Hạnh hiếu của người con Phật
là một pháp tu, căn cứ trong pháp Tứ Ân Phật dạy, Ân Cha mẹ, ân Chúng
sanh, ân Quốc vương, ân Tam Bảo. Người nào thực hiện tròn đủ hạnh hiếu
với Cha Mẹ, sẽ dễ dàng hiểu biết và thực hiện tất cả những lợi ích còn
lại trong đời sống bản thân, gia đình, xã hội. Ngược lại sẽ mất nhiều
lợi ích trong đời sống, để cuối cuộc đời, đau khổ không lìa khỏi thân
tâm người đó.
Hiếu Cha mẹ.
Phải hiểu hiếu hạnh thế nào
mới gọi là thật hiếu, mới có thể thật sự đền đáp thâm ân cha mẹ. Thông
thường chúng ta hiểu phải vâng lời cha mẹ, phải trưởng thành nên người,
cuối cùng phải nuôi nấng dưỡng dục khi cha mẹ tuổi bóng xế chiều. Bổn
phận nghĩa cử của người con là vậy, ai cũng hiểu; tuy nhiên lắm lúc hoàn
cảnh không được thuận theo, khi trường hợp Cha Mẹ chẳng dạy được con,
còn làm con cái phiền hà đau khổ. Hoàn cảnh như thế, người con khó thể
thực hiện được hạnh hiếu, và thường phó mặc buồn chán, không màn gì cả,
cuối cùng khổ càng thêm khổ.
Theo giáo lý nhà Phật, đây
là quả báo nghiệp duyên của một số ít người, hay nhiều người phải chịu
như vậy. Nghiệp báo này phải chịu đựng cho đến bao giờ, tùy theo nghiệp
lực đã làm trong quá khứ, cũng như nhân nghiệp đang làm trong hiện tại.
Nếu hành động hiện tại tạo đủ thiện duyên phước đức, quả báo hiện tại sẽ
đủ chuyển đổi hoàn cảnh đời nay, bớt đi đau khổ, lại còn được an vui.
Xét như trên, nếu muốn hiếu
thảo đền ân cha mẹ, người con phải hiểu nhân quả. Hiểu rằng cha mẹ có
đối xử thế nào đi nữa, nhất định đã có sự liên hệ với ta trong nhiều
kiếp quá khứ, hoặc ân hoặc oán. Ân oán đó từ sự gần gũi thương yêu sinh
ra; có thể ban đầu rất thương yêu, rồi vì tự hiềm, tự kỷ, dục lạc cá
nhân, thương yêu trở thành oán hận, oán hận thành thù địch, đeo đuổi tìm
kiếm qua bao nhiêu đời kiếp.
Nếu đời này ta có hiếu là do
đời trước cha mẹ và ta gieo duyên thương yêu quá nhiều, trong đó ta là
người vay tình thiếu nghĩa với cha mẹ, cho nên ngày nay phải đáp ân trả
hiếu. Nếu đời này ta không trọn hiếu với cha mẹ, có lẽ đời trước cha mẹ
đã khiếm khuyết ân tình với ta, đã không được liên hệ thương yêu giữa
hai bên đầm ấm. Đại khái nhân nghiệp quá khứ như vậy, cho nên hiện tại
ngày nay mới xảy ra. Nhưng như đã thưa, thế nào đi nữa, ta và cha mẹ đã
gắn bó gần gũi với nhau nhiều đời rồi.
Giáo lý Phật dạy, chẳng có
gì không có nhân duyên, nhân quả. Và nhân quả đó sẽ chấm dứt, chẳng còn
xoay chuyển lung lạc với ta nữa, là bao giờ ta thành Phật chứng đạo giải
thoát; còn như chưa đến bậc toàn giác, dù bậc Bồ Tát lớn vẫn phải tiếp
tục dụng công tu tập không bao giờ dám lầm lẫn nhân quả được.
