50 ngôi vị của Bồ tát
HT Thích Thắng Hoan dịch
QUÁ
TRÌNH TU TẬP CỦA BỒ TÁT:
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50
ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là
ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát. Theo Kinh Bồ Tát Anh Lạc Bổn Nghiệp, 50 Ngôi
vị tu tập của Bồ Tát gồm có: Thập Tín Vị, Thập Trụ Vị, Thập Hạnh Vị,
Thập Hồi Hướng Vị và Thập Địa Vị.
I.-
THẬP TÍN VỊ:
THẬP TÍN VỊ cũng gọi là Thập Tín
Tâm, nghĩa là mười đức tin để tu tập của một vị Bồ Tát mà trong đó Tín
Tâm đứng đầu. Đây là mười ngôi vị ban đầu vào cửa của bậc Tam Hiền. Theo
Kinh Bồ Tát Anh Lạc Bổn Nghiệp quyển thượng, Thập Tín Vị gồm có:
1.- TÍN TÂM: nghĩa là nhất tâm
quyết định và an vui trong sự tu tập để mong đạt được thành công mà mình
đã đặt hết niềm tin vào đó. Đây là đức tin vững chắc của người tu tập.
Một vị Bồ Tát đối với Phật Pháp trước hết phải xây dựng đức tin vững
chắc, không bao giớ thối tâm lùi bước trước bất cứ một trở lực khó khăn
nào lay chuyển và vẫn an vui tự tại trong sự tu tập một khi gặp phải
những trở ngại đưa đến. Muốn được thành công ở ngôi vị này. Bồ Tát trong
khi tu tập phải diệt cho hết các vọng tưởng của thế gian.
2.- NIỆM TÂM: nghĩa là Bồ Tát
phải thường tu tập về sáu niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm
Giới, niệm Bố Thí và niệm các cõi Trời, tức là thường niệm Lục Độ Vạn
Hạnh của chư Phật không cho xao lãng.
3.- TỊNH TẤN TÂM: nghĩa là Bồ
Tát khi nghe Bồ Tát Tạng phải luôn luôn chuyên cần tinh tấn tu tập các
Thiện nghiệp không cho gián đoạn. Bồ Tát Tạng (Bodistsattva-Pitaka) là
chỉ cho những Kinh Điển Đại Thừa đề giải thích công hạnh tu nhân và
chứng quả của các vị Bồ Tát. Bồ Tát Tạng gồm có các Kinh Điển như là:
Kinh Pháp Hoa, Kinh Hoa Nghiêm v.v... đều là những pháp môn tu học của
Bồ Tát Tạng.
4.- ĐỊNH TÂM: nghĩa là Bồ Tát
phải thường buộc Tâm của mình an trụ nơi sự tướng và nghĩa lý của Phật
Pháp một cách tự tại. Trong lúc tu tập Định Tâm, Bồ Tát phải xa lìa hẳn
ý tưởng phân biệt về tất cả pháp giả dối và thô tục của thế gian.
5.- HUỆ TÂM: nghĩa là Bồ Tát khi
nghe Bồ Tát Tạng phải nên quán sát, xét đoán và cân nhắc một cách kỹ
lưỡng về nghĩa lý của vạn pháp để nhận được tự tánh của muôn pháp đều là
thật không và tĩnh lặng. Tự Tánh của vạn pháp thì không có vấn đề Ngã và
Nhân, nên gọi là Vô Ngã và Vô Nhân.
6.- GIỚI TÂM: nghĩa là một vị Bồ
Tát khi thọ giới luật thanh tịnh của Bồ Tát thì phải giữ gìn Thân Miệng,
và Ý cho được thanh tịnh, giữ gìn không cho vi phạm bất cứ những lỗi lầm
nào. Bồ Tát nếu như có phạm lỗi thì phải sám hối để cho tội lỗi sớm được
tiêu trừ.
7.- HỒI HƯỚNG TÂM: là phương
pháp tu tập các thiện căn. Hồi Hướng Tâm nghĩa là Bồ Tát chỉ đem tậm
nguyện hướng về nơi quả Bồ Đề làm cứu cánh mà không nguyện hướng về nơi
các cõi trong Tam Giới và chỉ đem tâm nguyện hướng về sự bố thí để cứu
khổ cho tất cả chúng sanh làm hạnh vị tha mà không mong cầu lợi ích cho
mình. Hơn nữa Bồ Tát còn quyết chí đem tâm nguyện hướng về nơi cõi chân
thật làm mục đích mà không đắm trước nơi danh tướng giả tạo trong thế
gian.
