Cốt
Tủy Giáo Pháp của đức Phật
Phổ Nguyệt
Ðể hiểu rõ giáo lý
của đức Thế Tôn, qua câu chuyện nàng BHADDA sau đây, thì biết được những
đặc điểm cốt tủy của đạo Phật như vô thường, khổ, vô ngã, nhân quả (vô
minh và tuệ giác (giác ngộ): nghiệp thức và giải thoát), năng tri sở
tri, nhân duyên quả, pháp vượt qua dòng bộc lưu sanh tử, sự giải thoát,
v.v…Phần lý giải rõ ràng hơn.
A.
TRUYỆN NÀNG BHADDA
(Trích trong tập Truyện Cổ Phật Giáo do N.H. Lộc chép)
Câu truyện nầy rất
hay có tình có lý, diễn tả đầy đủ từ Lý Duyên Khởi, Thực Tại Giả Lập
hay Giả Danh đến Thực Tại Tuyệt Đối, một triết lý cốt lõi của Phật
Pháp về phủ định tính của vùng trời Sở Tri để nắm bắt Thực tướng của vạn
hữu. Đó là Trung Đạo hay Tự Tính Tuyệt Đối tức là Chân Lý Nhất Nguyên,
Tối Hậu.
Thuở xưa, tại Vương
Xá Thành có cô con gái, con quan đại thần, nàng mang sắc đẹp lộng lẫy,
thông minh và kiêu hảnh. Đến tuổi gieo cầu, không có vị vương tôn công
tử nào lọt vào cặp mắt xanh của nàng. Vã chăng, con tạo vốn trớ trêu,
nàng lại si tình một chàng trai vũ phu, có học nhưng lại là tên cướp
khét tiếng, can tội tử hình, không có ai giúp đở cho nàng trước mối tình
vô vọng ấy. Thế là Bhadda, tên nàng, nằm lăn trên giường bệnh.
Thương con, vị
quan đại thần lo lắng chạy chữa thuốc thang nhưng thảy đều vô hiệu.
--- Cha ôi! Nàng
nói thều thào --- Buổi sáng con tim nó nói gì với cha?
--- Nó nói rằng, nó xót
xa lắm con ơi!
--- Cha ôi! Buổi
tối con tim nó nói gì với cha?
--- Nó nói rằng con
ơi! Con đau thì nó cũng đau.
Yên lặng giây lát,
một hạt lệ rỉ ra từ đôi mắt uyên ương, nàng thì thầm: Cha ôi! Con tim
con cũng đau buổi sáng, buổi tối và cả ban đêm nữa. Thì ích gì những
thuốc thang hở cha?
--- Phải rồi, ích
gì những thuốc thang này khi con tim nó đau! Nhưng mà nó nói gì hả con?
Nàng Bhadda với
nhập đề như vậy, với chuyển đề như vậy, rồi đưa vị cha già nua vào một
chiếc thòng lọng:
--- Nó có tâm sự riêng
của nó chứ, phải vậy không hả cha?
--- Phải lắm, nó
có tâm sự của nó mà!
--- Vậy thì cha ôi!
Nàng khóc lớn--- khi mà chiếc đao tử thần rơi xuống đầu Satthuka, tên
cướp, thì trái tim con vĩnh viễn bị tử thương không bao giờ lành nữa!
Vị quan già nua
thoát hiểu, đứng bật dậy, những sợi tóc dựng ngược trên đầu.
--- Con nói sao?
Satthuka ư? Tên đại tướng cướp ấy? Và tim con...?
--- Phải! nàng
Bhadda cứng cỏi đáp: Cha ôi! Sự sống của chàng chính là sự sống của con.
Cha phải cứu chàng. Đôi mắt của vị quan đại thần đại diện như mê sảng
giây lát, nhưng vì thương con, trái tim ông xót xa rung động.
--- Nhưng mà con
ơi! Sáng mai y lên máy chém rồi, ta làm sao cứu được?
Cô gái thấy cha mềm
lòng, bèn ngồi dậy, đôi mắt xanh tươi cười, khẻ ôm chiếc đàu bạc phếu
của cha.
--- Cha yêu quý!
Tiền bạc bước lọt dễ dàng vào các cửa đóng kín. Nó làm hữu lý những cái
gì phi lý, nó là vị quan tòa vạn năng, tha tội tử hình dẫu đã
bị tuyên án. Thương con, cứu con, cha chỉ quẳng cho quỷ ăn một chút xíu
linh hồn thôi mà! Vị đại thần rưng giọt lệ, tự nghĩ: Dẫu có mất môt nửa
linh hồn để đánh đổi sự sống cho con thì cũng nên lắm, huống hồ là một
chút xíu thôi.
Sau đó, ông lấy
tiền bạc đút lót cho quan ngục, và lính áp giải, tên cướp Satthuka được
thả ra môt cách dễ dàng.
Bhadda trang điểm
rực rở chói ngời bằng bảy loại ngọc nụ cười dịu hiền như đóa hoa
nở trong cuộc gặp gở lần đầu với Satthuka. Tên cướp như mê đi, nhưng
bảy loại ngọc trang điểm trên người nàng Bhadda lại càng làm cho y
mê hơn. Đôi mắt của Satthuka không rời đi đâu được nữa. Một mưu kế thâm
hiểm đã đến với hắn. Y nói:
--- Bhadda nàng
hởi! Vinh quang thay là những hạnh phúc bất ngờ nầy. Số mệnh của anh
từ nay do em an bày. Em là Thượng Đế chí tôn của anh. Nhưng trước khi
chung hưởng hạnh phúc, em hãy hứa khả cho anh được thỏa một ước nguyện
chưa tròn.
--- Hãy nói đi!
Satthuka! Con sư tử lông vàng của em. Bhadda hởi lòng dạ, trái tim nàng
như nở ra trong nụ hoa màu hồng thắm. Satthuka là tên cướp vũ phu nhưng
có học, y hiểu tất cả những điều ấy bèn nói xa xôi:
--- Mỗi người có
quyền có một tín ngưỡng, hay có quyền không có một tín ngưỡng nào phải
thế không, nàng Bhadda trí tuệ?
--- Phải rồi
Satthuka?
--- Như vậy mỗi
người vốn có một vùng đất thánh ở bên trong tâm hồn hay ở ngoài tâm hồn.
Cái đó là tự do thiêng liêng chứ, phải không Bhadda--- con mèo diễm lệ
của anh!
--- Chí lý thay!
Satthuka.
--- Cho nên dẫu là
một tên cướp, nhưng cũng có một vùng đất thánh thiêng liêng để tôn sùng
và ngưỡng mộ. Vùng đất ấy ở phía tây Vương Xá Thành, mọi người thường
gọi là Hòn núi của kẻ trộm, nhưng đây là nơi tôn thờ vị tổ sư của các
anh, vị tổ sư đạo tặc.
--- Và sao nữa
Satthuka?
--- Trước khi bị
bắt, anh có phát thệ như sau, kính lạy vị tổ sư chí thiêng chí kính!