Khi hiểu được sự liên hệ
giữa tình cảm thương yêu của Cha Mẹ, chúng ta phải càng thương cha mẹ
hơn, vì sao? Vì trước tiên ta nhờ Cha mẹ mới sanh được làm người, chứ
không phải làm thú. Làm thú không bao giờ có cơ hội hiểu biết như người,
để hiểu biết nhân quả chấm dứt sự ân oán trả vay trong vô số kiếp. Ta
đừng cho rằng cha mẹ chỉ là nhân thương yêu dục lạc mới sanh ra ta; nếu
nghĩ như vậy ta sẽ chẳng có tình thương nào với bất cứ ai, vì tất cả
những người trên thế gian này đều do nghiệp lực ái dục mà ra. Vậy thì ta
phải sống và thương yêu ai đây, cho đúng người ta chọn không từ dục lạc
sinh ra ?
Thế gian này nếu có một
người đạo đức toàn thiện, đáng làm Thầy ta thì người đó cũng từ nghiệp
ái sinh ra; ngay cả đức Phật cũng phải từ vô thỉ kiếp từng là chúng sanh
trong dục giới, có khi còn làm thú nữa. Tất nhiên hiện thời, hay nói
đúng hơn từ khi chúng ta biết được Đức Phật xuất hiện tại Thiên Trúc ta
mới chọn đúng một người không từ nghiệp ái dục lạc sinh ra. Người đó
(Phật) mới thật xứng đáng. Và theo tinh thần Bồ Tát đạo những đệ tử
chứng Thánh quả cũng không phải là người từ dục lạc sinh ra, đó chỉ là
sự thị hiện thọ sanh, hóa độ chúng sinh mà thôi.
Thế thì ta phải hiếu thảo
cha mẹ, là sự tri ân đầu tiên sinh được làm người, dù nhân duyên với cha
mẹ có xảy ra thế nào đi nữa. Chỉ có làm người ta mới học hiểu được tất
cả sự việc trên đời này; chỉ có làm người ta mới hiểu biết vô số thế
giới chỉ là nhân duyên, nhân quả thiện ác tạo thành; và chỉ có làm người
ta mới biết giáo lý giải thoát, phát Bồ Đề Tâm thành Phật giải thoát tất
cả…
Hiểu được thắng duyên lợi
ích làm người, và sự liên hệ thương yêu với Cha Mẹ, rồi hiểu được giá
trị cao cả hơn nữa, từ sự quả làm người mới hiểu giáo lý giải thoát; bây
giờ ta mới thấy sự hiếu thảo đối với Cha Mẹ rõ ràng không phải chỉ là
đơn thuần vâng lời, phụng dưỡng nuôi nấng. Ta phải nhất định gây nhân
tạo duyên, cùng với Cha Mẹ tìm hiểu Nhân Quả nghiệp báo; tự bản thân
chúng ta phải quy y Tam Bảo, hướng dẫn chính mình trở về với giáo lý
giải thoát; ý thức cuộc đời là vô thường, đời sống hoàn toàn chỉ là vòng
xích nhân duyên nhân quả luân hồi đau khổ. Phải dâng tặng cúng dường Cha
Mẹ món quà cao cả nhất là ba ngôi Tam Bảo, là sự nương về quy y Phật,
quy y Pháp, quy y Tăng (đoàn thể thanh tịnh). Cha Mẹ mà hiểu được, rồi
quy y Tam Bảo, đó là niềm vui lớn nhất của người con, và đó là hiếu hạnh
không thể nghĩ bàn được. Bấy giờ ta với Cha Mẹ sẽ trọn đầy một tình
thương bất diệt, không còn phải trong tình thương ái dục, hứa hẹn những
kiếp sống sau.
Thương hiểu chúng sanh
Sau khi đã hiểu thực hành
hạnh hiếu dâng hiến cho Cha Mẹ, người Phật tử không thể không nghĩ đến
tất cả chúng sanh khác. Chúng sanh đó là ai? Xin thưa, cũng là Cha Mẹ
nhiều đời nhiều kiếp của chúng ta. Trong Kinh Báo Hiếu Ân Phụ Mẫu có
đoạn kể, chính Phật còn phải quỳ lạy đống xương khô! Vì sao? Vì Ngài dạy
rằng, trong những lớp xương khô đó có kẻ đã từng làm Ông Bà, Cha Mẹ
Ngài.
