghiêm nghị, vừa sợ sệt.
- Ngài nghĩ thế nào?
Thúy Hồng vội hỏi.
- Chúng tôi không thể
phóng thích sư Ngọc Lâm mới bị bắt sáng ngày!
- Tại sao? Thúy Hồng mở
to đôi mắt và tim nàng đập mạnh.
- Chúng tôi vừa mới lấy
khẩu cung, sư Ngọc Lâm đã thú nhận là ông có giết người!
- Người đã thú nhận?
Thật là một việc không
thể tưởng tượng, nghe xong, Thúy Hồng thấy hoa cả mắt, trời đất như muốn
sụp đổ.
- Vâng. Đây là bản khẩu
cung - Quan huyện trao bản ghi lời thú nhận của Ngọc Lâm cho Thúy Hồng -
Luật pháp nhà Thanh đã quyết định không được phóng thích một người đã thú
nhận tội lỗi!Thúy Hồng nhìn qua loa rồi cố nén xúc động:
- Thưa lão gia, đây là
điều oan uổng!
- Phép nước rất công
bình, dù cho con vua, cháu chúa cũng không được miễn. Chúng tôi không ức
hiếp, đánh đập, bắt người phải thú nhận, mà trước công đường, tự người đã
khai như thế!Thúy Hồng biết rằng lúc này nói nhiều cũng vô ích, nàng muốn
gặp hẳn Ngọc Lâm để hỏi ra nhẽ tại sao thầy lại làm một việc dại dột như
vậy. Bởi thế nàng nói:
- Thưa, tôi có được
phép gặp thầy Ngọc Lâm một chút không?
- Ngọc Lâm phạm tội
giết người, đáng lý không ai được gặp, song tôi cũng biết tể tướng và
Thiên Kim Tiểu Thư rất kính trọng người
này, nên tôi để cô vào
thăm.
Thúy Hồng nắm được cơ
hội ấy, nhìn quan huyện họ Lưu một cách rất dịu dàng:
- Ngài đã biết tể tướng
và tiểu thư rất kính trọng người ấy, thế sao ngài không tìm cách cứu
người?!
Viên quan huyện công
minh, chính trực đúng như thừa tướng họ Bao đời Tống:
- Song cảm tình cá nhân
không thể đưa ra nói trước pháp luật được.
Thúy Hồng thất vọng:
- Xin ngài đưa tôi đến
gặp thầy vậy!
Trước mặt người hầu cận
trong tướng phủ, viên quan huyện tỏ ra rất lễ độ, dẫn Thúy Hồng đến chỗ
Ngọc Lâm.
Sau khi bị bắt, Ngọc
Lâm cũng được biệt đãi, không bị giam chung với các phạm nhân khác trong
ngục thất, thầy được giam riêng trong một căn phòng nhỏ tối tăm. Khi vào
phòng thầy ngồi xếp bằng, nhắm mắt tư duy.Thoạt thấy Ngọc Lâm, Thúy Hồng
rớt nước mắt, nàng đứng bên cạnh thầy, nghẹn ngào nói không thành
tiếng.Thân hình Ngọc Lâm như một cây khô chơ vơ giữa mùa đông giá lạnh,
khiến người ta trông thấy liền phải mủi lòng, Ngọc Lâm khẽ
mở đôi mắt nhìn Thúy
Hồng.Sau một lúc lâu, Thúy Hồng lau nước mắt, nói:
- Tiểu thư cho tôi đến
thăm thầy.
- Đa tạ!
- Chúng tôi không tin
là thầy giết người!
- Bằng chứng tỏ rõ như
thế.
- Thế tại sao thầy giết
nó?
- Cô không phải quan
tòa, tôi không muốn nói với cô.
- Thầy thật dại, dù
thầy có giết chăng nữa, cũng không nên thú nhận vội như thế, tôi cứ tưởng
thầy là người thông minh.
- Việc này cô không thể
hiểu được, đời nhiều cái rối ren lắm, tôi làm thế để cắt bớt sự rối ren
đi. Tôi rất hài lòng được cơ hội này để tiến bước trên đường tu hành và
làm một việc có ý nghĩa!
- Song trước kia thầy
là người rất trọng danh dự và thể diện, sao bây giờ thầy lại không tiếc gì
đến nhân cách thanh khiết của thầy?
Nghe Thúy Hồng nói đến
đây, Ngọc Lâm kinh ngạc, thầy không ngờ một tỳ nữ mà hiểu sự lý đến thế,
nhưng dĩ nhiên Ngọc Lâm còn thấy xa hơn nàng nhiều, nên mặc dầu Thúy Hồng
nhắc nhở, thầy vẫn không thay đổi sắc diện.Có bao giờ Ngọc Lâm không nhớ
đến điều mà Thúy Hồng vừa nói? Thầy cũng biết người ta sống trên đời cần
nhất phải có nhân cách thanh khiết; lúc thầy vào làm rể trong tướng phủ mà
không đam mê tài sắc, đó cũng là do nhân cách thanh khiết! Người có nhân
cách thanh khiết mới xứng đáng là người và cuộc sống mới có giá trị! Nhưng
khoảng vài tháng nay, Ngọc Lâm lại nẩy ra một nhân sinh quan khác. Gần đây
thầy ngồi tham thiền, tư duy, trong cảnh giới vắng lặng, thầy đã nhận rõ
thêm được trò đời. Cái gọi là nhân cách thanh khiết ở đời, cũng không có
tiêu chuẩn nhất định, đó chẳng qua chỉ ăn thua ở chỗ khéo léo che dấu hoặc
không khéo che dấu mà thôi. Một viên quan tham ô, hủ hóa, nhưng khéo che
mắt dân chúng, thì ai cũng tôn trọng, quí mến; còn những bậc chí sĩ, hiền
tài, can đảm nói lên ý nguyện của mình, và những điều bất công trong xã
hội, thì thường bị coi là phản động và có khi phải chịu cực hình. Cõi đời
này là một cõi vĩnh viễn không bao giờ có được công bằng; những kẻ có
quyền thế và nhiều mưu mô quỉ quyệt, họ có thể bảo trái là phải, còn những
người thật thà, yếu thế thì dù có phải cũng bị người ta cho là trái. Người
đời hình như chỉ thích hào nhoáng, giả dối chứ không ưa tìm lẽ chân thật
trong cái giản dị. Nhân cách của sư huynh Ngọc Lam có gì khuyết điểm,
nhưng chỉ vì sư huynh không thích phô trương ra ngoài, cho nên ai cũng cho
sư huynh là người điên khùng; chính mình không giết người, nhưng lúc này
bao nhiêu người đều cho mình là kẻ sát nhân. Biết thanh minh nổi oan uổng
đó với ai bây giờ? Mà dù có thanh minh cũng là một điều phiền phức! Hơn
nữa, người tu hạnh Bồ Tát, chỉ cốt làm lợi cho chúng sinh, chứ không được
hại người. Nhịn những điều mà người khác không nhịn được, làm những việc
mà người khác không thể làm được, đó mới là việc của người học đạo!Ngọc
Lâm lại tự nghĩ đời này đã có người mưu toan hảm hại thầy, chẳng qua đó là
nghiệp báo kiếp trước của thầy, để trả cho xong món nợ tiền kiếp, tốt hơn
là thầy yên lặng chịu sự oan uổng đó! Vả lại, sự thú nhận của thầy có thể
làm cho kẻ sát nhân phải cảm động để lần sau họ đừng nhúng tay vào máu.
Lấy đức báo oán, Ngọc Lâm chủ trương như vậy. Đồng thời, thầy lại nghĩ đến
chân lý "nhất thể" giữa thầy và chúng sinh, và nguyên lý oán, thân đều
bình đẳng. Nếu thầy không tự nhận, tất nhiên phải có người khác
chịu tội, mình được
thoát thân mà khiến cho người khác phải khổ, thì nhất định thầy không làm.
Đem tấm thân này hy sinh cho kẻ khác không phải là luống phí một kiếp
người!
Trước mắt, tuy có nhiều
người hiểu lầm, cho thầy là thủ phạm, song cái mà người đời thấy và biết
đều là sai lầm, vỗn dĩ đã như thế rồi, thầy không phàn nàn, thầy chỉ cần
chân lý đừng phụ thầy là đủ.
Vì có tư tưởng cao cả
và bao dung như thế, nên Ngọc Lâm không bị một cảm giác áo não dày vò.
Vinh hoa, phú quí, sinh tử luân hồi, tất cả chỉ là hoa giữa hư không và
trăng dưới đáy giếng. Ngọc Lâm thấy tâm hồn thanh thoát vô cùng!
- Thúy Hồng - Ngọc Lâm
khẽ gọi - đó là nghiệp báo của tôi, việc riêng của tôi, không can gì đến
các cô, cô hãy về đi! Tôi không mong cô đến thăm tôi trong ngày cuối cùng
của tôi trên cõi đời này!Câu nói của Ngọc Lâm như một mũi dao xuyên thẳng
vào tim Thúy Hồng, bất giác nàng oà lên khóc, và nói trong giọng nức nở:
- Xin thầy đừng nhắc
lại những lời vô tình ấy nữa, thầy cứ yên tâm ở đây, tai nạn của người ta
cũng có ngày hết, nhất định tiểu thư sẽ minh oan cho thầy, ngày mai tôi
lại đến....
Ngọc Lâm gàn và dọa
Thúy Hồng:
- Thế cô không sợ tôi
giết cô để đoạt của à!
- Giả sử tôi được chết
trong tay thầy thì đó là duyên phúc và cũng là sự quang vinh của tôi!
Ngọc Lâm nói thế cốt để
Thúy Hồng đừng vào thăm thầy nữa. Nhưng Thúy Hồng đã hiểu và quí mến thầy,
nên không hề sợ lời dọa ná của thầy.
Quan huyện họ Lưu lễ
phép và trang trọng đứng ngoài cửa hỏi:
- Cô còn nói gì nữa
không?
- Về đi, Thúy Hồng! Nói
xong, Ngọc Lâm nhắm mắt lại.
Những giọt lệ lại từ từ
lăn xuống hai gò má Thúy Hồng, bất đắc dĩ nàng phải kéo lê những bước nặng
nề rời khỏi phòng của Ngọc
Lâm.
Thúy Hồng theo sau quan
huyện, nàng nói:
- Thầy Ngọc Lâm không
phải là thủ phạm đã giết người, ngài đừng cho những lời thú nhận của người
là thật. Ngài nên đối đãi với
người tử tế, nếu vô lễ
với người tức là các ngài coi thường Vương tiểu thư và thể diện của tướng
phủ. Vì ngoài Vương tể tướng và Vương phu nhân ra, thầy là một vị sư mà
mọi người trong tướng phủ đều kính trọng!
Mặc dầu làm việc theo
nguyên tắc và luật pháp, quan huyện họ Lưu cũng không dám khinh thường
quyền uy của tướng phủ, nên ông chỉ gật đầu lia lịa.
Trên đường về Thiên Hoa
Am, Thúy Hồng tự nghĩ nếu tiểu thư biết Ngọc Lâm đã thú nhận tội lỗi, chắc
phải khóc đến đứt ruột!.
Chương Mười
Năm
Căn phòng giam Ngọc Lâm
chìm trong sự tịch mịch của đêm khuya.Từ sáng đến giờ, Ngọc Lâm chưa có
một hạt cơm bỏ bụng, thầy đói lòng.Buổi sáng thầy đã không ăn, sau đó lại
bị áp giải về huyện, khi quan huyện cho người đưa cơm đến thì đã quá giờ
ngọ, thầy không dùng được nữa.Ánh trăng bạc xuyên qua cửa sổ, chiếu vào
căn phòng. Gió mát, đêm thanh, Ngọc Lâm có cảm tưởng như thầy đang ngồi
trong một căn thiền thất (chỗ các sư tham thiền).Thời gian mỗi phút trôi
qua, sự đói lòng của thầy cũng tăng thêm, thầy hơi cảm thấy khó chịu và
cho rằng tội chết còn đỡ khổ hơn tội đói.Ngọc Lâm nghĩ đến người tỳ nữ bị
giết ban sáng, thầy lâm râm niệm Phật, cầu nguyện cho oan hồn của kẻ bạc
mệnh sớm được siêu thoát.Ngọc Lâm tự hỏi không biết ai đã giết nàng? Vì
nguyện cứu chúng sinh nên thầy đã vui lòng chịu tội thay cho thủ
phạm!Người ta thường nói: "Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại", có mất
tự do mới thấy tự do là quí. Nhưng đối với Ngọc Lâm, ngoài cảm giác đói
lòng ra lúc này thầy không thấy gì ràng buộc cả. Mặc dầu thân thể bị giam
cầm, song tinh thần thầy cực kỳ giải thoát.
Đối với tuồng đời ảo
ảnh, tình đời giả dối, Ngọc Lâm không hề có một ý niệm lưu luyến, một vật
duy nhất mà thầy thương tiếc trên đời là Phật giáo, thầy nguyện kiếp sau
thầy sẽ là một người có tài năng, không nhiều nghiệp chướng và hoạn nạn
như kiếp này, để thầy có thể chấn hưng Phật giáo, cứu độ cho mọi người.
Một đêm tù đầy đã lặng
lẽ trôi qua. Sáng hôm sau Thúy Hồng lại vào, mang theo nhiều thức ăn và đồ
cần dùng, khi thấy Ngọc Lâm, nàng dở các thức ăn ra và nói:
- Bạch thầy, thật tội
nghiệp, sau khi biết thầy đã tự nhận mình là hung thủ, tiểu thư khóc ngất
đi, người nói người rất ân hận, người đã báo tin về Kinh, mời tể tướng về
để cứu thầy, lúc đó xin thầy đừng nhận gì hết. Đây là các thứ điểm tâm,
tiểu thư đích thân làm cho tôi mang vào để thầy dùng.
- Các cô thật ngây thơ,
từ đây về Kinh thành bao nhiêu dậm đường? Tôi là kẻ giết người, liệu có
được phép chờ đến khi tể tướng về không? Hơn nữa, tôi đã cung khai rồi, dù
tể tướng có về kịp cũng không dám coi thường phép vua.Ngọc Lâm vừa nói vừa
chúm chím cười. Thầy không chú ý đến những thức ăn sáng mà Giác Chúng đã
tự tay làm cho thầy.
- Tôi không hiểu tại
sao thầy lại tự chuốc lấy tội vạ, tại sao thầy lại tự nhận mình là kẻ giết
người, tự mang tiếng xấu vào mình?
- Điều đó không quan hệ
lắm, Thúy Hồng!
- Tôi biết thủ phạm
không phải là thầy, mà là người trong.... tướng phủ...
- Suît! Cô im đi, cô
đừng vu oan giá họa cho người khác!
- Sao tính tình thầy kỳ
quặc vậy? Thầy không hiểu nỗi lòng của tiểu thư và chúng tôi đối với thầy.
Tiểu thư nói chẳng thà người chết thay thầy, chứ không thể thấy thầy chết
oan.
- Giết người thì phải
đền mạng, ai gây tội người ấy phải chịu. Cô về nói với Giác Chúng là trên
cõi đời đã nhiều việc rắc rối lắm rồi, xin các cô đừng bày thêm trò rắc
rối nữa. Giọng Ngọc Lâm như tức giận.
- Thầy đừng cố chấp quá
như thế, nếu cần, tôi xin hy sinh cả tánh mệnh để đưa hung thủ ra ánh
sáng....
- Thúy Hồng, xin cô
đừng nói nữa! Đây không phải là việc đùa. Tôi giết người có bằng chứng rõ
ràng, cô căn cứ vào đâu mà bảo người ta là thủ phạm? Cô đã vô tình vu
khống cho người ta rồi!
- Trời ơi!.... Nước mắt
Thúy Hồng rơi xuống như những hạt châu.
- Thúy Hồng, đừng buồn,
tất cả đều do nghiệp lực, chúng ta đau đớn cũng vô ích, cần nhất là chúng
ta đừng tạo ác, gây nghiệp nữa.
- Tấm lòng hy sinh của
thầy thật không có bờ bến!
Thúy Hồng lau nước mắt,
và vô cùng xúc động.
- Cô không nên nói thế,
đó là công việc của người tu theo hạnh Bồ Tát phải làm.
Thúy Hồng mở gói thức
ăn ra:
- Mời thầy dùng sáng!
