Đức
vua nước Xá Di là Tịnh Phạn, từng
dùng chính pháp làm phương châm cai trị,
lấy nhân nghĩa đạo đức để cảm hóa
nhân dân, mở lòng từ bi đốI vớI
muôn loài. Bấy giờ Ngài đang lâm
trọng bệnh, các quan thái y hết lòng
điều trị, nhưng bệnh mỗI ngày một
nặng, đức vua cảm thấy ưu phiền. Thấy
thế, các vua Bạch Phạn, Hộc Phạn và
Đại Xưng (các em vua Tịnh Phạn) đồng
tâu : Đại vương bình sinh không thích
làm điều ác, thường vun bồI đức
hạnh trong từng giây phút, chăm sóc
thần dân tận tụy, khiến mọI ngườI
đều được an lạc, thanh danh vang khắp
bốn phương, thế thì ngày nay có gì phải
ưu sầu?
Vua
Tịnh Phạn bảo các vương đệ: Dù ta có
mệnh chung cũng chẳng phải là điều
đáng khổ tâm, ta chỉ ân hận là không
thấy mặt các con ta là Tất Đạt và Nan
Đà, hiện đã đoạn trừ xong những tham
dục ở cõi đờI nầy. Ta cũng ân hận
là không gặp được con của Độc Phạn
Vương là A Nan Đà, ngườI gìn giữ
tạng pháp của Phật không mất một
lờI. Ta lại hận vì không thấy mặt
cháu ta là La Vân, tuổI tuy còn trẻ mà
thần túc hoàn bị, giớI hạnh đầy đủ.
Ví mà ta gặp được các con cháu ta, thì
dù bệnh có nguy kịch cũng chẳng có chi
là đau khổ.
Bấy
giờ Thế Tôn đang ngự tại núi Linh
Thứu, bằng thiên nhãn thanh tịnh, thấy
phụ vương đang lâm trọng bệnh bèn báo
tin cho Nan Đà, La Vân và A Nan. Hay tin ấy,
các vị nầy đều xin phép Thế Tôn về
triều để thăm viếng đức vua. Nan Đà
nói: Đức vua Tịnh Phạn vốn là phụ
vương của chúng ta, từng sinh con Thánh
lợi ích thế gian, nay chúng ta phải về
thăm để báo ân sinh thành dưỡng dục.
A Nan thưa: Đức Vua Tịnh Phạn là bá phụ
của tôi, đã cho phép tôi xuất gia theo
Phật, thế nên tôi cũng xin phép về
thăm. La Vân bùi ngùi bạch Phật: Thế
Tôn tuy là cha của con nhưng bỏ nước ra
đi tìm đạo, con nhờ Tổ phụ nuôi
dưỡng mà trưởng thành, mớI được
xuất gia; thế nên con cũng muốn trở về
hầu thăm Tổ phụ.
Thế
Tôn bèn hoan hỷ chấp nhận những lờI
cầu xin ấy, rồI hướng dẫn mọI ngườI
trở lại hoàng cung. Trên đường đi,
Thế Tôn thấy dân chúng đang buồn thảm
than khóc, vì họ được tin vị lãnh đạo
đầy nhân từ của dân tộc đang lâm
trọng bệnh sắp từ trần. Phật thấy
tình cảnh ấy an ủi họ: Vô thường ly
biệt là lẽ tất nhiên xưa nay, các
người hãy suy nghĩ về những nỗI khổ
sinh tử mà cầu đạo, để tìm con
đường thoát khổ.
Đức
vua hay tin Thế Tôn đưa Nan Đà, La Vân
về thăm tinh thần bỗng nhiên phấn chấn
khác thường, thân thể trở nên nhẹ
nhõm, Ngài đã gượng ngồI dậy trong
chốc lát. Khi ấy Thế Tôn từ từ tiến
vào hoàng cung, đức vua trông thấy chấp
tay vái chào và nói: Xin Như Lai hãy
đặt tay lên mình tôi cho đỡ bớt cơn
đau. Tôi đang đau đớn dữ dộI không
thể chịu nổI, có lẽ sắp lìa bỏ cõi
đờI. Lần này chắc chắn là lần cuốI
cùng mà tôi gặp lại Thế Tôn, tôi
không còn ân hận gì nữa.
Phật
thấy phụ vương bệnh nặng thân thể gầy
yếu, sắc mặt biến đổi tinh thần uể
oải bèn nói với Nan Đà: Nghĩ lại phụ
vương xưa kia thân thể tráng kiện, dung
mạo đoan trang, danh tiếng vang lừng mà nay
lâm trọng bệnh đến nỗi tinh thần không
còn tỉnh táo. Thế thì các nét đoan trang
tráng kiện xưa kia ngày nay đâu rồi ?
Đoạn Thế Tôn thưa phụ vương: kính xin
phụ vương chớ có ưu sầu, vì đạo
đức của phụ vương trong sáng, hoàn
hảo chẳng khiếm khuyết điều gì. Rồi
Phật đưa bàn tay vàng ánh như đóa sen
nở đặt trên trán vua và tiếp: Phụ
vương là người giữ giới thanh tịnh,
tâm cấu nhi-m đã xa lìa, nay không còn
nên sầu não mà hãy suy nghĩ về nghĩa
lý của kinh giáo, vì mọi vật không có
gì bền chắc hết, vậy phụ vương hãy
hoan hỷ, dù mạng sống có kết thúc vẫn
giữ tâm hồn bình thản.
