Đơn
giản về
Học Phật
Đại sư Ấn Quang
giám định
Cư Sĩ Vương Bác Khiêm
tập thuật
Hải Huyền Viên Giáo
dịch Việt
TỰA
^
Phật pháp rộng sâu như biển lớn, chỉ có
Phật với Phật mới có thể thấu triệt được cội nguồn. Ngoài ra chín hạng (Bồ
Tát, Duyên giác, Thinh văn, Trời, Người, A tu la, Súc sinh, Ngạ quỷ, Địa
ngục) trong pháp giới, tuy Thánh hay phàm, người bén nhạy hay kẻ chậm
lụt…mỗi người đều theo phần lượng của mình mà tu tập để được chứng nhập.
Ví dụ như con voi và con muỗi cùng uống nước nơi biển lớn, mỗi con no
bụng tự đi, nếu muốn uống một lần cho hết nước, trừ phi đầy đủ lượng
chứa như biển lớn mới có thể được; chẳng được như thế thì chỉ có thể
thưởng thức cái vị đó, mà chưa dễ gì cùng nguồn tột đáy vậy. Song Phật
pháp là pháp mà tất cả chúng sinh ở nơi tâm vốn đủ, ngoài tâm chúng sinh
trọn không có một pháp nào được thêm ích lợi; bởi vậy tâm của tất cả
chúng sinh, ngay nơi Thể, cùng Phật không hai, không khác. Chỉ vì do mê
chưa ngộ, khởi mê lầm tạo nghiệp, rồi theo nghiệp mà tạo khổ; để cho trí
huệ đức tướng vốn đủ nơi tâm bị che mờ bởi phiền não ác nghiệp, như mây
che mặt trăng, không thấy được tướng sáng. Tuy không thấy được tướng
sáng, mà tướng sáng của trăng thường tự như như, trọn không tăng giảm.
Do đó đức Như Lai khởi lên lòng Từ “Vô duyên”, vận dụng tâm Bi “Đồng thể”,
tùy thuận căn cơ thích nghi mà nói pháp. Tuy là tùy căn cơ: Lớn, nhỏ,
quyền biến, chơn thật, thiên lệch, tròn đầy, tức khắc hay lần hồi…mà thi
thiết ra chẳng đồng nhau; nhưng bản ý của đức Phật là không pháp nào
chẳng khiến cho tất cả chúng sinh bỏ trần lao về nẻo giác, hết mê được
ngộ, ra khỏi tử sinh huyễn vọng thành tựu Phật đạo vốn đủ mà thôi!
Vì nghiệp chướng của chúng sinh sâu nặng, chưa dễ tiêu trừ, cho nên đức
Phật đặc biệt mở ra pháp môn Tịnh Độ, tin và nguyện niệm Phật, giúp tất
cả hoặc Thánh, hoặc Phàm, hoặc ngu, hoặc trí…đồng nương nhờ sức thệ
nguyện rộng lớn của đức Phật A Di Đà mà vãng sinh Tây phương; thì sẽ trở
lại tâm tánh vốn đủ mà thành Bề đề vô thượng, cũng là dễ dàng hơn vậy.
Từ khi Phật pháp vào đời, hơn một nghìn tám trăm năm trở về sau, phàm là
Thánh quân, hiền thần, vĩ nhân, danh sĩ…chẳng ai là chẳng tôn ngưỡng
vâng theo lời Phật dạy, hộ trì lưu thông; bởi vì Phật pháp tuy thuộc
pháp xuất thế, mà có được đạo trị đời của thế gian, thảy đều bao quát
hết; như là: Cha từ, con hiếu, anh tốt, em cung kính, chồng hòa, vợ
thuận, chủ có lòng nhân, đầy tớ có lòng trung…bao hàm cùng với chỗ nói
của Thánh nhân thế gian không khác. Thánh nhân thế gian chỉ khiến con
người tận nghĩa, tận bổn phận; Đức Phật thời dạy rõ đầy đủ việc báo ứng
thiện – ác đối với người có thể tận nghĩa, tận bổn phận và người chẳng
có thể tận nghĩa, tận bổn phận.
Hết lòng vì nghĩa, vì bổn phận chỉ có thể dạy hạng người thượng trí. Nếu
đối hạng người bẩm tính ngu dốt kém cõi, thời chẳng là ngụy làm, cũng là
trái lẽ. Vả lại biết được quả báo thiện ác, thời muốn làm việc thiện ắc
sẽ cố gắng nổ lực, muốn làm điều bất thiện thì sẽ chẳng dám làm. Đức Như
Lai dã dạy các pháp về nhân quả ba đời và luân hồi sáu nẻo…người có căn
cơ sâu sẽ thấy sâu, căn cơ cạn sẽ thấy cạn. Lấy đó tu tâm tức có thể dứt
mê lầm chứng được chánh chơn, liễu sinh thoát tử. Lấy đó để trị đời, sẽ
dẹp được sự tàn hại, bỏ đi sự giết chóc, quay về với sự tốt đẹp. Lòng
người lẽ đời gần đây, bị giam cầm trói buột đã đến cực điểm; đua nhau
đưa ra nhiều phép tắt, phế bỏ đi những điều tốt đẹp xưa. Tuy là cái đạo
luân thường cha – con, chồng – vợ…hãy còn muốn đổi dời, huống nữa là
những việc nhỏ ư! Bởi vậy thiên tai nhân họa liên tục xảy ra; vận nước
nguy cấp, dân chẳng sống yên. Có người có lòng với nhân tâm với lẽ đời,
muốn cứu vãn, khuyên khắp mọi người đều nên nghiên cứu Phật học, ngăn
ngừa sự giết hại mà nên phóng sinh, ăn chay niệm Phật, chẳng làm các
việc ác, nên làm các việc thiện. Từ một người truyền đến mười người,
mười truyền trăm, trăm truyền nghìn, truyền vạn…cứ vậy lan rộng ra, mới
có thể mong thiên hạ thái bình, nhân dân an lạc. Đây mới thật sự là cái
vòng phép tắc căn bản để trị loạn dẹp nguy, cải cách cuộc đời và lòng
người vậy.
Đời hiện tại, nếu chẳng dùng vấn đề nhân quả báo ứng, sinh tử luân hồi
để làm lời dạy răn, thì tuy Thánh hiền nhất loạt xuất hiện ở nơi đời,
cũng chẳng biết như thế nào! Nếu chẳng lấy TÍN – NGUYỆN niệm Phật, cầu
sinh Tây phương để tu; thì dẫu thiên tư cao thượng, cũng khó dứt mê lầm
chứng chánh chơn, liễu sinh thoát tử.
Cư sĩ Vương Bác Khiêm túc căn sâu dày, thiết tha có lòng giúp đời; vả
lại ông là chủ bút tờ báo, nắm giữ cơ quan ngôn luận. Ông mong muốn mọi
người đều được học Phật. Vì kinh luận Phật giáo đã được viết thuật, văn
nghĩa sâu xa, dẫu người có trí tuệ văn chương, lâu ngày nghiên cứu, hãy
còn khó nắm được chỗ yếu chỉ mà quay về, thâm nhập được chỗ uyên áo;
huống gì là kẻ thiếu trí? Do đó, dùng cái lý mà mình đã thấy biết, đại
khái dùng văn tự thông dụng, ông viết ra quyển HỌC PHẬT THIỂN THUYẾT
(nói đơn giản về Học Phật) gồm hai mươi thiên. Những lời văn đó vốn đều
là kinh luận của Phật Tổ, chẳng qua là ông mượn lời văn đơn giản để phát
huy, vì mong mọi tầng lớp, mọi hạng người đều được hiểu rõ. Bởi dùng
hình thức tuy khác, mà nguồn chí đạo lại đồng…nhân xem xét tường tận,
rất là hoan hỷ. Hãy mở lòng ra để biểu thị sự đồng ý. Nguyện khắp tất cả
những người xem đồng sinh tín tâm; có lợi ích tự chứng biết.
Trung Hoa Dân Quốc năm thứ 13
Cuối Xuân, năm Giáp Tý
Cổ Tân thường tàm quý Tăng
THÍCH ẤN QUANG soạn
CON NGƯỜI
VÌ SAO PHẢI HỌC PHẬT? ^
Chúng ta nên biết rằng con người lý do
vì sao phải học Phật? Trước tiên cần phải biết đức Phật Thích Ca Mâu Ni,
duyên cớ sao xuất sinh ở cõi nầy?
Kinh Pháp Hoa nói rằng: “Đức
Phật vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời”.
Thế nào là đại sự? Tức là việc lớn sinh tử của con người. Chúng ta nên
biết, mỗi người đều có một cái “Bản lai diện mục”. Bản lai diện mục nầy
danh từ của Phật giáo gọi là PHẬT TÁNH, còn danh từ mà thế tục thường
dùng gọi là LINH TÁNH. Nó vốn là một cái không có hình tượng, chẳng thể
dùng ngôn ngữ mà hình dung. Nhiều đời trải qua, chư Tổ Sư, ở trong sự
không thể hình dung ấy, giả định ra một từ thoại đầu hình dung nói là:
vòng tròn tròn, sáng rờ rỡ, đo đỏ…chẳng dính dù một sợi tơ…đây cũng
chẳng qua là một cách hình dung đại khái để bày biện vậy mà thôi!
Chúng ta nên hiểu rằng Bản lai
diện mục của chúng ta, ở thời gian vô thủy trở về trước vô minh chưa dấy
động (vô minh là tâm si ám, Thể không ánh sáng trí huệ) vốn là
“bất tử bất sinh” giống như tâm tánh Phật, nhân vì vô minh dấy động tức
thì rơi vào vòng trói buộc của sinh tử; Từ đây sinh sinh tử tử đời đời
kiếp kiếp; ở trong biển khổ sinh tử theo nghiệp trôi lăn (Theo nghiệp
trôi lăn là theo lực nghiệp thiện ác hữu lậu các thứ mà thân, miệng, ý
của mình đã tạo tác, rồi trôi lăn ở trong sáu đường), vĩnh viễn
không vượt khỏi được vòng trói buộc của sinh tử. Vả lại ở trong biển khổ
sinh tử thường thường chẳng lấy làm khổ mà ngược laị cho là vui. Giống
như loài lằn xanh cả ngày vo ve, bay qua bay lại hoài chẳng biết bận rộn
chút nào! Ở trong mắt huệ của Như Lai, Ngài xem xét tình trạng điên đảo
nầy của chúng sinh thật đáng thương thay!
Chính như kinh Pháp Hoa đã nói:
“Các món khổ như thế, mà chúng sinh chìm đắm ở trong đó, vui vẻ dạo
chơi, không hay không biết, không sợ không hãi, cũng chẳng nhàm chán,
chẳng cầu giải thoát. Ở trong nhà lửa ba cõi nầy, rảo chạy đông tây, tuy
gặp khổ lớn, chẳng lấy làm lo”.
Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni ở thế giới Ta bà chúng ta, trong vô
lượng kiếp về trước đã sớm thành Phật rồi, nhân vì thương xót chúng ta
trầm luân nhiều kiếp trong biển khổ sinh tử, ngu si chẳng tỉnh, trọn
không cơ hội quay đầu về đến bờ bên kia (đến bờ kia là ra khỏi biển
khổ vậy). Do đó đã phát lòng Từ bi lớn, chẳng tiếc gì cả ứng thân
cứu đời. Nhằm vào triều nhà Châu ở Trung quốc, tại nước Thiên trúc ở
trung Ấn Độ, giáng sinh làm Thái tử của vua Tịnh phạn, Ngài từ hông bên
phải của mẹ là Ma Gia phu nhân mà sinh ra…rồi sau đó đã xả bỏ vinh hoa
của cả nước đi xuất gia và thành đạo ở Tuyết sơn (Tuyết sơn, tức là
núi Hy Mã Lạp Sơn, cao cách mặt biển hai vạn chín nghìn thước, trên đỉnh
tuyết phủ nghìn năm, nên gọi là Tuyết sơn…), đã nói pháp lớn trong
bốn mươi chín năm. Hiện tại các loại kinh điển Phật giáo đều là được nói
từ kim khẩu của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Nhưng muôn lời vạn lẽ, nói tới
nói lui, nói cho đến cùng nguồn tột đáy, không lời nào chẳng phải là độ
người thoát ly sinh tử, vượt ra biển khổ. Do đó, Kinh Pháp Hoa đã nói
rằng: “Đức Phật vì một nhân duyên đại sự mà xuất hiện ở đời”.
Với lòng Từ bi, đức Phật đã vì vấn đề lớn sinh tử của chúng sinh mà xuất
hiện ở đời; chúng ta lại chẳng triệt để giác ngộ, lại chẳng dõng mãnh
phát tâm, như thế rất là cô phụ ơn Phật, tự ta bỏ bê, ngàn vạn ức kiếp
không biết lấy gì để ra khỏi biển khổ sinh tử được!
Con người có sinh tức đều có
chết, đều tham sống sợ chết. Mọi người muốn thoát ly sinh tử chỉ có sự
phát tâm sửa đổi điều ác tu hành điều thiện, chí thành niệm Phật, tức
được vãng sinh về thế giới Cực lạc ở Tây phương, hưởng được niềm vui bất
tử vĩnh viễn ở nơi ấy. Chẳng như vậy thì càng sợ chết càng phải chết, ở
trong luân hồi, sinh rồi lại chết, chết rồi lại sinh; dẫu trải qua số
lượng kiếp nhiều như bụi trần cũng khó mà ra khỏi luân hồi nơi sáu nẽo;
tức là vĩnh viễn ở trong trạng thái tham sống sợ chết, ở mãi trong sự
sống chết, vượt không khỏi cái lồng sinh tử nầy. Muốn thoát khỏi nó,
khuyên nhau gấp nên học Phật.