8.- HỘ PHÁP TÂM: nghĩa là đề
phòng và bảo hộ bản tâm của mình mà không cho nó phát khởi phiền não. Bồ
Tát muốn bảo hộ bản Tâm của mình thì phải tu tập Mặc Hộ (giữ gìn sự tĩnh
lặng), phải tu tập Niệm Hộ (giữ gìn chánh niệm), phải tu tập Trí Hộ,
(bảo hộ Trí Tuệ), phải tu tập Tức Tâm Hộ (giữ gìn tâm niệm đã dứt các
phiền não) và cũng phải giữ gìn năm pháp Hộ Hành khác. Năm pháp Hộ Hành
khác cũng gọi là năm Chủng Hạnh. Năm Chủng Hạnh là: Thọ Trì, Đọc, Tụng,
Giải Thuyết (Giải thích và thuyết pháp Kinh Luận) và Thơ Tả (Viết sách).
Năm thứ này cũng phải giữ gìn thường xuyên.
9.- XẢ TÂM: nghĩa là Bồ Tát phải
xả bỏ tâm niệm yêu tiếc sanh mạng và tài sản của mình. Bồ Tát nếu như đã
được tài sản và thân mạng thì có thể xả bỏ một khi cần đến mà không có
khởi tâm luyến tiếc hoặc hối tiếc.
10.- NGUYỆN TÂM: nghĩa là Bồ Tát phải đem tâm phát
nguyện luôn luôn tu tập các pháp môn thanh tịnh của chư Phật đã dạy sớm
được chứng đắc. Đồng thời Bồ Tát phải có bổn phận khiến cho các pháp môn
của chư Phật càng thêm được sáng tỏ và càng thêm được phổ biến khắp mọi
từng lớp chúng sanh.
II.- THẬP TRỤ VỊ:
THẬP TRỤ VỊ cũng gọi là Thập Địa
Trụ hay Thập Pháp Trụ hoặc gọi là Thập Giải. Xuyên qua quá trình tu tập
của Bồ Tát, Thập Trụ Vị đây là một trong 50 ngôi vị hành trì. Thập Trụ
Vị là chỉ từ ngôi vị thứ 11 cho đến ngôi vị thứ 20. Sau khi trang bị
xong chất liệu Thập Tín Vị để tu tập. Hành Giả bắt đầu khởi điểm Thập
Trụ Vị để tiến hành. Thập Trụ Vị gồm có:
1.- SƠ PHÁT TÂM: cũng gọi là
Phát Ý Trụ. Sơ Phát Tâm Trụ nghĩa là an trụ vào nơi Sơ Phát Tâm làm căn
bản tu tập, tức là y cứ vào khởi điểm của sự Phát Tâm để tu tập. Phát Ý
Trụ nghĩa là an trụ vào chỗ phát khởi Tâm Ý làm mục đích. Để an trụ căn
bản vào nơi Sơ Phát Tâm, Bồ Tát trước hết phải tiến tu các phần Thiện
căn và đồng thời sử dụng các phương tiện chân thật để phát khởi Tâm niệm
của Thập Trụ. Kế đến, Bồ Tát đem Tín Tâm đó phụng sự Tam Bảo, thường căn
cứ vào 84,000 Bát Nhã Ba La Mật Đa để tu tập tất cả hạnh lành của tất cả
Pháp Môn. Ngoài ra, Bồ Tát còn phải thường xuyên phát khởi Tín Tâm để
không tạo nên những Tà Kiến, không phạm bởi những Thập Ác (1), Ngũ
Nghịch (2), Bát Đảo (3) và không cho sanh vào nơi tai nạn. Hơn nữa
Bồ Tát thường nên nghiên cứu Phật Pháp để được học rộng biết nhiều và
cũng thường nên cần cầu nhiều phương tiện hành trang để sớm được vào cõi
Không, để được an trụ vào nơi tánh Không. Đồng thời Bồ Tát còn sử dụng
Tâm Trí của lý Không đã đạt được đó ra công tu tập Pháp Môn của Cổ Phật
và khiến cho tất cả công đức đều được phát sanh từ nơi Tâm Trí nói trên.
Đây là công hạnh của Sơ Phát Tâm Trụ.
2.- TRÌ ĐỊA TRỤ: cũng gọi là Trị
Địa Trụ. Trị Địa Trụ nghĩa là an trụ vào nơi sự sửa trị, còn Trì Địa Trụ
nghĩa là an trụ vào nơi sự hành trì. Để an trụ vào nơi Trì Địa, Bồ Tát
nương theo cái Tâm Không đã đạt được để thanh tịnh 84,000 Pháp Môn. Tâm
Thanh Tịnh sáng suốt đó cũng giống như Ngọc lưu ly hiện ra vàng rồng. Do
bởi Diệu Tâm phát khởi, Bồ Tát mới tiêu trừ được những tội lỗi nghiệp
chướng nên gọi là Trì Địa Trụ.
3.- TU HÀNH TRỤ: cũng gọi là Ứng
Hành Trụ. Tu Hành Trụ nghĩa là an trụ vào nơi sự hành trì tu tập. Ứng
Hành Trụ nghĩa là an trụ vào nơi sự du hành để khất thực (Ứng cúng). Bồ
Tát đã đầy đủ Trí Tuệ thông minh sáng suốt của Sơ Pháp Tâm Trụ và Trì
Địa Trụ thì có thể du hành khắp mười phương không bị chướng ngại. Đây là
chỉ cho sự thành quả tu tập của Tu Hành Trụ.
