Trang tiếng Việt

 Trang Nhà Quảng Đức

Trang tiếng Anh

Phật Học Cơ Bản


 

 

 

TRIẾT HỌC CÓ VÀ KHÔNG CỦA PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

Thích Hạnh Bình

 

Mục Lục

◎ Lời nói đầu

I. GIÁO LÝ DUYÊN KHỞI

1. Nội dung và ý nghĩa giáo lý Duyên khởi

1.1 Duyên khởi là pháp được đức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đề

1.2 Ý nghĩa pháp Duyên khởi.

1.3 Duyên khởi là chân lý của thế gian.

1.4 Ai thấy pháp Duyên khởi người ấy thấy Phật

1.5 1.5 Duyên khởi là đạo lý phản bác tư tưởng sáng tạo của Phạm Thiên.

2. Nội dung và ý nghĩa giáo lý 12 Nhân duyên.....

3. Kết luận

II. GIÁO LÝ TRUNG ĐẠO.

1. Không rơi vào hai cực đoan: dục lạc và khổ hạnh là trung đạo

2. Không chấp hai cực đoan: có và không là Trung đạo.

3. Đệ nhất nghĩa không là Trung đạo.

4. Duyên khởi là Trung đạo

5. Lìa nhị biên là Trung đạo

6. Kết luận

III. Ý NGHĨA CHỮ KHÔNG TRONG PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

1. Không chỉ cho trạng thái tâm của người xuất gia không còn phiền lụy về cuộc sống gia đình

2. Không chỉ cho các pháp vốn là sự giả hợp

3. ‘Đệ nhất nghĩa không’ là cơ sở để phát triển thành tư tưởng ‘Không’ của Phật giáo Đại thừa

4. Kết luận

IV. TƯ TƯỞNG HỮU CỦA PHÁI HỮU BỘ

1. Dẫn luận

2. Tư liệu.

3. Tư tưởng.

3.1 Tam thế hữu

3.2 Bản thể của các pháp là thật có.

4. Kết luận

V. TƯ TƯỞNG KHÔNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA

1. Dẫn luận.

2. Khái quát về bối cảnh lịch sử trước khi tư tưởng không xuất hiện..

3. Tư tưởng không trong hệ Bát Nhã

3.1. Tư liệu.

3.2. Tư tưởng

3.2a Tư tưởng tất cả pháp đều không trong Bát Nhã

3.2b Tư tưởng Duyên khởi tánh không của Long Thọ

4. Kết luận

VI. PHỤ LỤC. Mối quan hệ giữa hai hệ thống triết học Có và Không trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ

 

 

LỜI NÓI ĐẦU

Tác phẩm “Triết học có và không của Phật giáo ở Ấn Độ” mà độc giả đang cầm trên tay là tác phẩm gồm nhiều bài viết ngắn, được viết trong thời gian tác giả còn đang du học tại Đài Loan (Taiwan), với nội dung chủ yếu phân tích giải thích tư tưởng (bhŒva) và không (Sènyatˆ) là hai hệ thống tư tưởng lớn của Phật giáo ở Ấn Độ, đặc biệt thuyết minh về mối quan hệ thiết thân giữa hai học thuyết này. Để vấn đề được trình bày rõ ràng tác giả đã thêm vào một số bài nghiên cứu giáo lý liên quan đến hai hệ tư tưởng này như Giáo lý Duyên khởi, Trung đạo, 12 nhân duyên và 6 nhân 4 duyên.