Tôi (Cư sĩ Vương Bác Khiêm) lúc
thiếu niên, có danh văn chương từ nhỏ, cuồng vọng ngu lầm, trước mắt
không có ai, không những không chịu học Phật mà lại còn bác bỏ Phật, nói
người nhà ai học Phật là mê tín, đến nỗi trì trai ăn chay, rất là phản
đối. Thuở đó, tôi tự tin là thành phần trung kiên bác bỏ Phật pháp,
chẳng luận như thế nào cũng không chịu hàng phục. Tuy cũng đã xem mấy bộ
kinh Phật, nhưng ngược lại là đem làm tư liệu để bài bác Phật, kỳ thật
những lời vi diệu, ý chí sâu xa ở trong kinh Phật trái lại không lãnh
hội được một cách chín chắn, chỉ là trộm lấy một hai câu, rồi nói quàng
nói xiên, bới lông tìm vết. Nay hồi tưởng lại, thật là tội lỗi, thật là
hổ thẹn! Lúc tôi là thiếu niên khí mạnh mẽ, không những không tin có
Phật, vả lại quên mất vấn đề chết; sau này tuổi lớn lên dần dần mới hiểu
được quan niệm con người sinh ra phải có một ngày chết đi, lại xúc động
với ý nghĩ tham sống sợ chết! Thường một mình nằm ngủ trên giường lúc
sáng sớm thức dậy, nghĩ trước nghĩ sau, muôn niệm cứ mãi khởi diệt: -
Ban đầu nghĩ: Ta năm nay được bao nhiêu tuổi rồi? Không biết còn sống
mấy năm nữa? – Lại nghĩ: Người sống thọ và yểu chẳng giống nhau, ta hôm
nay đang vui vẻ, ngày mai chết cũng không chừng! – Lại nghĩ: Từ ấu thơ
đến thiếu niên, từ thiếu niên đến thanh niên…đều trải qua trước mắt,
chẳng qua là một tích tắc; nếu được sống đến trăm năm, cũng chẳng qua là
một tích tắc thì hết việc rồi! – Lại nghĩ: Hiện tại chỗ nầy, phòng nầy,
giường nầy…ta ở ta ngủ, trong tích tắc, ta đi rồi không biết là những
thứ đó người nào ở, ngủ! – Lại nghĩ: Sau khi ta chết, có phải là diệt
mất hay không? (đây tức là chỗ chấp đoạn diệt của chúng sinh, cần nên
biết rằng tâm tánh là trường tồn chẳng diệt). Nếu như diệt mất thì
cũng xong rồi; dẫu lại có đời sau, thì TA đời sau cũng không nhớ được TA
đời nầy. Lại lặng lẽ một mình tính toán rồi một mình thở vào thở ra.
Nghĩ rằng hơi thở nầy của ta một khi thở ra, đến lúc không thở vào, thì
muôn sự thành không, thê thảm thế sao! – Lại nghĩ: Người đời ra sinh vào
tử thê thảm như thế, có phương pháp nào có thể tránh khỏi sinh tử chăng?
Nghĩ ngợi muôn nghìn lần vẫn không có! Lúc đó suy nghĩ của tôi giống như
cái ròng rọc quấn lên tuột xuống; tâm can tôi như dao cắt đau xót từng
cơn. Nghĩ đến sau nầy, cuối cùng không biết ra sao, chỉ có mơ hồ lộn
xộn… thôi bỏ đi. Ý niệm tham sinh sợ tử của tôi là như thế, tôi nghĩ ý
niệm tham sinh sợ tử của mọi người, ít nhiều cũng vậy.
Sau đó thì cơ duyên của tôi đã
đến, thoạt nhiên gặp được mấy vị thiện tri thức rủ tôi nghiên cứu kinh
Phật. Lúc ban đầu tôi chẳng qua là do hảo ý của bạn bè, miễn cưỡng theo
họ mà nghiên cứu chơi thôi, thật sự chẳng biết trong đó có chỗ nhiệm mầu
gì. Chẳng ngờ nghiên cứu một thời gian, thật là thấy những điều chưa
thấy, nghe những điều chưa nghe. Nguyên là những chỗ mà tôi đã từng sáng
nghĩ chiều suy về phương pháp tránh khỏi sinh tử, thì ở trong kinh Phật,
điều chép đầy đủ hoàn toàn; vì cái lý Phật nói ra là quán triệt chơn lý
của vũ trụ; vì cái đạo của Phật truyền là đạo lớn để giải thoát sinh tử.
Trong khoảng thời gian như khảy
móng tay, như có vị cam lồ rót vào cổ, như có chất đề hồ gội trên đầu;
hồi tưởng lại những ý niệm tham sinh sợ tử ngày trước, đều là một loại
vọng niệm đáng cười. Bắt đầu từ đó tôi bỏ mặn ăn chay, phát nguyện quy y
Tam bảo. Nay đây cảm thấy thân tâm thanh tịnh, tinh thần thư thái, so
lại ngày trước giống như thay đổi một người khác. Chính tôi đã được Pháp
lợi ích nầy, nghĩ lại vô số đồng bào của tôi, phần lớn đều đang chìm đắm
trong biển sinh tử, không có cơ hội nhô đầu ra được; cho nên tôi không
ngại đem tội ác ngày trước của tôi trình bày ra, để làm gương; vả lại
đem Phật học mà tôi biết chút ít đã thấy được nghĩ được, chép thành “Học
Phật thiển thuyết”, cống hiến trước đại chúng. Khắp nguyện mọi người
đồng phát tâm Bề đề (Tâm Bề đề là tâm vô thượng đẳng giác), đồng
niệm A Di Đà (A Di Đà là danh hiệu Phật, dịch là: Phật Vô Lượng Thọ,
Phật Vô Lượng Quang), đồng vượt biển sinh tử, đồng sinh nước Cực
lạc.
VUI LÀ NHÂN CỦA KHỔ
^
Hai chữ vui – khổ, là từ đối đãi, là sự
tuần hoàn, cho nên nói vui là nhân của khổ. Các món vui thú hiện tại của
người đời, đều dự báo trước là đang trồng các nhân khổ ở vị lai; tương
lai ắc phải thọ lấy các quả khổ. Theo mắt Phật, hàng phàm phu chúng ta
đang ở trong nhà lửa ba cõi (Ba cõi: Cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc;
Nhà lửa: là ví dụ cho cái khổ sinh tử ở trong ba cõi, như vòng lửa thiêu
đốt vậy). Nhân vì miếng ăn, bóng sắc, danh dự và lợi dưỡng mà chịu
lấy các điều khổ; sinh, già, bệnh, chết mà chịu lấy các điều khổ; lại
có: - nghèo cùng khốn khổ – thương nhau mà xa lìa thì khổ – ghét nhau mà
gặp gỡ cũng khổ – mong cầu mà chẳng được lại khổ; cho đến nỗi sau nầy
nhân bị nghiệp báo nợ dẫn, còn phải chịu lấy khổ địa ngục, ngã quỷ, súc
sinh! Đức Phật thấy rõ ràng hạng phàm phu chúng ta cũng chỉ là ngày đêm
trong mơ mộng, vui những cái vui đó, đáng xót! Đáng thương! Vấn đề khổ –
vui làm nhân cho nhau đó nhất thời nói cũng không hết, rất nhiều…nay
chúng ta cô đọng và đề ra mười vấn đề trọng yếu, nêu ra đây từng vấn đề,
để làm “chuông sớm trống chiều” cho quí vị:
1.
Vui gì bằng cưới vợ!
Đâu biết rằng kiệu hoa vào cửa, gánh nặng đè vai. Mở cửa ra thì bảy việc
phải an bài: Rau, gạo, tương, dầu, muối, dấm, trà. Huống chi nói đến sự
đẹp đẽ như hoa, thì là oan gia phiền não, tuổi cao già đến, xấu xí nhăng
nheo khiến người sợ sệt…như vậy nói là vui hay khổ?
2.
Vui gì bằng sinh con!
Đâu biết rằng vừa nghe tiếng khóc chào đời, phải làm trâu ngựa là điều
đương nhiên. Một đời khổ sở dốc hết cho nó hưởng thụ. Hiền thì nó bệnh
tậc ảnh hưởng, khiến lo lắng chập chồng; chẳng hiền thì nó để sự xấu xa
cho gia đình, khiến bực bội dồn dập…như vậy nói là vui hay khổ?
3.
Vui gì bằng làm quan!
Song thì quan trường chìm nổi, phong ba hiểm ác. Nhiều năm nhọc nhằng,
trong hồ sơ lắm những lao hình; mấy ngày vinh hoa, lúc nghỉ việc quay
đầu không thể! Như vậy nói là vui hay khổ?
4.
Vui gì bằng phát tài!
Song thì tính toán chi ly, cơ tâm uổng phí; huống chi chứa của dụ trộm,
thường phòng ngừa họa đến chẳng lường; lúc buông tay lìa đời, chớ mong
mang theo một xu. Như vậy nói là vui hay khổ?
5.
Vui gì bằng mặc đẹp!
Áo mới phủ lên người, giống như gông cùm quấn thân, dính bụi thì canh
dơ, sinh ra áo não! Như vậy nói là vui hay khổ?
6.
Vui gì bằng ăn ngon!
Đồ cao lương thì sinh béo phì, đều là họa của tậc bệnh; nhất thời thích
khẩu, đau khổ vô cùng! Như vậy nói là vui hay khổ?
7.
Vui gì bằng ở nhà sang!
Họa khắc cột kèo, đảo mắt lại thay chủ mới; gần thì đời mình, xa thì con
cháu…Như vậy nói là vui hay khổ?
8.
Vui gì bằng chơi nhà điếm!
Giả ý ân cần, chịu sự lừa đảo phong lưu bất tận; cuối đời ung nhọt ghê
gớm khắp thân, sau hối chẳng kịp! Như vậy nói là vui hay khổ?
9.
Vui gì bằng cờ bạc!
Thâu đêm suốt sáng, tiêu hao tinh thần hữu dụng; cuối cùng tài sản gia
đình do đây tống sạch! Như vậy nói là vui hay khổ?
10.
Vui gì bằng uống rượu!
Vui cuồng tánh loạn, đắc tội với bao nhiêu là thân thuộc bạn bè, đam mê
sai lầm với bao nhiêu là sự nghiệp; rốt rồi tuổi già mang nhiều tậc
bệnh, đều do tuổi trẻ tham uống! Như vậy nói là vui hay khổ?
Hỡi ôi! Âm thanh, sắc chất, tiền tài, lợi dưỡng đều là thuốc độc vô
hình; ăn ngon, uống say, dâm loạn, cờ bạc, giống như dao cứng giết mạng.
Phú quí toàn như bóng bọt, phồn hoa có thể mấy hồi? Mỗi khi sàng múa
chiếu ca, chẳng bao giờ chẳng cao hứng mãnh liệt; đến khi tàn cuộc người
tan, mới hay tình cảm thảm đạm! Biển người mênh mông của thế giới Ta bà,
nói gọn là biển khổ không bờ. Xin khuyên những người ưa vui ấy kịp thời,
mạnh mẽ tỉnh táo hơn lên! Tranh thủ thời gian vượt ra biển khổ nầy, đồng
đến thế giới Cực lạc Tây phương, nơi có vui không có khổ, để an thân lập
mạng thôi!
CÓ NHÂN QUẢ LUÂN HỒI
VÀ THIÊN ĐƯỜNG ĐỊA NGỤC SAO? ^
Cái Đạo trong đời không cũ, tâm người
ngày một hoại dần, một số người đang thời tuổi trẻ, tự cho thông minh,
không tin có nhân quả luân hồi, thiên đường và địa ngục. Tự mình không
tin, lại nói người khác mê tín; chẳng biết rằng người mà nói người khác
mê tín ấy, chính bản thân họ đã mê mà chẳng ngộ, dứt bặt cửa nẻo thiên
đường, trồng lấy nhân sâu địa ngục, ngu si mờ mịt, đáng thương đáng xót!
Nên hiểu rõ nhân quả luân hồi,
thiên đường địa ngục là lý tột cùng trong vũ trụ, chẳng phải riêng học
thuyết của nhà Phật. Như nhà Nho đã nói: “Nhà chứa điều thiện, chắc
chắn có nhiều điều vui; nhà chứa điều bất thiện, ắc có nhiều họa ương”.
Đạo gia cũng nói: “Quả báo của thiện và ác như bóng theo hình”.
Hỏi rằng không phải nhân quả sao?
Thuyết thiên đường và địa ngục –
À, quay lại hai đường, đều là vấn đề ra sức chủ trương. Đối với luân
hồi, một vấn đề nầy, trong sách người xưa đã chép, chẳng biết bao nhiêu
mà kể. Tức là nói trong dã sử vặt vãnh không đủ để làm tin, song ở trong
chính sử đã chép cũng chẳng phải là ít; nay lược nêu ra mấy điều: như Bá
Cổn làm gấu, thấy trong “Sử ký chánh nghĩa”; Như Ý làm chó, thấy trong
“Hán thư”; Tiền thân Dương Hựu là con Lý Thị, thấy trong “Tấn thư”; tiền
thân Lương Nguyên Đế là Miễu Mục Tăng, thấy trong “Nam sử lương ký”; con
gái Lưu Thị tiền thân là Lý Thứ, thấy trong “Bắc sử Tề ký”; tiền thân
Lưu Nguyên là Ngưu Tăng Nho; tiền thân Phạm Tổ Võ là Đặng Võ; tiền thân
Quách Tường Chánh là Lý Thái Bạch; đều thấy chép trong “Tống sử”; tiền
thân Hạ Nguyên Cát là Khuất Nguyên, thấy ở trong “Hoàng Minh Thông
Ký”…có chép trong sách vở, lần lần có thể tra cứu. Như nói rằng nhân quả
luân hồi, thiên đường địa ngục là đều không có, vậy xin hỏi: Thánh nhân
các Tôn giáo và sử gia nhiều đời đều nói dối gạt người sao? Đương nhiên
là có, thế nào có thể nói là không ư?
Lý nhân quả, ví dụ như gieo
giống, xuống giống tức là nhân, trái chín tức là quả. Trồng dưa được
dưa, trồng đậu được đậu; trồng nhân thiện được quả thiện, trồng nhân ác
bị quả ác; đó là đạo lý nhất định, chỉ xem sự sớm muộn lúc chín mùi mà
thôi. Lý luân hồi, tức là lời thế gian thường nói, người chết tâm chẳng
chết. Thân xác tuy hoại mà tâm tánh thường còn; một ngày chưa thể xuất
thế thì tự nhiên theo nghiệp luân chuyển. Kiếp trước đời sau, ví như hôm
qua và ngày mai, đạo lý nầy dễ và rõ, đâu cần phải bàn luận phân vân.