4.- SANH QUÍ TRỤ: Sanh Quí Trụ
nghĩa là Bồ Tát nhờ Diệu hạnh của Tu Hành Trụ ở trước nên kết hợp được
Diệu Lý nơi chốn U Minh (Thế Giới Nội Tâm), tức là Bồ Tát sẽ thực thụ
sanh vào nơi Diệu Lý đó và sẽ được làm Pháp Vương Tử con của nhà Phật.
Diệu Hạnh đối với tánh Phật thì không khác nhau và sẽ thọ nhận một phần
khí chất của tánh Phật để làm trợ duyên cho sự sanh khởi. Trường hợp này
cũng giống như Thân Trung Ấm của một chúng sanh tự cầu nơi cha mẹ và sẽ
nhập vào hạt giống của đức Như Lai để làm nhân duyên cho sự chuyển sang
kiếp sau được sanh trong nhà Như Lai. Nguyên do nơi cõi U Minh (Thế Giới
Nội Tâm), Diệu hạnh của Bồ Tát đã có đức tin vững chắc thì nhất định sẽ
được dung thông và cũng sẽ được hội nhập để kết thành nhân duyên cho
kiếp sau. Đây là ý nghĩa của Sanh Quí Trụ.
5.- PHƯƠNG TIỆN CỤ TÚC TRỤ: cũng
gọi là Trụ Thành Trụ. Phương Tiện Cụ Túc Trụ nghĩa là an trụ vào các
phương tiện đầy đủ, tức là Bồ Tát đã trang bị đầy đủ các phương tiện. Tu
Thành Trụ nghĩa là an trụ vào sự kết quả của hạnh tu tập. Bồ Tát đã
trang bị đầy đủ các phương tiện tu tập, nghĩa là Bồ Tát đã tu tập đầy đủ
vô lượng thiện căn và sử dụng các Thiện Căn đó để làm lợi ích cho mình
cũng như lợi ích cho mọi người. Nhờ tu tập vô lượng Thiện Căn, Bồ Tát
đạt đến kết quả là thành tựu được Thân Tướng của mình trở nên tròn đầy
tốt đẹp và dung mạo của mình lộ nét đoan trang thanh thoát. Đây là chỉ
sự thành quả của Phương Tiện Cụ Túc Trụ.
6.- CHÁNH TÂM TRỤ: cũng gọi là
Hành Đăng Trụ. Chánh Tâm Trụ nghĩa là an trụ vào Tâm Chân Chánh. Hằng
Đăng Trụ nghĩa là an trụ vào sự đi lên. Bồ Tát an trụ vào Chánh Tâm tức
là đã thành tựu được Bát Nhã thứ sáu. Bát Nhã thứ sáu là chỉ cho Trí Tuệ
Diệu Quan Sát. Sau khi thành tựu được Bát Nhã thứ sáu, Bồ Tát không
những chỉ được kết quả là tướng mạo của mình trở nên tốt đẹp tròn đầy
trong sáng và còn kết quả hơn nữa là Bản Tâm của Bồ Tát cùng với Phật
Tâm đều giống nhau như một. Đây là chỉ cho sự thành quả của Chánh Tâm
Trụ.
7.- BẤT THỐI TRỤ: cũng gọi là
Bất Thối Chuyển Trụ. Bất Thối Trụ hay Bất Thối Chuyển Trụ đều nghĩa là
an trụ vào ngôi vị này thì tâm không còn bị thối chuyển nữa. Bồ Tát an
trụ vào ngôi vị Bất Thối tức là đã thể nhập được nơi cứu cánh của Không
Giới Vô Sanh. Cứu Cánh của Không Giới Vô Sanh nghĩa là thế giới Không
Tướng của Chân Như và thế giới đó rốt ráo không còn dấu vết của sinh tử
lưu chuyển nữa. Ở đây Tâm của Bồ Tát thì luôn luôn thực hiện Hạnh nguyện
Vô Tướng của Tánh Không Chân Như. Lúc đó Thân và Tâm của Bồ Tát liền hòa
hợp lại nhau làm thành một thể. Thân Tâm hòa hợp này mỗi ngày mỗi tăng
trưởng thêm lớn. Đây là chỉ cho sự thành quả của Bất Thối Trụ.
8.- ĐỒNG CHƠN TRỤ: nghĩa là non
trẻ và trong sạch. Đồng Chơn Trụ nghĩa là an trụ vào thời kỳ thanh tịnh
trong trắng. Bồ Tát khi an trụ vào Đồng Chơn tức là lúc đó Thân Tâm hòa
hợp của Bồ Tát tự nhiên phát khởi một cách tinh tiến và thuần chánh.