Con đang lâm nạn, Ngài hãy cứu con, Ngài hãy dùng mọi oai lực làm cho
con thoát khỏi tử hình, con sẽ đến lễ tạ Ngài 100 con cừu, 100 dê, cùng
vàng bạc 10 mâm, Bhadda yêu quý! Nếu thương anh, nếu muốn cùng anh chung
hưởng hạnh phúc, em hãy giúp anh thỏa nguyện lời hứa thiêng liêng ấy!
--- Hãy thực hiện
đi, Satthuka, lời hứa của anh chính là lời hứa của em. Vàng bạc không
phải là hạnh phúc. Cái mà vàng bạc đánh đổi mới là hạnh phúc.
Sau khi triết lý
ba hoa như vậy chàng cùng nàng mang lễ vật lên đường. Đến chân Hòn núi
của kẻ trộm, Satthuka cho tôi tớ trở về, chỉ có chàng và nàng leo
lên đỉnh núi cao. Suốt cuộc hành trình Satthuka chẳng có một lời thân ái
với nàng. Đôi mắt của Satthuka như dán chặt vào bảy loại ngọc mà nàng
trang điểm trên người. Cho dầu nàng mệt lã hoặc vấp té mà Satthuka vẫn
không nhìn thấy huống hồ là một lời vỗ về an ủi. Một thoáng nghi
ngờ khởi lên, Bhadda hỏi:
--- Satthuka, tại
sao chàng lại cho chúng về? Vậy ai là người giữ cừu dê và vàng bạc?
Satthuka lầm lì
không nói. Nàng đâu có hiểu rằng thủ hạ của y đã làm việc ấy. Đến đỉnh,
sát môt bờ vực Satthuka quay lại:
--- Bhadda hãy cởi
áo ra!
Vị tiểu thơ con
quan đại thần mặt tái ngắt, nói không ra lời:
--- Satthuka!
Anh...Anh định làm gì?
--- Làm gì nữa!
Người ngọc tuy quý, nhưng không quý bằng bảy loại ngọc mà người
ngọc đang mang trên người. Đừng hỏi nữa! Hãy cởi áo ra và gói tất cả đồ
trang điểm ấy lại.
Đến đây thì Bhadda
không còn lý do gì mà không hiểu, nhưng nàng cũng hỏi:
--- Satthuka, em
có lỗi gì với chàng? Phải chăng yêu chàng là một cái tội hở Satthuka?
Bảy loại ngọc nầy...
--- Nàng tưởng ta
mang bảy loại ngọc đó là để cúng dường vị tổ cướp thiêng liêng ở núi
nầy chăng? Thông minh như nàng mà cũng có lúc ngu si mù quáng vậy thay;
vị tổ sư tướng cướp thiêng liêng ấy chính là ta đây Ha, ha, ha...
Bhadda với tình yêu
chết ngắt trong lòng: Sự thông minh bừng sáng nơi nàng như mặt trời vừa
ra khỏi hang thẳm tối tâm. Trấn tỉnh phi thường, nàng nói:
--- Vậy
thì Satthuka chàng hởi! Bảy loại ngọc nầy phần nào của chàng và phần
nào của em?
--- Của ta hết.
Bhadda giả vờ nhìn
Satthuka một cách đấm đuối ngây dại, rồi thở dài nói:
--- Vậy thì chàng
hởi! Dẫu thế nào em cũng yêu chàng cho đến chết. Trước khi vĩnh biệt anh
hãy cho em thỏa một ước nguyện cuối cùng.
--- Hãy nói đi---
Tên cướp bực bội nói lớn: Hãy nói đi cô gái si tình ngu ngốc kia. Nói
rồi chết.
Bhadda cất giọng
thản nhiên:
--- Chàng hãy cho
phép em hôn chàng với nguyên vẹn bảy loại ngọc trang điểm trên người.
Satthuka cười nhạt:
--- Thôi nhanh đi!
Thế là nàng thực
hiện được mưu kế. Nàng ôm hôn Satthuka dẫu như ôm cục đá cũng phải tỏ ra
dịu dàng âu yếm. Nàng hôn mắt, hôn má, rồi lần lượt hôn đến tai đến
gáy, phía sau lưng. Dù là tên tướng cướp đã mất hết nhân tính, nhưng
sự vuốt ve vòng tay thơm hương của người ngọc, cũng làm cho y ngây ngất.
Lợi dụng cơ hội hiếm có ấy, Bhadda dùng hết sức bình sanh đẩy tên cướp
xuống vực thẳm trước mặt. Satthuka biết ra thì đã muộn rồi. Thân thể to
lớn của y băng băng rơi xuống và đập đầu vào đá, cây vọng lên như tiếng
núi và một hồi chẳng còn tăm hướng rồi đời một tên cướp.
Một vị thiên trên
núi chứng kiến từ đầu đến cuối câu chuyện, cảm thán thốt lên bài kệ:
Mưu kế tự mưu kế
Kẻ ác phải đền tội
Nhân quả lạnh lùng thay,
Biết chăng thế gian hởi!
Nàng Bhadda thấy
lòng mình nguội lạnh như đóng tro tàn. Nàng ngõ: Vô vọng, dối trá,
và rỗng không thay là lòng người--- là tình yêu! Trái đắng và mật đen đã
quyện lên đầu lưỡi ta. Đời người vui ít, khổ nhiều. Từ rày, ta không
còn mặt mũi nào trở lại gia đình nữa.
Từ núi cao, quên
bẳng ngoại giới, nàng chìm trong tư duy suốt mấy ngày đêm. Từ núi cao,
cuộc phản tĩnh kỳ lạ đã chuyễn hướng cuộc đời nàng. Bình minh hôm kia,
nàng đứng bật dậy như loài mãnh sư sau giấc ngủ ngàn năm, nàng quăng
bỏ y trang ngọc ngà châu báu, khoác manh áo vải tầm thường tìm thầy
học đạo.
Đầu tiên nàng đến
một nhóm khổ hạnh phái Ni Kiền Tử
--- Hãy cho tôi
xuất gia!
Chúng tò mò nhìn
co gái trẻ tuổi dáng dấp tiểu thư khuê các một hồi rồi nói:
--- Phép tu khó
lắm, nữ nhân tay yếu chân mềm như nàng làm sao kham nỗi cuộc đời gió mưa
khổ ải?
--- Tôi kham nhẫn
được.
--- Đến mức độ
nào?
--- Vào hạng tối
thượng!
Nhóm khổ hạnh
sư thấy vẻ mặt đanh rắn, ẩn tiềm một nghị lực sắt thép của nàng, bèn
chấp thuận. Vì nàng xuất gia vào hàng tối thượng nên chúng đã nhổ từng
sợi tóc của nàng thay vì cạo bằng nứa.
Y áo rách rưới, mặt
mày chân tay đầy máu me và bùn đất ; nàng bắt đầu học hỏi giáo
lý và thực hành Con đường thoát khổ với ý chí tối thượng. Tuy thế, một
thời gian sau không còn học hỏi gì ở đây được nữa, các bậc thầy của
chúng bất lực và bối rối trước những câu hỏi của nàng.