Đến nay, thiên đường địa ngục có
hai cách thuyết pháp: - Như lấy Lý mà luận thì thiên đường địa ngục đều
từ tự tâm sinh. – Như lấy Sự mà luận thì Kinh Lăng Nghiêm nói về hình
trạng chư thiên, Kinh Địa Tạng nói các hình trạng của địa ngục, đều rất
là rõ ràng, chẳng phải là hư vọng. Đáng cười thay, hiện tại một hạng tân
học gia ăn trộm da lông, nói đạo xiển dương khoa học, loại quỷ thần mê
tín nầy, chẳng công mà tự phá. Ngược lại cần thỉnh giáo, hiện tại trong
khoa học của phương tây, có một loại “Linh học”, chẳng phải là môn học
chuyên môn nghiên cứu tình trạng quỷ thần sao? Sao nói khoa học tiến
triển thì không có quỷ thần ư? Chúng ta dám chắc rằng tương lai khoa học
càng tiến triển, tất cả những chứng cứ xác thật về nhân quả luân hồi,
thiên đường địa ngục cần càng phát hiện. Hoặc giả có thể đả thông sự
cách trở giữa người và quỷ, đó – đây có thể thấy mặt giao tiếp nhau,
cũng là cái việc trong ý nghĩ vậy.
PHÁP XUẤT THẾ GIAN VẪN LẤY
PHÁP THẾ GIAN LÀM CĂN BẢN
^
Vì sao gọi là pháp xuất thế gian?
Tức là vượt ra khỏi ba cõi, thoát ly sinh tử.
Vì sao gọi là pháp thế gian?
Tức là kỷ cương luân thường và tất cả những trách nhiệm làm người nên
phải làm hết.
Phật pháp tuy là pháp xuất thế gian, song pháp thế gian chưa hết, nên ta
vẫn chẳng thể ra khỏi thế gian. Do đó đức Phật có ba thân: Pháp thân,
Báo thân và Hóa thân. Thân hiện đời của phàm phu chúng ta, cũng gọi là
Báo thân, nguyên là theo nghiệp báo thiện ác của đời trước mà đến.
Nghiệp báo thiện ác đời trước, tức là đời nầy làm người hưởng lấy những
nhân trước là phước hay khổ. Nhưng may mắn là được làm người, ắc cần
phải hết lòng vì nghĩa, vì bổn phận, bình thường khi tâm động niệm hành
sự, nhất nhất đều khiến cho không được trái phạm, như vậy mới không hổ
thẹn làm người. Lại nữa có thể nương theo lời dạy của đức Phật, pháp môn
tịnh độ rất là thẳng và tắc, niệm Phật cầu sinh Tây phương, tự mình có
thể lúc lâm chung, bỏ báo thân thảnh thơi an vui, vãng sinh về Tây
phương, liễu thoát sinh tử.
Tám chữ: Hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm và sỉ trong pháp thế
gian, Phật dạy thì hoàn hảo từng chữ. Một người chứng được quả thì chín
Tổ đều siêu thăng, không phải là HIẾU sao? Có sự từ ái với chúng sinh,
thương như con đỏ, không phải là ĐỄ sao? (Đức Phật dạy hai chữ Hiếu
và Đễ nầy, phạm vi của nó so ra rộng lớn hơn nhiều đối với Nho giáo).
Nhân với vua giúp cho nước, cầu nguyện hòa bình, không phải là TRUNG
sao? Trong giới vọng ngữ, đầu tiên là ngăn ngừa lời dối gạt, không phải
là TÍN sao? Ba nghìn hạnh vi tế, oai nghi nghiêm túc, không phải là LỄ
sao? Chung báo đáp bốn ơn (ơn cha me, ơn chúng sinh, ơn nước nhà, ơn
Phật), đàn na tín thí cũng ở trong đó, không phải là NGHĨA sao? Một
bát ba y, “Thiểu dục tri túc”, yêu tiếc của vật và sức lực, không phải
là LIÊM sao? Tội ác bộc lộ, hổ thẹn sám hối, không phải là SỈ sao?
Huống nữa đức Phật đại trí, đại nhân, đại dũng. Trí, nhân, dũng, ba đức
ấy đều hoàn toàn. Như đã nói ở trên là pháp xuất thế gian của Phật giáo,
đã đem tất cả pháp thế gian vận hành bao quát hết ở trong đó. Nếu bỏ đi
pháp thế gian để mà giảng pháp xuất thế gian, là đã trái đi tông chỉ lập
giáo của đức Phật. Cho nên trong LỤC TỔ ĐÀN KINH có nói: “Ân thì đích
thân nuôi dưỡng cha mẹ; Nghĩa thì phải gần gũi trên dưới; Nhường thì
phải có tôn ti hòa mục; Nhẫn thì các ác không bàn. Sửa lỗi thì ắc sinh
trí huệ, giúp cho những việc chẳng hiền của tâm sở đoản, hằng ngày
thường làm việc ích lợi, khổ sở chi mà phải hướng ra bên ngoài để tìm sự
nhiệm mầu?”. Lại nữa: “Phật pháp ở thế gian, chẳng lìa thế gian
mà giác ngộ; Lìa đời cầu Bồ Đề, cũng giống như đi tìm sừng thỏ!”.
Chúng ta là người học Phật, cần phải hiểu rõ ý nầy. Nếu còn kém cõi hơn
đạo đức thế gian, không những là tội nhân của danh giáo, mà cũng là đồ
bại hoại của cửa Phật. Tuy là quy y Tam bảo, cũng là vô dụng. Chúng ta
là cư sĩ tại gia, cần phải nghĩ và học pháp xuất thế gian, càng không
làm tới nơi tới chốn pháp thế gian là không được.
PHẬT ĐẠO DỄ THÀNH KHÔNG?
^
Có người hỏi rằng: “Anh khuyên người học
Phật, Phật đạo dễ thành không?”. Xin trả lời rằng: “Chỉ sợ người chẳng
chịu chân chánh phát tâm học Phật thôi; nếu như chân chánh phát tâm học
Phật, quyết định có thể thành”.
Đức Thích Ca Như Lai dạy rằng: “Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh”. Lời
chân thành của đức Phật, há đâu phải là lời dối gạt? Đã nói là chúng
sinh đều có Phật tánh, đương nhiên là chẳng chuyên chỉ cho nhân đạo mà
nói, phàm tất cả hàm linh có tánh đều bao quát hết; cho nên các loại:
chim bay, thú chạy, trùng nhảy, máy động…nếu phát tâm cũng có thể thành
Phật. Huống gì con người là tối linh của muôn vật, tự nhiên lại càng dễ
hơn. Lại nữa, ngạ quỷ đạo, địa ngục đạo, nếu phát tâm cũng có thể thành
Phật. Huống nữa con người nghiệp chướng nhẹ hơn, trí huệ hoàn bị hơn,
học được Phật pháp, đương nhiên sự thành công so với đường ngạ quỷ và
địa ngục trình độ khó dễ chẳng thể tính toán thí dụ có thể kịp được.
Chúng ta không biết bao đời tu trì đời nầy mới được thân người; đó chính
là cơ hội tuyệt hảo để học Phật. Cho nên Như Như cư sĩ (người đời
Tống) trong văn khuyên người tu hành viết rằng: “Ở trong nhân đạo mà
không tu, thì các nẽo khác khó tu”. May mắn được sinh trong nhân đạo,
gặp được cơ duyên khó gặp nầy, há có thể để cho lỗi lầm. Nếu như lỗi
lầm, tức thì phải tự bộc lộ và tự bỏ đi; bởi vì sợ rằng một khi mất thân
người nầy rồi, không biết rằng lại phải chờ đợi đến bao nhiêu đời, bao
nhiêu kiếp mới có thể sinh lại nhân đạo, gặp lại cơ hội tu hành dễ dàng
nầy.
Chúng ta nên mạnh mẽ thức tỉnh, mau chóng vùng dậy! Nếu biết rằng Phật
và chúng sinh tâm tánh vốn tự tương đồng và không sai khác. Lý do đức
Phật thành Phật, chúng sinh còn là chúng sinh; chẳng qua là phân biệt
GIÁC và MÊ thôi! Giác thì thành Phật, mê thì thành chúng sinh; chuyển mê
là giác, dễ như lật bàn tay. Vấn đề chúng ta học Phật, bất tấc hỏi là có
thể thành hay không, dễ thành hay khó! Chỉ cần tự hỏi mình có chịu học
hay không, phát tâm hay không (?). Nếu như chân chánh chịu học, chịu
phát tâm Bề đề, chịu lập nguyện kiên cố, chịu mặc giáp tinh tấn, không
luận người nào, cũng quyết định thành Phật. Quyết không lừa dối. Nếu có
vọng ngữ, xin đọa địa ngục.
NGƯỜI TẠI GIA
CŨNG CÓ THỂ HỌC PHẬT SAO? ^
Học Phật hoàn toàn ở sự thành tâm, chẳng
phải ở nơi hình thức. Có thể xuất gia cố nhiên là duyên tốt, mà ở tại
gia cũng không ngăn ngại gì. Vả lại pháp xuất thế của đức Phật, rất cần
lấy pháp thế gian làm gốc; nếu cha mẹ còn hiện hữu, duyên trần khó dẹp
bỏ, chưa được sự đồng ý của cha mẹ, vội vàng nhẫn tâm đi xuất gia, rất
chẳng phải là sự ấn khả của Phật. Huống gì trong kinh Phật đã dạy: “Bốn
chúng đều là đệ tử của Phật”. Thế nào gọi là bốn chúng? – tức là: Tỳ
kheo, Tỳ kheo ni, Cư sĩ nam, Cư sĩ nữ vậy. Cư sĩ nam, cư sĩ nữ đều chẳng
phải là thiện nam, tín nữ ở tại gia sao? Lúc đức Phật Thích Ca Mâu Ni
còn tại thế gian, có một vị Đại Cư sĩ tên là Duy Ma Cật. Vị cư sĩ nầy
thần thông quảng đại, biện tài vô ngại. Chư vị đại đệ tử của Phật đều bị
sự chê trách của ông ta; chỉ có Bồ Tát Văn thù có thể đối đáp cùng với
ông. Có một bộ “Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh”, trên đó đã chép, tức là học
thuyết của vị đại cư sĩ nầy. Đây tức là Thủy tổ Cư sĩ tại gia học Phật
của chúng ta. Về sau nhiều đời trở lại đây, hàng cư sĩ vãng sinh tây
phương rất nhiều, rất nhiều…những người rất là trứ danh như: Đời Tấn có
cư sĩ Lưu Di Dân; đời Tống có cư sĩ Vương Long Thơ…Nếu quí vị muốn biết
rõ ràng, nên tìm mua bộ “Tịnh Độ Thánh Hiền Lục” mà xem, thì sẽ biết.
Người xuất gia tu hành dễ dẹp bỏ được những trần duyên thế tục, những
trói buộc trong nhà, có thể chuyên tâm làm việc đạo; cho nên đem việc tu
hành mà nói, tự nhiên lấy việc xuất gia làm phương tiện. Nhưng người
xuất gia còn không thể nhiếp tâm, cũng giống như núi rừng náo loạn;
người tại gia có thể nhiếp tâm, thì đóng cửa tức là thâm sơn (nơi u
tịch, chỉ chỗ ẩn dật tốt). Tu hành hoàn toàn ở tại nhất tâm, không
nên phân biệt lắm về vấn đề xuất gia hay tại gia; vả lại sự thành công ở
trong trần lao so ra có chỗ chắc chắn hơn sự thành công ở nơi núi rừng,
không thể sai chạy. Đây là chỗ người tại gia tu hành hơn xuất gia tu
hành. Bởi vậy trong kinh Phật dạy: “Tại gia Bồ Tát có nhiều việc trói
buộc hơn xuất gia Bồ Tát”.
Song chúng ta là cư sĩ tại gia cần hiểu rõ được tại gia tu hành, thực
tại là một việc chẳng phải dễ. Phú quí bức xúc con người, thế lực lửa
thiêu hừng hẫy, anh có thể chẳng động tâm sao? Nghèo khó thấu xương,
nghịch cảnh liên miên, anh chẳng động tâm sao? Việc nhà phân tán, gạo
muối tiêu hao, anh chẳng động tâm sao? Vợ con lãi nhãi om sòm, trai gái
đông đầy trước mắt, anh chẳng động tâm sao?…Có những nạn khổ như thế,
cho nên người xuất gia tu hành thành công rất là nhiều, còn người tại
gia thành công, trong vạn người bất quá một hai. Nên cần phải nổ lực
khám phá, buông được thì nên buông, làm đạo nên mạnh mẽ, phát tâm cho
kiên cố, mới có thể trấn phục được tất cả, dẹp bỏ được tất cả. Bởi vậy
người tại gia tu hành cần phải rõ ý chỉ của Kinh Lăng Nghiêm: “Tùy
duyên bất biến, bất biến tùy duyên”. Nếu có thể đem hai câu nầy lặng
lẽ mà thể hội, thường xuyên để nơi niệm, nắm chắc như pháp mà làm, càng
lâu công phu càng thuần thục, thì tất cả những vấn đề khó có thể dẹp bỏ,
tự nhiên sẽ dẹp bỏ được hết. Đến lúc nầy không cần phải kêu gọi bảo
khiến ai hết, mà người nhà họ sẽ cùng ta tu hành không trở ngại. Rõ ở
nơi nghĩa nầy thì sỏi ngói cũng đều là đường phẳng, không rõ nghĩa nầy
thì cất bước đều là gai gốc. Phàm là cư sĩ tại gia, chúng ta cùng nguyện
cố gắng lên!
NGƯỜI TRÍ KÉM
CŨNG CÓ THỂ HỌC PHẬT SAO? ^
Học Phật chẳng phân là Trí hay Ngu,
người thông minh có thể học Phật, người ngu cũng có thể học Phật; vả lại
sự dễ thành công của người thông minh học Phật thường thì không bằng
người trí kém học Phật. Đây là lý do gì vậy? Nhân vì người thông minh
suy nghĩ rất là nhiều, dụng tâm rất lăng xăng, tu hành vả lại khó mà
tiến tới thành công; ngược lại chẳng như người trí kém tư tưởng đơn
giản, so ra sự dụng tâm dễ thuần nhất. Cho nên làm việc khác, thì người
thông minh chiếm phần tiện nghi hơn người trí kém; duy chỉ có học Phật,
người trí kém không tuyệt đối là sau người thông minh.