Thân Tâm hòa hợp của Bồ Tát phát khởi trước sau đều chuyên nhất và phát
khởi không có chút điên đảo mê tưởng. Cho đến Bồ Tát cũng không có dấy
niệm tà ma ngoại đạo để phá hoại hạt giống Bồ Đề. Nhờ đấy, cùng một lúc,
mười Thân Tướng linh ứng của Phật (5) liền hiện bày đầy đủ trọn
vẹn. Đây là chỉ cho sự thành quả của Đồng Chơn Trụ.
9.- PHÁP VƯƠNG TỬ TRỤ: cũng gọi
là Liễu Sanh Trụ. Pháp Vương Tử nghĩa là con của Phật. Liễu Sanh Trụ
nghĩa là an trụ vào sự chấm dứt lẽ sống chết. Kể từ Sơ Phát Tâm Trụ cho
đến Sanh Quí Trụ thứ tư, bốn Trụ nói trên đều được gọi là Bồ Tát mới vào
Bào Thai của bậc Thánh, còn từ Phương Tiện Cụ Túc Trụ thứ năm cho đến
Đồng Chơn Trụ thứ tám, bốn Trụ kế tiếp đều được gọi là giai đoạn nuôi
dưỡng Thánh Thai để sớm được mau lớn. Riêng Pháp Vương Tử Trụ thứ chín
là mới chỉ cho Thánh Thai đó đã đầy đủ hình tướng và có thể sanh ra để
thành con của Phật, nên gọi là Pháp Vương Tử. Thí dụ này không ngoài mục
đích là trình bày Trí Tuệ của Bồ Tát đã được phát sanh từ nơi giáo pháp
cao quí của Phật. Nhờ Trí Tuệ đó, Bồ Tát mới đủ khả năng kế thừa Pháp
Bảo và đồng thời phát huy ngôi vị của Phật càng thêm rộng lớn. Đây là ý
nghĩa của Pháp Vương Tử Trụ.
10.- QUÁN ĐẢNH TRỤ: cũng gọi là
Bổ Xứ Trụ. Quán Đảnh Trụ nghĩa là Bồ Tát đã là con của Phật thì nhất
định phải có trách nhiệm thi hành các Phật sự. Do đó đức Phật mới dùng
nước Trí Tuệ rưới lên đỉnh đầu của Bồ Tát để thọ ký, nên gọi là Quán
Đảnh. Thí dụ như, con của vua Sát Đế Lợi thọ nhận quyền uy nơi vua cha
bằng cách chịu sự rưới nước phép lên đỉnh đầu của vua cha ban cho. Một
vị Bồ Tát khi đạt đến Quán Đảnh Trụ thì đầy đủ ba Biệt Tướng:
a/- ĐỘ CHÚNG SANH: nghĩa là Bồ
Tát đó đã đủ khả năng thi hành và có thể thành tựu được mười Chủng
Trí (4) để hóa độ chúng sanh.
b/- ĐẠT ĐƯỢC CẢNH GIỚI MẦU
NHIỆM: nghĩa là Bồ Tát đó đối với tất cả chúng sanh cũng như đối với
Pháp Vương Tử Trụ thứ chín đều có thể trắc nghiệm đo lường được những
cảnh giới của họ.
c/- HỌC RỘNG MƯỜI CHỦNG TRÍ:
nghĩa là Bồ Tát đó nhất định phải thấu hiểu tường tận và rành mạch tất
cả pháp.
Một vị Bồ Tát hoàn thành được ba Biệt Tướng nói trên
tức là đã an trụ vào Quán Đảnh của Thập Trụ Bồ Tát.
III.- THẬP HẠNH VỊ:
THẬP HẠNH nghĩa là mười phương
pháp tu hành về công hạnh lợi tha của Bồ Tát. Thập Hạnh Vị trên cũng gọi
là Thập Tâm Hạnh. Thập Hạnh Vị đây là một trong 50 ngôi vị tu tập của Bồ
Tát. Thập Hạnh Vị là chỉ từ ngôi vị thứ 21 cho đến ngôi vị thứ 30. Thập
hạnh Vị gồm có:
1.- HOAN HỶ HẠNH: nghĩa là Bồ
Tát với hạnh nguyện hoan hỷ dùng vô lượng diệu đức của Như Lai (của
Phật) để tùy thuận hóa độ cho chúng sanh trong mười phương cõi.
2.- NHIÊU ÍCH HẠNH: nghĩa là Bồ
Tát dùng mọi phương tiện khéo léo để làm lợi ích cho chúng sanh và khiến
cho chúng sanh không bị mặc cảm trong sự thọ nhận lợi ích.
3.- VÔ SÂN HẬN HẠNH: nghĩa là
một vị Bồ Tát luôn luôn phải thể hiện hạnh nhẫn nhục với mọi cộng việc,
tức là Bồ Tát không bao giờ có thái độ giận tức trước bất cứ việc trái
nghịch nào, cho đến cũng không bao giờ có ý hại mình và hại người. Một
vị Bồ Tát thật hành hạnh không sân hận là phải nhún nhường cung kính mọi
người và phải nhẫn nại mỗi khi đối diện trước oán cừu thù nghịch.