- Lúc cô chưa đến, quan
huyện đã cho người mang thức ăn vào cho tôi rồi. Bát vẫn còn để kia. Ngọc
Lâm chỉ vào chiếc bát ở góc phòng.
- Thức ăn ở đây họ làm
có ra gì, thầy hãy dùng thêm chút nữa!
- No rồi, ăn không
được!
- Vậy để dành chốc nữa
ăn!
- Thúy Hồng từ khi đến
Thiên Hoa Am, tôi đã nhờ cô làm việc gì chưa?
Thúy Hồng tỏ vẻ hoài
nghi, nhìn Ngọc Lâm:
- Chưa!
- Vậy bây giờ tôi nhờ
cô một việc, cô đem những thức ăn này phân phát cho những tù nhân bên kia
đi.
Thúy Hồng ngần ngừ:
- Đây là những thứ tự
tay tiểu thư làm.
- Họ cũng là người như
tôi vậy, cô đừng phân biệt, họ đang đói lòng, cô hãy mau lên.
Cảm thông tấm lòng
thành khẩn của Ngọc Lâm, Thúy Hồng rất cảm động và đem các thức ăn chia
cho mọi người trong tù.Khi Thúy Hồng trở vào thì tiếp được tờ thông cáo
của quan huyện, nói rằng buổi chiều hôm ấy sẽ thẩm vấn lại Ngọc Lâm một
lần nữa, mong Thiên Hoa Am sẽ cho người đến dự thính.
Thúy Hồng không dám nấn
ná, vội cáo từ Ngọc Lâm rồi về ngay Thiên Hoa Am để báo tin cho Giác Chúng
và tất cả mọi người trong chùa hay. Sau khi biết tin, Giác Chúng suy nghĩ
một lát rồi quyết định buổi chiều đích thân lên huyện dự thính, và nói cho
quan huyện biết là không thể căn cứ vào lời tự thú của Ngọc Lâm, mà phải
điều tra thêm để tìm hung thủ.
Tin Giác Chúng đích
thân lên huyện đã đến tai Ngô Sư Gia. Sau khi biết tin Ngọc Lâm đã tự nhận
tội giết người, Ngô Sư Gia rất hài lòng. Tức khắc ông tìm cách ngăn cản
Giác Chúng và tự nguyện đi thay nàng.Giác Chúng thấy Ngô Sư Gia xin đi
thay, trong lòng nàng cũng mừng thầm, vì nàng cho rằng, dù sao Ngô Sư Gia
đến phút cuối cùng cũng tỏ ra mình có lòng giúp người, nàng bèn đem ý định
của mình dặn dò Ngô Sư Gia, và ông ta cứ luôn mồm vâng vâng, dạ dạ.Chiều
hôm ấy, trong tòa công đường huyện Nghi Hưng, người ta nhận thấy có quan
huyện họ Lưu, Ngô Sư Gia, mấy viên lục sự và mấy chú lính lệ. Ngọc Lâm
đứng giữa công đường với thái độ rất thản nhiên, không vui mừng, cũng
không sợ hãi.Tiếng quan huyện vang lên trong tòa nhà:
- Thầy Ngọc Lâm, tất cả
những lời cung khai của thầy hôm qua đều là sự thật?
- Vâng hoàn toàn sự
thật! Ngọc Lâm đưa mắt nhìn Ngô Sư Gia.
- Tại sao thầy giết nó?
- Tôi đã nói tất cả hôm
qua rồi.
- Giết người tất nhiên
phải đền mệnh, thầy không sợ chết?
- Không phải là vấn đề
sợ chết, mà là vấn đề nhân quả báo ứng.
- Thầy có trối trăn
điều gì không?
Một giọng than thở não
nùng lẫn trong câu hỏi của quan huyện. Ông cũng cảm thấy kỳ lạ, một vị sư
trẻ tuổi, đường bệ, học thức và rất hiểu đạo lý, tại sao lại làm một việc
cực ác như vậy, mà cũng không sợ chết?
Ngần ngừ một lát Ngọc
Lâm đáp:
- Tôi không trối trăn
với ai điều gì cả, duy chỉ có mấy lời muốn dặn dò ngài.
Viên quan huyện kinh
ngạc nhìn Ngọc Lâm:
- Thầy muốn dặn dò tôi?
- Vâng - Ngọc Lâm nhìn
quan huyện và Ngô Sư Gia - Sau khi tôi chết, xin ngài đừng cho công bố bản
án này, giả sử ngài có công bố, xin ngài đừng dùng danh từ "Sư"?
- Vâng. Đây là tội
nghiệp của cá nhân tôi, "Sư" là tiếng xưng hô chung cho đoàn thể xuất gia
thanh tịnh, cao khiết. Tôi không muốn cho người ta biết "Sư" giết người,
nếu như thế tôi sẽ mang tội với Phật giáo, đồng thời, khiến người đời đối
với các sư sinh tâm khinh ghét, mà tự chuốc lấy tội nghiệp.
- Tâm địa thầy tốt lắm,
tôi quyết định sẽ làm theo ý muốn của thầy.
Trong lòng quan huyện
cũng thầm nghĩ một người có lương tâm như thế nhất định không thể nhúng
tay vào máu.
- Thầy còn nói gì nữa
không?
- Không!
Quan huyện bảo viên thư
ký ghi lấy những lời của Ngọc Lâm, rồi quay lại nói với Ngô Sư Gia:
- Một người tỳ nữ trong
quý phủ bị giết, và hung thủ đã chịu đền mệnh, ý ngài thế nào?
- Tội đáng chết, xứng
đáng lắm!
Ngô Sư Gia gật đầu lia
lịa, và vẻ gian hùng hiện lên nét mặt.
Những lời của Ngô Sư
Gia vẳng vào tai Ngọc Lâm, thầy cảm thấy đau lòng gần rớt nước mắt. Thầy
lại đưa mắt nhìn Ngô Sư Gia,
nhưng hắn tảng lơ như
không biết.
Vì là một chức quan
nhỏ, nên quan huyện họ Lưu vẫn chưa yên lòng:
- Hiện giờ tể tướng
không có đây, tôi xử như thế, ngộ sau ngài có phàn nàn gì không?
- Không sao! Không sao!
Ngô Sư Gia đáp.
- Thế tại sao tiểu thư
cứ muốn phủ nhận tội trạng của Ngọc Lâm.
- Là vì tiểu thư đã đi
tu, không nỡ thấy người đồng đạo chịu tội, đó hoàn toàn là cảm tình đàn
bà, chúng ta không thể vì thế mà bỏ phép nước.
- Hay! Phải làm đúng
phép, thôi giải tán!
Quan huyện rũ áo, đứng
dậy.
Ngay lúc ấy thì Ngọc
Lam ngất ngưởng bước lên thềm nhà, miệng nói huyên thuyên:
- Oan uổng! Oan uổng!
Cõi đời này toàn là trò oan uổng!
- Ông là sư ở đâu đến
đây? Giọng quan huyện phẫn nộ.
- Tôi là Ngọc Lam, sư
huynh của Ngọc Lâm, tôi yêu cầu quan huyện hãy mau mau thả em tôi ra.
- Tại sao?
- Vì chú ấy không phải
là hung thủ.
- Thế ai là hung thủ?
Ngọc Lam dơ tay chỉ vào
Ngô Sư Gia:
- Hung thủ ngồi ngay
bên cạnh quan huyện đó!
Viên quan huyện nhìn
Ngô Sư Gia chằm chặp, tất cả mọi người xung quanh đều kinh hoàng, thất
sắc.
Ngọc Lâm định gàn Ngọc
Lam:
- Sư huynh, sư huynh
đừng....
- Không can gì đến chú
- Ngọc Lam chặn ngang lời Ngọc Lâm.
Ngô Sư Gia uất ức, mắng
Ngọc Lam:
- Ông chỉ ai? Đừng láo!
- Tôi chỉ ông, ông là
thủ phạm đã giết Thúy Ngọc!
- Lão sư này điên - Ngô
Sư Gia chỉ vào Ngọc Lam, nói với quan huyện - Ngọc Lâm giết người đã có
đầy đủ bằng chứng, vả lại, chính Ngọc Lâm cũng đã thú nhận rồi.
Nghe xong, quan huyện
lại ngồi xuống và nói với Ngọc Lam:
- Có phải nhà sư loạn
óc không? Sao ông dám cả gan vu khống cho người trong tướng phủ? Ngọc Lâm
giết người có bằng chứng hẳn hòi, hơn nữa chính Ngọc Lâm cũng đã thú nhận.
- Pháp luật không phải
để bảo vệ những kẻ quyền cao, chức trọng, mà hiếp đáp dân lành, tôi không
loạn óc, rất tỉnh táo và sáng suốt, tôi cũng không dám vu khống cho người
trong tướng phủ, tôi nói thật, những bằng chứng ấy, người ta có thể bày
đặt ra được lắm!
- Thế ông có thể đưa ra
những bằng chứng nào khác không?
- Thưa quan huyện, ngài
nên biết rằng, Ngô Sư Gia ghen ghét với sư đệ Ngọc Lâm tôi, ông ta sợ Ngọc
Lâm làm mất ảnh hưởng của ông ta tại Thiên Hoa Am, ông ta bèn lấy trộm
chuỗi tràng của Ngọc Lâm đặt vào tay nạn nhân, rồi lại lấy tiền bạc và đồ
tư trang của
nạn nhân bọc vào gói cà sa của Ngọc Lâm; lúc Ngọc Lâm ngủ, ông ta lén đến
lấy trộm chuỗi tràng và đánh rớt chiếc tẩu hút thuốc, hiện giờ vẫn còn nằm
dưới chân giường của Ngọc Lâm, nếu ngài không tin lời tôi, lập tức hãy
phái người đến tìm trước!
- Mi là kẻ ngậm máu
phun người - Ngô Sư Gia sỉ vả Ngọc Lam - Mi đánh cắp chiếc tẩu của ta bỏ
dưới chân giường để hại ta, thật tội mi đáng phanh thây!
Tuy mồm nói thế, song
trong bụng Ngô Sư Gia thấy hoảng sợ, vì suốt từ hôm qua, ông ta tìm mãi
vẫn không thấy chiếc tẩu đâu cả.Ngọc Lam vỗ vào ngực, thầy mặc một manh áo
cũ rách, thầy nhìn quan huyện một lát, rồi chỉ vào Ngô Sư Gia, nói:
- Ngô Sư Gia! Ngươi
không nên chối cãi, ta chưa từng đặt chân vào Thiên Hoa Am bao giờ.
- Thưa quan lớn, tôi
yêu cầu quan lớn hãy trị tội nhà sư này thật nặng cho? Ngô Sư Gia nói.
Quan huyện cảm thấy vấn
đề thật rắc rối, lúc đó ông không biết phải xử thế nào cho đúng.
- Ha.... Ha.... ! Trị
tội ta? Các người tưởng đâu ta cũng như sư đệ Ngọc Lâm ta - Ngọc Lam chỉ
vào Ngọc Lâm, Ngọc Lâm yên lặng cúi đầu - Lúc này các người có bắt Ngọc
Lâm mà chặt đầu cũng được, chú ấy sẽ không kháng cự, vì chú ấy tu theo
hạnh nhẫn nhục, còn ta? Ta vì muốn dẹp trừ bọn ma quỷ ác độc mới hiện thân
tu hành, Ngô Sư Gia, con dao ngươi dùng để giết đứa tỳ nữ, ngươi vẫn còn
dấu trong cái rương của ngươi; mảnh giấy mà ngươi ghi những kế hoạch để
mưu hại Ngọc Lâm hiện giờ phút này còn nằm trong túi áo của ngươi. Tôi yêu
cầu quan huyện lập tức hãy khám túi Ngô Sư Gia?Quan huyện đưa mắt nhìn mấy
người lính lệ rồi hất hàm, họ đến vạch túi áo Ngô Sư Gia và móc ra một tờ
giấy.Quả không sai, quan huyện thấy toàn kế hoạch mưu hại Ngọc Lâm được
ghi trên tờ giấy đó.Lúc này mặt Ngô Sư Gia cắt không còn một hột máu, toàn
thân hắn run lẩy bẩy:
- Tờ giấy này tôi đã
đốt ngay lúc bấy giờ rồi, tại sao vẫn còn trong người tôi?
Ngọc Lam nói:
- Tờ giấy ngươi đốt là
tờ giấy trắng!
- Tả hữu đâu, trói hắn
lại.
Quan huyện vừa dứt lời
thì lập tức mấy người lính lệ đến trói Ngô Sư Gia và đem hạ ngục. Đồng
thời quan huyện lại phái người đến Thiên Hoa Am lấy con dao và chiếc tẩu
hút thuốc của hung thủ.
- Thầy Ngọc Lâm - Quan
huyện hỏi - Thầy là một vị sư trẻ tuổi, thầy không giết người mà tại sao
thầy lại tự nhận lấy nỗi oan uổng ấy?Ngọc Lâm nhíu mày, không đáp.
- Kìa - Quan huyện hỏi
sao chú không nói?
Ngọc Lam bảo Ngọc Lâm.
Ngọc Lâm thở dài:
- Xin ngài hãy giảm tội
cho Ngô Sư Gia, sở dĩ ông ấy phạm tội là hoàn toàn tại tôi. Còn tôi tự
nhận lấy tội là vì tôi thấy rằng Phật pháp là đạo cứu người, chứ không hại
người, chúng tôi xuất gia tu hạnh của Bồ Tát, chỉ biết hy sinh chính mình
để cứu giúp chúng sinh, đâu dám tiếc thân mệnh để hại chúng sinh?
- Thật là cao cả! Một
chút nữa thì tôi đã làm hại một người hiền đức rồi!
Quan huyện lại tuyên bố
giải tán, và ra lệnh giam Ngô Sư Gia vào căn phòng mà Ngọc Lâm đã bị nhốt
mấy hôm trước, đồng thời ông mời hai anh em Ngọc Lam và Ngọc Lâm vào tư
dinh ngồi uống trà.Quan huyện, Ngọc Lam và Ngọc Lâm ngồi trên những chiếc
ghế da hổ.
- Hạ quan muốn quy y
Phật pháp, tôn hai đại sư làm thầy, sau này mong hai đại sư chỉ dạy cho,
không biết hai đại sư có bằng lòng không?
Quan huyện họ Lưu chí
thành khẩn cầu Ngọc Lam và Ngọc Lâm.
Ngọc Lam rũ rũ tay áo
đứng dậy:
- Ấy chết! Bần tăng
không dám, bần tăng xin cáo từ!
- Đó là lòng thành thực
của hạ quan, vì làm quan vốn phải che chở cho dân lành, song làm quan cũng
thường oan khuất người hiền, từ nay trở đi, tôi không dám làm những việc
trái với lương tâm. Pháp luật là phương pháp để đối phó với tội ác, song
tôi đã từng thấy rằng những người đặt ra pháp luật đã không giữ đúng pháp;
trên thực tế, pháp luật không phải là phương pháp hay nhất để đối phó với
tội ác, mà chính Phật pháp mới là pháp luật hoàn hảo nhất, những người tu
theo Phật pháp cao cả hơn những người đặt ra luật pháp rất nhiều! Xin hai
đại sư đừng bỏ chúng tôi!
- Phật pháp mới là luật
pháp hoàn hảo nhất? Ha... ha...! Ngọc Lâm ngồi xuống.
Ba người nói chuyện với
nhau rất đắc ý.
Chương Mười
Sáu
Ngọc Lam, Ngọc Lâm, và
quan huyện đang ngồi nói chuyện thì mấy người lính đem con dao và cái tẩu
thuốc của Ngô Sư Gia vào. Quan huyện thở dài và tỏ vẻ rất ân hận, rồi tự
tay trao chuỗi tràng trả lại Ngọc Lâm.Họ nói chuyện khá lâu, sau đó cử
hành lễ quy y cho quan huyện, rồi hai anh em Ngọc Lâm cùng về Thiên Hoa
Am. Giác Chúng, Thúy Hồng và tất cả mọi người trong chùa nghe thấy Ngọc
Lâm vô tội, được trở về, mừng rỡ vô cùng. Và khi được biết đích danh thủ
phạm lại là Ngô Sư Gia, họ cảm thấy vừa sung sướng vừa ân hận. Sung sướng,
vì thấy kẻ làm ác chịu quả báo ngay, nhân quả rõ ràng, không sai một mảy;
còn ân hận vì họ không ngờ Ngô Sư Gia lại là con người hình người, lòng
thú như thế.Giác Chúng rất cảm động, nhất là khi thấy Ngọc Lam, nhưng Ngọc
Lam thì chỉ cười khà, rồi kéo áo Ngọc Lâm, nói:
- Sư đệ, bây giờ trở về
chùa Sùng Ân, từ nay về sau thanh danh của chú sẽ lừng lẫy muôn phương,
tôi không thể bì kịp chú. Chú còn dặn dò gì các cô ấy không?
