Thường Ðoạn Trong Giáo Lý Ðạo Phật
Phổ Nguyệt
X X
X
Dòng tâm thức nối tiếp từng sát na sanh diệt liên tục luôn trôi chảy
không ngừng, do đó tri giác không thế nào nắm bắt thực tại một cách toàn
diện được.
Tất cả sự vật được dung chứa trong không gian đều
có lực cản của chính nó và bị trọng lực thu hút và ảnh hưởng của sáu đại
khác, có thể gây thêm cho sự vật ấy di động với những tốc độ khác nhau
và có thể làm tổn hại đến chính nó và các sự vật khác. Trung Không Diệu
Hữu cũng có nghĩa là trong không gian chứa biết bao điều huyền diệu.
Trong không gian dung chứa tất cả mầm sanh diệt hay không gian đồng hóa
với mầm sanh diệt tức là không gian coi như là mầm sanh diệt, vô thường.
Đoạn kiến và thường kiến (Annihilation and Permanence), hay.tử
và bất tử (Death and immortality) là một thực tại hai mặt không bao giờ rời nhau. Thực tại không
bao giờ đi từ sự bất đông.
I.
Thường Ðoạn Trong Một Thực Tại Hai Mặt
Theo Trung Quán Luận,
thế giới hiện tượng nầy được coi là không thật mà cũng không giả, nhưng
nó là bất khả xác định và bất khả minh chứng trên phương diện luận lý.
Theo ngôn ngữ của ngài Long Thọ, tính cách bất xác định nầy của thế giới
hiện tượng được gọi là đặc tánh duyên khởi của chư pháp hoặc là không
tánh của chư pháp.
Ở đây, chúng ta thực sự đối diện với một nghịch lý hiễn nhiên và rất lý
thú. Mỗi hiện tượng đều là bất xác định về luận lý; chúng ta không thể
nói nó hiện hữu và không thể nói nó không hiện hữu, hoặc vừa hiện hữu
vừa không hiện hữu. Khi các trường hợp nầy đều bị phủ định thì hiện
tượng trở thành bất xác định, tức là trống không, nghĩa là không có bất
cứ giá trị tuyệt đối nào. Vật tối hậu đó cũng là bất xác định và cũng
không thể mô tả. Thật ra, cái tối hậu chính là không- tánh của mọi vật,
mọi hiện tượng. Ði theo lối phân tích nầy, chúng ta sẽ hiểu rõ nghĩa hơn
về ý nghĩa thâm sâu trong câu kệ sau đây của Ngài Long Thọ :
Thế gian không có gì khác Niết Bàn,
Và Niết Bàn không có gì khác với thế gian.
Giữa thái cực của Niết Bàn và thái cực của thế gian, không có một chút
khác nhau nào cả.Tuyệt đối hay Niết bàn (thường kiến), và hiện tượng
(đoạn kiến, hay vô thường) không khác nhau. Khi đứng trên điều kiện
duyên khởi và lập trường đa nguyên tánh để xét thế gian nầy, bảo rằng nó
có tính cách hiện tượng hay thế tục. Nhưng khi chúng ta không qui chiếu
vào duyên khởi và đa nguyên tánh để xét thế gian thì nó được coi là Niết
Bàn, là cái tối hậu. Cho nên, chúng ta thấy, thật ra việc chỉ trích phái
Trung Quán về chuyện họ phân chia chân lý thành hai giai tầng là điều
không công bằng. Hiện tượng chính là hình thức che dấu của tối hậu,
nhưng nó không khác gì tối hậu. Vì vậy cần phải nhấn mạnh rằng thuyết
không- tánh không bao hàm sự phủ nhận thế giới hiện tượng, mà chỉ bao
hàm thái độ vô chấp đối với những hiện tượng, và không chấp nhận bất cứ
lý thuyết nào nói rằng thế giới hiện tượng là thực một cách tối hậu
(Thực Tại và Chí Ðạo, trang 66, 67).