Đã có Ông Bà, Cha Mẹ, tức
phải có thân thuộc vợ chồng, anh chị em với nhau. Nói chung tất phải có
liên hệ tình cảm thương vui, cùng khổ với nhau. Hễ còn là chúng sanh là
còn trong ba cõi triền phược nhiễm tình; người trước kẻ sau cứ mãi quay
quanh trong đau khổ. Vậy đến chừng nào mới dứt, nếu không biết giáo lý
giải thoát vượt khỏi luân hồi.
Khi ta ý thức được vòng luân
hồi nhân quả của kiếp người vì tình thương dục ái, ta mới hiểu mới
thương yêu cha mẹ; và còn nghĩ tưởng đến tất cả những người quen biết,
xa lạ, có khác gì hơn hiện ta đang sống.
Trong pháp Tứ ân, thiết nghĩ
ân cha mẹ là hàng đầu, nhưng lại nghĩ ân chúng sanh chẳng có khác biệt,
vì chúng sanh cũng từng là cha mẹ chúng ta - huống chi có chúng sanh mới
có cha mẹ; đó là sự liên hệ tương quan của muôn loài vạn vật nương tựa
tồn tại lẫn nhau, không có cái này sẽ không có cái kia, và ngược lại.
Thử nghĩ ta có thể sống còn được bao lâu, nếu từ chối mọi thứ từ vô số
bàn tay khối ốc của người khác.
Cuối cùng quan trọng hơn
hết, là tất cả chúng sanh đều chẳng khác nhau trên mặt bản thể thanh
tịnh, nghĩa là bản tâm thể tánh với nhau như một. Khi chưa giác ngộ
người này kẻ kia có thể sai khác, đó là nhân quả mỗi người, mỗi hoàn
cảnh chánh báo, y báo, tức hình thù khối óc; nhưng khi đã hiểu giáo lý
giải thoát, tất cả sẽ trở về với bản thể chân như vô ngại. Nói rõ hơn đó
là Phật tánh, là tánh thể của Như Lai, như lời Phật dạy: Tất cả chúng
sanh đều có Phật tánh.
Cụ thể hơn nữa, Phật dạy
“Phụng sự chúng sanh là cúng dường chư Phật”; đây là việc khẳng
định, và đến đây chúng ta nên hiểu, thực hiện trở thành một con người
chân chính trong xã hội nhân quần, đó cũng là điều thực hiện hiếu dưỡng
cha mẹ; và ngược lại hiếu cha mẹ, mới hiểu được tình thương tất cả.
Tóm lại chúng sanh từ vô thỉ
kiếp cứ vì bó buộc trong thương yêu vị kỷ cá nhân, chỉ sống vì mình
không thường nghĩ đến thế giới chung quanh muôn người muôn vật. Bản tánh
như vậy, tạo thành ngã ái tham si, không thể ra khỏi luân hồi sinh tử.
Phật dạy hiếu dưỡng cha mẹ, đó là pháp cơ bản để kính trọng muôn loài;
do tình thương hiếu dưỡng này ta mới thấy tất cả đều có cha mẹ, tất cả
đều cần tình thương. Và tình thương hiếu kính nếu được đối xử với tất
cả, mới đúng là tình thương chân thật, không phân biệt giả dối.
Pháp giới vô biên không
tưởng được, nhưng tâm tưởng chúng ta có thể chu du khắp pháp giới, đó là
theo lời Phật dạy, tâm sinh ra tất cả, tâm tạo thiện tạo ác, tâm là họa
sư có thể vẽ vời muôn cảnh; và tâm có thể thành Phật độ vô số chúng
sanh.
Cứ mỗi mùa Vu lan đến, xin
được cầu nguyện đến tất cả những người con của cha mẹ, trên khắp năm
châu bốn biển, cùng nhau thực hiện niềm hiếu dưỡng kính thương đến hết
thảy muôn loài.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu
Ni Phật
Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền
Liên Bồ Tát
Thích Phổ Huân.
Pháp Bảo ngày 15/07/2008
(cùng một tác giả)
----o0o----
Cập nhật: 01-06-2012