- Hãy đợi tể tướng về
để xin người tìm cách cứu Ngô Sư Gia. Ngọc Lâm nói.
- Thôi đi, đó là việc
của họ, chú không phải bận tâm!
Giờ phút chia ly mới
thấm thía làm sao! Khi Ngọc Lam và Ngọc Lâm lên đường, Giác Chúng và mọi
người trong Thiên Hoa Am đều rưng rưng ngấn lệ tiễn họ ra khỏi cửa am, rồi
đứng nhìn khi họ khuất bóng mới trở về.
Sau khi về chùa Sùng Ân
được ít lâu, Ngọc Lâm bỗng thấy lòng mình rộn rã tự nghĩ đất nước rộng bao
la, nhân dân đông đúc, cứ giam mình trong ngôi chùa cổ thâm u, hẻo lánh
thì làm sao tiếp xúc được với đại đa số dân chúng; đồng thời, thầy cũng
nghĩ nhiệm vụ của người xuất gia đã là Hoằng Pháp, Lợi Sinh, thì tất nhiên
phải trau dồi trí tuệ, bồi bổ tinh thần, nếu không, Hoằng Pháp, và Lợi
Sinh bằng cách nào?Nghĩ thế nên thầy bỗng nảy ra ý tưởng đi chu du cầu
học.Chí đã quyết, Ngọc Lâm bèn gói ghém chút hành lý, rồi mở cửa phòng lên
thẳng tịnh thất của hòa thượng Thiên Ẩn để xin phép.
- Bạch sư phụ, xin sư
phụ cho phép con đi các nơi tham học.
- Hay lắm! Hay lắm!
Hành trình muôn dặm, chuyến đi này cũng lại vì làm rạng tỏ cho đạo.
Vừa nói đến đấy, bỗng
hòa thượng Thiên Ẩn nhíu mày như có điều gì khúc mắc.
- Song, Ngọc Lâm, con
vẫn còn có nhiều nạn, con phải hết sức thận trọng mới được.
- Sau này nếu con làm
được một việc gì nhỏ mọn để giúp đỡ chúng sinh, đều là do hồng ân của chư
Phật, chư Bồ Tát, và của sư phụ. Còn đối với những nỗi khó khăn và gian
khổ mà con phải gặp, xin sư phụ đừng quan tâm, vì đường đời vốn gập ghềnh,
khúc khuỷu. Lần này con ra đi, chưa biết bao giờ mới trở lại, vậy xin sư
phụ chỉ dạy cho con một đôi điều.
- Thầy chả có điều gì
để dạy cho con cả, con hãy đến hỏi sư huynh con!
Ngọc Lâm không dám hỏi
thêm, thầy cúi đầu chắp tay bái biệt hòa thượng rồi lui ra. Vâng lời hòa
thượng, thầy đi đến chỗ Ngọc Lam ở.Ngọc Lâm mở cửa bước vào căn phòng nhỏ
của Ngọc Lam, đưa bàn tay lên ngực:
- Lạy sư huynh!
- Không dám! Không dám!
Ngọc Lam tung chăn ngồi
dậy và cười hề hề.
- Đệ muốn đi các nơi
cầu học, đến để xin phép sư huynh!
- Đi các nơi cầu học?
Mà học ở đâu? Chú tu, học nhiều lắm rồi thôi? Chú xem tôi ngày nào cũng
chỉ ăn rồi ngủ, hết ngủ lại ăn.
Ngọc Lam vừa nói vừa
chỉ vào cái chăn nằm vung tí mẹt trên giường.
- Sư huynh là một bậc
Bồ Tát đã ở vào địa vị vô học (không còn gì để học), đệ đâu dám bì với sư
huynh!
- Ấy chớ, chú đừng nói
thế! Giờ chú muốn tôi đưa chú qua con sông dài ngập sóng?
- Không! Đệ chỉ mong sư
huynh chỉ đường cho đệ ra khỏi bến mê mà thôi.
Ngọc Lâm biết sư huynh
nói xa xôi (dùng thiền ngữ), song không hiểu mấy chữ "sông dài ngập sóng"
là chỉ cái gì?
- Chỉ đường cho chú ra
khỏi bến mê? Được. Suốt đời tôi chỉ ăn ngủ, chẳng làm gì có ích cho Phật
pháp, bây giờ giúp chú ra khỏi bến mê, bay lên bầu trời nghe! Đây, tôi chỉ
có ba cái túi này giúp chú!
Ngọc Lâm ngơ ngác:
- Đệ dùng làm gì ba cái
túi này?
- Chuyến đi này chú khó
tránh được tai nạn! Khi gặp những việc khó giải quyết thì ba cái túi này
có thể giúp chú thoát khỏi ngõ bí.
Khi nào chú gặp nguy
hiểm thì mở túi thứ nhất; lúc đến nơi bình an, thanh nhàn, mà thấy khó xử
thì mở túi thứ hai; còn khi nào thấy thắc mắc về tương lai thì mở túi thứ
ba, trong đó sẽ có cách diệu dụng vô cùng. Tôi biết chú tuy có trí tuệ
siêu phàm, có thể biến nguy thành an, song lần này chú đi cầu học, không
biết đến bao giờ mới lại được tái ngộ. Tôi không có vàng bạc, của cải hay
vật gì quí giá để tặng làm kỷ niệm lúc ra đi, tôi chỉ có ba cái túi này
tặng chú để chú nhớ rằng chú vẫn còn có một người sư huynh.Dứt lời, Ngọc
Lam lùa tay xuống dưới chiếc gối lấy ra ba cái túi nhỏ, Ngọc Lâm không
ngần ngại, đỡ lấy ngay, vì thầy biết rằng sư
huynh là người đã có
trí hiểu suốt quá khứ và tương lai.Ngọc Lâm cáo biệt sư huynh rồi lần lượt
đi từ giã mọi người trong chùa, lúc này họ đều kính phục thầy, khi chia
tay, ai cũng bùi ngùi, và chúc Ngọc Lâm lên đường bình an và được như chí
nguyện.Năm ấy là năm Kỷ Hợi, đời vua Thế Tổ nhà Thanh là Thuận Trị Hoàng
Đế năm thứ 16, Ngọc Lâm cất bước vân du.
Ba tấm cà sa, một chiếc
bình bát, Ngọc Lâm đi khắp đó đây, lênh đênh như cánh bèo trên mặt nước
trôi dạt hết bờ nọ, bến kia.
Một hôm, sau khi thăm
viếng chùa Cao Mân ở Dương Châu, Ngọc Lâm đáp thuyền trở lại Giang Nam.Khi
thuyền ra giữa giòng sông thì bỗng mây đen kéo lên dày đặc gió táp bắt đầu
thổi, sóng cuồn cuộn nổi lên, chiếc thuyền buồm nhỏ bé nhấp nhô trên mặt
nước, sóng đập vào mạn thuyền, rồi tràn vào trong khoang, tất cả hành
khách trong thuyền đều lo sợ, hãi hùng, kêu la rầm rĩ.Vì muốn biết rõ tình
cảnh và đời sống của dân chúng nên vua Thế Tổ nhà Thanh thường cải trang
như người lái buôn đi các nơi để quan sát, chính hôm ấy cũng có mặt trong
con thuyền đó.Gặp cơn nguy ấy, Thuận Trị Hoàng Đế cũng sợ tái người, ông
tưởng đâu phen này đến phải xuống Thủy Cung để gặp Hải Long Vương.Trong
lúc kinh hoàng bỗng Thuận Trị Hoàng Đế nảy ra một ý nghĩ liền hạ thánh
chỉ, nói rằng mình là Thiên Tử cầu đảo trời đất, và tuyên bố với mọi người
trong thuyền là nếu ai cứu được nhà vua qua tai nạn ấy, nhà vua sẽ chia
cho người đó một nửa giang sơn đất nước.Khi biết có Thiên Tử trong thuyền,
mọi người vừa sợ, vừa mừng rồi quỳ xuống tung hô "Vạn Tuế" song chẳng ai
nghĩ được cách nào để cứu nhà vua cả.Lúc đó, vị lang thang thiền sư Ngọc
Lâm đang ngồi trên mũi thuyền, Ngọc Lâm thấy thuyền cứ nhào lên lộn xuống
giữa những con sóng bạc đầu, giờ phút ấy, thầy chỉ chuyên tâm niệm danh
hiệu của Bồ Tát Quan Thế Âm, quên cả sống chết.Ngọc Lâm ngồi ngay thẳng,
nhắm mắt, dâng trọn đời mình cho Bồ Tát. Trong giây lát, Ngọc Lâm mơ màng
như thấy hình tượng của Bồ Tát Quan Âm đang ngồi trong một đám mây, tay
cầm nhành dương chi và một bầu nước, mình mặc áo trắng, Ngọc Lâm vội quỳ
xuống, Bồ Tát đưa tay chỉ vào chiếc khăn gói của Ngọc Lâm, rồi đám mây dần
dần tan biến. Ngọc Lâm sực tỉnh và tự nghĩ không biết trong khăn gói của
mình có gì? Suy nghĩ như thế bỗng thầy nhớ trong khăn gói có ba cái túi
của sư huynh.Ngọc Lâm tưởng: lúc trao túi cho mình sư huynh có dặn nếu gặp
tai nạn nguy cấp, thì trong túi đã có biện pháp giải cứu, hiện giờ không
những sinh mệnh mình lâm nguy, mà cả nhà vua và hết thảy mọi người trong
thuyền đều khó thoát, vậy chính lúc nầy là lúc mình nên mở chiếc túi thứ
nhất ra xem sao.Lập tức Ngọc Lâm mở cái túi thứ nhất, trong túi thầy chỉ
thấy một tờ giấy có viết hai chữ "Miễn Triều"! (khỏi phải chầu)! Xem xong
thầy chịu không hiểu là ý gì. Ngọc Lâm nhìn kỹ lại phía dưới hai chữ "Miễn
Triều", thì thấy có hai hàng chữ nhỏ: (khi thiên tử qua sông, Tứ Hải Long
Vương đến chầu, cho nên sóng to, gió lớn; hãy lấy một tấm biển xin Thiên
Tử viết cho hai chữ "Miễn Triều" rồi đem treo ra phía ngoài thuyền, thì tự
nhiên gió bình, sóng lặng). Xem xong, trong lòng Ngọc Lâm vô cùng mừng rỡ,
lập tức làm theo lời dặn của sư huynh. Ngọc Lâm liền tâu với Thuận Trị
Hoàng Đế, nhà vua cũng rất mừng, rồi lấy bút ra, tự tay viết hai chữ Miễn
Triều cho treo ra ngoài thuyền, trong giây lát, quả nhiên mây đen tan hết,
mặt trời hiện ra và nước sông trở lại phẳng lặng. Mọi người trong thuyền
đều quỳ xuống trước Thuận Trị Hoàng Đế, tung hô vạn tuế, rồi quay sang lễ
bái Ngọc Lâm để tỏ lòng tri ân người đã cứu mệnh. Ngọc Lâm bây giờ mới
hiểu ý câu nói của sư huynh bảo đưa thầy qua con sông dài ngập sóng là ám
chỉ biến cố ngày hôm nay. Lòng thán phục của Ngọc Lâm đối với sư huynh
Ngọc Lam đã đến cực điểm!
Sau khi hỏi pháp hiệu
và sư trưởng của Ngọc Lâm, Thuận Trị Hoàng Đế chỉ nhìn thầy rồi cười, ngay
hôm ấy nhà vua mời Ngọc Lâm cùng về Kinh, để Ngọc Lâm ở bên cung Tây Uyển.
Nhà vua ân hận là được gặp Ngọc Lâm quá muộn. (Đoạn này trích trong bộ Ngữ
Lục của Ưng Chính Hoàng Đế soạn - Lời chú của tác giả).Thuận Trị Hoàng Đế
đến cung Tây Uyển nói với Ngọc Lâm:
- Lúc ngộ nạn, quả nhân
có hứa sẽ chia đôi giang sơn, hiện giờ quả nhân muốn thực hiện lời hứa ấy.
- Bệ hạ! Người tu hành
là người muốn giải thoát, chỉ ba tấm áo và một chiếc bình bát là đủ rồi,
có làm gì đến đất đai? Xin bệ hạ đừng băn khoăn về điều đó, ngày mai Ngọc
Lâm lại muốn lên đường vân du!
- Pháp sư đã từ chối
việc ấy, vậy quả nhân và dân chúng trong toàn quốc xin tôn thờ pháp sư làm
bậc Quốc Sư.
- Không dám! Không dám!
Ngọc Lâm này tuổi còn trẻ, lại ít phúc đức, không xứng đáng với ân sủng
đó, các bậc cao tăng trong nước còn nhiều, xin bệ hạ hãy xét lại.
- Pháp sư tuy ít tuổi
song đạo đức và học thức đầy đủ, trong Phật pháp có câu: căn cứ vào pháp
chứ không căn cứ vào người. Nếu pháp sư không có phúc đức và trí tuệ của
một bậc Bồ Tát, thì làm sao có thể cứu quả nhân thoát nạn?
- Không dám dấu bệ hạ,
đó là hoàn toàn nhờ sư huynh Ngọc Lam tôi đã chỉ cách saün trong cái túi,
bệ hạ muốn vì dân, vì nước mà tìm thầy, trước hết nên tìm đến sư huynh
tôi!Ngọc Lâm cứ thực tình đem cách thức trong cái túi thứ nhất nói cho
Thuận Trị Hoàng Đế biết, nhưng không đả động gì đến cái thứ hai và thứ ba.
- Quả nhân có duyên với
pháp sư, mong pháp sư đừng từ chối!
Thấy Thuận Trị Hoàng Đế
quá thành khẩn, hơn nữa, vì tương lai của Phật giáo và tăng đồ, nên cuối
cùng Ngọc Lâm đành phải nhận. Thầy tự nghĩ cầu cạnh vinh hoa, danh lợi là
ham đắm, nhưng bỏ vinh hoa, danh lợi là cố chấp; cần nhất là được nó không
mừng mà mất nó cũng không buồn. Xưa nay đối với danh lợi, Ngọc Lâm vốn
lạnh nhạt, thầy chỉ mong giúp đỡ được chúng sinh, có ích cho Phật giáo,
thế là thỏa mãn rồi.
Sau khi được Ngọc Lâm
nhận lời, Thuận Trị Hoàng Đế liền hạ chiếu chỉ cho toàn quốc, trong đó kể
rõ việc nhà vua thoát nạn, và hạ lệnh cho nhân dân toàn quốc, ngày suy tôn
Quốc Sư, nhà nào cũng phải bày hương án để vọng bái. Đúng canh năm hôm ấy
nhà vua sẽ đích thân cầm đầu các triều thần văn, võ và nhân dân đến làm lễ
Quốc Sư.Vương tể tướng là người đầu tiên nhận được thánh chỉ. Sau khi xem
thánh chỉ, Vương tể tướng hết lấy làm lạ và hết sức nghi ngờ, ông tự hỏi
không biết vị Quốc Sư ấy là ai? Thánh Thượng cải trang ra đi, mới về mấy
hôm nay nghe nói ngài có đem theo một vị sư trẻ tuổi về, có lẽ nào ngài
lại suy tôn vị sư trẻ tuổi ấy làm Quốc Sư.Vương tể tướng được Thuận Trị
Hoàng Đế cho phép vào yết kiến Quốc Sư trước.
- A thầy! Ngọc
Lâm!.....
Thật là một việc hoàn
toàn ngẫu nhiên, khiến Vương tể tướng không khỏi có điểm đường đột, song
liền sau đó ông cũng biết là mình đã thất lễ, mới vội đổi câu nói:
-?! Không! Quốc sư!
Thừa tướng họ Vương xin bái kiến!
- Tướng gia, xin miễn
lễ! Mời Tướng Gia ngồi đây!
Ngọc Lâm cũng lễ phép
chắp tay hỏi han, và không hề tỏ vẻ ngạc nhiên.