4.- VÔ TẬN HẠNH: cũng gọi là Vô
Khuất Nạo Hạnh (Công hạnh không hèn yếu chùn bước). Vô Tận Hạnh nghĩa là
Bồ Tát phát tâm đại tinh tấn, nguyện độ tất cả chúng sanh không cùng
tận. Trên con đường độ sanh, Bồ Tát tỏ ra siêng năng không chút giãi
đãi, không chút yếu hèn và chùn bước trước mọi sự khó khăn đưa đến. Bồ
Tát thật hành hạnh độ tha cho đến khi nào chúng sanh đều chứng quả Niết
Bàn mới mãn nguyện.
5.- LY SI LOẠN HẠNH (Lìa mê loạn
tâm): nghĩa là Bồ Tát thường an trụ nơi chánh niệm để cho Tâm không bị
tán loạn. Bồ Tát đối với tất cả pháp môn đều thông minh sáng suốt.
6.- THIỆN HIỆN HẠNH (Khéo thật
hành công hạnh hiện tại): nghĩa là Bồ Tát đã thanh tịnh được ba nghiệp
cho nên biết rõ tận gốc rễ của các pháp hữu vi cùng các pháp vô vi, vì
thế Bồ Tát không bị ràng buộc cũng như không chấp trước một pháp nào cả.
Mặc dù tự tại đối với mọi pháp, Bồ Tát vẫn không bỏ công hạnh giáo hóa
chúng sanh của mình.
7.- VÔ TRƯỚC HẠNH: nghĩa là hạnh
không nhiễm trước. Bồ Tát thật hành hạnh không nhiễm trước là thường
trải qua các cõi Phật (Trần Sát Phật) để cúng dường và cầu pháp. Tâm
thành cúng dường và cầu pháp của Bồ Tát không có chút nhàm chán. Mặc dù
bận Tâm trong công việc cúng dường và cầu pháp nơi các cõi Phật, Bồ Tát
vẫn thường dùng trí tuệ tịch diệt để quán chiếu và nhận chân các pháp.
Nhờ đó đối với các pháp môn, Bồ Tát vẫn không bao giờ khởi tâm nhiễm
trước.
8.- TÔN TRỌNG HẠNH: nghĩa là Bồ
Tát đều tôn trọng các pháp thuộc thiện căn phước đức cũng như các pháp
thuộc trí tuệ giác ngộ. Theo như Bồ Tát, cả hai loại pháp môn nói trên
đều có thể thành tựu được vô lượng công đức an lạc và giải thoát. Cho
nên, Bồ Tát cần phải tiến tu gồm cả hai lợi hạnh là: hạnh tư lợi và hạnh
lợi tha.
9.- THIỆN PHÁP HẠNH: nghĩa là Bồ
Tát cần phải thành tựu cho được tất cả Thiện Pháp độ tha của bốn Pháp
Môn Vô Ngại Đà La Ni để bảo hộ Chánh Pháp và khiến cho giống Phật không
bị diệt mầm.
10.- CHÂN THẬT HẠNH: là một danh
từ dùng để chỉ cho sự thành tựu Đệ Nhất Nghĩa Đế. Đệ Nhất Nghĩa Đế nghĩa
là pháp môn có danh nghĩa chân thật thứ nhất. Đệ Nhất Nghĩa Đế như là
lời nói có thể thật hành và điều thật hành có thể diễn đạt, cũng như lời
nói và hành động đều dung hợp với nhau, cho đến Sắc và Tâm đều hòa thuận
tương đắc lẫn nhau. Đó là ý nghĩa của Đệ Nhất Nghĩa Đế.
Bồ Tát tu Thập Hạnh có bốn mục
đích:
a/- Nhàm chán các pháp hữu vi.
b/- Mong viên thành quả Bồ Đề và hy vọng tròn đầy công đức Phật hạnh.
c/- Ước mơ cứu độ chúng sanh trong đời hiện tại và đời vị lại. d/-
Nguyện cầu thật tế là chứng ngộ được pháp Nhứt Như Chân Thật của Phật.
Vì bốn lý do nêu trên, Bồ Tát
mới phát tâm tu tập các Hạnh. Sự quan hệ như thế nào giữa Bồ Tát và thứ
bậc của Thập Hạnh?
Theo Kinh Luận, Thập Hạnh là một trong Tam Hiền, là
Tánh Chủng Tánh trong sáu Chủng Tánh (6) cũng gọi là Tư Lương Vị
trong năm Ngôi Vị của Bồ Tát.