Sách Phật chép rằng: Tánh chất của con người, có sự phân biệt lợi căn và
độn căn. Lợi căn tức là người thông minh, độn căn tức là người trí kém.
Đức Thế Tôn nói pháp, tùy theo căn tánh của con người mà chia chẻ ra; có
thể thấy rằng đức Thế Tôn nói pháp, thật không phải chuyên đối với hàng
lợi căn mà nói, cũng chẳng phải đối với hàng độn căn mà nói. Người độn
căn là một hạng có thể nghe Phật thuyết pháp, đương nhiên họ có thể vào
đạo thành Phật. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngày trước có một vị đệ tử lớn
tên là Châu Lợi Bàn Đà Già, tánh chất của ông ta rất là ngu độn, tất cả
kinh điển đều chẳng có thể thông hiểu. Đức Phật mới dạy ông ta chuyên
niệm hai chữ: ĐIỀU TRỬU (chổi rơm); ông ta còn nhớ được chữ “Điều” thì
lại quên mất chữ Trửu, nhớ chữ “Trửu” lại quên mất chữ “Điều”. Đây cũng
có thể xét biết được sự ngu độn của ông đến mức nào! Nhưng mà ông ta
cuối cùng tu đến địa vị A La Hán. Như vậy không phải là bằng cứ người
ngu độn có thể học Phật sao?
Người trí kém tu “Pháp môn Tịnh Độ” rất là tương ứng thích nghi. Nhân vì
tu tịnh độ chỉ cần niệm một câu A DI ĐÀ PHẬT, niệm cho đến nhất tâm bất
loạn, tức có thể vãng sinh tây phương, tức là chẳng gồm thông qua những
kinh điển khác, cũng chẳng cần phải dối gạt. Một câu A DI ĐÀ PHẬT, tuy
là khắp lợi ích cho ba căn: Thượng, trung và hạ; song thì hạng độn căn
cần học Phật, nếu không niệm Phật thì không được.
Có người hỏi rằng: “Người không biết chữ có thể học Phật hay chăng?”.
Xin nói rằng: “Ngài Lục Tổ Huệ Năng ngày trước đã từng biết chữ đâu
(?)”.
NGƯỜI NỮ
CŨNG CÓ THỂ HỌC PHẬT
SAO? ^
Kinh Phật chép rằng: Hàng Tỳ kheo ni
thành Phật, như: Di mẫu của đức Phật là Tỳ kheo ni Ba Xà Ba Đề, mẹ của
La Hầu La là Tỳ kheo ni Da Thâu Đà La, đều từng được Phật thọ ký đáng
được làm Phật. Đến như nữ nhân tại gia cũng có thể thành Phật. Phẩm Đề
Bà Đạt Đa của kinh Pháp Hoa thuật rằng: Một đoạn công án con gái của
Long Vương hiến cúng hạt châu, lập địa thành Phật, nói rất rõ ràng. Nay
đem nguyên văn của đoạn kinh Pháp Hoa cung kính chép lại ở sau, mong
liệt vị nữ nhân chí thành tụng đọc, quyết định phát tâm:
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
PHẨM ĐỀ BÀ ĐẠT ĐA: ([1])
“…Ngài Trí Tích hỏi Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: “Kinh nầy rất sâu vi
diệu là báu trong các kinh, trong đời rất ít có, vậy có chúng sinh nào
siêng năng tinh tấn tu hành kinh nầy mau đặng thành Phật chăng?”.
Ngài Văn Thù Sư Lợi nói: “Có con gái của vua rồng Ta Kiệt La mới tám
tuổi mà căn tánh lanh lẹ, có trí huệ, khéo biết các căn tánh hành nghiệp
của chúng sinh, đặng pháp tổng trì, các tạng pháp kín rất sâu của các
đức Phật nói đều có thể thọ trì, sâu vào thiền định, rõ thấu các pháp.
Trong khoảng sát na phát tâm Bề đề đặng bực bất thối chuyển, biện tài vô
ngại, thương nhớ chúng sinh như con đỏ, công đức đầy đủ, lòng nghĩ miệng
nói pháp nhiệm mầu rộng lớn, Từ bi nhơn đức khiêm nhường, ý chí hòa nhã,
nàng ấy có thể đến Bề đề”.
Trí Tích Bồ Tát nói rằng: “Tôi thấy đức Thích Ca Như Lai ở trong vô
lượng kiếp làm những hạnh khổ khó làm, chứa nhiều công đức để cầu đạo Bề
đề chưa từng có lúc thôi dứt; tôi xem trong cõi tam thiên nhẫn đến không
có chỗ nhỏ bằng hạt cải, mà không phải là chỗ của Bồ Tát bỏ thân mạng để
vì lợi ích chúng sinh, vậy sau mới đặng đạo Bề đề. Chẳng tin Long Nữ đó
trong khoảng giây lát thành bực Chánh giác”.
Nói luận chưa xong, lúc đó con gái của Long Vương bỗng hiện ra nơi
trước, đầu mặt lễ kính Phật, rồi đứng một phía nói kệ khen rằng:
“Thấu rõ tướng tội phước
Khắp soi cả mười phương
Pháp thân tịnh vi diệu
Đủ ba mươi hai tướng
Dùng tám mươi món tốt
Để trang nghiêm pháp thân
Trời, người đều kính ngưỡng
Long thần thảy cung kính
Tất cả loài chúng sinh
Không ai chẳng tôn phụng
Lại nghe thành Bồ đề
Chỉ Phật nên chứng biết
Tôi nói pháp đại thừa
Độ thoát khổ chúng sinh”.
Bấy giờ Ngài Xá Lợi Phất nói với Long Nữ rằng: “Người nói không bao lâu
chứng được đạo vô thượng, việc đó khó tin. Vì sao? Vì thân gái nhơ uế
chẳng phải là pháp khí, thế nào có thể đặng thành Vô thượng chánh giác?
Đạo Phật xa rộng, phải trải qua vô lượng kiếp cần khổ chứa nhóm công
hạnh, tu đủ các độ, vậy sau mới thành được. Lại thân gái còn có năm điều
chướng: Một, chẳng đặng làm Phạm Thiên Vương; hai, chẳng đặng làm Đế
Thích; ba, chẳng đặng làm Ma Vương; bốn, chẳng đặng làm Chuyển Luân
Thánh Vương; năm, chẳng đặng làm Phật. Thế nào thân gái đặng mau thành
Phật?.
Lúc đó, Long Nư có một hột châu báu, giá trị bằng cõi tam thiên đại
thiên đem dưng lên đức Phật. Phật liền nhận lấy. Long Nữ nói với Trí
Tích Bồ Tát cùng tôn giả Xá Lợi Phất rằng: “Tôi hiến châu báu, đức Thế
Tôn nạp thọ, việc đó có mau chăng?”. – Đáp: “Rất mau” – Long Nữ nói:
“Lấy sức thần của các ông xem tôi thành Phật lại mau hơn việc đó”.
Đương lúc đó cả chúng hội đều thấy Long Nữ thoạt nhiên biến thành nam
tử, đủ hạnh Bồ Tát, liền qua cõi Vô Cấu ở phương nam, ngồi tòa sen báu
thành bực Đẳng chánh giác, đủ ba mươi hai tướng, tám mươi món đẹp, khắp
vì tất cả chúng sinh trong mười phương, mà diễn nói pháp mầu.
Khi ấy trong cõi Ta bà hàng Bồ Tát, Thinh văn, Trời, rồng, Bát bộ, nhơn
cùng phi nhơn đều xa thấy Long Nữ kia thành Phật khắp vì hàng nhơn thiên
trong hội đó mà nói pháp, sanh lòng vui mừng đều xa kính lạy, vô lượng
chúng sinh nghe pháp tỏ ngộ đặng bực Bất thối chuyển, vô lượng chúng
sinh đặng lãnh lời thọ ký thành Phật. Cõi Vô Cấu sáu điệu vang động, cõi
Ta bà ba nghìn chúng sinh trụ bực Bất thối, ba nghìn chúng sinh phát
lòng Bề đề mà đặng lãnh lời thọ ký.
Trí Tích Bồ Tát và Ngài Xá Lợi Phất tất cả trong chúng hội yên lặng mà
tin nhận đó”.
NGƯỜI TU HÀNH
CHẲNG NÊN TU PHƯỚC TRỜI NGƯỜI ^
Người tu hành hiện tại, phần lớn ước
phân ra làm hai loại: 1-Tu phước trời người; 2- Tu pháp xuất thế. Tu
xuất thế là tu không cần phước báo, (kinh Kim Cang nói: Bồ Tát không
thọ phước đức), tu phước Trời người là tu cần phước báo. Mọi người
cần biết đồ vật nầy của phước báo là cái chẳng cần được, duyên cớ sao
vậy? Nhân vì hai chữ: Phước và họa là vấn đề đối đãi, là tuần hoàn.
Phước và họa làm chỗ cậy dựa cho nhau, phước tức là gốc của họa, phước
báo tức là gốc đọa lạc. Phước báo càng nhiều càng dễ đọa lạc, nên nói
phước báo là cái chẳng cần được. Người tu hành chúng ta là chẳng nên tu
phước Trời người.
Vì sao gọi là xuất thế? Vì sao gọi là phước Trời người? Cần phải rõ lời
giải nầy, trước phải rõ mười pháp giới. Sao gọi là mười pháp giới? Bởi
đức Như Lai ở trong Nhất Chơn pháp giới, ước phân ra làm mười cái thềm
bực của mê, ngộ, nhiễm, tịnh. Nay làm liệt kê như sau: (Mười pháp giới):
Phật pháp giới
–
Bồ tát pháp giới
–
Duyên giác pháp giới
–
Thinh văn pháp giới
–
Thiên pháp giới
–
Nhân pháp
giới
–
A Tu La pháp giới
–
Súc sanh pháp giới
–
Ngạ quỷ pháp giới
–
Địa ngục pháp giới.
Pháp là khuôn mẫu giữ gìn, là phép tắc. Giới là phần hạn, là thể tánh,
là nhân và chủng loại vậy. Đức Phật lấy pháp “Vô duyên đại từ, đồng thể
đại bi” làm GIỚI. Bồ Tát lấy “Lục độ vạn hạnh”, trên cầu Phật đạo, dưới
hóa độ chúng sinh làm GIỚI. Duyên giác lấy pháp liễu ngộ ba đời, mười
hai nhân duyên làm GIỚI.
(Ba
đời: Quá khứ, hiện tại và vị lai. Mười hai nhân duyên: Vô minh duyên
hành, Hành duyên thức, Thức duyên danh sắc, Danh sắc duyên lục nhập, Lục
nhập duyên xúc, Xúc duyên thọ, Thọ duyên ái, Ái duyên thủ, Thủ duyên
hữu, Hữu duyên sinh, Sinh duyên lão, tử – Đây là THUẬN SINH MÔN.
Nếu biết rằng gốc của lão tử là vô minh. Có thể diệt vô minh thời hành
diệt, Hành diệt thời thức diệt, Thức diệt thời danh sắc diệt, Danh sắc
diệt thời lục nhập diệt, Lục nhập diệt thời xúc diệt, Xúc diệt thời thọ
diệt, Thọ diệt thời ái diệt, Ái diệt thời thủ diệt, Thủ diệt thời hữu
diệt, Hữu diệt thời sinh diệt, Sinh diệt thời lão, tử diệt. Đây là
HOÀN DIỆT MÔN. Nương theo đó tu hành, có thể chứng Bích Chi Phật).
Thinh văn lấy tu pháp Tứ Đế làm GIỚI. (Tứ Đế, là xét nét chơn thật
gọi là ĐẾ: 1- Các việc Sinh, Lão, Bệnh, Tử…là KHỔ ĐẾ; 2- Các món Tham,
Sân, Si…những phiền não là nhân các khổ, là TẬP ĐẾ; hai đế trên là nhân
quả thế gian; 3- Giới, Định, Huệ…các đạo phẩm, đối trị các phiền não
Tham, Sân, Si…là ĐẠO ĐẾ, là nhân xuất thế; 4- Diệt hết phiền não, sinh
tử thế gian, là DIỆT ĐẾ, là quả xuất thế. Biết khổ, đoạn tập, khởi diệt
và tu đạo, thì có thể ra khỏi ba cõi, chứng A La Hán).
Trời lấy pháp thượng phẩm thập thiện và tứ thiền, bát định làm GIỚI.
Người lấy pháp ngũ giới, thập thiện làm GIỚI (Ngũ giới: Không sát
sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu; Mười
thiện: - Miệng có bốn: Không nói dối, không nói chìu uốn, không nói hai
chiều, không nói ác – Ý có ba: Không tham, không sân, không si. KHÔNG
TRÌ MƯỜI THIỆN, TỨC LÀ MƯỜI ÁC). A Tu La lấy pháp bố thí làm phước,
nhưng sân hận còn mạnh mẽ, làm GIỚI. Súc sinh lấy pháp hạ phẩm mười ác
làm GIỚI. Ngạ quỉ lấy pháp trung phẩm mười ác làm GIỚI. Địa ngục lấy
pháp thượng phẩm mười ác làm GIỚI. Cho nên nói là tu nhân thế nào thì
cảm lấy quả như thế ấy; nhân không luống bỏ, thì quả chẳng lãng phí. Rõ
nghĩa nầy thì biết sự thăng trầm, khổ vui đều do tự mình tạo; chẳng phải
từ trời giáng xuống cũng chẳng phải do người cho vậy.
Mười pháp giới trên, bốn thánh sáu phàm, từ Phật pháp giới đến Thinh văn
pháp giới (Duyên giác, Thinh văn tức là hai hạng A La Hán) gọi là pháp
giới của bốn bực Thánh. Tu thành pháp giới Thinh văn, tức có thể ra khỏi
đời trọn không thối lui, trọn không đọa lạc, vĩnh viễn không vào lại
luân hồi sinh tử. Ba món trên lại bất tấc phải nói. Từ pháp giới của
Trời đến pháp giới địa ngục (sáu pháp giới cả thảy), gọi là pháp
giới sáu phàm; là những pháp giới mà mãi theo nghiệp trôi lăn trong luân
hồi sinh tử; đây tức là “sáu nẻo luân hồi” mà tục ngữ thường nói. Nhân
vì trong sáu nẻo, chỉ có Trời – người hai nẻo ấy được hưởng phước báo,
nên gọi là PHƯỚC TRỜI NGƯỜI. (A Tu La cũng có phước báo, song tội và
phước gồm xen nhau, cho nên chuyên nói Trời người, không nói Tu La).