Bây
giờ Đại Xưng vương cung kính thưa với
đức vua: Phật là con của đại vương,
thần lực siêu việt, không một ai bằng.
Nan Đà cũng là con của đại vương đã
qua khỏi biển ái dục sinh tử, được
đạo qủa vô ngạị Còn A Nan Đà, con
của Hộc Phạn Vương, cũng đã uống
được
Pháp
vị cam lồ; pháp của Phật thuyết giảng
mênh mông như biển cả A nan ghi nhớ
trọn vẹn, không quên một câu, Cháu
của đại vương là La Vân, đạo đức
tinh thần, chỉ chờ công phu thiền định
nữa là thành tựu 4 đạo quả. Tất cả
4 người ấy ngày nay đều đã chọc
thủng lưới ma .
Tinh
Phạn vương nghe những lời an ủi ấy ,
vui mừng khôn xiết, không còn kiềm chế
được, liền đưa tay ra cầm tay Thế Tôn
đặt lên trái tim mình, chấp tay tỏ ý
cảm tạ Thế Tôn. Ngay khi ấy vô thường
vụt đến khí hết mệnh tuyệt, thần
thức chuyển sang đời khác.
Thế
rồi con cháu trong hoàng tộc, chuẩn bị
làm l- nhập quan rồi tôn trí kim quan trên
toà sư tử, rắc hoa, đốt hương cúng
dường. Phật cùng Nan Đà cung kính
đứng hầu phía trước kim quan, A Nan và
La Vân đứng hầu dưới chân kim quan....
Lúc
sắp làm l- động quan, Nan Đà, A Nan và La
Vân đều xin phép Thế Tốn được
khiêng một góc quan tài, khi ấy, Thế
Tôn nghĩ đến những kẻ hung bạo, bất
hiếu trong đời vị lai, không biết báo
đáp côngơn sinh thành của cha mẹ, thật
đáng xót thương. Nhằm cảnh tỉnh những
hạng người ấy, Thế Tôn cũng
muốn đích thân khiêng quan tài của phụ
vương đến nơi an nghỉ cuối cùng. Bổng
nhiên đại thiên thế giới chấn động,
bốn vị Thiên vương cùng lúc qùy xuống,
đồng thanh bạch Phật: Chúng tôi là đệ
tử Phật, nhờ nghe Phật thuyết pháp mà
đắc qủa Tu đà hoàn, vì thế nên để
cho chúng tôi khiêng quan tài của
Tôn vương. Phật hoan hỷ chấp nhận lời
thỉnh cầu của họ. Tức thì bốn vị
thiên vương biến thành hình người,
dùng tay nâng quan tài đặt lên vai mình.
Dân chúng cả nước, bất luận lớn
nhỏ, không ai là không tiếc thương than
khóc. Trong giờ phút long trọng ấy, Thế
Tôn uy quang rực sáng, tướng hảo đoan
nghiêm, tự mình bưng lư hương đi
trước, đến nơi hỏa táng. Bấý giờ
hàng nghìn vị A La Hán ở núi Linh Thưu
cũng tề tựu về đây để tham dự l-
tang. Lúc quan tài được đặt lên giàn
hỏa, Phật và đại chúng bắt đầu châm
lửa. Khi ngọn lửa cháy mạnh, nhiều
người đắc đạo thì xem đó như một
việc tốt lành. Còn những người chưa
đắc đạo thì bàng hoàng xúc động,
lông tóc dựng ngược, Phật nói với 4
chúng Thế gian vô thường, khổ không
vô ngã, tất cả đều như huyển hóa,
chẳng có gì kiên cố hết. Thân giả
tạm nầy như làn hơi bốc lên khi trời
nắng, như mặt trăng dưới nước,
mạng sống không thể tồn tại mãi mãi.
Các người chỉ biết nóng của ngọn
lửa thiêu nầy mà không biết rằng
ngọn lửa tham dục còn nóng hơn gấp
bội. Thế nên các ngươi cần phải nổ
lực, mong cầu thoát ly sinh tử, đạt
đến an lạc vĩnh viễn.
Bấy
giờ các vua dùng sữa rưới cho lửa
tắt, rồi nhặt lấy hài cốt đựng vào
những chiếc hộp vàng, chuẩn bị xây
tháp để cúng dường. Đại chúng khi
ấy đồng thanh thưa hỏi Phật: Đức vua
Tịnh Phạn giờ đã mệnh chung, chẳng hay
thần thức sinh về nơi nào kính xin Thế
Tôn chỉ bảo cho mọi người được
rỏ Đức Phật nói với đại
chúng: Phụ vương Ta là người giới
hạnh thanh tịnh, đạo đức trong sáng,
nên được sinh về cảnh giới Tịnh cư
thiên
Kỳ
thay! Sự chuyển biến của định luật vô
thường là thế đó! Những gì có hình
tướng đều không thoát khỏi tình trạng
hủy hoại .Thế nên, dù có bậc Thiên
tôn( Phật) hộ mệnh mà tính mệnh cũng
không thể kéo dàị Đặt tay mình lên
chỗ qủa tim mà không thể cứu sống. H-
báo thân hết thì vô thường vụt đến,
mạng sống sẽ kết thúc. Vì vậy các
bậc Thánh hiền xưa nay, chỉ chú trọng
việc tu tập để được qủa giải thoát
mà ít quan tâm đến cái thân phù du
bèo bọt nầy.
Mùa Vu Lan P.L 2538