Vương tể tướng nghĩ đến
lúc đầu đến chùa Sùng Ân xin với Ngọc Lâm vào làm rể trong tướng phủ, trên
nét mặt có ý thẹn và trong lòng cảm thấy hối hận vô cùng.Ngọc Lâm thì tựa
hồ như đã quên hết quá khứ, những năm, tháng và những việc đã xẩy ra không
còn làm cho thầy bận tâm.Sau cùng, Vương tể tướng kính cẩn ca ngợi Ngọc
Lâm và cho rằng con gái ông đã được Ngọc Lâm khuyến khích đi xuất gia, và
tự tay thế phát cho, là một vinh dự vô song!Ngọc Lâm vẫn còn lo lắng cho
Ngô Sư Gia, nên hỏi:
- À! Tướng Gia, việc
Ngô Sư Gia sau xử ra sao?
- Tội Ngô Sư Gia đáng
chết! Sau khi nhận được tin Giác Chúng cho biết là sư phó bị bắt oan, tôi
vội thu xếp công việc để về Thiên Hoa Am, song hôm sau lại được tin nói là
Ngô Sư Gia phạm tội, tôi liền hạ lệnh bảo quan huyện Nghi Hưng trừng trị
cho xứng đáng. Nhưng mấy hôm sau thì Ngô Sư Gia lâm bệnh và chết trong tù;
làm ác thì gặp ác ngay. Song chỉ hiềm là vì tôi dùng người không sáng
suốt, đến nỗi làm phiền lòng sư phó nhiều, xin sư phó tha thứ!
- Úi chao! Ngọc Lâm
than dài - Vì tôi nên Ngô Sư Gia mới phạm tội!
Vương tể tướng cáo từ
Ngọc Lâm.Thuận Trị Hoàng Đế chọn ngày mồng 8 tháng 4 là ngày Phật Đản để
làm lễ suy tôn Quốc Sư. Đêm hôm trước Ngọc Lâm không thể nào ngủ được, lúc
thì ngồi tham thiền, khi thì niệm Phật, song lòng thầy cứ bồn chồn, không
yên. Thầy tự nghĩ sáng mai thầy sẽ phải nhận sự lễ lạy của Hoàng Đế và
hàng vạn dân chúng, như thế sẽ tổn đức của thầy. Thầy cứ lo ngại về vấn đề
đó hoài, cuối cùng, thầy nhớ đến lời của sư huynh là khi đến nơi bình an,
thanh nhàn thì mở cái túi thứ hai, trong đó sẽ có biện pháp giải quyết mọi
băn khoăn. Ngọc Lâm mừng rỡ, mở túi ra thì thấy một pho tượng Phật Thích
Ca nhỏ và rất xinh xắn, ngoài ra không thấy vật gì khác. Thấy pho tượng,
Ngọc Lâm hiểu ngay ý của sư huynh bảo thầy sáng mai, khi Hoàng Đế và nhân
dân đến lễ, đặt pho tượng lên bàn, trước mặt thầy để họ lễ Phật, như thế
sẽ không tổn đức.Lúc ấy Ngọc Lâm mới yên lòng ngủ được.
Trong cung Cảnh Dương
tiếng chuông vang lên, báo hiệu giờ thượng triều, Ngọc Lâm ra trước triều
đình để nhận lễ của Hoàng Thượng và thần dân.Thuận Trị Hoàng Đế gia phong
danh hiệu cho Ngọc Lâm là:"Đại Giác Phổ Tế Tăng Nhân Ngọc Lâm Quốc Sư".
Sau khi được phong bái,
Ngọc Lâm Quốc Sư lại trở về cung Tây Uyển. Cuộc sống trong hoàng thành dĩ
nhiên là thảnh thơi vô cùng, song cũng do đó mà Ngọc Lâm Quốc Sư lại sinh
ra hoài nghi. Hiện giờ ngài đã thành Quốc Sư, ai cũng nhận rằng danh vọng
của ngài đã đến
cực điểm, nhưng ngài lại nghĩ khác; sống cuộc đời an nhàn, đầy hưởng thụ
trong hoàng cung đối với Phật giáo và chúng sinh có lợi ích gì không?
Do đó, một vấn đề lớn
lao phát sinh trong trí não ngài, đồng thời, ngài lại nhớ tới cái túi thứ
ba của sư huynh, liền mở ra coi thì thấy bốn chữ: "Hoằng Pháp, Lợi Sinh".
Ngài tự nghĩ: việc "Hoằng Pháp, Lợi Sinh" ai mà không biết? Sư huynh quá
khinh thường mình.
Chính lúc đang nghĩ như
thế, ngài lật trái tờ giấy thì thấy bên kia viết một chữ "ĐI" thật to. Sau
khi nhìn vào chữ "ĐI" lòng ngài hoảng sợ, biết rằng sư huynh bảo ngài lúc
này là lúc phải ĐI để thực hiện chí nguyện của mình.Ngài - Ngọc Lâm Quốc
Sư - bắt đầu lãnh trách nhiệm Hoằng Pháp, Lợi Sinh từ đó.Tên tuổi của ngài
như vừng thái dương chiếu rọi vào lòng người; pháp âm của ngài cũng như
trận gió xuân hòa dịu, đem sinh khí và hy vọng về cho vạn vật. Hoàng Đế,
Tể Tướng, Giác Chúng và thần dân trong toàn quốc đều sùng bái, kính ngưỡng
ngài.
Chương Mười
Bẩy
Mặc dầu được tôn làm
Quốc Sư, song Ngọc Lâm không có ý niệm cho đó là vinh dự. Mấy năm gần đây,
bao nhiêu tai nạn, nghiệp chướng dồn dập xẩy đến đã khiến ngài thể nghiệm
được giáo lý của Đức Phật một cách sâu xa. Hoàng cung tráng lệ, nguy nga,
cao lương, mỹ vị, đối với ngài chẳng khác gì người gỗ ngắm chim hoa, thanh
danh lợi lộc không làm ngài động tâm.
Sau khi được tôn làm
Quốc Sư, trí tuệ và lòng từ bi của ngài càng tăng thêm. Tính tình hiếu
thắng và ngạo nghễ của tuổi trẻ, giờ đây cũng đã tan thành mây khói. Bao
nhiêu việc bất bình ở quá khứ và những năm, tháng xa xưa, giờ đây không
còn làm bận tâm ngài, hàng ngày, chuỗi tràng trong tay, tấm cà sa trên
mình, ngài trông như một quả núi, không gì có thể lay chuyển, như một bông
sen tỏa hương thơm phức.
Sống trong hoàng cung,
Ngọc Lâm Quốc Sư thấy mình đã ly khai với đời, ngài tưởng đến sư phụ và sư
huynh, nhưng cung cấm thâm nghiêm, dễ gì gặp được. Có lúc ngài nhìn những
làn mây kéo tiếp nhau lướt qua khung cửa, bỗng ngài lại nhớ đến những việc
đã qua khi ngài mới vào tướng phủ, rồi hôm Ngô Sư Gia kiếm chuyện ở Thiên
Hoa Am, lại nghĩ đến nỗi khổ đau, oan uổng do chính chúng sinh gây nên,
lòng ngài không khỏi cảm khái, nhìn trời than thở.Ngọc Lâm Quốc Sư sống
cuộc đời lặng lẽ như giòng nước chảy lừ đừ ấy vào khoảng nửa năm, một hôm,
nhân Thuận Trị Hoàng Đế vào thăm ngài, ngài nói:
- Bệ Hạ! Ngày mai tôi
định lên đường vân du các nơi, xin cáo từ bệ hạ trước.
Thuận Trị Hoàng Đế ngạc
nhiên, hỏi:
- Quốc sư, có lẽ quả
nhân có điều gì không phải? Tại sao Quốc Sư đi cho khổ thân?
Ngọc Lâm Quốc Sư biết
nhà vua hiểu lầm, nên ngài giải thích:
- Bệ hạ là vì vua mở
nước, hùng tài, đức độ, không những thương yêu dân như con, mà đối với
Phật pháp cũng hết lòng ủng hộ; bệ hạ không có gì không phải cả, chỉ vì
tôi nghĩ đến sứ mệnh Hoằng Pháp, Lợi Sinh của người xuất gia, nên mới muốn
đi các nơi hành hóa.
- Vậy xin Quốc Sư hãy
thuyết pháp trong cung đã, khi nào Pháp Hội trong cung viên mãn, Quốc Sư
muốn đi đâu, quả nhân xin cho người hộ tống.Ngọc Lâm Quốc Sư không biết
làm thế nào, đành phải ở lại và bắt đầu mở hội giảng kinh Hoa Nghiêm. Khi
giảng xong bộ Hoa Nghiêm, Thuận Trị Hoàng Đế sai sắp đặt các đồ hành
trang, xếp vào mười mấy cái rương lớn, và cho hơn một trăm người đi theo
Quốc Sư.
Ngọc Lâm Quốc Sư từ
chối một cách trang trọng:
- Bệ Hạ, bệ hạ làm thế
này sẽ trái với lời Phật dạy; khi xưa Phật Thích Ca bỏ ngôi Thái Tử đi
xuất gia, lang thang đây đó, chỉ có ba tấm cà sa và một chiếc bình bát, bệ
hạ cho tôi những thứ này mang theo để làm gì?
- Không! Thuận Trị
Hoàng Đế giải thích - Quả nhân không để cho Quốc Sư phải mang, đã có người
đi theo Quốc Sư.
- Người đi theo? Tôi
cần người đi theo làm gì? Tôi đi các nơi để tiện Hoằng Pháp, nếu nhiều
người đi theo không khỏi có chỗ phiền phức.
- Vậy ít nhất Quốc Sư
cũng phải cho mười người đi theo để hầu hạ.
Ngọc Lâm Quốc Sư lại
trả lời một cách cương quyết và trịnh trọng:
- Phật dạy ba tấm cà sa
và một chiếc bát là đủ rồi, không cần một người nào đi với tôi hết!
Mặc dầu Ngọc Lâm Quốc
Sư nhất định cự tuyệt, song Thuận Trị Hoàng Đế, vì danh nghĩa của Quốc Sư,
không thể để như thế được, nhà vua không nói gì thêm, chỉ cúi đầu làm lễ
cáo lui.
Sáng hôm sau, Ngọc Lâm
Quốc Sư lặng lẽ ra khỏi hoàng cung, đi bằng cách nào, tuyệt không ai biết.
Các thứ Thuận Trị Hoàng Đế sắp đặt để cúng dâng, vẫn còn nguyên đấy, Ngọc
Lâm Quốc Sư chỉ đem theo con dấu bằng vàng của Quốc Sư mà thôi.Thuận Trị
Hoàng Đế biết không thể làm thay đổi được ý chí của Quốc Sư, đối với phong
cách cao khiết của ngài, nhà vua lại càng kính ngưỡng hơn. Thuận Trị cũng
không sai người đi đuổi theo Quốc Sư, nhưng lập tức truyền chỉ cho toàn
quốc, báo cho các quan lại khắp nơi, hễ biết Quốc Sư Hoằng Pháp ở chỗ nào,
phải hết lòng giúp đỡ, và phải tâu về triều đình ngay. Thuận Trị Hoàng Đế
tưởng nhớ Quốc Sư không lúc nào nguôi. Một hôm, có một nước nhỏ ở phương
Nam, đưa các đồ triều cống đến, trong đó có một chiếc quạt bằng ngà, Thuận
Trị Hoàng Đế tự tay viết bốn chữ: "Như Trẫm thân lâm" (Quốc Sư đến đâu tức
là Trẫm ở đó) vào chiếc quạt, đợi khi nào biết tin Quốc Sư ở đâu thì cho
người mang đến dâng ngài. Vì nhà vua cho rằng nếu Quốc Sư mang theo chiếc
quạt đó thì bất cứ đi tới đâu ngài cũng sẽ được đón tiếp long trọng.
Sau khi rời hoàng cung,
Ngọc Lâm Quốc Sư sống cuộc đời nay đây, mai đó, một manh áo nâu, một đôi
dép cỏ, vượt núi băng ngàn, dầm sương dãi nắng, cất bước lãng du khắp miền
Giang Nam, Giang Bắc; lúc vào tá túc trong cảnh đại tùng lâm, cũng có khi
yên giấc bên bờ sông, sườn núi. Ngài đến thăm viếng các bậc lão hòa thượng
để hỏi đạo, cũng có khi ngài tùy duyên thuyết pháp, dẫn dắt cho mọi người,
nhưng không một ai biết vị sư trẻ tuổi, uy nghiêm ấy là Quốc Sư của đương
triều!Dĩ nhiên cũng có nhiều người hoài nghi khi thấy tướng mạo phi phàm
của ngài, song ngài lại càng cố tỏ ra quê mùa để người khác đừng chú ý. Có
mỗi một lần ở chùa Thiên Đồng tại Triết Giang, ngài ngồi trong đám thính
chíng nghe vị Thủ tọa hòa thượng thuyết pháp, hòa thượng nói: "Một người
xuất gia mà không để cho danh vọng, vinh hoa làm động tâm thì hiếm có lắm!
Song nếu quá chán ghét và xa lánh danh vọng, vinh hoa, thì cũng lại thành
ra cố chấp, hẹp hòi. Đối với đời, theo hạnh bi nguyện của Đại Thừa thì
không nên chấp mà cũng không nên xa. Trong đám thính chúng đây, chắc thế
nào chả có một người phi phàm từ phương xa đến, vị ấy hãy nên nghĩ lại,
Phật pháp tuy xa lìa danh vọng và địa vị, song cũng có lúc phải nhờ danh
vọng và địa vị để hoằng dương!". Hòa thượng vừa nói vừa đưa mắt nhìn thẳng
vào Ngọc Lâm Quốc Sư.Ngọc Lâm cúi đầu, không dám nhìn lại vị hòa thượng
chủ tọa, nhưng những lời hòa thượng nói đã làm ngài xúc động, ngài biết
những lời nói
ấy rõ ràng ám chỉ vào ngài.Ngọc Lâm Quốc Sư không dám ở lại nữa, vì ngài
không muốn những người đồng đạo trong tăng đoàn biết ngài là một vị Quốc
Sư, bởi thế ngài lẳng lặng xách khăn gói lên đường.
Dọc đường, hình ảnh và
lời nói của vị thủ tọa hòa thượng cứ quay cuồng trong đầu óc ngài, điều đó
ngài đã được nghe sư huynh Ngọc Lam nói qua rồi. Ngài vẫn có bi nguyện và
nhiệt tình đối với đời và chúng sinh, chỉ vì ngài biết là thời cơ Hoằng
Pháp, Lợi Sinh chưa đến. Song hiện giờ ngài đã được tôn làm Quốc Sư, ngài
tự biết sức học của ngài không xứng đáng với chức vị ấy, giá như sư huynh
trí tuệ và đạo đức đầy đủ, hoặc như vị thủ tọa hòa thượng tuổi tác và đạo
đức cũng hiếm có, mà đảm nhiệm chức vị ấy thì xứng đáng biết chừng nào!
Khốn nỗi, họ không muốn xuất đầu lộ diện, không muốn khoe khoang tài đức
của họ.
Ngày tháng thoi đưa,
Ngọc Lâm Quốc Sư lê gót bốn phương trời, lần lữa đã bốn năm qua. Một hôm,
ngài qua một nơi hẻo lánh, trời đã tối mà chung quanh thì không có một
cảnh chùa hay làng mạc nào, ngài phải nghỉ lại dưới một gốc cây. Lúc ngài
đang ngồi nhắm mắt tư duy, bỗng một bọn cướp đi ngang qua, thấy ngài, một
tên dơ dao lên, nói:
- Người là ai? Có tiền
cho chúng ta vay tạm một ít tiêu đây!
Dưới ánh trăng mờ, Ngọc
Lâm Quốc Sư thấy bọn họ rất đông, nhưng ngài không hề bối rối, sợ hãi,
ngài chậm rãi nói:
- Tôi là người lỡ
đường, tiền không có mà trong người cũng chẳng có gì để biếu các ông, song
nếu các ông chịu chấp nhận lời yêu cầu của tôi, tôi sẽ cho các ông một vật
rất quý giá.
Bọn cướp đồng thanh
nói:
- Yêu cầu gì? Nói mau!
- Tôi yêu cầu các ông
từ nay đừng làm giặc cướp nữa!