--- Chẳng có
gì đặc biệt - nàng nghĩ. Cái mớ giáo lý lẫn thực hành nầy chỉ đưa đến
rỗng không và hạ liệt, nó không rành rẽ cho kẻ trí, nó chỉ rành cho
kẻ ngu.
Từ đây nàng Bhadda
lang thang từ xứ nầy đến xứ khác để tìm kiếm, tham vấn các bậc minh sư.
Nàng xuất hiện trước họ như những gì sâu sắc của trí tuệ, nói thẳng vào
những tối tăm và ngu dốt của giới Bà La Môn truyền thống và kinh viện.
Không ai tranh luận nỗi với nàng. Có những đống cát được nàng vun lên
rồi cắm ở đây một nhánh diêm phù đề (nhành dương liễu) trên lối vào các
thành. Đấy là dấu hiệu thách thức khiêu chiến, luận tranh của nàng đối
với thiên hạ đạo học.
Suốt một tuần như
thế, nhánh diêm phù đề vẫn sừng sững ngạo mạn. Chẳng có vị giáo chủ minh
sư nào dám nhổ lên để chấp nhận cuộc luận chiến nầy.
--- Ở đây không
có người - nàng nghĩ "Ôi! Thiên hạ mênh mông nhưng đâu là bậc thầy tối
thượng, soi sáng con đường thoát khổ cho ta?"
Thế rồi, Bhadda lại
nhổ lên...đi phương khác, trên lối đi vào thị trấn, làng mạc, xứ nầy,
xứ kia, nhánh diêm phù đề của nàng vẫn nghiễm nhiên bất khả xâm phạm.
Đã ngày tháng tuyết
sương mòn mỏi, hôm kia nàng đã du hành Xá Vệ. Đức Thế Tôn lúc đó đang
thuyết giảng tại tịnh xá Kỳ Hoàn, chúng đệ tử vây quanh. Buổi sáng tôn
giả Xá Lợi Phất đắp y mang bát đi vào cổng thành. Thấy nhánh diêm phù đề
trên đóng cát trên cao, Ngài dừng chân lại.
--- Của ai thế?
Ngài hỏi một người.
--- Của nàng
Bhadda, một khổ hạnh Ta Bà Ni Sư tối thượng. - Người ta trả lời.
Tôn giả đa mắt tìm
kiếm, không bao xa dưới cội cây một Ta Bà nữ đang ngồi kiết già, với
gậy với bát bên chân, dung sắc phi phàm, cao ngạo lạnh lùng.
Có xứng đáng cho ta
nhổ nhánh cây để tranh luận chăng? Ngài Xá Lợi Phất thầm nghĩ- Nhưng
mà dược gì? Ích lợi gì? Giáo lý tối thượng nầy không phải để luận
chiến, đấu khẩu hơn thua tại các ngã ba đường, nơi chợ búa, nơi đám
đông. Giáo lý nầy, giáo lý vô dục, tịch tịnh chỉ để dành cho nhân
duyên, kẻ có tai, mắt và trí tuệ. Nghĩ xong, tôn giả bước đi. Những kẻ
hiếu sự xung quanh la lên:
--- Đệ tử ông Thích
Ca Đại Sa Môn thua rồi!
--- Ta Bà Ni Sư
khổ hạnh nghiễm nhiên vô địch
Vẫn không quay lại,
Tôn giả Xá Lợi Phất cất giọng điềm đạm với đám đông: Chưa có ai dám đánh
bại ta về tư tưởng, kiến thức, trí tuệ...lẫn sở chứng... cho dẫu là các
bậc minh sư, giáo chủ...cho dẫu là vua quan, chư thiên, Phạm
thiên...huống hồ Ta bà Ni nầy. Trên trời dưới đất, duy nhất chỉ có Đức
Tôn Sư của ta là bực thầy ưu việt và tối thắng. nhưng thật rỗng không
và vô vị là những cuộc tranh luận, khẩu tranh, được danh và mất danh
nầy chỉ tự ta biết là ta thắng hay bại mà thôi.
Tôn giả dươn chân
bước đi, nhưng Ngài phải dừng lại. Nàng Bhadda đã để ý đến vị Sa Môn
trẻ tuổi từ khi Ngài xuất hiện. Nàng nghĩ: Chẳng có ai mang vẻ đẹp
khác phàm và thanh thoát đến thế! Chàng Sa Môn trẻ tuổi nầy đã làm cho
ta bị nhiếp phục bởi dung mạo, dáng đi, cử chỉ. Lại càng bị nhiếp phục
hơn bởi thái độ và ngôn ngữ. Vậy thì người nầy, đấng nầy phải có một
trí tuệ phi thường?
--- Đứng
lại, ông Sa Môn! Nàng nói-Nếu ông không tự ý nhổ nhánh diêm phù đề luận
chiến thì tự ta thách thức một cuộc luận chiến vậy.
--- Để
làm gì hởi Ta Bà Ni Sư?
Bhadda
cất giọng như tiếng vua loài chim giữa núi cao:
--- Này
chàng Sa Môn đáng kính trọng, ta khao khát tri thức và hiểu biết, lại
càng khao khát hơn là những tri thức và hiểu biết dẫn đến tịch lặng
và chân phúc. Nhưng đã mòn trán, ta bà khắp thế gian, chưa ai cho ta một
câu trả lời đúng đắn, hoàn hảo, chỉ là những tri thức phù phiếm rỗng
không dẫn đến ngu độn và hạ liệt. Ở nơi tôn giả, ta thấy toát ra cái
gì khác thế, biết đâu đó là hào quang trí tuệ thượng đẳng? Ta cần biết,
vậy hãy luận tranh cùng ta,
Tôn
giả Xá Lợi Phất tự nghĩ: Nghe nói rằng tri thức cùng lý luận của nàng
như lưỡi dao sắc nhọn đi đến xứ nầy xứ khác như chỗ không người. Đức
Thế Tôn đã giáng thế, khi mặt trời vừa lên, không còn ai mà cầm đèn đi
giữa ban ngày. Vậy hãy nhiếp phục nàng. Đặt nàng vào chánh đạo. Đặt nàng
vào quy giới. Đấy cũng là lợi ích cho nàng, tăng trưởng đức tin cho
tứ chúng và thắp lên ngọn đuốc trí tuệ của giáo pháp thù thắng vô địch.
Thế là tôn giả Xá Lợi Phất cho nhổ nhánh diêm phù đề, bá cáo một cuộc
tranh luận sẽ khởi vào buổi chiều.
Nàng
Bhadda nghĩ rằng cuộc luận chiến sẽ không mang lại khết quả nếu
như không có sự tham dự đông đủ của Sa Môn, Bà La Môn, các tầng lớp gia
chủ, trưởng giả cùng quần chúng hâm mộ. Vã chăng đại danh đệ tử trưởng
của Phật cùng với lời đồn đãi về Ta Bà Ni Sư khổ hạnh đủ để tạo một cơn
lốc hiếu kỳ rầm rộ.
Với đại y
ngang vai, tôn giả Xá Lợi Phất xuất hiện giữa đám đông như ngôi sao rực
rỡ, vàng chói, khuôn mặt bình an, tự tin đến độ làm cho nàng Bhadda phải
rung động.