*Tàng Thức và Tự Tính Tùy Thuộc (Paratantra): Theo Asanga tri nhận thực tại được đặt
trên kiến thức về tự tính tùy thuộc hay duyên khởi. Tự tính giả lập
(parikalpita) chỉ thể cách tri giác trong ấy tự tính tùy thuộc được thực
hóa, trong khi tự tính tuyệt đối (parinispanna) chỉ ý thức giác ngộ nhìn
tự tính tùy thuộc một cách trung thực như là hiển lộ phi thực tính của
chủ thể và đối tượng. Do đó, trong Duy Thức tùy thuộc được giải thích là
không phải là hiện hữu mà cũng không phải là không hiện hữu. Theo
Asanga, tự tính tùy thuộc là thực tại thuần túy để chúng ta tri nhận,
trong khi tự tính giả lập và tự tính tuyệt đối tượng trưng cho hai thể
cách tri nhận thực tại nầy. Tóm lại, tự tính tùy thuộc chỉ duyên khởi
trong phương diện thực tại/tri thức của nó, trong khi tàng thức tượng
trưng cho nền tảng hiện thực và cơ cấu tác động của duyên khởi. Sự liên
hệ giữa tự tính tùy thuộc và tàng thức thì hết sức là then chốt trong
vai trò mà tàng thức đóng trong giải thoát luận của Asanga.(Thực Tại và
Chí Ðạo, trang 97, 98)
II.
Trong Ðoạn Có Thường
Trong Chuyện Cổ Phật Giáo, « Chuyện Nàng Bhadda », trích lời đối
thoại giữa Xá Lợi Phất và nàng Bhadda về Thường Ðoạn như
sau :
…Cho bần đạo hỏi một câu, với một câu thôi nàng sẽ tự giải quyết cho
chính mình. Câu hỏi như thế nầy: Cáng của ngọn đèn trước mắt nó
thường hay nó đoạn.
-- Chẳng phải thường -- Nàng nghĩ -- Thường sao được khi nó sinh diệt
từng giây từng phút. Chẳng phải đoạn, đoạn sao được khi nó đang hiện
hữu!
Thấy nàng Bhađda im lặng, tôn giả Xá Lợi Phất tung câu hỏi thứ hai :
-- Này nàng Bhađda! đây là câu hỏi thứ hai nhằm gợi ý cho nàng để nàng
bước ra khỏi cái lẩn quẩn, loanh quanh của các luận lý Thường, đoạn, có,
không. Ðây là câu hỏi: Thuở nàng 5 tuổi, nàng thấy một bông hoa. Thuở 30
tuổi nàng thấy một bông hoa. Nàng có thay đổi cái hoa dẫu có khác, quan
niệm đẹp xấu dẫu có khác, nhưng cái thấy của nàng có thay đổi không?
-- Không thể thay đổi, thưa tôn giả.
- Nó chẳng phải là thường không?
-- Bất khả thuyết -- Nàng Bhađda buộc miệng trả lời như vậy rối tự nghĩ:
Ta đã tự trói mình, vậy thì hãy vùng vẫy khi còn vùng vẫy được. Gã Sa
Môn nầy đã bủa vây ta bằng một chiếc lưới quá kiên cố và quá chặt chẻ.
..(Thực Tại và Chí Ðạo, trang 122, 123)
III.
Thường Ðoạn Là Dòng Lưu Chuyển Sanh Diệt
TÁNH KHÔNG & DUYÊN KHỞI HAY THỰC TẠI GIẢ LẬP
1).Duyên Khởi Từ Vật Chất
Hiện tượng vô thường của sự vật hiện hữu do nhân duyên kết
hợp, do đó chúng không có lúc nào tự mình độc lập tồn tại. Rõ ràng chúng
có sanh ra thì có lúc phải hủy diệt vì lẽ có sự trao đổi vật chất và
năng lượng với môi trường chung quanh. Trong vật lý học, việc bảo tồn
năng lượng cho biết năng lượng không sanh ra và không biến đi mà chỉ có
thể thay đổi. Khi sự giao lưu năng lượng và vật chất của mỗi hữu thể với
bên ngoài, hữu thể đó tạm thời ổn định cân bằng vì phải tiêu tán năng
lượng và vật chất, nên thay cũ đổi mới để tồn tại. Sự trao đổi vật chất
và năng lượng của hữu thể trong không gian là lịch trình sanh trụ hoại
diệt. Sự giao lưu vật chất và năng lượng của xác thân con người với bên
ngoài được tạm thời hiện hữu là lịch trình sanh lão bịnh tử. Sự vật hiện
hữu do duyên họp, khi duyên tan thì hoại không, theo lý Duyên Khởi của
Ngài Long thọ. Còn sự vật tạm thời hiện hữu gọi là Thực Tại Giả Lập theo
Duy Thức Học của Ngài Vô Trước.