Đến ngạ quỷ, súc sinh, địa ngục gọi là ba ác đạo; ba đường đó toàn là
nghiệp ác báo mà không có phước báo. Song nghiệp báo của ác đạo hết,
cũng có thể sinh lại ở Trời người. Phước báo Trời người hết vẫn phải đọa
lạc ở ác đạo. Như sự xoay chuyển của bánh xe, nên gọi là luân hồi. Đã ở
trong luân hồi, chung qui có lúc hưởng thọ phước báo ở trong hai đường
Trời người, cũng có lúc chịu nghiệp báo ở trong ba đường ngạ quỷ, súc
sinh và địa ngục. Cho nên không những là vinh hoa phú quý của người đời
đảo mắt một cái thành không, tức là tu đến cõi Trời, quí làm Thiên Đế,
cho tới lúc phước trời hưởng hết, năm tướng suy tàn hiện ra, cũng phải
một phen đọa lạc. Chúng ta đời nầy kêu hãnh được sinh trong nhân đạo,
như không chịu phát tâm tu hành, đời sau nhất định lăn lóc trong ba
đường ác, thật là đáng sợ!
Nay có một hạng người, tuy chịu phát tâm tu hành, nhưng việc tu của họ
là phước Trời người, không phải là mong xuất thế; đời sau họ vẫn phải ở
trong nhân đạo hưởng thọ phước báo giàu to, hiển quí. Chẳng biết rằng
càng phú quí càng dễ tạo nghiệp, đọa lạc càng mau càng sâu. Tức khiến
cho công đức to lớn của đời nầy tu hành, đời sau may mắn mà sinh về cõi
trời, song nhân cõi trời vui nhiều khổ ít, dẫn đến khó phát tâm tu hành,
như không tu hành, đến đời sau cũng một dạng không khỏi luân hồi, một
phen đọa lạc, vẫn phải hướng trong ba nẻo ác mà đi. Xét lại việc nầy,
thật là thất kinh hồn vía, chẳng khẩn trương tu xuất thế chẳng được,
chẳng gắng thoát luân hồi thì không xong! Chẳng gấp phát tâm mạnh mẽ,
vượt Phàm nhập Thánh thì không ổn! Người hiện tại thường nói: Đời trước
chẳng tu, đời nay nghèo khổ, nên tu cho đời sau…Đây chính là câu nói hại
người chẳng ít. Xin khuyên quí vị, cần phải triệt để hiểu biết, mau phát
đại tâm!
Phật giáo đã lấy việc độ người ra khỏi đời (xuất thế) làm gốc, vì sao
lại chuẩn cho người tu phước báo trời người ư?
Đức Phật chúng ta thương xót chúng sinh, nếu theo nơi bản nguyện của đức
Phật, quyết cần tất cả chúng sinh thảy đều thành Phật, mới là mãn
nguyện. Tiếc rằng nghiệp lực chúng sinh quá nặng, căn tánh không đồng
đều, tuy tu nhân thiện mà chẳng phát đại tâm, vẫn ôm lấy sự tham luyến
phước báo, không thể vượt ra được luân hồi sinh tử nầy, cũng là không
được việc gì. Vì vậy nên trước lấy sự ham muốn để câu dắt, sau khiến vào
“Trí Phật”. Ở nơi bản tâm của Phật, là quyền lập ra “Phương tiện” lần
hồi mà tiếp dẫn; tạo sự hưng phấn, từ đó mới thâm nhập, chẳng phải là
dùng đây làm cứu cánh thật nghĩa vậy.
NGƯỜI TU HÀNH
NÊN PHẢI TU TỊNH ĐỘ^
Pháp môn tu hành của Phật dạy rất là
nhiều, tám vạn bốn ngàn pháp môn, mỗi một cửa ngõ (Pháp môn) đều có thể
vào đạo.
Cho nên Kinh Lăng Nghiêm nói: “Khởi đầu không hai nẻo, phương tiện mở
nhiều môn”. Pháp môn rất được lưu hành ở Đông Độ hiện tại có năm
pháp môn lớn: 1- Giáo tông, 2- Luật tông, 3- Thiền tông, 4- Mật tông và
5- Tịnh độ tông. (Năm pháp môn lớn nầy bao quát vô lượng pháp môn).
Năm pháp môn lớn nầy đều có giáo nghĩa rất là sâu rộng, ngàn lời vạn lẽ
cũng chẳng thể nói hết được, ta nay đem ra chia chẻ cạn cợt lược nói:
¯
Giáo tông là tông phái giảng kinh nói pháp, rộng bày những sự giáo hóa
của đức Phật.
¯
Luật tông là tông tinh ròng giữ gìn giới luật, nghiêm tịnh phạm hạnh.
¯
Thiền tông là tông phái thẳng chỉ tâm người, tham cứu “Bản lai diện
mục”.
¯
Mật tông là tông chuyên về ba điều mật hạnh: Gia trì, tụng chú và kiết
ấn.
¯
Tịnh độ tông là một lòng niệm Phật, cầu sinh Tây phương thế giới.
Năm cửa pháp nầy, mỗi cửa đều tốt; tu đến chỗ rốt ráo, đều có thể thành
Phật như nhau. Ví dụ như muốn đi đến “một chỗ”, có năm con đường lớn có
thể đi; con đường của mỗi người đi không giống nhau, song chỗ đích đến
tóm lại là “một chỗ”.
Đây chính là trong kinh Duy Ma Cật nói: “Pháp môn bất nhị”; Kinh
Lăng Nghiêm nói: “Bạt Già Phạm trong mười phương (Bạt Già Phạm tức là
hiệu của Phật), một đường đến cửa Niết bàn”. Tức là chỗ cứu cánh của
năm Tông (năm pháp môn) đều là tương đồng vậy.
Vì sao ta không khuyên người tu hành pháp môn khác, mà lại chuyên khuyên
người tu pháp môn Tịnh độ?
Ví như muốn đến một chỗ nọ, mà có năm con đường để đi; chúng ta há chẳng
cần lựa ra một con đường thỏa đáng, dễ nhất, gần và tiện lợi nhất, ổn
định nhất sao?
Pháp môn tịnh độ tức là con đường nầy; chúng ta không đi đường nầy lại
đi đường nào? Mọi người hãy mau chóng mà bước, theo con đường nầy mà đi,
nhờ nương nơi nguyện Từ bi của Phật, thẳng vào đạo tràng lớn Bề đề.
–
Nói vì sao tịnh độ, con đường nầy là rất dễ dàng ư? Chúng ta sinh nhằm
thời đại mạt pháp nầy, cách Phật rất là lâu xa, căn cơ con người ám độn;
nếu như tu hành pháp môn khác, thật là vạn phần chẳng dễ. Như ở bên Giáo
tông, vấn đề giảng kinh thuyết pháp, văn kinh của Phật nghĩa rất sâu xa,
chẳng có trí huệ lớn, tuyệt vời, thì đâu có thể thông hiểu kinh nghĩa?
Huống chi theo nơi văn mà vào “quán chiếu” ư? Còn như ngày một bữa ăn và
ba y, các hạnh khổ khó làm của Luật tông, chúng ta tự hỏi có thể chịu
nổi không? Tham thiền, đưa ra một câu thoại đầu mà chẳng rõ được sự
nhiệm mầu của Thiền tông, người độn căn (căn tánh chậm lụt) như chúng ta
từ đâu mà tham cứu? Đến như Mật tông, phép tắc tu trì đó vả không dễ
làm, nếu làm được thì cũng khó mà đời nầy chắc chắn ra khỏi sinh tử.
–
Ba loại trên (Giáo, Luật, Thiền tông) đều nhờ tự lực, dứt mê lầm chứng
chơn chánh, mới ra khỏi sinh tử. Mật tông tuy có nghĩa là nhờ Phật lực,
vẫn chẳng chuyên lấy “tiếp dẫn vãng sinh” làm chủ, chỉ ở tự mình phát
tâm như thế nào thôi! Cho nên bốn pháp môn nầy đều chẳng dễ dàng; duy có
pháp môn Tịnh độ chuyên nhờ Phật lực, chỉ cần niệm một câu A DI ĐÀ PHẬT,
không luận trí – ngu đều có thể làm được. Con đường dễ dàng như vậy, còn
không chịu mau chóng bước đi sao?
–
Nói vì sao Tịnh độ, con đường nầy rất gần và tiện lợi ư? Phật đạo sâu xa
gian nan, người tu hành phải trải qua ba đại A tăng kỳ kiếp, mới có thể
thành tựu. Xét nơi công phu tu hành mà nói, quyết cần phải dứt cho hết
nghiệp mê lầm trong ba cõi, mới có thể thành tựu quả vị A La Hán. Như
vậy có xa và khó không? Chỉ có pháp môn Tịnh độ là có thể ngang thoát ra
ba cõi. Không luận là nghiệp mê lầm có thể đoạn dứt hay không, chỉ cần
đầy đủ niềm tin chân chánh và tâm nguyện chí thiết, quyết định có thể
nhờ Phật tiếp dẫn vãng sinh Tây phương. Bốn pháp môn kia như tự lực đi
đường, pháp môn Tịnh độ như là ngồi xe thuyền lớn mà đi, so với sự tự
lực thì tiếc kiệm sức hơn nhiều! Chính là câu nói: Ra tay dễ mà thành
công cao, dùng lực ít mà hiệu quả mau! Vì vậy cho nên chúng sinh trong
“biển Hoa Tạng” đồng nguyện vãng sinh; huống chi chúng ta là phàm phu đủ
những trói buột, sao có thể bỏ pháp môn rất là tiện lợi nầy?
–
Nói vì sao Tịnh độ, con đường nầy rất là yên ổn và thích đáng? Nhân vì
đường khác đều dễ lạc vào lối rẽ; vì chỉ nhờ nơi tự lực, lúc công phu để
được lực, hoặc để khởi lên các việc ma; tức chẳng khởi việc ma, cũng cầu
chứng đạo ở đời hiện tại (Một đời hiện tại nếu dứt hết nghiệp mê lầm
phiền não, chứng quả vị vô sanh, thì gọi là chứng đạo ở đời hiện tại).
Thực tại rất là ít. Nếu không thể chứng đạo ở đời hiện tại, đến lúc “vô
thường” chuyển đời, vạn nhất mình không làm chủ được, một khi mê mất bản
tánh, thì tham luyến phước báo trời người, từ đây đọa lạc! Các bậc đại
đức xưa nay như thế nầy rất nhiều, huống chi hạng phàm phu chúng ta?
Thật là đáng sợ! Duy chỉ có việc tu Tịnh độ, dẫu không thể hiện tại
chứng đạo, cũng có thể “đới nghiệp vãng sinh” (mang nghiệp mà được
vãng sinh). Chỉ cần một khi sanh được về Tây phương, gặp Phật nghe
pháp, thì vĩnh viễn không thể thối lui; như thế há chẳng phải là rất yên
ổn và thích đáng sao?
Nhân vì tu hành các pháp môn khác, đều là nhờ nơi lực chính mình mà làm;
chỉ có pháp môn niệm Phật của Tịnh độ, ngoài tự lực ra, còn nhờ Phật lực
để tiếp dẫn. Ví như đi đường, trước mặt có một người biết đường, dẫn dắt
cho ta; hoặc là bên đường có một người có sức mạnh, giúp đỡ cho ta; như
thế, đây chính là pháp môn ổn định và thích đáng vạn lần – Tịnh độ là
pháp môn lớn, vạn người tu vạn người thành tựu.
Có một hạng người cống cao ngã mạn, thông minh tự cho mình hữu dụng; họ
không biết chỗ tinh vi mầu nhiệm sâu xa của niệm Phật, họ thường xem vấn
đề niệm Phật dễ dàng như thế, họ nói rằng niệm Phật là việc của người
ngu muội, không phải là việc của người thông minh. Bàn luận thế nầy,
kiến giải thế nầy thật là quá lầm lỗi! Hạng người nầy cho là thông minh,
ngược lại bị thông minh dối gạt rồi!
Cần phải biết rằng một câu A DI ĐÀ PHẬT trùm khắp ba căn, không luận là
căn tánh thượng, trung hay hạ, nếu chịu thật tâm niệm Phật, đều có thể
thu hoạch được lợi ích chẳng gì lớn hơn. Bồ Tát Đại Thế Chí hãy còn từ
pháp môn niệm Phật mà thành đạo. Ngoài ra, như Bồ Tát Văn thù, Bồ Tát
Phổ hiền, Bồ Tát Quán thế âm…và chư đại Bồ Tát ở trong hội Hoa Tạng cũng
đều niệm Phật hồi hướng vãng sinh về thế giới Cực Lạc. Xin hỏi hạng
người thông minh trí huệ trong hiện tại, có thể trên chư đại Bồ Tát
sao?! Nay trong thời mạt pháp nầy, pháp môn niệm Phật rất là thích ứng
mọi căn cơ, rất là hợp, không luận một người nào, cũng đều tu hành được
Tịnh độ!
THƯỜNG NIỆM A DI ĐÀ PHẬT
THÌ CÓ THỂ THÀNH PHẬT KHÔNG? ^
Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni ở thế
giới Ta bà nầy chỉ dạy chúng ta rằng:
Ở
cõi nước Cực lạc bên phương tây có một vị Phật A Di Đà, có duyên với
chúng sinh thế giới Ta bà chúng ta; Ngài phát nguyện rộng muốn độ hết
tất cả chúng sinh ở thế giới Ta bà. Bảo chúng ta chỉ cần thành tâm trì
niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà, đến lúc mệnh chung, tự có thể vãng sinh
về nước Cực lạc ở phương tây, gặp Phật nghe pháp, trọn không thối lui,
nhờ Phật thọ ký, sẽ được thành Phật.