Lần đầu
tiên nàng cảm thấy sợ hãi trước một đối thủ trẻ tuổi. Tuy thế nàng đã
trấn tĩnh kịp thời, lấy lại bản lảnh để đi vào cuộc tranh luận có
mộtkhông hai nầy.
--- Thưa
tôn giả, nàng nói --- Trước tiên tôi xin được hỏi cuộc tranh luận nầy
lập ngôn ở đâu? Lập ý ở đâu? Lập nghĩa ở đâu? Xin Ngài cho biết?
Chỉ một
câu hỏi mở đầu, đám đông quần chúng đã nín thở, hồi hợp. Chỉ một câu hỏi
người ta đã tiên liệu cuộc đụng độ sẽ hào hứng cho tri thức và luận
lý dường bao. Chàng Sa Môn kia quá trẻ tuổi, quá non nớt, sợ rằng
chỉ một câu nầy thôi chàng sẽ xin rút lui, đầu hàng vô điều kiện.
Nhưng
kìa. Khuôn mặt vị Sa Môn vẫn bình an tự tại và dường như trên môi
có thoáng nụ cười.
--- Này
Ni Sư khổ hạnh -Tôn giả Xá Lợi Phất chậm rãi đáp--- Bần đạo xin được
trả lời.
--- Ngôn
lập tại ý, ý lập tại nghĩa, nghĩa lập tại ngôn. Nó tương quan, lập,
duyên khởi lập. Cái nầy sanh thì cái kia sanh, cái nầy diệt, thì cái
kia diệt, thưa bà.
Ồ! Mọi
người chợt reo lên một tiếng thoải mái, bởi câu hỏi dường như kiêu kỳ,
tối tăm, khó hiểu. Câu trả lời không những chính xác mà làm cho câu hỏi
trở nên sáng nghĩa hơn. Nàng Bhadda giật thót mình, nàng không thấy một
khe hở nào, dầu chỉ bằng sợi tóc để đả phá nó. Tuy thế, sẽ tung ra những
câu hỏi hóc búa, không có đường mà đón đở, nàng nghĩ:
--- Tôn
giả đã đáp rất tuyệt vời--- nàng nói--- Vậy giờ xin được hỏi:
---
Tôi đang hân hạnh nói chuyện với ai đây? Đó là câu hỏi thứ hai.
--- Câu
hỏi này đáng lý bần đạo không trả lời--- Ngài Xá Lợi Phất nói---
vì nó thuộc lý luận, phù phiếm luận, không đưa đến yếm ly giác
ngộ thắng trí, niết bàn. Nhưng Ta Bà Ni Sư đã hỏi, bần đạo sẽ trả lời
cho tuyệt bặt mọi tư duy tương tự, làm cho rỗng không mọi tri thức xa
rời mục đích thực tế của Sa Môn hạnh. Mọi câu hỏi đi sau cũng thế.
Nàng Bhadda! Bây giờ bần đạo xin được vào câu trả lời. Người ta gọi bần
đạo là Xá Lợi Phất! Hãy nghe cho kỹ đây! Giáo pháp của đức Thế Tôn soi
rọi cái rỗng không của các pháp, dẫu tâm hay vật, làm cho vô tự tính
mọi thực tại tính, làm cho vô ngã tính mọi hữu tồn dẫu là Atman, Brahman
hay đại ngã. Hãy nghe cho kỹ đây!
Giáo
lý ấy không trườn uốn như con lươn, không chẻ sợi tóc làm tư, không
sợ kẹt trên ngôn ngữ rằng đây là thường kia là đoạn, giáo lý ấy dành
cho người tu chứng, kẻ có trí nghe ắt hiểu. Hãy nghe cho kỹ đây! Không
những là Xá Lợi Phất, cái tên gọi giả danh nhằm chỉ vào cái thực. Nhưng
mọi cái thực ấy, dẫu là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức phải được nhìn cho
rõ ràng bằng trí tuệ như thực, như chơn là nó không phải ta, không phải
là ta, không phải của ta, không phải tự ngã của ta. Này nàng Bhadda! Câu
hỏi của nàng thuộc lý luận rỗng không phù phiếm, câu trả lời của bần đạo
đã đặt chúng trên thực tế, chánh đạo, hãy nghe và hãy thọ trì.
--- Chưa
ai dám tự tin như thế Nàng Bhadda thầm nghĩ. Người nầy đã có sẵn những
cái kết luận ở đâu đó, như từ một kho tàng, bây giờ chỉ việc đưa ra,
không cần dựa theo một suy luận nào đó của sở tri. Tuy thế mọi khe
hở đều được bịt kín. Y có tu chứng của mình. Vậy thì ta sẽ hỏi ngay nơi
cái thực ấy.
---
Này ông Sa Môn! Câu trả lời của ông chẳng phải xa lạ gì. Ta đã từng
nghe những con vẹt cũng đã hót lên như thế, chỉ có điều ông tự tin và
vững chãi hơn, do ông có cái thực ở nơi sự tu chứng của mình.Hãy nghe
đây! Bây giờ ta sẽ hỏi ngay chính nơi cái thực ấy. Hy vọng rằng ông
không trườn uốn như kiểu là không phải ta, không phải của ta. Hy vọng
rằng ông trả lời khác, giản dị và uyên áo hơn. Hãy nghe đây! Đây là câu
hỏi thứ ba. Cái thực ấy còn bị định luật nhân quả chi phối hay không,
còn bị định luật nhân quả chi phối? Hãy trả lời ngay đi. Hãy trả lời
mà đừng hủy hoại ngôn ngữ, như dao chém nước.
--- Này
nàng Bhadda!--- Tôn giả Xá lợi Phất vẫn kiên định như phong thái của
con mảnh sư--- chẳng cần phải lớn lối như thế. Hãy nghe đây, nếu cái
thực ấy mà còn định luật nhân quả chi phối thì cái thực ấy
chỉ là khổ đau, nhiệt não, tử sanh. Nếu cái thực ấy không còn bị định
luật nhân quả chi phối thì đồng nghĩa với hư vô, cái không thực hữu,
cái vô tự tính, cái ngoang không niết bàn.
Này nàng
Bhadda, hãy nghe đây! Đây là cái dao chém nước như nàng muốn. Cái
thực ấy là cái sáng suốt, mặt trời đại huệ. Cái thấy từ tâm, trí,
tư tưởng trí mà có, từ tuệ, tuệ minh, cái tuệ minh ấy nó có trong tâm
của bậc giác ngộ, bậc A La Hán, kẻ đã đoạn tận lậu, hoặc giải thoát
khổ đau và phiền não ; này nàng Bhadda cứ như thế mà thọ trì!
--- Chưa
thể thọ trì được--- Ta Bà Ni chợt hét lên như con thú bị tử thương---
Ta chưa chấp nhận điều ấy, hởi ông Sa Môn đại ngôn kia. Hãy nghe đây!