2).Duyên Khởi Từ Vật Chất Đến Phi Vật Chất
Sự giao lưu năng lượng và vật chất với bên ngoài nên bản
thân sự vật không những lệ thuộc vào nhân duyên nội tại mà phải bị ảnh
hưởng nhiều bởi môi trường ngoại giới. Như ảnh hưởng vật chất (thức ăn)
đến sinh lý con người, mà sinh lý ảnh hưởng đến tư tưởng tình cảm và
hành động. Hệ thống cân bằng sinh lý của con người được tạm thời ổn định
là lịch trình tiêu tán của trạng thái đau khổ và khoái lạc. Lý Duyên
Khởi được nhận thức sâu sắc qua Tứ Đế:Tập (nhân) Khổ (quả), Đạo (nhân)
Diệt (quả), và Thập Nhị Nhân duyên. Ngay Lục Căn trong Sắc Thân của Ngũ
uẩn cũng cần được phân tích theo Tâm lý học để làm sáng tỏ lý Duyên
Khởi, là Thực Tại giả lập, là Tánh Không hay là sự vật đều không có Tự
Tánh.
IV.
Cái Thường Thật Có Trong Cái Ðoạn
Riêng Ðại Thừa Khởi
Tín thì chỉ rỏ 2 mặt của chân như: bản chất không (chơn không)
của mọi hiện tượng mà vẫn có sự tồn tại của các pháp (diệu hữu),
nghĩa là Đại thừa chỉ dương thống hợp cả hai quan niệm đó mà chủ trương
Chân không tức Diệu hữu. Đó là chỗ lập cước căn bản của Đại thừa. Dĩ
nhiên, về triết học Đại thừa, cũng có người chỉ thiên về phương diện
Chân Không mà lập thành thế giới quan nhưng cũng có người phản đối chủ
trương ấy mà nghiêng về phương diện Diệu Hữu để khảo sát các hiện
tượng.Tuy có những chủ trương tương phản đó, nhưng bất luận chủ trương
nào cũng đều thừa nhận rằng: Chân Không không ngoài Diệu Hữu và ngược
lại. Nghĩa là khi đã đạt đến tuyệt đối thì Chân Không là Diệu Hữu, Diệu
Hữu tức Chân Không. Đó là điểm cộng thông của tất cả các Bộ phái Đại
thừa.
V.
Thực Tại Ðiểm (Thường) Thật Có Trong Cái Ðang Là (VôThường)
Trong Kinh Nhất Dạ Hiền Giả, đức Phật dạy rất rõ, vì cái
thường kiến lưu chuyển theo thời gian (tam thời bất khả đắc), nên muốn
nắm bắt cái đoạn kiến (thực tại), thì tuệ quán ngay cái không động
không rung chuyển, như đoạn kinh trích sau đây:
“Quá
khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến,
Chỉ có pháp hiện tại
Tuệ quán chính ở đây.
Không động không rung chuyển
Biết vậy nên tu tập,..”
Thời gian huyễn hóa. Quá khứ đã qua và đã đoạn tận, tri giác không thể
nhận diện., nên không truy tìm. Tương lai chưa đến, đối tượng không có
mặt làm sao cảm nhận được, nên không ước vọng trong tương lai. Hiện tại
là thời gian đang trôi chảy nối tiếp những điểm li ti sát na sanh diệt,
là cái Đang Là, không nắm bắt được. Tam thời bất khả đắc, nên Phật dạy,
quá khứ không truy tìm, tương lai không ước vọng, và không bị lôi cuốn
trong các pháp hiện tại. Nhưng chỉ có pháp hiện tại, thì Tuệ Quán mới có
thể nắm bắt đựợc. Tuệ quán được hiển lộ thực sự trong chuyển động của
pháp hiện tại (trong động tác đang là). Trong động tác đang là cuả pháp
hiện tại nối tiếp những điểm sát na sanh diệt. Nhận thức ngay thực tại
điểm của tri giác nguyên sơ và liền xa lìa nhận thức đó. Tri giác nguyên
sơ là chơn thức vừa cảm nhận (vừa sanh) là vừa nhận biết thì chơn thức
ấy (giác thức nguyên sơ) biến thành Giác Trí, nên gọi là Chơn thức sanh
mà vô sanh vì điểm sát na sanh mà không bị diệt, do mủi tên Tuệ quán
nhắm trúng và đã chuyển thức thành trí rồi. Cho nên Phật dạy, Tuệ Quán ở
nơi pháp hiện tại, không động không rung chuyển. Tuệ quán là tri nhận
một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ)