IV.- THẬP HỒI HƯỚNG VỊ:
Thập Hồi Hướng Vị là một trong
50 ngôi vị tu tập của Bồ Tát. Thập Hồi Hướng Vị là chỉ từ ngôi vị thứ 31
đến ngôi vị thứ 40. Bồ Tát phát khởi tâm Thập Hồi Hướng với chủ ý là
dùng tâm đại bi để cứu hộ tất cả chúng sanh. Thập Hồi Hướng Vị gồm có:
1.- CỨU HỘ NHỨT THIẾT CHÚNG SANH
LY CHÚNG SANH TƯỚNG HỒI HƯỚNG: nghĩa là hướng về sự xa lìa danh tướng
chúng sanh để cứu hộ tất cả chúng sanh. Ý câu này nói Bồ Tát cứu hộ
chúng sanh trong hành động vô tướng (trong hành động không phân biệt
chấp trước). Bồ Tát ở ngôi vị này là áp dụng phương châm Lục Độ Ba La
Mật (7) và Tứ Nhiếp Pháp (8) để cứu hộ tất cả chúng sanh. Bồ
Tát thật hành hạnh nguyện cứu hộ chúng sanh trong tinh thần bình đẳng
đối với những kẻ thù oán cũng như đối với những người thân thương.
2.- BẤT HOẠI HỒI HƯỚNG: nghĩa là
hướng về sự không hư hoại. Bồ Tát ở ngôi vị này là không làm mất tín tâm
đối với Tam Bảo. Bồ Tát hướng về thiện căn nơi đức tin Tam Bảo để giáo
hóa và khiến cho chúng sanh được nhiều thiện lợi.
3.- ĐẲNG NHỨT THIẾT PHẬT HỒI
HƯỚNG: nghĩa là hướng về những công tác mà chư Phật trong ba đời đã làm.
Bồ Tát ở ngôi vị này là theo gương hành động của chư Phật trong ba đời
bằng cách không nhiễm trước sinh tử và không rời Bồ Đề một bước để tu
tập.
4.- CHÍ NHỨT THIẾT XỨ HỒI HƯỚNG:
nghĩa là hướng về khắp tất cả chỗ. Bồ Tát ở ngôi vị này là đem bao nhiêu
thiện căn đã tu tập được hướng về khắp tất cả Tam Bảo và đến tất cả
chúng sanh để cúng dường những lợi ích.
5.- VÔ TẬN CÔNG ĐỨC TẠNG HỒI
HƯỚNG: nghĩa là hướng về kho tàng công đức không cùng tận. Bồ Tát ở ngôi
vị này là hướng về tất cả thiện căn không cùng tận đã tu tập được tùy hỷ
đem ra phụng sự Phật Pháp.
6.- TÙY THUẬN BÌNH ĐẲNG THIỆN
CĂN HỒI HƯỚNG: nghĩa là hướng về thiện căn để tùy thuận một cách bình
đẳng. Bồ Tát ở ngôi vị này là vì chư Phật trong mười phương nên hướng về
những thiện căn đã tu tập được để bảo vệ chúng sanh một cách bình đẳng
và khiến cho tất cả chúng sanh thành tựu kiên cố những thiện căn nói
trên.
7.- TUỲ THUẬN ĐẲNG QUÁN NHỨT
THIẾT CHÚNG SANH HỒI HƯỚNG: nghĩa là tuỳ thuận hết thảy thiện căn đã tu
tập được để hướng về quán chiếu tất cả chúng sanh. Bồ Tát ở ngôi vị này
là làm tăng trưởng hết thảy thiện căn để hướng về làm lợi ích cho tất cả
chúng sanh.
8.- NHƯ TƯỚNG HỒI HƯỚNG: nghĩa
là hướng về nơi tướng Chân Như. Bồ Tát ở ngôi vị này là đem những thiện
căn đã tu tập được hướng về hòa hợp với tướng Chân Như Phật tánh.
9.- VÔ PHƯỢC VÔ TRƯỚC GIẢI THOÁT
HỒI HƯỚNG: nghĩa là hướng về sự giải thoát không bị trói buộc và không
chấp trước. Bồ Tát ở ngôi vị này là không còn bị trói buộc cũng như
không còn chấp trước tất cả pháp. Do đó Tâm của các vị đều được giải
thoát hoàn toàn. Các vị Bồ Tát nói trên sở dĩ thành tựu những công hạnh
vừa kể là nhờ hướng về các thiện pháp để thật hành hạnh nguyện Phổ Hiền,
cho nên họ được đầy đủ tất cả hạt giống công đức.
10.- PHÁP GIỚI VÔ LƯỢNG HỒI
HƯỚNG: nghĩa là hướng về vô lượng pháp giới. Bồ Tát ở ngôi vị này là đem
tất cả thiện căn không cùng tận đã tu tập được hướng về nguyện cầu cho
vô lượng thế giới sai biệt đều được hết thảy công đức.
Thập Hồi Hướng trên đây thuộc về Giải Hạnh Trụ, một
trong 13 Trụ. Thập Hồi Hướng này chính là Tư Lương Vị, một trong 5 ngôi
vị, (Tư Lương Vị, Gia Hạnh Vị, Thông Đạt Vị, Tu Tập Vị và Cứu Cánh Vị).
Thập Hồi Hướng này còn là thuộc về Đạo Chủng Tánh, một trong 6 Chủng
Tánh và cũng là một ngôi vị Hiền thứ ba trong Tam Hiền ở trước.