Đây không phải là câu hỏi thứ tư mà đây chỉ là phản vấn. Ông nói rằng
có một cáituệ minh, xin lỗi tôi có lầm chăng, một cái tuệ minh? Văy
thì giáo lý vô ngã, vô tự tính của Đức Tôn Sư của ông sẽ không còn
chỗ đứng, bất khả lập, bất khả thuyết, và nó đã mâu thuẫn tự tiền căn?
Vậy phải trả lời làm sao cho kẻ học nữ Ta Bà khổ hạnh nầy: một giáo
thuyết thường kiến vậy kia?
--- Hãy
bình tĩnh! Hãy bình tĩnh! Này nàng Bhadda đừng tự buộc vào mình những
thằng thúc! Đừng tự bịt mắt trước ngọn đèn sáng suốt tự tâm. Hãy nghe
đây! Cho bần đạo hỏi một câu, với một câu thôi nàng sẽ tự giải quyết cho
chính mình. Câu hỏi như thế nầy: Cáng của ngọn đèn trước mắt nó thường
hay nó đoạn.
--- Chẳng
phải thường--- Nàng nghĩ--- Thường sao được khi nó sinh diệt từng giây
từng khắc! Chẳng phải đoạn, đoạn sao được khi nó đang hiện hữu!
Thấy nàng
Bhadda im lặng, tôn giả Xá Lợi Phất tung câu hỏi thứ hai:
--- Này
nàng Bhadda! đây là câu hỏi thứ hai nhằm gợi ý cho nàng để nàng bước ra
khỏi cái lẩn quẩn, loanh quanh của các luận lý Thường, đoạn, có, không.
Đây là câu hỏi:Thuở nàng 5 tuổi, nàng thấy một bông hoa. Thuở 30 tuổi
nàng thấy một bông hoa. Nàng có thay đổi cái hoa dẫu có khác, quan niệm
đẹp xấu dẫu có khác, nhưng cái thấy của nàng có thay đổi không?
--- Không
thể thay đổi, thưa tôn giả.
---
Nó chẳng phải là thường không?
--- Bất
khả thuyết --- Nàng Bhadda buộc miệng trả lời như vậy rối tự nghĩ: Ta
đã tự trói mình, vậy thì hãy vùng vẫy khi còn vùng vẫy được. Gã Sa Môn
nầy đã bủa vây ta bằng một chiếc lưới quá kiên cố và quá chặt chẻ.
Nhưng dễ gì ta chịu hạ phong.
---
Khá lắm, này ông Sa Môn hãy nghe đây! Ta sẽ chịu dừng với ông chung một
vùng đất. Mặt đối mặt để trổ tài sở tri Ta tạm thời chấp nhận cái
thuyết tụê minh ấy, nhưng ta muốn hiểu cái sở tri về bậc A La
Hán ở nhiều phươngdiện khác nhau. Vị ấy làm thế nào bước ra khỏi giòng
bộc lưu sanh tử.
--- Bước
tới là lăn trôi. Dừng lại là chìm đắm. Bậc A La Hán không bước tới,
không dừng lại, vị ấy ra khỏi giòng bộc lưu sanh tử! Này nàng Bhadda
cái đáp số ấy thậm thâm vi diệu, vi tế, vượt ngữ ngôn, vượt suy luận,
dành cho kẻ trí, kẻ thâm đại pháp, dành cho kẻ tu chứng. Có lên đường ai
ăn mới biết no, chứ không phải để cho nàng--kẻ ngoại gio, kẻ đứng ngoài
cuộc, kẻ với tri thức thuần túy--muốn dùng cái hiểu biết nông cạn, cái
tự ngã kiêu căng và đa dục của mình, để nắm bắt cái siêu việt không
thời gian, cái bất tử, cái chân phức, cái niết bàn vô dục và tịch tịnh.
Này nàng Bhadda!
Này nàng
Bhadda! Nàng có kham nhẫn tịch lặng để lắng nghe những lời như vậy
không?
Ta Bà Ni
Sư tức giận đến tím mặt, run lẩy bẩy, những lời những chữ kia như lưỡi
kiếm tàn bạo đục khoét vào tim cật nàng. Tuy thế, với trấn tĩnh phi
thường, nàng mĩm cười:
---
Chớ có nương tay, thưa tôn giả--- Nàng nói--- Tạm thời ta chấp thuận
rằng điều đó là có thực, nhưng điều đó thuộc vùng đất khác, tư duy
khác, quan niệm khác, ta không biết lấy gì kiểm chứng. Bây giờ tôn
giả có dám bước qua vùng đất của tôi, thuộc giáo lý khác, để đi cho cùng
tận chân trời sở tri?
--- Dám
lắm--- Ngài Xá Lợi Phất bình tĩnh trả lời--- Là đệ tử của Đức Tôn
Sư vô năng thắng, ta sẵn sàng luận tranh, không khoan nhượng bất cứ một
giáo pháp nào trong thiên hạ. im lặng thì im lặng như chánh pháp, nói
năng thì nói năng như chánh pháp. Đây là chân ngôn của các đệ tử Đức Tôn
Sư.
Thế là nàng Bhadda bắt đầu hỏi, Ngài Xá Lợi Phất tuần tự trả lời. Đầu
tiên nàng mang ra ba tập Phệ Đà, đặt những câu hỏi thuộc lãnh vực tri
thức thuần túy. Từ chương kinh viện, truyền thống, ngay cả danh nghĩa
lễ nghi, giữ nguyên chú giải ngữ pháp, văn phạm, lịch sử. Người hỏi đã
chứng tỏ một tri thức quãng bác thâm sâu. Người trả lời lại càng chứng
tỏ thông hội vấn đề một cách minh bạch. Những điều thuận thế luận, đại
nhân tướng, chiêm tinh, thiên văn, địa lý, bùa chú. Ngài Xá Lợi Phất lại
càng chứng tỏ cho nàng Bhadda Thấy rõ sự nghèo nàn, hời hợt nông cạn,
thô thiển của mình.
Ngài
không những hiểu qua danh lý mà còn là nhà bác học về chúng đến cội
nguồn. Hơn nữa điều quan trọng và đáng nói hơn, Ngài đã quẳng chúng mà
đi như quẳng một mớ giẻ rách...Từng vấn đề, từng vấn đề...từng lúc,
từng tế nhị, khó nắm bắt và khó lãnh hội. Nó đi từ gần đến xa, xa đến
vô tận. Từ vô tận nó trở về và nhỏ lại như vi trần như mảnh lau vi trần,
hư không, tư tưởng tâm niệm, sát na...
Thính
chúng bàng hoàng, ngơ ngẩn nàng Bhadda bàng hoàng ngẩn ngơ. Nàng không
biết hỏi gì nữa. Nàng không còn nhìn thấy một đốm lửa nào nữa khi mặt
trời kia đã chói lọi. Nàng đã hoàn toàn bị nhiếp phục.
Tôn
giả Xá Lợi Phất với thiên nhản, Tha tâm thông, thấy rõ tâm địa nàng,
đưa ra một câu hỏi kết thúc. Một câu hỏi vứt bỏ sở tri để dẫn nàng
về với giáo lý thiết thực hiện tại.