là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri
giác. Thực tại điểm nầy thì không động, không rung chuyển vì một điểm có
thật một cách toàn diện không thêm không bớt, chính nó là nó ở đó và lúc
đó (vô thời không). Vậy tri nhận thực tại điểm của giác thức nguyên sơ,
chúng ta có tri thức nguyên thủy của chân trí. Thí dụ, khi gặp con bò
đang đi, ta nhận diện hình ảnh con bò đầu tiên khi thấy nó (cảm giác:
first sensation), nhận biết (perceive) tên con bò là nhản thức nguyên sơ
(first visual consciousness, hay chơn thức: pure perception; gọi chung
là tâm thức nguyên sơ); tri nhận nhản thức đó là ta có tri thức nguyên
thủy (pure cognition) cuả chân trí (True mind without time). Nói khác đi,
khi ta thấy (niệm đầu) con bò (perception), ta biết có tánh thấy
(cognize the pure perception). Vì không có thời gian kéo dài cái tri
thức nguyên thủy đó nữa nên niệm đầu (thực tại điểm) của dòng tâm thức
đang lăn trôi (cái đang là), nên không có trí và thức liên hợp, tư tưởng,
hay khái niệm gì về con bò cả). Đó mới thật sự Giác Ngộ mọi sai lầm của
Tri Giác và Giải Thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay nói cách khác là vượt
khỏi dòng sanh diệt hay thường đoạn
của thế gian.
VI.
Kết Luận
Thường đoạn đang lưu chuyển từng sát-na sanh diệt theo thời
gian, nên chúng ta nhận thức thực tại một cách sai lầm. Muốn tri thức
đúng cái nhận thức sai lầm nầy, chúng ta cần phân biệt rõ rằng thế giới
hiện tượng nầy và bản chất của nó không khác. Chẳng hạn, Chơn Không
Diệu Hữu là không tướng (bản chất) các pháp (hiện tượng) cũng là sự
“ Sinh diệt của Tâm là do Như lai tạng mà có
tâm sinh diệt. Tâm sinh diệt ấy hóa hợp bất diệt và sinh diệt một cách
không phải đồng nhất cũng không phải biệt lập, và gọi là a lại da thức.
A lại da thức có hai mặt, bao gồm và phát sinh tất cả các pháp; hai mặt
ấy là tuệ giác và bất giác. “Bản chất và hiện tượng tuy hai mà một. Cái
bất biến thường hằng thật có trong cái lưu chuyển vô thường. Nói cho
cùng Chân như của Tâm là pháp tánh đồng nhất, cơ sở của tiết mục giáo
pháp Phật dạy về khái niệm vĩ đại và tổng quát, Pháp tánh ấy là tâm thể
phi sinh diệt. Hết thảy các pháp chỉ do phân biệt mà có sai biệt, tách
rời phân biệt thì đối tượng cũng không có. Do vậy mà biết các pháp xưa
nay phi ngôn ngữ, phi văn tự, phi nhận thức, tuyệt đối nhất quán, không
hề chuyển biến, không thể phá hủy, toàn là tâm thể đồng nhất nên mệnh
danh chân như. Mọi ngôn ngữ đều không thực chất, chỉ tùy phân biệt chứ
không có gì có thể thủ đắc. Gọi là chân như thì cũng không phải là một
đối tượng, mà là ngôn ngữ tột đỉnh, do ngôn ngữ ấy mà hủy bỏ ngôn ngữ.
Nhưng chân như thì phi hủy bỏ, vì các pháp toàn là chân, lại phi xây
dựng, vì các pháp toàn là như. Phải hiểu các pháp phi diễn tả, phi phân
biệt, đó là chân như.”
Tham khảo
Ðại Thừa Thuyết Luận. Phổ Nguyệt. Trích trong Tang Thư Phật Học.
http://www.tangthuphathoc,net.
Kinh Nhất dạ hiền giả. HT. Thích Minh Châu Việt dịch.
Trích trong website Quảng Ðức:
http://www,quangduc.com
Nhất Nguyên Luận. Phổ Nguyệt. Trích trong Tạng Th ư Phật Học:
Thực Tại và Chí Ðạo. Phổ Nguyệt, 2002, in tại Ðường Sáng Printing San
Jose CA và đăng trong website Tạng Thư Phật Học.
(cùng một tác giả)
---o0o---
Trình bày: Tịnh Tuệ
Cập nhật: 25-7-2011