Nghe xong, một tên hằm
hằm, hổ hổ nói:
- Đừng láo! Điều đó
không thể được, không làm giặc cướp thì chúng ta làm gì?
Tên khác nhận ra Ngọc
Lâm Quốc Sư là người xuất gia, y rất thán phục thái độ bình tĩnh của ngài,
y gạt mọi tên khác ra rồi đến trước nói:
- À, té ra ông là một
vị sư, xin ông nói trước, chúng tôi không làm giặc cướp thỉ ông cho chúng
tôi vật gì?
Ngọc Lâm vẫn cứ cứng
rắn:
- Tôi muốn các ông phải
nhận trước với tôi là các ông sẽ không làm giặc cướp!
- Không làm giặc cướp,
chỉ cầu ông cho chúng tôi ăn, vậy ông có dám bảo đảm không?
- Tôi có một thỏi vàng,
nặng chừng hai ba cân, nếu từ nay các ông đừng đi ăn cướp, tôi sẽ cho các
ông đem về bán đi, lấy tiền chia
nhau làm vốn buôn bán
mà sinh sống, đừng làm nghề tội ác ấy nữa, như thế có sung sướng không?Bọn
cướp đều nhận lời rầm rĩ:
- Thế thì tốt lắm, ông
đưa ngay đây cho chúng tôi, chúng tôi đều nhận lời.
Ngọc Lâm yên lặng đưa
con dấu bằng vàng ra, lúc giao cho tên đầu đảng, ngài nói với đồng bọn:
- Tôi cần dặn trước các
ông là khi nào đem bán thỏi vàng này, các ông phải cạo chữ ở trên mặt đi
đã, đó là lòng tốt của tôi, bảo mấy ông biết trước, vì tôi không muốn các
ông phải liên lụy!Khi bọn cướp hứa sẽ không ăn cướp nữa, Ngọc Lâm Quốc Sư
rất hoan hỉ, ngài đưa ngay con dấu Quốc Sư có khắc mấy chữ "Đại Giác phổ
Tế Năng Nhân Ngọc Lâm Quốc Sư" cho bọn cướp, ngài tự nghĩ dùng thỏi vàng
ấy làm cho mấy chục người không còn gây tai hại cho xã hội, không cướp bóc
những khách đi đường thế là đáng giá lắm rồi.Sau khi được thỏi vàng, bọn
cướp cười nói huyên thuyên một hồi rồi đi. Trên vòm trời, mặt trăng lẩn
khuất sau đám mây, mấy vì sao lấp lánh tỏa ra một ánh sáng mờ mờ, bốn bề
tịch mịch, không một tiếng động, Ngọc Lâm Quốc Sư lại ngồi yên lặng dưới
gốc cây như không có gì vừa mới xẩy ra.
Sau khi về tới sào
huyệt, bọn cướp dỡ vàng ra xem, đó là một con dấu bằng vàng, hình vuông,
sáng chói, mấy tên biết chữ, xem con dấu rồi hoảng hốt kêu lên:
- Ái chà! Đây là bậc
thầy của Thiên Tử! Các anh có nhìn rõ mấy chữ "Đại Giác phổ Tế Năng Nhân
Ngọc Lâm Quốc Sư"trên con dấu không? Chết rồi! Chúng ta đã ăn cướp Quốc
Sư, thật tội phanh thây rồi!
- Không phải đâu, đừng
nói bậy! Tôi xem ông ta không có vẻ là Quốc Sư, nghe tiếng của ông ta thì
người chỉ khoảng gần ba mươi tuổi thôi. Quốc Sư đâu có đến chỗ núi non hẻo
lánh này làm gì.
- Tôi xem lão ta có lẽ
cũng là đồng nghiệp của chúng mình, chắc lão đã lấy được ấn vàng của Quốc
Sư, định đem vào núi dấu, không may lại gặp mình, sợ quá nên phải giao lại
cho mình chăng?
- Tôi thấy ông ấy chả
có vẻ gì sợ hãi cả, dáng người trang nghiêm, tiếng nói hiền dịu, có thể là
Quốc Sư lắm!
Bọn cướp cứ bàn tán
phân vân, sau tên đầu đảng là Vương Đức Thịnh dơ hai tay lên bảo mọi người
im lặng, rồi y nói:
- Anh em! Chúng ta thật
coi trời bằng vung, dám cướp ấn vàng của Quốc Sư, triều đình mà biết, thì
liệu đời chúng ta còn không? Giữa đường gặp Quốc Sư mà ta cũng không vái
chào, thật có mắt cũng như mù. Bây giờ chúng ta lại đến, nhất định Quốc Sư
còn đây, nếu thật là Quốc Sư, chúng ta hoàn lại ấn vàng, và xin thờ ngài
làm thầy, bằng không, cũng nên buông tha người, vì đó chỉ là một người tu
hành, không biết ý anh em thế nào?
Mọi người đều giơ tay
tán thành, thậm chí còn có người nói, nếu quả thật được gặp Quốc Sư thì từ
nay y sẽ bỏ nghề ăn cướp, và xin thế phát đi tu.
Núi rừng trùng điệp,
cây cối um tùm ngoài tiếng tiếng gió rì rào qua các kẽ lá ra, không mộtâm
thanh nào khác; bọn cướp cũng đi trong yên lặng, không ai dám nói một lời,
những ý niệm độc ác, hung tàn, giờ đây đã biến thành những ý niệm hiền
lương nhân đạo; lúc ấy họ không còn là những kẻ giặc cướp, mà là một đoàn
người xuyên qua núi rừng để đi cầu đạo, họ đều mang một tấm lòng kính cẩn,
khẩn thành, mong được bái kiến một đấng Quốc Sư.
Khoảng đường không phải
gần gũi, vừa đi vừa về cũng tới năm, sáu mươi dặm, lúc bọn cướp vừa trở
lại đến chỗ Quốc Sư đang ngồi thì từ góc trời phía Đông cũng bắt đầu hừng
sáng: bình minh đã xuất hiện.
Mọi người thấy Ngọc Lâm
Quốc Sư vẫn còn ngồi đấy, họ quỳ xuống, cúi đầu, run sợ hỏi:
- Ngài có phải là đương
triều Quốc Sư?
Ngọc Lâm Quốc Sư thấy
vẻ kính cẩn của họ, biết họ đến để ăn năn thú tội, nhưng ngài thấy hơi khó
trả lời câu hỏi của họ, vì từ khi rời khỏi hoàng cung cho đến nay vẫn chưa
ai biết ngài là Quốc Sư, chỉ mới có vị thủ tọa hòa thượng ở chùa Thiên
Đồng nhờ có thần thông mới biết, song ngài cũng không dám nhận, mà cáo
biệt ngay. Mấy năm nay, sống cuộc đời trôi nổi, lang thang khắp đó đây,
ngài chưa dám cho ai biết ngài là Quốc Sư, sợ làm náo động lòng người.
Nhưng giờ đây, bọn cướp hỏi ngài, ngài tự nghĩ không nói không được. Bởi
thế sau một phút ngần ngừ, ngài đáp:
- Phải ta chính là Ngọc
Lâm Quốc Sư của đương kim Thiên Tử song các người không được nói cho người
khác biết, sợ làm trở ngại việc vân du của ta.Tên đầu đảng Vương Đức Thịnh
kêu lên thất kinh:
- Quốc Sư! Chúng con có
mắt như mù, không biết Quốc Sư đến, muôn vàn tội chết, cúi xin Quốc Sư rủ
lòng từ bi xá tội cho chúng con, và cho chúng con được theo làm đệ
tử!Vương Đức Thịnh nói xong, tất cả đồng bọn đều quỳ xuống, ai cầu:
- Chúng con đều xin
Quốc Sư rủ lòng thương nhận chúng con làm đồ đệ!
Ngọc Lâm Quốc Sư:
- Điều đó không được,
không thể vừa là đệ tử Phật, vừa là giặc cướp!
- Chúng con đã hối cải,
chỉ mong được Quốc Sư nhận làm đồ đệ, chúng con sẽ theo Quốc Sư đi xuất
gia, thề không trộm cướp nữa!
Vương Đức Thịnh đại
biểu cho cả bọn tuyên thệ, sau đó, bọn cướp đồng thanh lập lại:
- Phát nguyện xuất gia,
thề không trộm cướp!
Ngọc Lâm Quốc Sư thấy
khó xử:
- Theo ta xuất gia,
chính ta cũng không có chùa cảnh gì cả, ta đi hành hóa, chính Hoàng Thượng
cũng không biết đi đâu.
Bọn cướp tỏ ra rất
cương quyết nói:
- Chỉ mong Quốc Sư thu
nhận cho chúng con xuất gia, chúng con sẽ biến sào huyệt của chúng con
thành một cảnh chùa, thỉnh Quốc Sư trụ trì để dạy bảo chúng con tu hành,
trên núi có đất đai, chúng con sẽ ra sức trồng trọt để sinh sống.Ngọc Lâm
Quốc Sư rất vui mừng. Ngài tự nghĩ độ cho người thiện tu hành thì dễ rồi,
còn độ cho kẻ ác tu hành mới khó; hiện giờ những kẻ cướp tỏ ý ăn năn, lại
phát nguyện xuất gia, ngài không thể bỏ chúng sinh, bởi thế ngài nói rõ
những giới điều mà một người xuất gia phải tuân theo cho họ nghe, họ đều
tỏ lòng ưng thuận, vâng theo, cho nên Ngọc Lâm Quốc Sư nhận lời thỉnh cầu
của họ.
Trời đã sáng hẳn, chim
chóc kêu ríu rít trên cành cây, từ phương Đông, vừng hồng đang nhô lên,
tất cả như đang ca ngợi và đón mừng cuộc đời mới của bọn cướp.Ngọc Lâm
Quốc Sư đứng dậy, mọi người, tiền hô, hậu ủng, đưa ngài lên núi.
Khi đến sơn trại, việc
đầu tiên mà Ngọc Lâm Quốc Sư bảo bọn cướp làm là biến ngay căn nhà hội họp
của họ thành Đại Hùng Bảo Điện để thờ Phật, rồi sau mới đến các việc khác.
Mọi người đều hớn hở,
Ngọc Lâm Quốc Sư cũng hoan hỉ, ngài nhận thấy sơn trại đó có thể kiến
thiết thành một nơi tùng lâm. Sau khi căn nhà hội họp được đổi thành Đại
Hùng Bảo Điện. Ngọc Lâm Quốc Sư hỏi Vương Đức Thịnh về tình hình trong
núi:
- Ở vùng này có bao
nhiêu người?
- Có tất cả 74 người.
Vương Đức Thịnh đáp.
- Núi này kêu là núi
gì?
- Vì cách xa dân chúng
quá, nên núi này gần như không có tên. Cách đây bốn năm, khi chúng con đến
quần tụ ở nơi này, chúng con mới gọi là núi Quần Anh.
- Con hãy may lấy gấp
74 chiếc áo nâu, hôm nay là 14 tháng 8, đến 19 tháng 9 ngày kỷ niệm xuất
gia của Bồ Tát Quan Âm, thầy sẽ làm lễ thế phát, quy y cho các con!Vương
Đức Thịnh cung kính vâng lời, Ngọc Lâm Quốc Sư cho triệu tập tất cả mọi
người đến, rồi bảo họ từ đây về sau gọi núi này là núi Chính Giác, chùa
đặt hiệu là chùa Chính Giác, ngài lại phân chia cho họ mỗi người một chức
vụ trong chùa. Ngài còn đặt pháp danh cho họ, Vương Đức Thịnh được gọi là
Giác Đạo. Ngài khuyến khích họ gia sức khai khẩn đất đai, trồng trọt hoa
trái và rau dưa, ai cũng vui lòng theo Ngọc Lâm Quốc Sư sống cuộc đời tu
hành thanh đạm. Ngọc Lâm Quốc Sư ở đấy thấy lòng rất giải thoát.
Chương Mười
Tám
Thời gian như một giòng
nước lặng lẽ trôi qua. Ngọc Lâm Quốc Sư sống với hơn 70 đồ đệ trên núi
Chính Giác, họ hết lòng kính mến ngài, họ vâng theo những điều ngài chỉ
dạy; từ sau ngày thế phát quy y, họ đã thay đổi hoàn toàn, họ cố gắng tu
học để gột rửa thân tâm. Tiếng mõ sớm chuông chiều từ chùa Chính Giác vọng
lên giữa một khoảng rừng núi âm u, hùng vĩ, như để thức tỉnh những kẻ lầm
đường, lạc lối, trở về với đạo Chính Giác. Ngọc Lâm Quốc Sư thường ngày
thuyết pháp cho họ nghe để mọi người được tắm gội trong ánh Từ Quang của
Tam Bảo, giờ đây, họ không còn cảm thấy sợ hãi, chỉ thấy yên vui, không
còn tham giận, chỉ thấy hòa bình; Ngọc Lâm Quốc Sư sống với họ thấm thoát
đã được hai năm.
Một hôm Giác Đạo đi chợ
về, lên nói với Ngọc Lâm Quốc Sư:
- Bạch sư phụ, hôm nay
con thấy trên cửa thành An Khánh dán một tờ thánh chỉ của Thuận Trị Hoàng
Đế, nói rằng Thuận Trị Hoàng Đế tưởng nhớ Quốc Sư, nên truyền chỉ cho toàn
quốc để kính thỉnh Quốc Sư về Kinh, lại ra lệnh cho các quan lại khắp nơi,
hễ thấy Quốc Sư ở đâu, phải sắp đặt kiệu, võng rước Quốc Sư về.Ngọc Lâm
Quốc Sư chú ý nghe nhưng không nói gì cả. Giác Đạo lại tiếp:
- Bạch sư phụ, trong
hai năm qua, trừ việc cần phải đi mua dầu, muối ra, chúng con rất ít xuống
đồng bằng, nhưng mỗi lần xuống, chúng con thỉnh thoảng lại nghe thấy người
ta kháo nhau rằng, núi Chính Giác vốn là sào huyệt của những tay tổ giặc
cướp, từ sau khi có một vị du tăng đến hóa độ, bọn cướp đã cải tà quy
chính; họ rất khen ngợi sự tu hành của chúng con, và ca tụng đức hạnh của
sư phụ. Tin ấy càng truyền rộng, và các tín đồ ở An Khánh đều biết hết;
nghe đâu họ cũng sắp kéo nhau lên đây lễ bái sư phụ.Nghe xong, Ngọc Lâm
Quốc Sư chỉ gật đầu rồi mỉm cười, chứ không nói chi cả. Dĩ nhiên trong tâm
ngài đã có chủ ý riêng.
Một hôm, Ngọc Lâm Quốc
Sư cho triệu tập tất cả đồ đệ ở giảng đường, rồi với nét mặt hiền từ,
giọng nói trìu mến, ngài nói với mọi người:
- Thầy có duyên ở đây
với các con đã được hai năm rồi, các con đều ngoan ngoãn, biết an phận
nghèo, vui việc Đạo, thầy rất vui mừng khi thấy các con đã tiến bộ nhiều
trên bước đường tu học. Nhưng bổn phận người xuất gia là phải Hoằng Pháp,
Lợi Sinh, thầy không thể ở yên một chỗ với các con mãi mãi, thầy vẫn còn
có nhiều việc phải làm; hiện giờ Hoàng Thượng muốn gặp thầy, lúc đầu ngài
có hứa với thầy là "Trị nước mười năm, chấn hưng Phật Giáo mười năm", ngày
mai thầy sẽ hạ sơn để về Kinh trước, nếu không các quan địa phương biết
lại đón với rước thì phiền phức lắm. Sau khi thầy đi, các con phải cố gắng
tu học như thường, tất cả các việc các con phải theo Giác Đạo. Thầy từng
nói với các con là sư phụ của thầy đã già rồi, ngài rất ít đi đâu, nhưng
thầy còn có sư huynh Ngọc Lam, đạo hạnh của người cao xa hơn thầy nhiều,
nếu thầy gặp được người, thầy sẽ mời người đến đây dìu dắt các con.
Các con không được đi
cầu danh lợi, không được nói với ai thầy là sư phụ của các con, các con là
đồ đệ của Quốc Sư, người xuất gia tu hành phải bỏ hết ý niệm quyền uy, thế
lực.Ngọc Lâm Quốc Sư nói làm cho mọi người cảm động, họ biết sư phụ về
Kinh để Hoằng Pháp độ sinh, họ vừa mừng rỡ vừa buồn rầu!