--- Bây
giờ tới phiên ta hỏi, này nàng Ta Bà Ni Sư khổ hạnh: Thế nào gọi là Một?
Thời gian
lặng lẻ trôi qua khi câu hỏi được đặt xuống. Quần chúng nín hơi, nghẹt
thở. Vừng trán nàng Bhadda từng hạt mồ hôi to bằng hạt bắp không ngớt
tuôn ra. Mái tóc lún phún đã bắt đầu điểm bạc. Một triệu kiếp tư duy
cũng không trả lời được câu hỏi tầm thường, giản dị kia. Chỉ với một câu
hỏi mà nàng Bhadda của chúng ta đã già đi ngàn năm.
--- Này
nàng Bhadda! Nàng hỏi ta một câu, mười câu, trăm câu, ta đã trả lời
nàng đầy đủ cả chặng đầu, chăng giữa, chặng cuối, thế mà ta chỉ hỏi một
câu, nàng cũng không trả lời ta Một là gì? Một là thế nào? Mà nàng cũng
không hiểu, không biết. Thế mà nàng lại đòi biết cho kỳ được cổ kim
thiên hạ sự, đòi hiểu cho hết chuyện trên trời dưới đất. Kinh như núi,
chử như rừng...thế đấy! Là trí tuệ của người đi cắm nhánh diêm phù đề
khắp cả thiên hạ.
Như thân
cây bị chặt đứt, nàng Bhadda chợt phủ phục xuống bên chân bậc
trí tuệ bậc nhất.
--- Kính
lạy tôn giả con chịu thôi, không một câu hỏi nào mà con dám trả lời nữa.
Với một tự ngã kênh kiệu vô tư, con đã đi đánh trống khắp cửa mọi
nhà, để bây giờ biết rằng đất trời vô lượng. Tôn giả đã kham nhẫn,
từ bi soi sáng cho con, chỉ đường cho con, đem đèn vào trong bóng tối
để ai có mắt có thể nhìn thấy sắc. Cũng vậy, xin Ngài xá tội cống cao
ngả mạn của con, cho con trọn đời quy ngưỡng.
Nàng
Bhadda phủ phục năm vóc sát đất. Quần chúng reo hò. Chư thiên hoan
hỷ.Ngài Xá Lợi Phất chợt đứng cao 10 tầm thốt nốt, thò tay đụng mặt
trời, mặt trăng, cất giọng phạm âm với tâm tuyệt hảo:
--- Này
hởi Bhadda! mừng thay cho nàng vứt bỏ được sở tri và tự ngã, mừng thay
cho nàng thức tĩnh sau đêm trường mộng, hé mở con mắt pháp để thấy rõ
giáo lý vô dục thực tiển, thậm thâm, có khả năng làm yên lặng khổ đau,
phiền não. Hãy hướng đến Đức Tôn Sư của ta cùng tăng chúng thánh
hạnh.Bậc cao cả đang ở tại tịnh xá Kỳ Hoàn. Nàng hãy đến nghe pháp rồi
quy y với Ngài.
Sau đó
nàng Bhadda đến kỳ viên đảnh lễ Đức Phật rồi ngồi nép một bên phải lẻ.
Thấy căn cơ nàng đã thuần thục, Đức Thế Tôn chỉ nói vắn tắt một kệ:
Dầu nói ngàn câu kệ,
Nhưng không chút lợi ích
Tốt hơn nói một câu
Nghe xong được tịnh lạc.
Và tức khắc, ngay sát na ấy, nàng Bhadda đã chứng quả A La Hán với pháp
Tín Thọ, nghĩa là tín thọ.
Đức Thế
Tôn tự thân trao đại giới cho nàng. Nàng Bhadda được biết là vị tỳ kheo
A La Hán im lặng, thiền duyệt và đi ta bà cả khắp quốc Độ.
B.
PHẦN LÝ GIẢI:
Câu 1.
Hỏi: Cuộc tranh
luận nầy lập Ngôn ở đâu? Lập Ý ở dâu? Lập Nghĩa ở đâu?
Đáp: Ngôn lập tại
Ý, Ý lập tại Nghĩa, Nghĩa lập tại Ngôn. Nó tương quan lập, duyên khởi
lập. Cái nầy sanh thì cái kia sanh, cái nầy diệt thì cái kia diệt.
* Câu nầy nói lên
lý Duyên Khởi, thực tại do nhân duyên quả kiến lập.
Câu 2.
H: Tôi đang hân
hạnh nói chuyện với ai đây?
Đ: Người ta gọi bần
đạo là Xá Lợi Phất. Hãy nghe cho kỹ đây! Giáo pháp của đức Thế Tôn Sư
rọi cái rỗng không của các pháp, dẫu Tâm hay Vật, làm cho vô tự tính mọi
thực tại tính, làm cho vô ngả tính mọi hữu tồn, dầu là Atman, Brahman
hay Đại Ngả. Hãy nghe đây!
Giáo lý ấy không
trườn uốn như con lươn, không chẻ sợi tóc ra làm tư, không kẹt trên ngôn
từ rắng đây là thường rằng kia là đoạn, giáo lý ấy dành cho người tu
chứng, kẻ có trí nghe ắt hiểu. Hãy nghe cho kỹ đây! Không những
là Xá Lợi Phất, cái tên gọi giả danh nhằm chỉ vào cái thực, nhưng mọi
cái thực ấy, dẫu là sắc thọ tưởng hành thức phảỉ đươc nhìn cho rõ ràng
bằng trí tuệ như thực, như chơn, là nó không phải là ta, không phải của
ta, không phải tự ngả của ta. Này nàng Bhadda! Câu hỏi của nàng thuộc
lý luận rỗng không phù phiếm, câu trả lời của bần đạo đã đặt chúng trên
thực tế, chánh đạo, hãy nghe và thọ trì.
**--- Câu hỏi về
Ngã nầy được Ngà Xá Lợi Phất giải nghĩa rất rõ ràng. Xá Lợi Phất là một
thực tại gỉả lập, ngay trong nó có cái thực. Thực tướng của thân ngũ uẩn
là không.Sắc không khác không....Thể không của thân ngũ uẩn là thực
tướng của nó. Ðó là lý vô ngã.
Câu 3.
H: Này ông Sa Môn!
Câu trả lời của ông chẳng phải xa lạ gì. Ta đã từng nghe những con vẹt
cững đã hót lên như thế, chỉ có điều ông tự tin và vững chãi hơn, do
ông có cái thực ở nơi sự tu chứng của mình. Hãy nghe đây! Bây giờ ta
sẽ hỏi ngay chính nơi cái thực ấy. Hy vọng rằng ông không trườn uốn
như kiểu là không phải ta không phải của ta! Hy vọng rằng ông trả lời
khác, giản dị và uyên áo hơn. Hãy nghe đây! Cái thực ấy còn định luật
nhân quả chi phối hay không? Còn định luật chi phối? Hãy trả lời ngay
đi. Hãy trả lời đừng hủy hoại ngôn ngữ, như dao chém nước.
Đ: Này nàng Bhadda!