V.- THẬP ĐỊA VỊ:
THẬP ĐỊA VỊ nghĩa là mười địa vị
tu tập của Bồ Tát với mục đích giữ gìn Pháp Bảo, nuôi dưỡng Pháp Bảo và
khiến cho Pháp Bảo sớm được sanh trưởng để kết thành quả giác ngộ. Thập
Địa Vị là kể từ ngôi vị thứ 41 cho đến ngôi vị thứ 50 trong quá trình tu
tập hạnh Bồ Tát. Bồ Tát tu tập Thập Địa Vị là bắt đầu bước lên bờ mé
Chứng Ngộ, nghĩa là Bồ Tát đã phát sanh được Trí Tuệ Vô Lậu và nhận thấy
được Phật Tánh chân thật của mình, còn Bồ Tát đả trải qua xong Thập Địa
Vị là đã thành tựu được bậc Thánh, tức là tăng trường được Phật Trí để
bảo hộ cũng như để giáo dưỡng cho tất cả chúng sanh trong vô lượng thế
giới. Thập Địa Vị gồm có:
1.- HOAN HỶ ĐỊA:
(Pramudità-Bhùmi) cũng gọi là Cực Hỷ Địa hay là Duyệt Dự Địa. Hoan Hỷ
Địa nghĩa là địa vị rất vui mừng (Cực Hỷ), rất an vui (Duyệt dự). Bồ Tát
ở ngôi vị này rất vui mừng là đã chứng được Phật Tánh cũng như đã giác
ngộ được hai nguyên lý Nhân Không và Pháp Không để làm lợi ích cho chúng
sanh, nên gọi là Hoan Hỷ Địa.
2.- LY CẤU ĐỊA: (Vimalà-Bhùmi),
cũng gọi là Vô Cấu Địa hay là Tịnh Địa. Ly Cấu Địa là địa vị đã thoát ly
hẳn bụi nhơ Phiền Não ô nhiễm (Vô Cấu) Tâm Bồ Đề và được hoàn toàn thanh
tịnh (Tịnh Địa). Bồ Tát ở ngôi vị này là đã tẩy sạch hết tất cả trần cấu
Phiền Não ô nhiễm và giữ Tâm Bồ Đề được hoàn toàn thanh tịnh, nên gọi là
Ly Cấu Địa.
3.- PHÁT QUANG ĐỊA:
(Prabhàkarì-Bhùi), cũng gọi là Minh Địa, Hữu Quang Địa hay Hưng Quang
Địa. Phát Quang Địa nghĩa là địa vị phát sanh Trí Tuệ sáng suốt (Hữu
Quang hay Hưng Quang Địa). Bồ Tát ở ngôi vị này là nhờ Đại Thiền Định
nên phát sanh được Trí Tuệ sáng suốt mầu nhiệm vô biên, nên gọi là Phát
Quang Địa.
4.- DIỄM HUỆ ĐỊA:
(Arcismatì-Bhùmi), cũng gọi là Diễm Địa, Tăng Diệu Địa hay Huy Diệu Địa.
Diễm Huệ Địa nghĩa là địa vị phát sanh lửa Trí Tuệ (Huy Diệu) tăng thêm
sáng suốt (Tăng Diệu). Bồ Tát ở ngôi vị này là phát huy Trí Tuệ tăng
thêm sáng suốt lên mãi và phát huy cho đến khi nào lửa Trí Tuệ đó đã đốt
sạch hết tất cả phiền não của vô lượng kiếp ở trong tâm Bồ Đề, nên gọi
là Diễm Huệ Địa.
5.- NAN
THẮNG ĐỊA: (Sudurjayà-Bhùmi), cũng gọi là Cực Nan Thắng Địa. Nan Thắng
Địa nghĩa là địa vị này rất khó vượt qua (Cực Nan Thắng). Bồ Tát ở ngôi
vị này là đã thành công được những điều khó vượt qua. Hai Trí Tuệ thuộc
Chân Đế và Tục Đế thì hoàn toàn trái ngược nhau. Thế mà Bồ Tát đã thắng
được một việc rất khó khăn là khiến cho chúng nó hòa hợp với nhau thành
một thể, nên gọi là Nan Thắng Địa.
6.- HIỆN TIỀN ĐỊA:
(Abhimukhì-Bhùmi), cũng gọi là Hiện Tại Địa, Mục Kiến Địa hay Mục Tiền
Địa. Hiện Tiền Địa nghĩa là địa vị hiện ra trước mặt có thể nhìn thấy
được (Mục Kiến hay Mục Tiền Địa). Bồ Tát ở ngôi vị này là phải giữ vững
Trí Tuệ Hữu Phân Biệt (Trí Tuệ thuộc loại có phân biệt) để soi sáng và
phát khởi Trí Tuệ Vô Phân Biệt của Phật (Trí Tuệ thuộc loại không có
phân biệt) luôn luôn hiện ra trước mặt một cách rõ ràng, nên gọi là Hiện
Tiền Địa.