Chúng ta nên biết Phật không nói vọng, đức Bổn Sư của chúng ta dứt khoát
không thể dối gạt chúng ta.
Theo như lời nầy, phàm là người niệm Phật, ai ai cũng đều thành Phật
được. Song thì một số người già trẻ niệm Phật vì sao không thành Phật ư?
Nên biết rằng: Niệm Phật cần phải dõng mãnh tinh tấn, chuyên tâm một
mối, tảo trừ tất cả vọng niệm, buông hết tất cả duyên đời, niệm một
chánh niệm, tâm và miệng tương ưng, trong một ngày mười hai thời, không
một giờ, một khắc, một phút, một giây nào không niệm Phật (Chữ niệm
từ tâm chẳng phải từ miệng, trong miệng không niệm mà tâm niệm cũng
được. Nhưng chuyên nương vào tâm niệm dễ bị giãi đãi, mỗi ngày ít nhất
cũng cần niệm bằng miệng một nghìn tiếng, hay càng nhiều càng tốt).
Đi cũng niệm Phật, đứng, ngồi, nằm cũng niệm Phật, lúc thư thái cũng
niệm Phật, khi bận rộn cũng niệm Phật, tuy gặp lúc ồn áo náo nhiệt bề
bộn cũng chẳng lìa Phật; đợi đến lúc công phu thuần thục, tức là trong
ngủ trong mộng cũng đang niệm Phật, niệm đến nhất tâm bất loạn, quyết
định vãng sanh về phương tây Cực lạc, quyết định thành Phật. Còn nếu
ngày nay niệm, ngày mai không niệm, miệng niệm mà tâm chẳng niệm; lúc
niệm Phật trong tâm có Phật, lúc không niệm Phật trong tâm không có
Phật; giống như là niệm Phật một cách lơ đãng, cũng chẳng qua giúp trồng
một chút nhân tịnh cho đời sau mà thôi! Nếu nói cần sinh Tây phương
thành Phật thì làm chẳng được rồi. Đây chẳng sợ Phật không đến độ ta, mà
chỉ sợ ta niệm Phật chẳng thành khẩn. Trong PHÍ NHÀN CA của Tổ sư Hám
Sơn nói rằng: “Miệng niệm Di Đà tâm tán loạn, rát hầu bể cổ cũng uổng
thôi!”. – danh ngôn chí lý, ráng nhớ cố nhớ! Pháp môn Tịnh độ lấy ba
pháp: TÍN, HẠNH và NGUYỆN làm Tông chỉ; người đời thường thường cầu
phước báo đời sau, chẳng cầu đời hiện tại vãng sinh, trái ngược với lời
dạy của Phật, vì thế cho nên chẳng được lợi ích chân thật vậy.
Người niệm Phật cần sinh Tây phương thành Phật, có ba việc cần yếu không
thể không biết. Thế nào gọi là ba việc cần yếu? Một là TÍN, hai là
NGUYỆN, ba là HÀNH; ba vấn đề nầy thiếu một thì chẳng được.
Thế nào gọi là TÍN?
Tín (niềm tin) là cửa để vào đạo. Kinh Hoa Nghiêm nói rằng:
“Tín
là khởi đầu của Đạo, là mẹ của công đức”
Nếu chẳng tin, sao có thể tu hành? Nếu lòng tin chẳng sâu, tu hành ắc
không có lực. Cho nên người niệm Phật, thứ nhất dứt khoát cần
phải tin lời của Đức Bổn Sư dẫn dạy chúng ta niệm Phật là quyết không
thể sai lầm; thứ hai phải tin vào nguyện rộng lớn của đức Phật A
Di Đà, ta nếu như niệm Phật, Ngài nhất định đến độ ta; thứ ba
phải tin Tây phương có một thế giới Cực lạc xác thực; thứ tư cần
phải tin các món trang nghiêm thù thắng vi diệu của thế giới Cực lạc ở
Tây phương mà kinh Di Đà đã nói, đó là xác thực có nhiều chỗ tốt đẹp như
thế.
Thế nào gọi là NGUYỆN?
Đã tin thế giới Ta bà có nhiều món khổ, lại nguyện mau lìa Ta bà; đã tin
thế giới Cực lạc có nhiều việc vui, lại nguyện vãng sinh về Cực lạc.
Nguyện nầy đã lập, cứng chắc như kim cang, Thái sơn có thể dời, nguyện
nầy chẳng thể bị tước đoạt. Chẳng những đối với các món thinh, sắc, của
cải ở thế giới Ta bà, cũng chẳng có tham luyến trở lại một hào một ly,
nếu có người bảo với ta rằng: “Có một thế giới khác còn tốt hơn thế giới
Cực lạc”, ta cũng chỉ thẳng về Tây phương, chẳng nguyện đến bất cứ chỗ
nào khác. Nếu có người bảo ta rằng: “Có một pháp môn khác còn tốt hơn
pháp môn niệm Phật”, ta cũng vẫn cứ quyết tâm kiên định niệm Phật, chẳng
nguyện học pháp môn khác. Nên cần phải lập nguyện như thế, mới có thể
nương chiếc thuyền đại nguyện của đức Di Đà, đến được bờ nước kia nơi ao
Liên trì.
Thế nào gọi là HÀNH?
Đã tin có Tây phương, đã nguyện sinh Cưc lạc, ắc cần phải tiến hành niệm
Phật. Một pháp niệm Phật bao gồm: “Các ác chớ nên tạo tác, các thiện
cố gắng vưng làm”. Tây phương tuy cách xa mười vạn ức cõi Phật, ta
nếu nhất tâm niệm Phật, niệm đến chỗ tột cùng, khởi niệm tức đến. Còn
nếu niệm Phật chẳng nhất tâm, thì nghiệp lực phàm phu, sao có thể đến
được cảnh giới Phật và Bồ Tát? Đã vậy tin rồi, nguyện rồi mà niệm chẳng
được, chẳng nhất tâm, niệm chẳng được chẳng khẩn thiết chí thành. Nhân
vì sinh tử vô thường, niệm Phật tâm lại chẳng chuyên nhất, thời không
thể cảm Phật để mà tiếp dẫn. Còn nếu đến lúc Diêm Vương đến hỏi, thì chỉ
có thể theo đó mà đi chịu khổ sinh tử thôi! Cho nên người tu hành niệm
Phật, nói đi thì lập tức đi liền, nói làm (niệm Phật) thì lập tức làm
liền, phải như cứu lửa cháy đầu; lại không được đi đến giữa đường, rồi
tạm nghỉ, rồi lại đi, lại cần phải như nhờ nương thuyền tị nạn; còn nếu
lơ lơ là là, thì ngày nay qua rồi còn ngày mai, đời nầy lầm lỡ vả lại
đợi đời sau…nhiều kiếp trầm luân, trọn không có ngày đến được bờ bên
kia. Điều cần yếu là không tiếc thân mạng, mạnh mẽ tiến về phía trước,
thời lúc ở bên nầy động chân, hoa sen bên kia đã nở, đài vàng đài bạc
sớm đã dự bị đón chờ; quyết định thành Phật, không mảy may nghi ngờ.
HỌC PHẬT
NÊN PHẢI ĐỌC KINH ĐIỂN NÀO,HÀNH CÔNG KHÓA THẾ NÀO?
^
Kinh điển Phật giáo đều phải nên học.
Nhưng “Đại tạng” thì nhiều quá, mênh mông như biển rộng, không thể đọc
hết được, xem qua cũng chẳng thể hết. Ước lược những kinh điển thường
đọc của người tu hành hiện tại, phần nhiều là những kinh văn ngắn, ngoài
ra những bộ kinh điển lớn, có thể phát nguyện đọc một vài bộ, cố nhiên
là tốt, còn nếu không có công phu để tụng đọc, xem cũng được vậy. Nay
đây đưa ra mấy bộ kinh điển cần yếu nên đọc nên xem cho người tu hành –
chép ra đây để tiện cho quí vị tự lựa chọn:
-
Tâm kinh – Kim Cang kinh – Di Đà kinh – Phổ Hiền Hạnh Nguyện phẩm –
Chương Thế Chí Viên Thông trong kinh Lăng Nghiêm.
(Năm bộ trên chương cú rất ngắn, có thể thường đọc; như người tu Tịnh
độ, kinh Di Đà thì mỗi ngày ắc phải đọc).
–
Hoa Nghiêm kinh – Pháp Hoa kinh – Lăng Nghiêm kinh – Lăng Già kinh –
Viên Giác kinh – Niết Bàn kinh – Địa Tạng kinh – Quán Vô Lượng Thọ Phật
kinh – Vô Lượng Thọ kinh – Kim Quang Minh kinh – Phạm Võng kinh – Bồ
Tát Giới Bổn kinh.
(Mười hai bộ nầy, có thể phát nguyện đọc một vài bộ cũng tốt; như không
thể đọc, thì nhất định cần phải xem qua. “Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh,
Vô Lượng Thọ kinh”, nên thường đọc, thì lẽ dĩ nhiên của Tịnh độ sẽ hiểu
được).
Đến vấn đề công khóa của mỗi ngày; công khóa sớm, công khóa chiều của
người xuất gia là có sự nhất định (có chép ở trong “Thiền môn nhật
tụng”).
Hàng Cư sĩ tại gia, công việc thế tục trói buộc nơi thân, nếu công khóa
định ra rất nhiều mà không thể thực hành, trái lại là chẳng tốt. Vậy
mong rằng quí vị nên tu Pháp môn Tịnh độ, xin giúp quí vị định ra một
cách lập công khóa đơn giản sau đây:
v
Công khóa buổi sớm:
(Thức dậy, súc miệng rửa mặt xong, chỉnh đốn y phục, lễ Phật tán lạy,
thứ tự như sau):
–
Nam mô Tận Hư Không Biến Pháp Giới Thập Phương Tam Thế Nhất Thế
Chư Phật.
–
Nam mô Tận Hư Không Biến Pháp Giới Thập Phương Tam Thế Nhất Thế
Tôn Pháp.
–
Nam mô Tận Hư Không Biến Pháp Giới Thập Phương Tam Thế Nhất Thế
Hiền Thánh Tăng.
–
Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Đại Từ Đại Bi Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
–
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật.
–
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát
–
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát Ma Ha Tát
–
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát.
(Mỗi một lạy, chí tâm thành kính, miệng đọc thân lạy; xong tán lạy, đọc
chú Lăng Nghiêm, chú Đại Bi, xong rồi đọc kệ hồi hướng, đọc Tam quy y,
lễ Phật ba lạy rồi lui ra).
v
Công khóa buổi chiều:
Đọc một quyển kinh A Di Đà, bảy biến chú vãng sanh, niệm một nghìn tiếng
“Nam mô A Di Đà Phật”, đọc văn phát nguyện (hoặc sám nguyện), tam quy y,
tứ hoằng thệ nguyện, đọc xong, lạy Phật A Di Đà một lạy rồi lui ra.
Việc định ra công khóa ở trên, rất là đơn giản dễ làm, chẳng nên gián
đoạn. Nếu như rảnh rổi, niệm Phật xem kinh đều được. Nhưng lúc không
hành công khóa, thì cần nên nhất tâm niệm Phật. Kinh Pháp Hoa nói: “Ngồi
nằm lại kinh hành, trừ ngủ, thường nhiếp tâm”; mới có thể tịnh niệm
tương tục nối tiếp, nhân duyên thành thục, rất là cần thiết!
Lại nữa người học Phật giáo, chẳng thể chẳng rõ giáo tướng. Nhưng sách
vở thì rất nhiều mà văn nghĩa thì sâu xa. Nếu như chuyên môn nghiên cứu
thì trọn đời cũng khó mà hết được. Mọi người nên rõ phần giáo tướng, thì
nên xem các sách: Đại Thừa Khởi Tín Luận; Bách Pháp Minh Môn Luận; Bát
Thức Qui Cũ Tụng; Duy Thức Tam Thập Tụng; Thiên Thai Tứ Giáo Nghĩa; Hiền
Thủ Ngũ Giáo Nghĩa. – Mấy bộ sách nầy, xem lược qua để biết được đại ý
như vậy.
Đến như việc hạ thủ công phu, cửa Phật cách thức rất nhiều, song cũng
bất tấc câu nệ. Tốt nhất được rảnh rổi thì ngồi, ngồi hai chân cho ổn
định, chẳng như vậy thì giống như ngồi chơi một chân; tức khiến không
thể ngồi yên xếp bằng; ngồi thăng bằng cũng chẳng phải là không làm
được; chỉ cần thân thể ngay ngắn đĩnh đạc, ổn định hơi thở, buông hết
duyên đời, nhiếp tâm niệm Phật, càng lâu tịnh niệm sẽ thuần thục, chắc
chắn có thể gặp Phật và thành Phật.
NGƯỜI TU HÀNH PHẢI TINH TẤN
KHÔNG ĐƯỢC BIẾNG LƯỜI ^
Người tu hành cần phải tu sáu pháp Ba La
Mật (sáu Ba la mật tức là sáu Độ: 1- Bố thí độ; 2- Trì giới độ; 3-
Nhẫn nhục độ; 4- Tinh tấn độ; 5- Thiền định độ; 6- Trí huệ độ. Độ là ra
khỏi biển sinh tử, đến bờ bên kia – bờ giác ngộ an vui, gọi là Ba La Mật
– hay là Độ).
Món Ba La Mật thứ tư đó tức là Tinh Tấn Ba La Mật, có thể thấy người tu
hành ắc cần phải tinh tấn, vạn lần chẳng được biếng lười. Tinh tấn là
cửa vào đạo, biếng lười là đường thối lui. Phát tâm cần phải thiết tha,
một khi phát tâm thì tu liền, đâu để cho một chút chậm trễ quay đầu; tu
hành cần phải nổ lực, một khi tu thì đến nơi đến chốn, chẳng được một
vài gián đoạn. Chẳng nên sợ khổ, chẳng nên sợ khó, không ngày không đêm,
không bận rộn hay nhàn nhã gì cả, đi, đứng, ngồi, nằm, tóm lại ở nơi sự
tự tu – mới là cung cách tu hành, mới là nền tảng thành Phật. Còn nếu
tâm tuy phát mà chẳng thiết tha, hạnh tuy tu mà không cố gắng, cũng niệm
qua loa hiệu Phật, cũng xem hời hợt sách kinh, cũng ăn chay, cũng làm
thiện…Nhưng kinh bổn tuy mở ra, vẫn loạn động như tâm loài vượn; vừa
buông chuỗi niệm, ý như loài ngựa bôn ba, nào tham, sân, si…từng chữ đủ
đầy, duyên thế sự chẳng thể nào buông được. Nào Giới, Định, Huệ…từng
loại bỏ ra, nào cơ Thiền gì nữa cũng chỉ là lời cửa miệng! Xét ra xao
nhãng kiểu nầy, chậm rì ì ạch, mưu lấy hư danh, dối gạt chính mình, sao
có thể ra khỏi sóng to sinh tử? Sao có thể vào biển tánh Tỳ Lô (Tỳ Lô
– là tiếng lược gọi, nói đủ là “Tỳ Lô Giá Na”, là Pháp thân Phật vậy.