Nếu cái thực ấy mà còn định luật nhân quả chi phối thì cái thựcấy chỉ là
khổ đau, nhiệt não, tử sanh. Nếu cái thực ấy không còn định luật nhân
quả chi phối thì đồng nghĩa với hư vô, cái không thực hữu, cái vô tự
tính, cái ngoang không niết bàn.
Này nàng Bhadda,
hãy nghe đây! Đây là cái dao chém nước như nàng muốn. Cái thực ấy là cái
sáng suốt, mặt trời đại huệ. Cái thấy từ Tâm, Trí, tư tưởng Trí mà có,
từ tuệ, tuệ minh ấy nó có trong tâm của bậc giác ngộ, bậc A La Hán,
kẻ đã đoạn tận lậu, hoặc giải thoát khổ đau và phiền não, này nàng
Bhadda cứ thế mà thọ trì!
***-- Câu nầy Xá
Lợi Phất giải minh hai loại thực tại. Thực tại tương đối là thực tại
giả lập hay tùy thuộc như khổ đau, nhiệt não, sanh tử v.v...đều phải bị
định luật nhân quả chi phối. Còn thực tại tuyệt đối, không sanh không
diệt, tự nó đày đủ, không có gì áp đặt lên nó như hư không, vô tự tính
v.v..., nên nó không bị định luật nhân quả chi phối. Thực tại tuyệt đối
cũng là thiệt tánh giác (tuệ minh). Cho nên, đối với các bậc giác ngộ,
bậc A La Hán, hoặc những kẻ đã giải thoát khổ đau và phiền não, hoặc kẻ
có trí, thì trong tâm họ có cái sáng suốt, cái tuệ minh, cái thực tại
tuyệt đối, mà cái thực tại tuyệt đối nầy không bị định luật nhân quả chi
phối. Câu này nói lên sự vô minh thì vô thường khổ não bị định luật chi
phối (nghiệp thức). Cò Tuệ giác hay tuệ minh là cái sáng suốt, tâm trong
sáng không cháp thủ, giải thoát mọi ưu phiền. Tuệ minh thì không bị định
luật chi phối.
Câu phản vấn.
--- Ta Bà Ni chợt
thét lên như con thú bị tử thương: chưa thể thọ trì được! Ta chưa chấp
nhận điều ấy, ông Sa Môn đại ngôn kia. Hãy nghe đây! Đây không phải
là câu hỏi thứ tư mà đây chỉ là phản vấn. Ông nói rằng có cái tuệ minh,
xin lỗi tôi có lầm chăng, một cái tuệ minh? Văy thì giáo lý vô ngả,
vô tự tính của đức Thế Tôn Sư của ông sẽ không còn chỗ đứng, bất
khả lập, bất khả thuyết và nó đã mâu thuẩn từ tiền căn? Vậy phải
trả lời làm sao cho kẻ học nữ Ta Bà khổ hạnh nầy: một giáo lý thường
kiến vậy kia?
--- Hãy bình tĩnh!
Hãy bình tĩnh! Này nàng Bhadda đừng tự buộc mình vào những thằng thúc!
Đừng bị bịt mắt trước ngọn đèn sáng suốt tự tâm. Hãy nghe đây! Cho
bần đạo hỏi một câu, với một câu thôi nàng sẽ tự giải quyết cho chính
mình. Câu hỏi như thế này: Cáng của ngọn đèn trước mắt nó thường hay
đoạn?
--- Chẳng phải
thường--- Nàng nghĩ--- Thường sao được khi nó sinh diệt từng giây từng
khắc! Chẳng phải đoạn, đoạn sao được khi nó đang hiện hữu!
Thấy nàng Bhadda im
lặng, tôn giả Xá Lợi Phất tung câu hỏi thứ hai:
--- Này nàng
Bhadda! Thuở nàng 5 tuổi, nàng thấy một bông hoa. Thuở nàng 30 tuổi
nàng thấy một bông hoa. Nàng có thay đổi dẫu cái hoa có khác, quan
niệm đẹp xấu có khác, nhưng cái thấy của nàng có thay đổi không?
--- Không thể thay
đổi, thưa tôn giả.
--- Nó chẳng phải
thường không?
***-- Câu nầy tả
tánh thấy và cái bị thấy (thường đoạn). Tánh thấy thường hằng bất biến,
đó là năng tri. Cái bị thấy hay đối tượng là những thực tại giả lập, hay
thay đổi, vô thường tức là cái sở tri.
Câu 4.
H: Ta muốn hiểu cái
sở tri về bậc A La Hán ở nhiều phương diện khác nhau. Vị ấy làm thế nào
bước ra khỏi giòng bộc lưu sanh tử đang xiết chảy?
Đ: Bước
tới là lăn trôi. Dừng lại là chìm đắm. Bậc A La Hán không bước tới,
không dừng lại, vị ấy ra khỏi giòng bộc lưu sanh tử! Này nàng Bhadda,
cái đáp số ấy thậm thâm vi diệu, vi tế, vượt ngữ ngôn vượt suy luận,
dành cho kẻ trí, kẻ thâm đại pháp, dành cho kẻ tu chứng. Có lên đường ai
ăn mới biết no, chứ không để cho nàng --- kẻ ngoại giáo, kẻ đứng ngoài
cuộc, kẻ với tri thức thuần túy --- muốn dùng cái hiểu biết nông cạn,
cái tự ngả kiêu căng và đa dục của mình, để nắm bắt cái siêu việt không
thời gian, cái bất tử, cái chân phúc, cái niết bàn vô dục và tịch tịnh.
Này nàng Bhadda! Nàng có đủ kham nhẫn tịch lặng để lắng nghe những lời
như vậy không?...
****--Câu
thứ tư nầy diễn tả rất thâm diệu về thiệt tánh giác trong hai giai
đoạn, hàng phục vọng tâm và an trụ tâm.(không duyên theo trần cảnh và
không trụ vào vọng tâm)
Hỏi: Làm
thế nào ra khỏi giòng bộc lưu sanh tử đang xiết chảy?
Trả lời:
Bước tới là lăn trôi. Dừng lại là chìm đắm ; cho nên, không bước tới,
không dừng lại ra khỏi giòng bộc lưu sanh tử đang chảy xiết.
*-Bước
tới: tiến về phía trước mặt: tương lai, khoảng không gian phía trước.
Bước tới
là lăn trôi theo thời gian huyễn hóa, hay lăn trôi theo trần cảnh
giả lập. Bước tới là lăn trôi theo sự vật huyễn hóa, nhân duyên chằng
chịt, sanh tử luân hồi khổ đau phiền não. Phủ định tương lai (không bước
tới) và phủ định quá khứ (dừng lại) là Trung Đạo, là vượt khỏi Thời
Không.
Không
bước tới là giai đoạn đầu của nhận thức đúng đối tượng giả lập và không
chạy theo những ảo tưởng tức là giải thoát được khổ đau và phiền não
(phủ định những sự vật giả lập).
