TIẾNG KHÓC CHUNG
Hạnh Chi
Thưa Thầy,
Bốn câu thơ Thầy viết tự thuở nào mà bỗng
òa vỡ lòng con, trong một đêm tháng bẩy không trăng thế này?
“Sinh ở đâu, mà dạt bốn phương
Trăm con, cười nói tiếng trăm dòng
Ngày mai nếu trở về quê cũ
Hy vọng ta còn tiếng khóc chung!”(*)
Con tưởng như có thể nghe tiếng Thầy khóc
khi ngòi bút hằn xuống những nét mực nghẹn ngào này!
Đêm tháng bẩy không trăng. Đèn trong am
không bật. Con ngồi im lìm đã lâu trên bồ đoàn, trước tôn tượng Phật Di Đà
và bức họa Đức Quan Thế Âm lồng trong khung kính.
Con biết chắc quanh con đang rất tĩnh lặng,
vậy mà, thẳm sâu từ cõi nào, tiếng Thầy khóc cho Hồn Dân Tộc vọng tới, xô
dạt âm ba thủy triều của đại dương mênh mông! Mỗi câu thơ là từng tiếng
nấc, mỗi nét chữ là giọt lệ rơi!
May mắn cho con biết bao,
con đang được khóc cùng Thầy!
Thầy ơi,
Cha Lạc Long Quân và Mẹ Âu Cơ sinh con trăm
trứng, tưởng là năm mươi con theo Cha lên núi, năm mươi con theo Mẹ xuống
biển đã là quá tan tác phân ly! Ngờ đâu đàn con Rồng cháu Tiên đó, chẳng
những nay trôi “dạt bốn phương” mà “trăm con” còn “cười
nói tiếng trăm dòng” nữa, thì Hồn Dân Tộc biết còn lại là bao!
Đã hết đâu, giữa mưa xứ lạ, nắng xứ người,
tiếng cười tiếng nói nổi trôi theo không gian, thời gian mịt mù Đất Mẹ, có
“ngày mai” nào đủ duyên “trở về quê cũ” nữa không?
Thưa Thầy, con biết lòng Thầy quặn thắt khi
nét bút u uất viết lên giòng chữ này! Vâng, con biết Thầy đau đớn! Có thể
lệ Thầy đã rơi xuống tách trà sớm mai ấy khi viết câu “Ngày mai nếu trở
về quê cũ”.
Trở về thế nào mới là trở
về quê cũ? Chắc chắn, không phải chỉ là tấm thân tứ đại, tới một miền đất
như kẻ du lịch tò mò. Về như thế không phải là trở về, mà là đi, là đến.
Ta chỉ cảm thấy ta trở về đâu, khi nơi ấy có tiếng gọi thầm thì của sự
thân thương tiềm ẩn, của hồn thiêng sông núi, của ân nghĩa tổ tiên, của
những ký ức đã cho ta vào đời …
Thầy thường lặng thinh
trước tách trà, với những đến rồi đi. Thầy lặng thinh chờ đợi sự trở về
hiếm hoi. Đợi, mà thực chẳng đợi vì:
“Đường lịch sử bốn
nghìn năm dợn sóng
Để người đi không hẹn
bến bờ” (*)
Thế nên, dù trà đã nguội,
hương đã phai, Thầy vẫn điềm nhiên một mình nâng tách. Sớm mai có giọt
sương mỉm cười cùng Thầy, xế trưa có vệt nắng ghé thăm, giấc chiều có ngọn
gió hỏi han, rồi đêm xuống, ánh trăng chẳng quên tình tri kỷ, vào thư
phòng cùng Thầy thiền tọa an nhiên. Đợi, mà chẳng đợi là thế, khi:
“Khuya sớm sáng chong
Đèn bát Nhã
Hôm mai rửa sạch nước
Ma-Ha” (**)
Mỗi khi con ngu si, khởi
thắc mắc những điều chẳng đáng thắc mắc Thầy lại nhẹ nhàng nhắc con một
câu Đức Phật từng nói “Kẻ nào không thấy Pháp, kẻ ấy không thấy ta, dù
đang nắm viền áo Tăng Già Lê, theo ta từng bước. Kẻ nào thấy Pháp, kẻ ấy
thấy ta, dù đang cách xa ta vạn dặm.”
Đêm nay, con cảm nhận trọn
vẹn nghĩa ân sư khi con được khóc cùng Thầy. Con cũng biết, chẳng phải
riêng con, mà trong “Trăm con, cười nói tiếng trăm dòng” kia, chúng
con từng đủ duyên nhìn thấy nhau để được cùng khóc với Thầy, cùng chia sẻ
với nhau tấm lòng Thầy: “Hy vọng ta còn tiếng khóc chung”.
Hy vọng đó chẳng là có.
Tuyệt vọng kia cũng chẳng là không vì lịch sử không ngừng chảy theo dòng
Thành Hoại Trụ Diệt. Có thịnh nào không suy, có thể chế nào không tận, có
quyền uy nào không tàn, nên việc vun bồi trí tuệ cho thế hệ con em để
chuyển hóa những khổ đau hiện tại là thiện sự, là cần làm, đáng làm.
Thầy đã, và đang lặng lẽ
làm điều đó bằng chính bản thân và tim óc mình cho hàng hậu học.
Phàm phu đã, và đang vô
minh bóp méo để bôi bẩn điều đó với trục lợi huyễn hoặc vô thường.
Đêm tháng bẩy không trăng
chợt sáng lên trong con lời Đức Phật nói trong kinh Kokàliya:
“Cái gì trống thì cái
ấy kêu to
Cái gì đầy thì cái ấy
im lặng”
Thầy ơi! Nhờ ơn Thầy, con
đã biết mỉm cười trong tiếng khóc chung.
NAM MÔ VÔ BIÊN THÂN BỒ TÁT.
Hạnh Chi
(Cuối mùa Trăng tháng bẩy,
2009)
(*)TT Tuệ Sỹ
(**)Thiền sư Huyền
Quang, đời Trần
---o0o---
Vi tính: Quảng Tuệ An
Cập nhật: 01-08-2009