Cõi của đức Phật nầy được dịch là Quang Minh Biến Chiếu). Chẳng qua
trồng vài quả nhỏ Trời người cho đời sau. Nếu muốn chứng đạo trong đời
hiện tại, vượt khỏi luân hồi mà người chẳng chịu tinh tấn làm đạo, thì
sợ rằng không có cơ hội hy vọng. Huống chi vô thường mau chóng, thời
gian chẳng đợi cùng người! Cần tu liền tu, cần hành liền hành; nếu để
nhân tốt lần lữa qua đi, dần dà dời đổi, tuổi xuân mau hết, tóc bạc đầy
đầu, chưa gặp Di Đà đã gặp Diêm Vương hỏi trước, lúc đó muốn tu chẳng
được, sau hối thì đã chậm rồi!
Người đời thường nói: Tu hành niệm Phật là việc của người già! Thật là
một câu nói sai lầm chẳng đơn giản. Nên biết rằng: Người muốn tu hành mà
nói chờ ta duyên đời tạm xong thì nhất định tu hành; thế thì không có
một ngày nào để tu hành! Ví dụ như người muốn làm việc thiện, nói chờ
khi tôi phát tài rồi mới đi làm thiện, thế thì không có một ngày nào làm
thiện, chính là giống nhau.
Bồ Tát Phổ Hiền có một đoạn kệ cảnh tỉnh chúng rằng:
“Ngày
nay đã qua, mạng ta giảm theo,
Như cá ít nước, nào có vui gì?
Phải siêng năng tinh tấn,
Như cứu lửa cháy đầu.
Chỉ nhớ lấy vô thường,
Cẩn thận chớ buông lung!”.
Đây chính là lời hay thuốc tốt cứu độ người đời của bậc đại Bồ Tát; khắp
nguyện đại chúng tin thọ phụng hành.
VÌ SAO PHẢI
NGĂN NGỪA VIỆC SÁT HẠI? ^
Sát hại là giới đầu tiên trong năm giới
của Phật môn, người tu hành bắt tay vào thì đây là việc khẩn yếu thứ
nhất. Hiện tại có một hạng người nói: Sinh vật ở giữa trời đất nầy là đồ
ăn đương nhiên của con người; lại nói rằng: Nếu con người không ăn, thì
các loài heo, dê, gà, vịt…như thế trên thế giới nầy chứa đâu cho hết?
Những sự bàn luận lầm lạc đó thật là mê hoặc hết người đời!
Chúng ta nay đem lý do của GIỚI SÁT (ngăn ngừa việc sát hại), việc nên
phải làm của đời người mà nói ra đây:
Lý do của giới sát, có ba điều bất nhẫn, ba điều chẳng dám.
Thế nào là ba điều bất nhẫn?
–
Cùng có hình thể, cùng có trí giác, cùng có thống khổ. Thế mà bị hy sinh
nó đau khổ vô hạn, để ngon miệng no bụng nhất thời cho ta, thiên hạ nhẫn
tâm làm việc hại lý, chẳng gì hơn việc nầy. Thử xem xét chúng sinh khác
loài, lúc đang bị bắt giữ, lúc sợ chạy, hoặc kêu rên, thậm chí giãy giụa
lung tung, trốn không thoát chết; so với loài người lúc bổng nhiên gặp
hoạn nạn thì sợ sệt kinh hoành có khác gì? Lại xem chúng sinh loài khác,
ngay khi gặp sát hại, hoặc ngũ tạng đã bị mổ xẻ mà hai mắt vẫn còn nhìn,
hoặc yết hầu mới cắt mà hai chân vẫn còn duỗi, con lươn vỡ bụng vẫn còn
bơi, con cá vào chảo vẫn còn nhảy; so với loài người lúc bị phát chết
những điều thảm thiết có khác gì đâu? Lại xem chúng sinh loài khác, giết
một con dê mà cả đàn rớt mật, bắt một con chim mà cả bầy hãi bay; so với
nhân loại đang lúc bị giặc đến cướp giết, hoặc thấy cha mẹ máu thịt thảm
thiết, hoặc thấy vợ con tôi tớ bị chặt tay chân…nào có khác gì? Lăn mình
xuống đất, mắt thấy lòng đau. Đó là điều bất nhẫn thứ nhất vậy.
–
Trong ba cõi, sáu đường luân chuyển, nhiều đời quyến thuộc, ít nhiều
cũng đọa lạc súc sinh. Chúng sinh ta giết, thịt ta ăn ngày nay, đâu biết
chẳng phải là quyến thuộc đời trước? Cha mẹ tôn trưởng kêu rên trong
chảo, anh-em-vợ-tớ quằng quại dưới đao; đáng thương cho máu thịt không
thấy không biết! Một niệm kịp thời, sao có thể ra tay? Đây là điều bất
nhẫn thứ hai vậy.
–
Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh; vóc dáng tuy khác, tánh linh chẳng
khác; đợi lúc cơ duyên thành thục, gồm có phát tâm, tóm lại có lúc thành
Phật. Cho nên tất cả chúng sinh đều là chư Phật vị lai. Ta nay giết một
chúng sinh đồng với giết một vị Phật, ta nay ăn một miếng thịt cũng như
ăn thịt Phật! Đó là điều bất nhẫn thứ ba.
Thế nào là ba việc chẳng dám?
·
Chư kinh chép rằng: “Người lại làm dê, dê lại làm người (chỉ nói loài
dê, các loài súc sinh cũng bao quát ở trong đó), ăn thịt lẫn nhau
đời đời kiếp kiếp, nghiệp báo xoay vần, không có lúc dứt. Đời nầy ta may
mắn được làm người, ăn thịt cầm thú; đời khác, ta đọa làm cầm thú, người
cũng ăn thịt ta. Nhân quả không sai, trả vay có phần; họa đồ tể nấu
nướng, khó mà trốn thoát. Nếu muốn vượt ra cửa nầy, duy chỉ có phát lời
thề, ngày nay bắt đầu, đời đời kiếp kiếp, vĩnh viễn không ăn thịt chúng
– Đây là điều không dám thứ nhất.
·
Thế giới tất cả vận hành giết chóc, đều là do nghiệp sát hại của chúng
sinh tạo thành, ngày tháng chứa nhóm nghiệp sát như núi. Cho nên, ít
thời vài mươi năm, nhiều thời trăm năm, trời đất “đại khai sát vận” một
lần, để trả hết nợ nầy. Vì vậy cho nên thê thảm gặp họa đâm chặt, đều là
do người ăn thịt đời trước; muốn cầu người chẳng giết ta, ắc phải trước
ta không giết nó. Người xưa nói rằng: “Muốn biết kiếp đao binh trên
đời thế nào, chỉ cần nghe tiếng kêu nửa đêm trong lò mổ”. Lại có câu
rằng: “Muốn không có kiếp đao binh trên đời, trừ phi chúng sinh không
ăn thịt”. – Đây là điều không dám thứ hai.
·
Người sát sinh tham cái vui nhỏ nơi miệng bụng, gây lấy nhân sâu của địa
ngục, rất là đáng sợ! Ngài Từ Vân Sám chủ đời Tống có kệ nói rằng:
“Ông nghe kẻ sát sinh
Chết đọa nơi địa ngục
Thiết thành cao tám vạn
Và bốn ngàn do tuần
Dài rộng cũng như vậy;
Trong đó đầy lửa dữ
Ngoài trong toàn màu đỏ
Chó dữ canh bốn cửa
Tiếng ngục tốt như sấm
Hai mắt như điện chớp
Đuổi ông – kẻ sát sinh
Vào trong mà chịu khổ.
Lực sĩ nắm mâu sắt
Thân mâu dài một trượng
Lưỡi đao rộng tám tấc
Nhắm đánh ngực tội nhân;
Hết ngực rồi đến lưng
Khổ đau không kể xiết;
Trong ngàn muôn ức năm
Chịu khổ cực lớn nầy.
Ông nghe người ăn thịt
Chết đọa ngục A tỳ,
Nhà sắt cũng cao rộng,
Lượng tám vạn do tuần.
Bốn cửa đầy lửa dữ
Nam bắc đều thông nhau;
Tường sắt và lưới sắt
Gông sắt, xiềng cùm sắt
Mỗi thứ đều nung lửa
Thảy đều khiến đỏ rực.
Ăn thịt, thọ khổ nầy,
Trăm ngàn trăm ức năm”.
Phàm người lúc đang ăn thịt, nghĩ đến các điều thống khổ của địa ngục
nói trên, đâu lại dám ăn. – Đây là điều không dám thứ ba.
Có “ba điều bất nhẫn” và “ba điều không dám” nầy, thế giới không luận là
người nào, cũng đều nên ngăn ngừa việc sát hại, chẳng riêng gì người tu
hành. Nếu người tu hành thì càng phải nên ngăn ngừa việc sát hại. Hàng
ngày sát sinh, ăn thịt thì niệm Phật nào, tụng kinh gì?!
Kinh Lăng Nghiêm nói: “Tâm sát hại chẳng trừ, chẳng ra khỏi trần lao”.
Có người nói rằng: Ta không đợi sát, ta chẳng tự mình sát, mua ăn thịt
chín, thì không tội lỗi – không biết rằng ai ai cũng như đây, thì quán
thịt chín chắc chắn là sẽ mở ra rất nhiều, nghiệp sát chắc chắn sẽ nhiều
hơn! Ví dụ như người sát sinh, là trộm cướp, người ăn thịt là kẻ đồng
lõa chứa chấp; vậy thì kẻ chứa chấp không có tội sao? Huống nữa chính
miệng bụng ta hưởng, nghiệp sát lại để người chịu lấy, có tâm như vậy
lại chẳng nên hỏi. Hiện tại người phát tâm tu hành thường thường chẳng
thể ăn chay trường, chỉ ăn chay kỳ, lần hồi tiến dần; nguyên cũng chưa
phải là bắt đầu chẳng được, mà bất quá là chưa thể phát tâm Từ bi triệt
để. Đã không có “Tâm Bề đề lớn” thì sao có thể được “Đạo Bề đề lớn” ư?
Có một đoạn chuyện xưa kể về Mạnh Tử; nay đem ra kể cho mọi người:
–
Có một người chuyên trộm gà, mỗi ngày ăn trộm của người hàng xóm một
con. Có người bạn bảo với anh ta rằng: “Ăn trộm gà chẳng phải là việc
làm của người quân tử”. Người trộm gà nói: “Vậy thì tôi giảm đi một
chút, mỗi tháng trộm một con, cho đến năm tới thì không trộm nữa, được
không?”. Mạnh Tử nghe mà nói rằng: “Ngươi muốn không ăn trộm thì lập tức
không trộm nữa, sao lại còn phải đợi đến năm tới?”.
Đem câu chuyện trên so sánh với việc người ăn chay kỳ xem sao (?)
Xin khuyên mọi người, đã tu hành, cần nên triệt để nhận thức chân chính,
mọi người nên mạnh mẽ tinh tấn, mau chóng phát tâm lớn Bề đề.
PHƯƠNG PHÁP NGƯỜI TU HÀNH
SÁM TRỪ NIỆM DÂM^
Điều mà người tu hành rất khó trừ là
niệm dâm. Nhưng mà niệm dâm không trừ bỏ thì chẳng có thể nhập đạo. Nếu
như sự dâm dục đã trừ bỏ mà chưa có thể dứt tận được ý dâm, thì vẫn chưa
thể ra khỏi cảnh giới của phàm trần. Nên Kinh Lăng Nghiêm dạy rằng: “Nếu
không đoạn dâm mà tu thiền định, như nấu cát đá mà mong thành cơm”.
Lại dạy rằng: “Quyết phải khiến cho cơ hội của dâm ở nơi thân và tâm
đều dứt, cho đến cái “tánh dứt” cũng không có, thì ở nơi đạo Bề đề của
Phật mới có thể hy vọng”. Nhưng muốn dứt tâm dâm nói dễ lắm sao (?).
Ngày thường không thấy bóng dáng thì cũng biết phạm dâm là một điều
không phải tốt; nhưng lúc bóng sắc mĩ miều trước mắt, hương ấm tỏa xông
va chạm, tâm nầy lại chẳng thể tự chủ. Thử hỏi ngồi yên chẳng loạn, ổn
định chắc chắn, có được mấy người? Mắt nhìn sắc đẹp, tâm chẳng khởi
niệm, lại có mấy người? Đây không phải là “Ma lực của sắc to lớn” mà là
“nghiệp lực của chính mình sâu dày”! Do vì chúng sinh nhiều đời nhiều
kiếp chìm đắm trong biển tình dục (tham tâm ái niệm), xông ướp chẳng
phải là một ngày một bữa; nay đây muốn lập tức dứt lìa, khó càng thêm
khó! Duy chỉ có dùng Phật pháp lần hồi huân tập tu hành, thường xuyên
làm những cách quán tưởng đối trị, quán tưởng nhiều ngày lâu dài, tập
cho tánh di chuyển “tự nhiên nhi nhiên”, niệm dâm đó không cắt mà tự
dứt.
Nay đây xin tiêu biểu đưa ra các cách quán tưởng, nói ra từng cách, mong
đại chúng lắng nghe:
1.