Thông thường chúng ta biết, ‘có’ là hệ tư tưởng của phái Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (SarvŒstivŒdin) thuộc thời kỳ Phật giáo Bộ phái, và ‘không’ là hệ tư tưởng của Phật giáo Đại thừa.  Như chúng ta biết, thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, chủ trương không thảo luận những vấn đề mang tính siêu hình như thế giới là thường hay vô thường, hữu biên hay vô biên, thân và mạng là một hay khác, Như Lai sau khi nhập Niết bàn còn hay mất… Những vấn đề này không được đức Phật trả lời, đó chính là nguyên nhân dẫn đến thời kỳ Phật giáo bộ phái. Đầu tiên phái Độc Tử bộ (VŒts´putr´ya) công khai chủ trương ‘Ngã pháp hằng hữu’ (Pudgala), cho rằng xác thân và linh hồn không bị mất. Chủ trương này không được phái Hóa Địa bộ (Mahi§Œsaka) đồng tình nên chủ trương ‘Quá khứ và vị lai là không thật, chỉ có hiện tại vô vi là thật có’. Hữu bộ (Saravastivada) không đồng tình cả hai phái này, phủ nhận hai học thuyết trên và đưa ra quan điểm: ‘Ba thời gian là quá khứ hiện tại và vị lai là có thật, đồng thời bản chất của các pháp là không bị mất đi, vĩnh viễn tồn tại’ hay nói cách khác, phái này cho rằng, thời gian và không gian là có thật. Tuy nhiên, quan điểm tư tưởng này, dù gì đi nữa, trong ấy ẩn tàng ý nghĩa mâu thuẫn với giáo lý Duyên khởi vô thường vô ngã của đức Phật. Do vậy, đây chính là động cơ để hình thành hệ tư tưởng ‘không’ của Phật giáo Đại thừa.

Không (sènyatˆ) mà Phật giáo Đại thừa đề cập, nó không đồng nghĩa là hư không, trống không, không có gì cả, nó cũng không mang ý nghĩa ‘nếu vô tâm đối với vạn vật thì vạn vật cũng không’ như người Trung Quốc đã lý giải tư tưởng không của Phật giáo Đại thừa, mà chữ ‘không’ này mang ý nghĩa: Sự tồn tại của mọi vật như dòng chảy, không đứng yên, không có tướng nhất định. Trạng thái đó không thể gọi là ‘có’ cũng không thể gọi là ‘không’; có nhưng cái có đó mang tính huyễn hóa, cho nên Bồ tát Long Thọ (NŒgŒrjuna) gọi là giả danh (praj�Œpti); không nhưng không phải là không có, cho nên gọi là ‘không tánh’ (S. §ènyatŒ, P. su��atˆ). Đây chính là ý nghĩa chữ ‘không’ trong Phật giáo Đại thừa.

Những tác phẩm nghiên cứu về chủ đề này, viết bằng ngoại ngữ thì có khá nhiều, nhưng viết bằng tiếng Việt có  rất ít, nhất là tác phẩm chuyên đề nghiên cứu về phái Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ thì lại càng giới hạn, hay nói đúng hơn là không có. Đây cũng chính là động lực để tác phẩm này đến độc giả, nó chỉ mang tính gợi ý, tạo sự kích thích cho sự nghiệp nghiên cứu Phật học được chú ý, nhất là Phật giáo Bộ phái.

    Điểm đặc thù trong tác phẩm này là tác giả rất chú trọng đến văn bản học, khi trình bày vấn đề gì đều có dẫn chứng và chú thích rõ ràng, đồng thời dùng phương pháp sử học để phân tích mối quan hệ trước sau, theo quá trình phát triển của Phật giáo Ấn Độ, và vay mượn phương pháp ngôn ngữ học để đối chiếu so sánh và lý giải những vấn đề dị biệt giữa nguyên bản và dịch bản khi xuất hiện nghi vấn.

    Sự ra đời tác phẩm này, nhằm giúp cho người nghiên cứu Phật học có thêm nguồn tư liệu và ý kiến, để độc giả rộng đường suy tư và tìm hiểu giá trị của lịch sử.

 

Đài Bắc ngày 14 tháng 12 năm 2007

THÍCH HẠNH BÌNH

 

----o0o---

 

Mục Lục > Chương 1  > Chương 2  > Chương 3  > Chương 4  > Chương 5  > Phụ Lục

 

----o0o---

Nguồn: Tuệ Chủng

Trình bày: Nhị Tường

Cập nhật: 04-2009


Webmaster:quangduc@quangduc.com

Trở về Trang Mục Lục

Đầu trang

 

Biên tập nội dung: Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng
Xin gởi bài mới và ý kiến đóng góp cho Trang Nhà qua địa chỉ: quangduc@tpg.com.au
Địa chỉ gởi thư: Tu Viện Quảng Đức, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic. 3060. Tel: 61. 03. 9357 3544