Lại vẫn như xưa, một
manh áo nâu, một đôi dép cỏ, một gói cà sa, một chiếc bình bát, Ngọc Lâm
Quốc Sư từ từ xuống núi. Khi ngài được suy tôn làm Quốc Sư trong hoàng
cung, ngài không có thêm một vật gì, mà lúc đi chu du hành hóa, ngài cũng
không bớt đi vật gì. Sau khi từ giã các đồ đệ trên núi Chính Giác, ngài
không vội vàng về Kinh ngay, dọc đường hễ gặp duyên, ngài không quên giáo
hóa chúng sinh, nhưng ngài vẫn không muốn cho ai biết ngài là Quốc Sư.Từ
núi Chính Giác đến thành An Khánh chỉ có hai ngày đường, thế mà Ngọc Lâm
Quốc Sư đi mất hơn mười hôm, mỗi khi thấy ngôi chùa nào là ngài lại ghé
vào vãng cảnh.
Khi đến thành An Khánh,
ngài vào nghỉ trong một ngôi chùa, ở đây, ngài được biết một tin rất mừng:
cách đấy vài ba hôm, các tín đồ ở An Khánh lên lễ trên núi Chính Giác về
nói rằng, vị tân trụ trì chùa Chính Giác hiện nay là Ngọc Lam Đại Sư, sư
huynh của Ngọc Lâm Quốc Sư, rằng họ đã quy y Đại Sư rồi; và dân chúng ở An
Khánh đang náo nức sửa soạn lên chiêm bái sư huynh của Quốc Sư.
Nghe tin ấy, Ngọc Lâm
Quốc Sư vô cùng hoan hỉ, tự biết sư huynh cố ý lánh ngài, song tất cả công
việc của ngài đã được sư huynh giúp đỡ rất nhiều. Chẳng hạn lần này, sư
huynh không đến sớm hẳn, mà cũng không đến muộn hẳn, nhằm đúng lúc ngài
rời khỏi núi Chính Giác, sư huynh mới đến. Ngài tự nghĩ núi Chính Giác
cũng cần phải có một người đạo cao, đức trọng như sư huynh ở để lãnh đạo
đám đồ đệ của ngài. Nhìn qua tình hình thì một ngày gần đây sẽ có rất
nhiều các vị khách tăng đến chiêm bái trên núi Chính Giác, mà vấn đề lương
thực trên núi thì Ngọc Lâm Quốc Sư đã biết rõ, ngài cảm thấy rất băn khoăn
cho sư huynh Ngọc Lam.Ngọc Lâm Quốc Sư lại lên đường tiếp tục cuộc hành
trình về Kinh. Hôm ấy, đang đi ngài gặp một đoàn xe bò hơn mười chiếc, chở
đầy hàng hóa, đều viết mấy chữ: "Núi Chính Giác", Ngọc Lâm Quốc Sư hoài
nghi, liền hỏi một người phu đánh xe:
- Các anh chở các thứ
gì trên xe và chở đi đâu vậy?
Anh phu xe đưa tay gạt
mấy giọt mồ hôi trên trán, đáp:
- Bạch sư cụ, chúng tôi
chở lương thực và các thứ cần dùng hàng ngày, chả là có một vị Đại sư tên
là Ngọc Lam đến Thiên Hoa Am khuyến hóa ni cô Giác Chúng, bởi thế ni cô
cho chúng tôi chở các thứ này đến núi Chính Giác. Bạch sư cụ, có phải sư
cụ từ núi Chính Giác về không ạ? Từ đây đến núi Chính Giác còn bao xa
ạ?Nghe xong, bao nhiêu tình cảm phức tạp lại thay nhau nổi lên trong đầu
óc Ngọc Lâm Quốc Sư; ngài vừa vui mừng, vừa cảm kích, lòng nhớ tưởng Ngọc
Lam và Giác Chúng càng tăng thêm. Nhưng ngài thản nhiên nói với người phu
xe:
- Từ đây đến núi Chính
Giác còn chừng hai ba ngày đường nữa thôi, nhờ anh nói hộ Ngọc Lam đại sư
là sư đệ người gửi lời kính thăm!Anh phu xe chẳng biết là mô tê gì, song
cũng cứdạ dạ, vâng vâng, Ngọc Lâm Quốc Sư bảo họ đi và ngài cũng cất
bước.Ngọc Lâm Quốc Sư muốn đến Thiên Hoa Am thăm Giác chúng để khuyến
khích nàng tinh tiến trên đường học đạo, trong lòng ngài cũng cảm thấy
mình có trách nhiệm lớn lao đối với việc xuất gia của Giác Chúng. Từ khi
xa cách Giác Chúng đã năm sáu năm nay, ngài chưa gặp lại nàng lần nào,
không biết đời sống của Giác Chúng trong mấy năm nay ra làm sao? Ngọc Lâm
Quốc Sư dĩ nhiên cũng có lúc nghĩ đến vấn đề đó. Hiện giờ vì thấy Giác
Chúng cho chở các thức ăn đến cúng sư huynh Ngọc Lam, ngài mới nảy ra ý
nghĩ về thăm nàng một lần, nhưng liền sau đó, ngài lại buông một tiếng thở
dài, rồi bỏ ý định ấy.
Vì không đến thăm Giác
Chúng, nên Ngọc Lâm Quốc Sư nhắm thẳng đường đi Bắc Kinh. Ngày qua ngày,
đi rồi nghỉ, nghỉ rồi lại tiếp tục lên đường, một hôm ngài ngồi trên một
chiếc thuyền ngược giòng sông. Trên thuyền có ít hành khách, gió yên, sóng
lặng, bầu trời xanh ngắt, Ngọc Lâm Quốc Sư tay cầm chuỗi tràng, miệng lẩm
nhẩm niệm Phật.Thỉnh thoảng ngài ngừng niệm Phật, nhìn xuống mặt nước,
ngài hồi tưởng năm sáu năm về trước, cũng vì đáp thuyền qua sông mà may
mắn gặp Thuận Trị Hoàng Đế, rồi được tôn làm Quốc Sư, hết thảy việc đời
hình như đều do nhân duyên xếp đặt, ngài không tránh khỏi những cảm xúc
mang mang.
Lúc đó có một chàng
thanh niên đến ngồi bên cạnh ngài, Ngọc Lâm Quốc Sư nhanh nhẩu hỏi:
- Đạo hữu, xin đạo hữu
cho biết quý danh, và đạo hữu đi đâu đây?
- Tôi có theo Phật giáo
đâu mà là đạo hữu của sư thầy, tôi là môn sinh của Khổng Phu Tử, họ Mã, đi
Bắc Kinh!
Chàng thanh niên trả
lời cộc lốc, bất lịch sự, nhưng Ngọc Lâm Quốc Sư không hề thay đổi nét
mặt, trái lại, ngài mỉm cười một cách dịu hiền, rồi đổi câu nói:
- A, may quá thưa bạn!
Tôi cũng đi Bắc Kinh, cùng đường được nấp bóng bạn! Thưa bạn đi Bắc Kinh
có việc gì ạ?
Chàng thanh niên họ Mã
dương đôi lông mày đen rậm lên rồi cười một cách khinh khỉnh, đáp:
- Đi thi!
- Chúc bạn thành công!
Chàng thanh niên cũng
tò mò hỏi:
- Thế sư thầy về Bắc
Kinh có việc gì?
- Hoàng thượng mời tôi
về!
- Nói khuếch nói khoác!
Hoàng thượng mời sư thầy về làm gì?
- Tôi là Quốc Sư của
hoàng thượng, đã xa cách năm sáu năm nay, giờ muốn về thăm.
- Nhà thầy lại càng nói
láo, đương triều Thiên Tử tôn thầy làm Quốc Sư?
- Sao bạn lại mắng
người như vậy? Bạn hỏi tôi, tôi cứ thật thà trả lời, người tu hành không
nói dối, ai dối bạn làm gì?
Ngọc Lâm Quốc Sư thấy
anh chàng thanh niên không có lễ độ, khinh thường người tu hành, ngài cũng
hơi thấy khó chịu.
- Người tu hành không
nói dối, nhà thầy mà lại là Quốc Sư, ai có thể tin được, tôi xem nhà thầy
chỉ có vẻ là một vị sư gàn dở!
Anh chàng họ Mã tuy
cũng thấy Ngọc Lâm Quốc Sư rất đạo mạo, không phải là người tầm thường,
song nhìn manh áo lam lũ của ngài mà bảo là Quốc Sư thì dù sao cũng khó
tin. Trong cái xã hội xưa, cũng như nay, người ta chỉ phán đoán người khác
qua phục sức bên ngoài. Ngọc Lâm Quốc Sư thấy chàng thanh niên có vẻ vô
lễ, ngài nghĩ nên cho anh ta một bài học để làm gương cho những bọn thanh
niên có tâm kiêu mạn, khinh người sau này.Sau khi có ý định ấy, Ngọc Lâm
Quốc Sư tươi cười nói với anh chàng họ Mã:
- Này bạn, tin hay
không là tùy bạn! Trong đám mắt cá có hạt châu mà không nhận ra, một người
về Kinh ứng thí để cầu công danh mà không biết đương triều Quốc Sư là ai,
một người đã không biết gì về quốc gia đại sự như thế thì làm sao mong
chiếm được bảng vàng?Nghe xong, chàng thanh niên hết sức phẫn nộ, anh ta
dương đôi mắt, nét mặt hằm hằm, thốt ra những lời sĩ vả:
- Ông sư điên! Đừng nói
bậy! Trông ông là một kẻ cùng khố thế này mà mơ ước làm Quốc Sư? Nếu ông
mà là Quốc Sư thì thằng họ Mã này không đi thi nữa, tự nguyện theo hầu hạ
ông ba năm!
- Sau đừng hối? Ngọc
Lâm Quốc Sư hỏi.
- Không bao giờ hối,
đại trượng phu nói một lời như đinh đóng cột! Giả sử ông không là Quốc Sư
thì sao?
- Nếu không là quốc sư,
tôi cũng tình nguyện đi xách tráp cho bạn ba năm!
- Sau ông không hối?
- Tôi cũng quyết không
hối, người tu hành miệng, lưỡi như hoa sen, nói một lời là một lời.
Con thuyền trên giòng
sông thuận gió, xuôi buồm, một người tu hành và một người thế tục đã quyết
định xong. Ngọc Lâm Quốc Sư càng nghĩ càng tức cười, thật ra anh chàng
thanh niên có nhận chân được ngài là Quốc Sư hay không, điều đó không có ý
nghĩa gì cả. Song nếu không làm thế thì làm sao dạy được bọn thanh niên,
khiến họ đừng nhìn người bằng nửa con mắt. Tăng đoàn Phật giáo vì không
chú ý đến sự trang diện bề ngoài nên thường bị xã hội coi khinh, gặp cơ
hội không thể không cải chính quan niệm lệch lạc ấy.Mấy hôm sau họ lên bờ
và cũng nhắm về hướng Bắc Kinh, lúc đó vào mùa thu, năm Thuận Trị Hoàng Đế
thứ mười một; gió thu hây hẩy, bụi vàng cuốn lên từ thành Bắc Kinh, Ngọc
Lâm Quốc Sư và chàng thanh niên họ Mã đã tới cửa thành. Ngọc Lâm Quốc Sư
ung dung và đĩnh đạc tiến về hoàng cung, thỉnh thoảng một trận gió lại lùa
vào vạt áo của ngài, làm cho tung lên; chàng họ Mã theo sau ngài, càng đi
lòng chàng càng thấy bồn chồn, hồi hộp, vừa sợ vừa ngờ, đằng trước, Ngọc
Lâm Quốc Sư lúc này đúng là một vị đại sư, cái phong độ uy nghi ấy không
còn giống với lúc ngài ngồi dưới thuyền nữa, thật chàng đã hiểu lầm!
Khi đến cửa cung, các
quan thị vệ lập tức vào tâu Thuận Trị, nghe tin báo Thuận Trị Hoàng Đế Trị
vừa kinh ngạc, vừa vui mừng, ra lệnh cử chuông, trống, rồi thân ra tận cửa
đón rước Quốc Sư. Lúc thị vệ vào tâu, Ngọc Lâm Quốc Sư nói với chàng họ
Mã:
- Hãy bạo dạn! Khi thấy
Hoàng Thượng đừng có sợ, ở trong cung mà nhút nhát không được đâu!
Anh chàng không thốt
lên được một lời nào, bây giờ anh ta đã biết lai lịch của Ngọc Lâm Quốc
Sư.Khi thấy Ngọc Lâm Quốc Sư, Thuận Trị Hoàng Đế quỳ xuống:
- Quả nhân đảnh lễ Quốc
Sư!
- Miễn lễ! Chào là đủ
rồi!
Thuận Trị rước ngài vào
cung, tỏ bày những nỗi nhớ tưởng trong mấy năm qua, và mong rằng từ nay
Quốc Sư sẽ không đi đâu, chỉ ở trong cung Tây Uyển để tiện đến hỏi đạo,
Thuận Trị Hoàng Đế rất có tâm với Phật giáo, người đã phát nguyện tiến
hành song song hai việc trị nước và chấn hưng Phật giáo. Lúc đó Thuận Trị
thấy chàng thanh niên đứng bên Quốc Sư và run lẩy bẩy, liền hỏi Quốc Sư:
- Bạch Quốc Sư, người
này là ai ạ?
- À, đây là Tiểu Mã, nó
tình nguyện theo hầu hạ tôi ba năm, hiện giờ là thị giả của tôi. Vì chưa
được thấy Hoàng Thượng bao giờ, nên run sợ thế kia! Tiểu Mã, ra lạy Hoàng
Thượng đi!
Tiểu Mã lại càng hoảng
hồn, bắt buộc phải ra trước:
- Vạn Tuế! Tiểu Mã xin
khấu đầu bái kiến Vạn Tuế, Vạn Vạn Tuế!
Thuận Trị Hoàng Đế rất
hài lòng khi biết Tiểu Mã là người hầu của Ngọc Lâm Quốc Sư, bèn mỉm cười
nói với Tiểu Mã:
- Tiểu Mã, ngươi phải
chăm chỉ hầu hạ Quốc Sư, nếu ngoan ngoãn ta sẽ thưởng, bằng không, ta sẽ
xin Quốc Sư cho ngươi nghỉ!
Tiểu Mã lại dập đầu và
luôn mồm vâng vâng, dạ dạ.Ngọc Lâm Quốc Sư cười thầm, ngài cho rằng con
người không thích phục tòng trước đạo lý, nhưng cứ nhất định phải trước
quyền thế mới chịu cúi đầu. Cái khí khái kiêu mạn của Tiểu Mã mấy hôm
trước không biết bây giờ biến đâu mất? Thậm chí lúc này anh ta còn đưa con
mắt van xin nhìn Ngọc Lâm Quốc Sư như để khẩn cầu ngài cứu mệnh cho!Ngọc
Lâm Quốc Sư không nghĩ đến việc Tiểu Mã nữa, ngài bắt đầu thảo luận với
Thuận Trị về các vấn đề: Phật giáo có thể bổ khuyết những chỗ thiếu sót
của chính trị, Phật giáo có thể an định xã hội và nhân tâm, Phật giáo có
thể cải thiện đời sống của dân chúng, vân vân. Nghe xong, Thuận Trị Hoàng
Đế rất vui mừng ông phát nguyện trở thành một người ngoại hộ Phật pháp
chân thành, Ngọc Lâm Quốc Sư tán thán thành ý của nhà vua rồi trở về tịnh
thất của ngài trong cung Tây Uyển.
Chương Mười
Chín & Hai Mươi
Ngọc Lâm Quốc Sư tuy
còn ít tuổi, song tài, đức vẹn toàn, ngài lại có chí chấn hưng Phật giáo,
cứu độ chúng sinh, nên bất luận lúc nào ngài cũng cố dùng năng lực để ảnh
hưởng đến Thuận Trị, muốn nhà vua phải xét đến nỗi khổ cực của nhân dân,
và thành tâm hộ trì Phật giáo.