Không
bước tới là tri thức đúng được thực tại giả lập, đó là sự hiểu biết
suông. Trong giai đoạn nầy chỉ thấy mọi sự giả vọng là không thật
mà tránh nó đi, thì trạng thái tâm lúc bấy giờ thanh thản, không còn bận
bịu, dính dáng gì đến phiền não khổ đau.Tuy nhiên, tri cũng chưa đủ
mà cần phải hành.Trước tiên, khai mở đường đi đến thế giới chơn thật,
thấy được con đường rồi tức là giai đoạn khai thị của tri thức. Đến giai
đoạn hành, thì phải ngộ nhập như phải đi thì mới đến, ai ăn mới no. Tri
thức đúng thực tại giả lập và phải thể nhập thực tướng của thực tại
giả lập đó, là hai giai đoạn giác ngộ niết bàn tuyệt đối. Đó là trực
nhận ngay thể không của sự vật.Sắc không khác không, Đưa tất cả thực
tại giả lập vào thực tại tuyệt đối mà không còn thấy thực tại giả lập đó
nữa.
* Dừng
lại: Chận giòng thời gian phía sau lưng, là quá khứ. Dừng lại là trụ vào
cái thực tại giả lập (quá khứ) mà chìm đắm trong vọng tưởng triền miên,
trong sanh tử luân hồi của giòng sống đang xiết chảy theo thời gian
không ngừng.
Không
dừng lại là không trụ vào quá khứ cũng như không trụ vào tất cả các
chỗ, vào các thực tại giả lập mà phải xa lìa bốn tướng (Ngả tướng, Nhơn
tướng, Chúng sanh tướng, Thọ giả tướng).
Không
bước tới và không dừng lại là vượt ra khỏi giòng bộc lưu sanh tử.
Tương lai
hay quá khứ không thể nắm bắt, bất khả đắc. Cho nên không nghĩ đến
tương lai mà lăn trôi theo ảo giác, mà cũng không hồi tưởng quá khứ hay
trụ vào vọng tưởng hoặc là thực tại giả lập mà phải xa lìa bốn tướng.
Vô thời không là thể trạng của một sát na hiện tiền, một khoảnh khắc
hiện tại, thắp sáng được cái hiện hữu ấy cũng là khai mở con đường
đi đến chân nguyên. Do đó, khi chúng ta không bước tới là dứt bặt nhân
duyên sanh diệt, và không dừng lại là không trụ vào cái giả lập,
thì ngay đó vượt qua thời không rồi. Ngay lúc nắm bắt được cái vô thời
không là giác ngộ niết bàn tuyệt đối, cũng là lúc ra khỏi giòng bộc lưu
sanh tử đang chảy xiết. Thực vậy, người có đi ắt có đến, người có ăn ắt
có no, chớ tri thức thuần túy chỉ là hí luận mà thôi.
Tôn
giả Xá Lợi Phất với thiên nhản, Tha tâm thông, thấy rõ tâm địa nàng,
đưa ra một câu hỏi kết thúc. Một câu hỏi vứt bỏ sở tri để dẫn nàng về
với giáo lý thiết thực hiện tại.
--- Bây
giờ tới phiên ta hỏi, này nàng Ta Bà Ni Sư khổ hạnh: Thế nào gọi là Một?
Thời gian
lặng lẻ trôi qua khi câu hỏi được đặt xuống. Quần chúng nín hơi, nghẹt
thở. Vừng trán nàng Bhadda từng hạt mồ hôi to bằng hạt bắp không ngớt
tuôn ra. Mái tóc lún phún đã bắt đầu điểm bạc. Một triệu kiếp tư duy
cũng không trả lời được câu hỏi tầm thường, giản dị kia. Chỉ với một câu
hỏi mà nàng Bhadda của chúng ta đã già đi ngàn năm.
--- Này
nàng Bhadda! Nàng hỏi ta một câu, mười câu, trăm câu, ta đã trả lời
nàng đầy đủ cả chặng đầu, chăng giữa, chặng cuối, thế mà ta chỉ hỏi một
câu, nàng cũng không trả lời ta Một là gì? Một là thế nào? Mà nàng cũng
không hiểu, không biết. Thế mà nàng lại đòi biết cho kỳ được cổ kim
thiên hạ sự, đòi hiểu cho hết chuyện trên trời dưới đất. Kinh như núi,
chử như rừng...thế đấy! Là trí tuệ của người đi cắm nhánh diêm phù đề
khắp cả thiên hạ.
Như thân
cây bị chặt đứt, nàng Bhadda chợt phủ phục xuống bên chân bậc
trí tuệ bậc nhất.
--- Kính
lạy tôn giả con chịu thôi, không một câu hỏi nào mà con dám trả lời nữa.
Với một tự ngã kênh kiệu vô tư, con đã đi đánh trống khắp cửa mọi
nhà, để bây giờ biết rằng đất trời vô lượng. Tôn giả đã kham nhẫn,
từ bi soi sáng cho con, chỉ đường cho con, đem đèn vào trong bóng tối
để ai có mắt có thể nhìn thấy sắc. Cũng vậy, xin Ngài xá tội cống cao
ngả mạn của con, cho con trọn đời quy ngưỡng.
*****
Xá Lợi Phất muốn nàng Bhadda vứt bỏ Sở Tri, dòng Tri Thức Vụn Vặt để trở
về Tri Thức Nguyên Thủy hay Giác Trí Tuệ, hay Nhất Nguyên Tính Tuyệt Đối
(Thực tại tuyệt đối), tức là Chân Lý Tối Hậu là sự giác ngộ. Cứu cánh
của đạo Phật chỉ duy nhất là con đường giác ngộ giải thoát.
C.
Kết Luận
Sống trong thế
giới vô thường, con người làm sao tránh khỏi vòng hệ lụy đến danh lợi
tình, nhứt là tình yêu dễ đưa con người lăn lóc theo dòng bộc lưu của
dục vọng và phiền não. Nàng Bhadda, con quan sống trong nhung lụa (danh
lợi) mà còn phải lụy vì tình. Trải qua thăng trầm và thất bại trong cuộc
sống tình cảm, nàng Bhadda thấy lòng mình nguội lạnh như đóng tro tàn.
Nàng ngõ: “Vô vọng, dối trá, và rỗng không thay là lòng người--- là tình
yêu! Trái đắng và mật đen đã quyện lên đầu lưỡi ta. Đời người vui ít,
khổ nhiều. Từ rày, ta không còn mặt mũi nào trở lại gia đình nữa”. Trên
núi cao, quên bẳng ngoại giới, nàng chìm trong tư duy suốt mấy ngày đêm.
Từ núi cao, cuộc phản tĩnh kỳ lạ đã chuyễn hướng cuộc đời nàng. Trong sự
tư duy sâu sắc để tìm đường vượt khỏi thế giới vô thường khỏ ưu là nhân
tố để gặp được Ngài Xá Lợi Phất giáo giới, cũng là một duyên lành hiếm
có để hiểu rõ và thọ trì giáo pháp của đức Thề Tôn, là hư không hóa mọi
hữu tồn dẫu tâm hay vật (tâm pháp đều không); đó là pháp vô ngã, tức con
đường giác ngộ giải thoát khỏi dòng sanh tử luân hồi và khổ ưu ở thế
giới hiện tượng vô thường nầy.