7.- VIỄN HÀNH ĐỊA:
(Dùramgamà-Bhùmi), cũng gọi là Thâm Hành Địa, Thâm Nhập Địa, Thâm Viễn
Địa hay Huyền Diệu Địa. Viễn Hành Địa nghĩa là địa vị này đi rất xa, đi
một cách sâu xa (Thâm Viễn), thâm nhập vào một nơi rất huyền diệu. Bồ
Tát ở ngôi vị này là đã vượt qua khỏi một cách xa thẳm của hai đạo Thế
Gian và Xuất Thế Gian và đã đến một nơi Vô Tướng, nghĩa là Bồ Tát không
còn bị ràng buộc bởi những hình thức công dụng cũng như tự tại trước
những hình tướng tu hành khuôn mẫu nào cả, nên gọi là Viễn Hành Địa.
8.- BẤT ĐỘNG ĐỊA: (Acalà-Bhùmi)
nghĩa là địa vị không còn bị chuyển động. Bồ Tát ở ngôi vị này là nhờ
vận dụng được Trí Tuệ Vô Phân Biệt một cách liên tục cho nên không bao
giờ bị lay chuyển bởi những phiền não cuốn trôi cũng như không bị biến
động theo bởi những hình tướng, bởi những công dụng hấp dẫn của thế
gian, nên gọi là Bất Động Địa.
9.- THIỆN HUỆ ĐỊA:
(Sàdhumatì-Bhùmi), cũng gọi là Thiện Tại Ý Địa hay Thiện Căn Địa. Thiện
Huệ Địa nghĩa là địa vị phát khởi Trí Tuệ một cách linh hoạt khéo léo
(Thiện Tại Ý). Bồ Tát ở ngôi vị này là nhờ phát chiếu Trí Tuệ một cách
vi diệu và tự tại, cho nên đã thành tựu được bốn biện tài vô ngại để độ
chúng sanh. Cũng nhờ thành tựu được bốn Biện Tài vô ngại, Bồ Tát thuyết
pháp rất lưu loát, nói năng rất khéo léo và linh hoạt. Trong bất cứ
trường hợp nào, Bồ Tát thuyết pháp không bao giờ bị vấp ngã, nên gọi là
Thiện Huệ Địa.
Bốn biện tài vô ngại nghĩa là
bốn tài năng biện thuyết pháp rất lưu loát và thông suốt mà không bị
chướng ngại. Bốn Biện Tài vô ngại gồm có:
a/- PHÁP VÔ NGẠI: nghĩa là tất
cả pháp đều thông suốt. b/- NGHĨA VÔ NGẠI: nghĩa là tất cả nghĩa lý đều
sáng tỏ. c/- TỪ VÔ NGẠI: nghĩa là trình bày rất mạch lạc và văn pháp rất
rõ ràng dễ hiểu. d/- NHẠO THUYẾT VÔ NGẠI: nghĩa là thuyết pháp mãi không
bao giờ hết ý và hết lời.
10.- PHÁP VÂN ĐỊA: (Dharmameghà-Bhùmi),
cũng gọi là Pháp Vũ Địa. Pháp Vân Địa nghĩa là mây pháp che khắp cả muôn
loài chúng sanh cũng như mưa Pháp tưới mát cả hằng sa quốc độ (Pháp Vũ).
Bồ Tát ở ngôi vị này là đã chứng được Pháp Thân thanh tịnh và dùng Đại
Trí kết hợp vô lượng nước công đức tạo thành đám mây Đại Pháp trong sạch
che khắp cả vô lượng quốc độ và tươi mát cả muôn loài chúng sanh, nên
gọi là Pháp Vân Địa.
Tóm lại, 50 ngôi vị tu tập đã
được trình bày ở trên chính là những thứ bậc để định mức giá trị chứng
đạo và trách nhiệm độ tha của một vị Bồ Tát. Một hành giả muốn thành một
vị Bồ Tát thiệt thụ thì phải trải qua 50 ngôi vị công phu tu tập nói
trên để hoàn thành nhiệm vụ là tự độ và độ tha, tự giác và giác tha.
Trên con đường tu tập, một vị Bồ Tát phải hoàn thành cho xong từ thứ bậc
một, phải bắt đầu từ thấp đến cao. nghĩa là Bồ Tát phải khởi hành từ
Nhập Môn của Thập Tín cho đến hoàn thành Thánh Quả của Thập Địa. 50 ngôi
vị tu tập của Bồ Tát được chia làm năm thứ bậc:
1/- THẬP TÍN: là thuộc về thứ
bậc của Bồ Tát Nhập Môn. 2/- THẬP TRỤ, THẬP HẠNH, THẬP HỒI HƯỚNG: 30
ngôi vị này là thuộc về thứ bậc của Bồ Tát Tam Hiền. 3/- THẬP ĐỊA: là
thuộc về thứ bậc của Bồ Tát Thánh Nhân.
Đây là thứ
bậc thấp cao qua quá trình tu chứng của 50 ngôi vị Bồ Tát.
HT Thích
Thắng Hoan dịch