Thuận Trị Hoàng Đế cũng
là một vị vua sáng suốt, nhân từ, trên được Ngọc Lâm Quốc Sư chỉ dẫn, dưới
có các hiền thần giúp đỡ, cho nên chính trị đầu đời nhà Thanh thịnh vượng,
nước giầu, dân mạnh và đâu đâu cũng ca khúc thanh bình.Đức tướng trang
nghiêm của Ngọc Lâm Quốc Sư tràn đầy nhân tính rực rỡ, trong cung mặc dầu
ngài ít nói cười, song không ai là không tôn kính và cảm mến cái phong độ
giản dị và hiền từ của ngài.Bốn năm năm sống cuộc đời nay đây, mai đó đã
quen rồi, nay bỗng trở về hoàng cung, dĩ nhiên Ngọc Lâm Quốc Sư cũng có
cảm giác không được tự nhiên, ngài ngồi trong phòng trầm tư, nhưng phía
ngoài có rất nhiều ngự lâm quân bao vây hộ vệ; lúc ngài ra vườn hoa để tản
bộ, những vệ binh ấy cũng theo xa xa sau ngài. Đã mấy lần Ngọc Lâm Quốc Sư
bảo họ về nghĩ ngơi, nhưng họ đều nói là họ phụng mệnh Hoàng Thượng bảo vệ
an ninh của quốc sư, nên không giờ phút nào họ dám xa Quốc Sư.Ngọc Lâm
Quốc Sư đi đâu cũng phải tiền hô hậu ủng, người khác thì cho thế là oai
hùng, vĩ đại lắm, song đối với ngài đó chỉ là điều ràng buộc, con người
vốn phải tự do, thế mà lại bị danh lợi, quyền thế trói buộc. Nhưng chủ ý
của Ngọc Lâm Quốc Sư là muốn hoằng dương Phật pháp, nên phải nhẫn nại, đối
với khổ nạn cũng phải nhẫn nại, mà đối với vinh hoa, danh vọng cũng phải
nhẫn nại, thân tuy sống trong cảnh nhung lụa, song tâm đừng tham luyến,
thế cũng là tự tại rồi.Anh chàng thanh niên họ Mã đã đánh cuộc với Ngọc
Lâm Quốc Sư dưới thuyền, lúc này thấy trên từ Thiên Tử dưới đến thần dân
trong hoàng cung đều tôn kính ngài, chàng ta cũng bị quyền thế bắt phải
tôn kính. Hiện giờ anh ta hầu hạ Quốc Sư, thôi thì dâng trà, lấy nước, cái
gì cũng phải làm đúng nghi lễ hoàng cung, tuy bề ngoài phải kính cẩn, song
anh ta cũng ức trong lòng. Chàng tự thấy bao nhiêu ước vọng khi ra đi đã
tan thành mây khói; chàng về Kinh ứng thí mục đích để lập công danh, mở
đường tiến thủ, cũng mong đứng vào hàng mũ cao, áo rộng, nào ngờ giữa
đường chỉ vì mấy câu nói mà bỗng chốc trở thành anh thị giả của một người
xuất gia, hàng ngày buông màn, trải nệm, hầu hạ trước sau, thật không khác
những kẻ tôi đòi. Dĩ nhiên là Tiểu Mã cảm thấy áo não và oán hận vô cùng.
Vì muốn khắc phục lòng
kiêu mạn, tự cao của Tiểu Mã mà Ngọc Lâm Quốc Sư phải để anh ta hầu hạ
ngài. Nhưng thật tình ngài rất thương Tiểu Mã, ngài cho người đưa đến cấp
dưỡng cho gia đình chàng tám mươi lạng bạc, song Tiểu Mã không hề vì thế
mà cảm động, chàng không dám phản đối ngài, song chàng tức với Phật giáo,
tức với tất cả mọi người xuất gia, chàng chỉ chờ cơ hội để trả thù cho nỗi
nhục nhã của chàng.
Thấm thoát ba năm trôi
qua, Ngọc Lâm không thấy nỗi lòng uất hận của Tiểu Mã, ngài lấy đức từ bi
đối với tất cả mọi người, ngài tưởng Tiểu Mã đã hết kiêu mạn, nên ngài
thấy cũng thương.Một hôm Ngọc Lâm Quốc Sư gọi Tiểu Mã đến hỏi:
- Tiểu Mã! Con muốn làm
quan không?
Tiểu Mã cố nén uất hận
và trả lời một cách thảm thương:
- Bẩm Quốc Sư, kẻ tiểu
nhân này lúc đầu định về Kinh, mục đích chỉ để cầu công danh.
- Đã thế để ta nói với
Hoàng Thượng cho con một chức quan nhỏ.
- Cảm tạ Quốc Sư!
Tiểu Mã cúi đầu trước
Ngọc Lâm Quốc Sư, ngài nghĩ ngợi một lát, rồi nhìn Tiểu Mã bằng cặp mắt
hiền từ, ngài hỏi tiếp:
- Tiểu Mã! Con có biết
việc trọng yếu nhất của người làm quan là gì không?
- Bẩm Quốc Sư, việc
trọng yếu nhất của người làm quan là phải phục vụ và yêu dân như con!
- Còn việc thứ hai?
Ngọc Lâm Quốc Sư hỏi thêm.
- Xin Quốc Sư chỉ dạy!
Tiểu nhân sẽ tuân theo lời giáo huấn của Quốc Sư!
Với giọng uy nghiêm và
tha thiết, Ngọc Lâm Quốc Sư nói:
- Làm quan điều cần
nhất dĩ nhiên là phải trung quân, ái quốc, chăm chỉ phục vụ và thương yêu
dân, và thứ hai nữa là phải sửa mình, trau dồi đức tính, thành khẩn hộ trì
Phật pháp để phát huy đạo đức, văn hóa, tạo thành một xã hội tốt đẹp, lành
mạnh.
- Bẩm Quốc Sư, những
việc ấy tiểu nhân có thể làm được!
Tuy Ngọc Lâm Quốc Sư
cũng cảm thấy khó tin được lời hứa của Tiểu Mã, song ngài lại cho rằng con
người dầu sao cũng có nhất điểm lương tâm, không nên hoàn toàn thất vọng,
bởi thế ngài mới nói với Thuận Trị Hoàng Đế cho Tiểu Mã làm quan. Vì tôn
kính Quốc Sư nên Hoàng Đế tuân lời ngay, và mấy hôm sau thì có thánh chỉ
truyền xuống phong cho Tiểu Mã làm Tuần phủ kiêm Tổng Đốc Hồ Bắc.
Khi được biết tin ấy,
Ngọc Lâm Quốc Sư cho rằng Tiểu Mã không xứng đáng với chức vụ đó, song
thánh chỉ đã phê chuẩn, nói ra không tiện.
Vào đời nhà Thanh, làm
quan ở Kinh Đô chẳng có uy quyền gì cả, không hống hách với ai được, còn
nếu bổ đi các tỉnh nhỏ thì tha hồ mà cỡi đầu, cỡi cổ dân, tác uy tác phúc,
cho nên ai làm quan cũng mong được bổ đi các tỉnh, lúc đó trời thì cao,
vua thì xa, muốn làm gì thì làm. Bởi thế, khi biết mình được bổ nhiệm Tuần
phủ Hồ Bắc, Tiểu Mã vui sướng gần như phát điên.Tiểu Mã lên đường nhậm
chức. Khi tới Hồ Bắc, lúc đầu Tiểu Mã vẫn chưa dám có hành động ngang
ngược, nhưng dần dần hiểu rõ tình thế trong quan trường, Tiểu Mã ra mặt
phản đối Phật giáo, nhất là hôm đến chùa Quy Nguyên, một cảnh chùa danh
tiếng ở Hồ Bắc, hòa thượng trụ trì không đặc biệt tiếp đãi Tiểu Mã, nên
anh chàng lại càng ghét những người xuất gia. Tiểu Mã liền ra các mệnh
lệnh rất hà khắc đối với những chùa chiền, các sư xưa nay vốn theo hạnh từ
bi, trong lòng tuy bất mãn với quan tân Tuần Phủ, song họ không hề tỏ hành
động phản khán bên ngoài, bởi thế Tiểu Mã người đã từng ba năm hầu hạ Ngọc
Lâm Quốc Sư càng làm tới, chàng dựa vào danh nghĩa xây Khổng Miếu để hạ
lệnh phá hủy chùa Quy Nguyên, tất cả các sư trong chùa đều bị trục
xuất.Lúc này Tiểu Mã đã nắm được quyền hành trong tay, chàng không còn nhớ
gì đến Ngọc Lâm Quốc Sư, và cũng đã quên hết những lời ngài dạy bảo về đạo
làm quan. Chàng tưởng như nếu không gây được khó khăn cho Phật giáo, thì
chàng sẽ không thể tỏ ra con người vĩ đại!
Lệnh phá chùa, đuổi sư
của Tiểu Mã là một tin động trời, chàng ta cho rằng Thuận Trị Hoàng Đế và
Ngọc Lâm Quốc Sư không thể biết được, thậm chí còn nghĩ rằng dù nhà vua và
Quốc Sư có biết cũng không sao, vì chàng là một ông quan to trấn thủ một
phương, hơn nữa chàng phá chùa để xây dựng Khổng Miếu, tôn thờ vị Vạn Thế
Sư biểu là hợp cách.Các vị trụ trì các chùa ở Hồ Bắc bàn tán xôn xao, họ
không thể tưởng tượng được rằng, một người đã từng hầu cận Quốc Sư mà lại
có hành vi phản bội như vậy.
Một hôm, Ngọc Lâm Quốc
Sư đang ngồi tham thiền trong tịnh thất tại cung Tây Uyển, bỗng ngài thấy
lòng nao nao động loạn, ngài không thể nào trấn tĩnh được, có lẽ việc gì
rủi ro đã xẩy ra? Ngài đứng dậy đi ra cửa cung, mà đi là đi, chứ ngài cũng
không biết là mình đi đâu. Một lúc sau ngài đến bờ sông, bên bờ sông có
chiếc thuyền nhỏ, trên thuyền một ông già đầu tóc bạc phơ đang giơ tay với
ngài, lòng thúc dục, ngài cứ xăm xăm bước tới, cũng chẳng tưởng về cáo
biệt Hoàng Đế, và cũng như hơn mười năm trước, ngài chẳng mang gì theo,
chỉ cầm có chiếc quạt ngà trên có mấy chữ "Như Trẫm Thân Lâm" mà nhà vua
đã dâng cúng ngài, ngài lại yên lặng ra đi.
Lên thuyền rồi, ngài
đang định hỏi chuyện ông già, bỗng trời nổi gió, mây đen từ bốn phía kéo
tới ùn ùn, phong ba bão táp, một con thuyền nan quay cuồng giữa dòng nước
bạc, ông già chú hết tâm lực vào việc chèo lái, không còn thì giờ để nói
chuyện với Ngọc Lâm Quốc Sư. Trong tình trạng nguy nan ấy, Ngọc Lâm Quốc
Sư chỉ còn cách cầu nguyện Bồ Tát Quan Âm che chở cho được thoát nạn, điều
đó không có nghĩa là ngại sợ nguy hiểm hoặc chết chóc, thực ra ngài không
nỡ thấy ông già tuổi tác chết một cách oan uổng!Quái lạ! Ông già cứ yên
lặng, Ngọc Lâm Quốc Sư bất giác cũng hoài nghi, ông già vừa chèo thuyền,
vừa đưa tay chỉ vào mồm, rồi lại xua xua tay, tỏ ý muốn nói với Quốc Sư
ông là người câm, lúc đó Ngọc Lâm Quốc Sư mới biết tại sao ông già cứ yên
lặng.Ngọc Lâm Quốc Sư xuống thuyền vào lúc hoàng hôn, và hiện giờ thì màn
đêm đã bao trùm cả vạn vật. Ngài ra đi vốn không có mục đích là đi đâu, mà
chiếc thuyền lênh đênh trên sông, trôi theo chiều gió tựa hồ cũng không có
bến bờ. Gió táp đã đưa con thuyền đi như một vì lưu tinh, trong khoảng một
đêm đã băng qua mấy nghìn dặm và đến một nơi xa lạ nào.
Ngọc Lâm Quốc Sư trả
công ông già mấy lạng bạc, nhưng ông lắc đầu, và lại trao cho Quốc Sư một
bao giấy, đưa ngài lên bờ, chắp tay vái chào rồi chèo thuyền ra đi.Ngọc
Lâm Quốc Sư quay lại để cảm tạ ông già, thì lúc ấy con thuyền đã lướt theo
dòng nước êm đềm, không bao lâu, hình bóng ông già đã mờ dần trong khói
sóng.
Chờ cho bóng ông già
khuất hẳn, lúc đó Ngọc Lâm Quốc Sư mới bóc bao giấy ra xem, trong bao ngài
chỉ thấy có một mẩu giấy nhỏ, trên viêt mấy hàng chữ nguệch ngoạc như sau:
"Ngọc Lam nhờ tôi đến chùa Quy Nguyên ở Hồ Bắc có việc, về Thiên Hoa Am
một lần, Hộ Pháp Vi Đà đang đợi ngài".
Xem xong, Ngọc Lâm biết
ngay là sư huynh Ngọc Lam sai người đến, nhưng ngài không hiểu hết ý nghĩa
trong mấy hàng chữ nói trên, câu thứ nhất, ngài cho rằng ông già đó phải
là bạn thân của sư huynh, nên sư huynh mới nhờ đưa thuyền đến đón ngài;
câu thứ hai "Chùa Quy Nguyên" ở Hồ Bắc có việc là việc gì? Còn câu thứ ba
thì rõ ràng rồi, nghĩa là sư huynh muốn ngài thăm Giác Chúng ở Thiên Hoa
Am một lần.Song lúc ấy Ngọc Lâm Quốc Sư không muốn băn khoăn về ý nghĩa
khúc mắc trong câu nói, ngài chỉ muốn tìm một người để hỏi đường xem đây
thuộc về địa phương nào.
Sau khi hỏi thăm thì
ngài được biết nơi ấy thuộc địa phận Hồ Bắc, không cần suy nghĩ, ngài tìm
ngay đến chùa Quy Nguyên xem việc gì đã xẩy ra, nếu không ngài không thể
yên tâm, vả lại, trong khoảng một đêm ông già đã đi mấy nghìn dặm và lại
áp thuyền cho ngài lên đúng nơi đây, thật là một việc ly kỳ!Khi gần đến
chùa Quy Nguyên, Ngọc Lâm Quốc Sư nhìn thì đó là một ngôi chùa đồ sộ, nguy
nga và coi rất quy mô, thảo nào cứ nghe người đồn Quy Nguyên là một tòa
chùa danh tiếng. Nhưng khi vào hẳn cửa Tam Quan, ngài thấy cảnh tượng thật
hoang tàn. Trước hết ngài vào Chính Điện lễ Phật, rồi ngài định tìm một vị
sư để hỏi chuyện, nhưng tìm khắp nơi trong chùa không thấy một vị sư nào
cả. Đang lúc hoang mang thì ngài thấy một vị sư già yếu đang ngồi than van
trong góc một bức tường đổ, ngài liền đến vái chào rồi hỏi thăm:
- Bạch Trưởng lão, tại
sao trong chùa này không có tăng chúng?
Vị sư già nhìn Ngọc Lâm
Quốc Sư một chặp, buông một tiếng thở dài não nuột, rồi nói qua một giọng
rất đau thương:
- Đại Đức chắc từ xa
mới đến nên không biết nổi khổ của chúng tôi. Đạo cao một thước, ma cao
mười trượng, đây là cái nạn của Phật giáo; ai bảo là chùa Quy Nguyên không
có tăng chúng? Tăng chúng chùa Quy Nguyên đã bị ma lực đuổi đi rồi.
- Xin hỏi Trưởng lão
việc gì đã xẩy ra ở đây?
- Chao ôi! - Vị sư già
lại thở dài - Bạch Đại Đức, ngài vẫn chưa biết ngày mai này Mã Tuần phủ Hồ
Bắc sẽ đến phá hủy chùa Quy Nguyên để xây lại thành ngôi Khổng Miếu à?
Tăng chúng trong chùa đều đi hết rồi, còn có mình tôi già yếu, ở lại đợi
ngày mai, khi Mã đại nhân đến phá chùa sẽ đem cái thân già này liều chết
với ông ta!Nghe xong, Ngọc Lâm Quốc Sư kinh hoàng, vị sư già nói đến Mã
tuần phủ Hồ Bắc có phải Tiểu Mã chăng? Ngọc Lâm Quốc Sư đã giúp đỡ cho bao
nhiêu người công thành, danh toại, nhưng ngài không nhớ những việc đó nữa,
hiện giờ nghe vị trưởng lão nói đến Mã Tuần Phủ Hồ Bắc, ngài mới sực nhớ
đến Tiểu Mã.Nhưng Ngọc Lâm Quốc Sư muốn hỏi lại cho chắc chắn:
- Bạch Trưởng lão, Mã
đại nhân là người thế nào?
- Ái cha! Nghe đâu cái
ông muốn xuống địa ngục ấy đã từng là thị giả của Ngọc Lâm Quốc Sư, mà
Ngọc Lâm Quốc Sư cũng muốn xuống địa ngục nốt, nếu không, tại sao ngài lại
đi giúp đỡ tên đại ma vương ấy, tâu Hoàng Thượng cho nó làm Tuần phủ đại
nhân. Tôi già rồi, rất tiếc không còn được gặp Ngọc Lâm Quốc Sư, chứ nếu
được gặp, tôi cũng sẽ liều sống chết với ngài một phen, ngài có quyền thế,
tôi đây chẳng có chi hết, nhưng tôi có thể lên trước Phật đài tố cáo
ngài!Giọng vị trưởng lão chìm trong tiếng nấc, khiến người nghe phải cảm
động.Ngọc Lâm Quốc Sư thấy xấu hổ, ngài rất xúc động trước tấm lòng nhiệt
thành vì đạo của vị trưởng lão những lời trách ngài không sai, lẽ ra ngài
không nên giúp cho một kẻ vô ân bạc nghĩa làm quan, nhất là chức quan to
như thế!Ngọc Lâm Quốc Sư chỉ biết đem tâm tình ăn năn nói với vị trưởng
lão:
- Bạch Trưởng lão!
Người nói thật đúng, Ngọc Lâm và Mã Tuần phủ đều là những người không tốt
nên mới khiến Phật giáo ở nơi này gặp nạn, nhưng xin người đừng lo, tôi sẽ
có cách làm cho Mã Tuần phủ không dám đến phá chùa Quy Nguyên.
- Đại Đức có cách? Đừng
nói chơi! Hòa thượng trụ trì và các thân sĩ địa phương đã dùng hết cách
rồi, nhưng cũng vô hiệu, nghe đâu ngày mai Mã Tuần Phủ đích thân đem quân
sĩ đến phá chùa!
- Không sao, tôi không
những cấm Mã tuần phủ không được phá, mà còn bắt phải sửa sang lại chùa
khác. Nhưng phải nhờ Trưởng lão giúp tôi một việc mới xong.
- Sao Đại Đức nói cứng
thế? Ngài muốn tôi làm việc gì? Nếu bảo tồn được ngôi Tam Bảo này thì dù
có phải làm trâu, làm ngựa tôi cũng vui lòng!
- Giờ xin Trưởng lão đi
tìm ngay mấy người làm đến đây, cất một cái chòi cao giữa sân chùa để tôi
ngồi trên ấy, rồi bên ngoài viết mấy chữ "Quốc Sư ở đây" thật to, thì dù
Mã Tuần Phủ có cả gan đến mấy chăng nữa cũng không dám đụng đến một viên
gạch ở chùa Quy Nguyên này.
- Ngài, ngài.... là
Ngọc Lâm Quốc Sư?
Vị Trưởng lão rất đổi
ngạc nhiên và cũng rất hối hận những lời người vừa nói lúc nãy.
- Bạch Trưởng lão, đó
chỉ là hư danh thôi, không đáng quan tâm, vì bảo vệ Phật pháp nên tôi
không thể đừng được, mới phải nêu cái hư danh ấy lên!Phong độ đạo mạo và
khiêm tốn của Ngọc Lâm Quốc Sư đã làm cho vị Trưởng lão kính phục, vị sư
già vui mừng và lập tức đi mượn người đến cất chòi, người sung sướng như
đã được trông thấy Phật vậy.Hôm sau, khi chòi được cất xong, Ngọc Lâm Quốc
Sư lên ngồi để chờ Mã Tuần Phủ đến, không lâu, quả nhiên ngài thấy một
đoàn chừng hơn một nghìn quân sĩ đang từ xa tiến đến, Mã Tuần Phủ ngồi
trong một cái xe có tám người kéo.Gần đến chùa Quy Nguyên, Mã Tuần Phủ đã
thấy chiếc chòi cao lừng lững trước chùa, lòng ông ta tự nghĩ hôm nay sẽ
phá cho bằng hết, ai còn cất chòi lên làm gì thế kia? Đến nơi, ông ta bảo
dừng xe lại, bước xuống và đưa mắt nhìn lên chòi, ông ta thấy dựng tóc gáy
và mồ hôi toát ra đầy mình. Ngọc Lâm Quốc Sư đang ngồi trên chòi, phía
ngoài có mấy chữ "Quốc Sư ở đây", Mã Tuần Phủ vội nằm phục xuống đất, hơn
một nghìn quân sĩ đứng há hốc miệng, vị Trưởng lão thấy thế, nói lớn:
- Quốc Sư ở đây sao các
người không quỳ xuống để bái kiến?
Nghe xong, quân sĩ vội
vàng quỳ cả xuống, cảnh tượng lúc ấy trông như một triều đình có văn, võ
bá quan triều phục!
Ngọc Lâm Quốc Sư bảo Mã
Tuần Phủ:
- Tiểu Mã! Ngẩng đầu
lên!
- Quốc Sư ở trên, tiểu
nhân không dám ngẩng đầu?
- Ngươi là kẻ vô ân bạc
nghĩa, không trọng chữ tín, ta nói với ngươi những gì, ngươi còn nhớ
không?
- Xin Quốc Sư rủ lòng
thương, tiểu nhân vẫn còn nhớ!
- Vẫn còn nhó? Thế hôm
nay ngươi đem quân sĩ đến đây làm gì?
- Đó là..... tội đáng
chết của tiểu nhân xin cúi đầu, mong Quốc Sư mở lượng từ bi, tiểu nhân
không dám có ý nghĩ phá chùa nữa, và từ nay trở đi xin nhiệt thành ủng hộ
Phật pháp, nếu không xin chịu tội hết!Mã Tuần Phủ dập đầu xuống sân gạch,
Ngọc Lâm Quốc Sư thấy con người đáng ghét mà cũng đáng thương, đối với kẻ
phản phúc không thể không dạy răn, bởi vậy, ngài nói với Tiểu Mã:
- Tiểu Mã, ta hẹn cho
ngươi trong vòng nửa tháng, ngươi phải sửa sang lại ngôi chùa này, trang
hoàng các tượng Phật, mà phí tổn người phải chịu hoàn toàn, không được
trích của công, ngươi có chịu không?
- Dạ, Tiểu nhân xin
chịu trách nhiệm hoàn toàn, tạ ơn Quốc Sư!
- Tha cho ngươi lần
đầu, lần sau mà còn hành động phá hoại Phật pháp, nhất định ta sẽ trị tội,
thôi, cho dậy!
Tiểu Mã đứng dậy, rồi
như mèo mất tai, cắm đầu kéo quân rút lui.
Buổi chiều hôm ấy Mã
Tuần Phủ đưa thợ nề, thợ sơn đến chùa Quy Nguyên, lúc này ông ta không còn
dám hống hách. Vị Trưởng lão thấy thế, rất sung sướng và cảm động, tuy
tuổi hạc của người hơn Ngọc Lâm Quốc Sư nhiều, song người mặc cà sa ra làm
lễ cảm tạ Quốc Sư, Quốc Sư từ chối, và ngài cũng luôn tay vái vị Trưởng
lão.
Sau khi từ giả vị
Trưởng lão ở chùa Quy Nguyên, Ngọc Lâm Quốc Sư, như hạc nội mây ngàn, lại
đặt chân lên đường muôn dặm. Hai năm trước, lúc hòa thượng Thiên Ẩn viên
tịch, ngài trở về chùa Sùng Ân một lần, núi Chính Giác ngài vẫn nhớ, Thiên
Hoa Am cũng không thể hoàn toàn lãng quên. Hình ảnh sư huynh Ngọc Lam và
ni cô Giác Chúng thường lởn vởn trong đầu óc ngài. Nhưng ngài chỉ nghĩ thế
thôi, chứ không có ý định đến gặp họ, người đã được độ rồi thì cần gì ngài
phải đến? Cõi đời còn biết bao nhiêu người đau khổ, cô đơn, không người
giúp đỡ, không ai an ủi, cho nên, ông cụ già chèo thuyền bảo ngài đến thăm
Thiên Hoa Am, ngài thấy không cần thiết.
Rời chùa Quy Nguyên,
Ngọc Lâm Quốc Sư đi đến chùa Giang Thiên ở Kim Sơn, ngài dấu tên tuổi và ở
lại đây tham thiền ít lâu, và cũng chính ở đây, ngài đã liễu ngộ thiền cơ.
Năm ấy Ngọc Lâm Quốc Sư đã 63 tuổi, sau khi liễu ngộ, ngài thấy trên bước
đường tu hành không còn gì có thể trở ngại, ngài liền chu du các nơi tùy
duyên hóa độ chúng sinh.Ngài cứu giúp không biết bao nhiêu người thoát
khỏi khổ nạn, ngài khuyến khích tăng đồ đi vân du tham học để hỏi Đạo; mỗi
khi gặp thiên tai, ngài tổ chức các cuộc cứu tế, ngài qua cả Nam Dương để
cổ động phong trào truyền bá Phật giáo có tính cách quốc tế, khi ở Nam
Dương về, ngài đem theo một cây Bồ Đề nhỏ và hiện giờ vẫn còn um tùm xanh
tốt tại chùa Sùng Ân.
Trong những năm Ngọc
Lâm Quốc Sư đi chu du hành hóa, ngài nghe nói, ở Thiên Hoa Am, Giác Chúng
và các sư ni cũng thường mở hội giảng kinh, thuyết pháp, nhất là hàng năm,
cứ đến mùa đông giá rét, Giác Chúng lại mua gạo và quần áo phát cho những
người nghèo khổ, điều đó làm cho Ngọc Lâm Quốc Sư hoan hỉ vô cùng. Núi
Chính Giác đã trở thành một Đại Tùng Lâm, có hàng trăm tăng chúng.
Thế sự vô thường, đời
người như mộng, cái thân hình đẹp đẽ tuấn tú của Ngọc Lâm Quốc Sư rốt cuộc
cũng suy tàn, già yếu, mấy năm sau này, trông ngài như một vị lại đầu đà,
một chiếc gậy, một gói cà sa, lang thang đây đó, không còn ai nhận ra ngài
là Ngọc Lâm Quốc Sư.
Một hôm ngài đến Giang
Tô thì thấy trong mình mỏi mệt, cây già chắc phải cỗi, ngài đã biết trong
mình. Do đó ngài lưu lại ở chùa Pháp Vương. Pháp Vương là một cảnh chùa đã
suy đồi, ngài thấy rất thương tâm, ngài bèn quyết định đem tấm thân tàn để
trùng tu lại chùa Pháp Vương mong gây chút Pháp duyên cuối cùng.Ngọc Lâm
Quốc Sư liền nói với thầy tri khách trong chùa:
- Bạch thầy tri khách:
lão tăng xin tá túc mấy ngày.
Thầy tri khách hỏi:
- Lão tăng ở đâu đến và
sẽ định đi đâu?
- Từ chỗ không đến mà
đến, và sẽ đi đến chỗ không đi!
- Không cần dùng thiền
ngữ. Thầy tri khách nói.
- Chùa chúng tôi nhỏ,
không có thiền thất để tiếp lão tăng.
Ngọc Lâm Quốc Sư đổi
giọng nói:
- Tôi đau, xin cho nghỉ
ở đây ít bữa!
- Lão tăng tuổi tác quá
thế này, ngộ có mệnh hệ nào, bản tự lo liệu làm sao?
- Xin đừng lo, tôi có
một chiếc quạt và hai phong thư, không những không phiền lụy đến quý tự,
mà nơi Đạo Tràng này chắc chắn cũng nhờ đó mà được chấn hưng.
Thầy tri khách bán tín
bán nghi, nhưng là người đồng đạo, không thể từ chối, cho nên thầy phải
nhận lời của Ngọc Lâm Quốc Sư.Chưa được mấy hôm thì Ngọc Lâm Quốc Sư viên
tịch! Ngài ngồi xếp bằng trên giường, tuy đã viên tịch, nhưng trông như
người đang tham thiền.Vì thấy Ngọc Lâm Quốc Sư viên tịch một cách bất ngờ,
chúng tăng trong chùa đều hoảng sợ, thầy tri khách vội tìm chiếc quạt và
hai phong thư di chúc của ngài. Hai phong thư đó, một gửi cho sư huynh
Ngọc Lam trên núi Chính Giác, một gửi cho Giác Chúng ở Thiên Hoa Am. Giác
Chúng và Ngọc Lam là những người thế nào? Trong chùa Pháp Vương không ai
biết cả, khi dở chiếc quạt ra coi thì thấy bốn chữ "Như Trẫm Thân Lâm" và
dưới mấy chữ có đóng con dấu bằng ngọc mang tên Thuận Trị Hoàng Đế.
- Ái chà! Đây là ai?
Thuận Trị Hoàng Đế đã băng hà rồi, có lẽ vị khách tăng này là Ngọc Lâm
Quốc Sư? Thầy tri khách kinh ngạc hỏi vị trụ trì và giám viện.Vị trụ trì
cầm lấy chiếc quạt xem, rồi nói:
- Nếu ngài là Quốc Sư
thì chúng ta không thể mở được hai phong thư di chúc này, chúng ta đâu
được phép động đến vật của Quốc Sư.Vị trụ trì quyết định:
- Trên chiếc quạt của
ngài đã có mấy chữ "Như Trẫm Thân Lâm", chúng ta không thể để ở đây được,
phải đưa trình quan huyện địa phương, một mặt cho người cầm hai phong thư
này tìm đến núi Chính Giác và Thiên Hoa Am để trao tận tay cho người nhận.
- Bạch hòa thượng -
Thầy tri khách nói với trụ trì - Ngài thường nói hai phong thư và chiếc
quạt này có thể giúp chúng ta trùng tu lại ngôi Đạo Tràng này!
- Ngài nói thế hả? Nếu
thật là một vị Quốc Sư mà viên tịch ở cảnh chùa nhỏ bé này, điều đó là một
vinh dự lớn cho chúng ta, ngài viên tịch mà còn làm ích lợi cho đạo, thật
là một vị Quốc Sư đáng kính!Vị trụ trì vừa nói vừa đưa đôi mắt cung kính
nhìn di hài của Ngọc Lâm Quốc Sư. Nhưng vị giám viện thì cảm thấy xấu hổ
và trong lòng ân hận vô cùng:
- Xấu hổ! Trong khi
ngài đau yếu, chúng ta đã không săn sóc đến nơi đến chốn!
Thầy tri khách nói về
bệnh trạng của ngài:
- Tôi thấy như ngài đã
biết trước ngày giờ viên tịch. Ngài chẳng đau ốm gì cả, vì quá già yếu nên
trông chỉ có vẻ mỏi mệt mà thôi.
Khi quan huyện Hoài An
thuộc Giang Tô biết tin Ngọc Lâm Quốc Sư đã viên tịch ở huyện mình tức
khắc đưa hương án đến để tiếp rước chiếc quạt "Như Trẫm Thân Lâm", rồi báo
về triều đình. Không bao lâu thì tiếp được thánh chỉ của Hoàng Đế Khang
Hy, ra lệnh làm lễ Quốc Táng, lại phái đại thần trong triều về chủ tọa lễ
Quốc Táng, và trùng tu chùa Pháp Vương, xây tháp kỷ niệm Ngọc Lâm Quốc
Sư.Ngọc Lâm Quốc Sư để lại hai phong thư cho Ngọc Lam và Giác Chúng, trong
thư nói gì, điều đó không ai biết, người ta chỉ biết hôm làm lễ hỏa táng,
Ngọc Lam, Giác Chúng, Giác Đạo, và Đạo Hoằng (Pháp danh của Thúy Hồng sau
khi đã xuất gia) đều có mặt trong số năm vạn người đến cử hành lễ hỏa
táng. Hình hài của Ngọc Lâm Quốc Sư tan theo ngọn lửa trà tỳ bốc lên,
nhưng tấm lòng vì Đạo và thương người của ngài vẫn còn trong hai phong thư
di chúc tồn tại với núi sông.
- Hết -
---o0o---
Source:
http://www.thuvienhoasen.org
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 6-2003