Quán tưởng nhơ uế:
Lông, tóc, móng, da, răng, nướu, các lỗ…không có cái nào là chẳng nhơ
uế; đờm, dãi, nước mũi, nước mắt, mồ hôi, nước tiểu…không có cái nào là
chẳng gớm ghê; ngoài thân nổi bùn đất, trong thân sinh ra trùng. Dẫu có
hình mạo hoa nhường nguyệt thẹn, cá lặng chim sa, tối ngủ sáng dậy miệng
cũng hôi hám; lâu ngày chẳng tắm thân thúi buồn nôn. Mặt hoa da phấn,
bên trong một cái đầu lâu; lụa gấm xum xoe, che đậy toàn là máu mủ…
2.
Quán tưởng sự độc hại:
Nhìn qua giống kiều diễm, đến thì như rắn, rít, bò cạp; gần thân nó sẽ
táng mạng ta. Giống như thuốc độc được bọc đường, để nơi miệng thì ngọt
mà hại cả thân mạng – đáng sợ!
3.
Quán tưởng suy giaø:
Nhan sắc nữ nhân chẳng qua trước ba mươi năm; qua thời gian nầy, hình
dung mòn mỏi, da dẻ lần nhăng. Ngày tháng thoi đưa, giục người chóng
già; trước mắt tuy là trăm đẹp ngàn xinh, thử nghĩ tương lai, rốt cuộc
cũng sẽ trở thành lão già tóc bạc, có thú vị gì?
4.
Quán tưởng sự chết:
Người đẹp nhất đời rốt cuộc cũng chết, đâu có dài lâu như trời đất?
(Từ phần nầy trở về sau, từ sự quán tưởng sình trướng thân thể cho đến
sự quán tưởng xương trắng; đều là nói về sự biến tướng lần hồi của con
người sau khi chết).
5.
Quán tưởng sình trướng thân thể:
Sau khi chết không bao lâu thì thân thể lần hồi phình trướng thêm lên,
da như bọc nước căng đầy, bụng giống trái dưa dứt dây; bay mùi hôi hám,
ruồi nhặng bu đầy; mọi người đã giác ngộ chưa? Đó, những bóng sắc yêu
kiều diễm lệ của hiện tại!
6.
Quán tưởng sắc xanh bầm:
Từ tướng trắng hồng rõ ràng, chuyển thành một thân thể xanh, vàng vàng,
bầm bầm, rữa rữa…mong quí vị mở mắt ra mà nhìn, chẳng phải là ai khác…
7.
Quán tưởng sự tàn hoại:
Da thịt rã rớt hết, ngũ tạng bày từng phần; nhờ quí vị xem kỹ, như thế
lưu luyến chăng?
8.
Quán tưởng máu chảy:
Một mảng máu đã đổ, ngàn năm người không dậy; bê bếch trên cỏ xanh, bừa
bãi nhơ đất bụi. Chẳng rõ tướng tốt – xấu, đâu biết ai nam – nữ; buồn
thay cho mắt thịt, lầm nhận GIẢ làm CHƠN!
9.
Quán tưởng tướng mủ rữa:
Thối rữa rất khó nhìn, tanh hôi chẳng thể ngửi; đâu biết nơi máu mủ lở
loét ấy, ngày xưa từng xông hương ướp hoa!
10.
Quán tưởng bị ăn thịt:
Thi hài gặp loài ăn thịt, khó mà bảo toàn; chẳng đủ no bụng cho loài
chim đói, khó khô nước dãi lũ chó thèm ăn. Năm ấy rảnh rỗi thích yêu,
ngày nầy có ai thương xót? Chẳng bằng thịt dê heo cũng còn có giá trị
mấy đồng.
11.
Quán tưởng sự tan rã:
Hình hài đều phân tán, tay chân lần rơi lìa; xem kỹ đẹp xinh ấy, rốt
cuộc về nơi đâu?
12.
Quán tưởng xương trắng:
Da thịt đã tiêu tan, chỉ còn là xương trắng, mưa thấm màu rong rêu, nước
ngấm loang đất cát. Nhiều kiến trùng đục khoét, mấy con cháu giữ gìn; dù
phong lưu đến mấy, sầu vẫn chưa hoàn hồn!
13.
Quán tưởng sự ương lụy ràng buộc:
Vợ con ư? – Ung thư bám xương tủy, một khi đã dính vào, không ngày nào
khỏi bệnh! Nữ sắc ư? – Xiềng xích ở thế gian, một phen trói nơi thân,
không sức đâu tự thoát! Kinh TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG dạy rằng: “Người khi
bị trói buộc nơi vợ con, thì còn hơn lao ngục. Lao ngục còn có lúc thoát
lìa, chứ vợ con thì không có ý niệm xa cách”. Kinh ĐẠI BẢO TÍCH dạy
rằng: “Bởi nhân duyên gì gọi là phụ nhơn? (người vợ). Nói PHỤ, là tên
gọi của sự mang nặng thêm, hay khiến cho chúng sinh mang gánh nặng mà đi
khắp nơi”.
14.
Quán tưởng tật bệnh:
“Sắc” là dao bén giết người; “Dục” là bùa linh thúc mạng. Mưu tính khoái
lạc nhất thời, thành bệnh hoạn mà nuốt hận vong thân; tham đắm vui chơi
khoảnh khắc, nhiễm ác tậc rồi rên la hết kiếp.
15.
Quán tưởng quả báo:
Sự mau chóng của quả báo chẳng gì hơn “Dâm”. Mộ phần của kẻ tuyệt tự,
không cái nào chẳng phải là của phường háo sắc cuồng tà. Tổ tông của
hạng kỹ nữ, thảy đều là loại lãng tử tham hoa.
16.
Quán tưởng địa ngục:
Kẻ mà lúc sinh tiền háo sắc, sau khi chết chắc chắn phải đọa vào địa
ngục lửa dữ; vì nó liên hệ với cái gốc là lửa dục đã được tạo ở trong
tâm con người, đến chỗ nào cũng đều là lửa dữ, cháy đầu bỏng trán vẫn
không có thời hạn ra khỏi.
17.
Quán xét mình và người:
Ai không có vợ con? Ai không có liêm sỉ? Ta dâm vợ con người khác, rồi
thì chọc phá đùa giỡn vô lễ. Thử nghĩ, người khác đối với ta như vậy, ta
có cảm tưởng thế nào? Nếu xoay cục diện như vậy, có thể nào chẳng đổ mồ
hôi?
18.
Quán tưởng Quỷ Thần đang ở trước mặt:
Đức Phật không đến đi, nhưng hào quang chẳng chỗ nào là không chiếu soi;
mắt Thần như điện đầy cả không trung. Người đời làm gì, người khác không
thấy, nhưng quỷ thần thấy hết. Ngay mỗi lúc khởi niệm dâm, nên biết
(tỉnh giác) Phật trời ở trên, Quỷ Thần ở bên, niệm dâm tự nhiên tiêu
mất.
Người tu hành lúc nhàn cư tĩnh
tọa, hoặc lúc thoạt thấy SẮC, nên dấy lên những điều quán tưởng ở trên;
lâu ngày thực hành thì niệm dâm: không sám mà tự sám, không trừ mà tự
trừ vậy. (Thân là gốc của khổ, mà dâm lại là gốc của thân; không luận là
nam hay nữ, nếu muốn cầu thoát sinh tử, thì đoạn dâm là gốc vậy).
SỰ PHÂN BIỆT
ĐẠI THỪA VÀ TIỂU THỪA ^
Đại thừa tức là pháp của Phật và Bồ Tát tu hành, quả của Phật và Bồ Tát
chứng đắc; Tiểu thừa là pháp của Thinh văn Duyên giác tu, quả của Thinh
văn Duyên giác chứng.
(Thinh văn là người nghe pháp
“Tứ đế” của Phật để tu và chứng đến quả A La Hán. Duyên giác là người
nghe pháp “Thập nhị nhân duyên” của Phật mà được giác ngộ và chứng được
quả Bích Chi Phật; như sinh nhằm đời không có Phật, hạng nầy gọi là Độc
Giác).
Vậy cho nên Thinh văn và Duyên
giác lại gọi là hàng Nhị thừa, hai thừa nầy đều là Tiểu thừa.
Chủ nghĩa của Tiểu thừa là một
loại chủ nghĩa tự giác, khám phá được nghiệp mê lầm của phiền não ở nơi
nhà lửa ba cõi (cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc), rồi chỉ cầu giác ngộ
chính mình thoát ly sinh tử; chán ngán thân, lu mờ trí, vĩnh viễn không
muốn quay trở lại, cũng không có mong muốn cứu độ chúng sinh; tuy là
chẳng sinh chẳng tử, nhưng chỉ là “Hữu dư Niết bàn”, vì hãy còn hai món
mê lầm là “Trần sa hoặc” và “Vô minh hoặc” ở ngoài. Đức Phật nhân vì họ
phát tâm chẳng to lớn, nên gọi là “Tiểu thừa”.
Đến vấn đề đại thừa của Phật và
Bồ Tát, thì ngoài việc tự mình giác ngộ còn mong giác ngộ cho người
khác; giác ngộ người khác tức là cứu độ tất cả chúng sinh, đồng đến bờ
bên kia (bờ an vui giác ngộ). Cho nên chư vị Bồ Tát sau khi chứng được
“Vô sinh pháp nhẫn” nhờ Phật thọ ký, ắc cần phải nương nơi nguyện trở
lại cõi Ta bà, dùng các món thần thông phương tiện, độ thoát chúng sinh,
thảy đều được tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, thì hai món mê lầm:
Trần sa hoặc và Vô minh hoặc, thanh tịnh hết không còn, mới được thành
Phật, mới là “Vô dư Niết bàn”. Chúng ta đã chịu phát tâm, không chỉ tu ở
quả vị Nhân Thiên và Nhị Thừa, mà quyết cần phải hành đạo Bồ Tát, tu
hành đại thừa tuyệt đối khắp độ chúng sinh, mới có thể viên thành quả vị
Phật.
Nhưng La Hán tuy là tiểu thừa
quả, ngược lại nhân đoạn hết các phiền não thô trong ba cõi, vượt khỏi
dòng sinh tử, so với hạng phàm phu trong ba cõi của chúng ta, thì đã đến
địa vị Thánh nhân rồi; dứt khoát không được nhân vì Phật nói họ là tiểu
thừa, mà xem khinh họ, để rồi khởi lên tâm ngã mạn. Cần phải biết rằng
nghĩa lý trong kinh Pháp Hoa nói ba thừa tức là nhất thừa, La Hán chỉ
cần phát tâm hướng ĐẠI, tức là nhân Bồ Tát, tức là nhân Phật vậy. Huống
nữa đại thừa và tiểu thừa là chỉ ở nơi chỗ phát tâm mà luận bàn. Như vấn
đề đồng hành, phát tâm đại Bồ đề tức là đại thừa, phát tâm tự lợi là
tiểu thừa; chẳng phải là đại thừa và tiểu thừa mỗi cái đều riêng có sở
hành khác nhau. Tức là đem một việc mà bàn luận đã tự nó có chỗ lớn nhỏ
chẳng đồng. Song đạo đại thừa to lớn, người tiểu thừa chẳng kham gánh
vát, chúng ta chỉ phát tâm Bồ đề lớn tự lợi, lợi tha, tu và hành cho
cuộc đời tốt đẹp, một lòng niệm Phật, tức là đại thừa dứt đối đãi không
gì sánh bằng. Đại thừa dứt đối đãi không gì sánh bằng nầy, người người
có thể tu; chẳng như đại thừa trong kinh điển duy nhờ tự lực, tuy chứng
Thánh nhân quả A La Hán, mà hãy còn nhiều điều không thể gánh vát. Cho
nên nói pháp môn TỊNH ĐỘ khắp trùm cả ba căn (Thượng, trung và hạ căn),
gồm thâu cả hai hạng bén nhạy và chậm lụt; trên từ Bồ Tát Đẳng Giác,
dưới đến hàng nghịch ác phàm phu, không có một người nào bỏ ra ngoài,
cũng không có một người nào đem vào trong. May mắn được đức Phật dạy cho
pháp lớn vô thượng rất viên đốn, rất giản tiện, rất dễ tu, rất dễ thành
nầy; nếu không tu tập há chẳng phải là người rất ngu si, trên cô phụ ơn
Phật, dưới ruồng rẫy tánh linh chính mình ư? Như chúng ta không vì cái
ngu si vốn có của mình, mà hãy tu hành sửa đổi và thừa đương giáo pháp,
ngõ hầu khỏi phụ ơn sâu dày của Như Lai ngày ấy đã dạy pháp môn nầy.
SỰ PHÂN BIỆT
CHƠN TÂM VÀ VỌNG TÂM ^
Chúng ta cần phải biết phân biệt chơn tâm và vọng tâm; trước tiên cần
phải biết thế nào gọi là chơn tâm? Thế nào gọi là vọng tâm?
Vì sao gọi là chơn tâm? Tức là
tâm chơn sáng suốt vi diệu của Như Lai, cũng tức là “Bản lai diện mục”
của chúng sinh; không hình không tướng, không sinh không diệt, chẳng có
thể hình dung được bằng ngôn ngữ, chẳng có thể so lường được đối với
hạng phàm phu thường tình. Đã chẳng phải là quả tim bằng thịt của thân
người, cũng không phải là cái tâm duyên với bóng sắc; không ở trong,
không ở ngoài, lại chẳng ở khoảng giữa; mà vắng lặng rỗng rang, tròn đầy
sáng suốt. Sự rộng lớn của tâm bao trùm vũ trụ, tràn đầy họp thích. Kinh
LĂNG NGHIÊM dạy rằng: “Phải biết rằng hư không sinh ở trong tâm ông,
cũng như áng mây nổi giữa trời rộng bao la”. Huống gì thế giới Ta bà
mỏn mọn, ở trong tâm lượng của chơn tâm ta, cũng lại là hạt thóc trong
kho chứa lớn. Chúng ta cần phải biết rằng chơn tâm rộng lớn vô biên vĩnh
viễn không diệt nầy chẳng phải chỉ riêng Phật mới có, mà là tất cả chúng
sinh chúng ta cũng đồng có; nhưng Phật ở trong sự giác ngộ hoàn toàn,
đầy đủ một cái chơn tâm; còn chúng sinh ở trong mê nên chơn tâm bị vọng
tâm che mờ, chẳng có thể phát hiện ra được. Tuy là bị vọng tâm che mờ
không thể phát hiện, nhưng chơn tâm kia vẫn vậy hoàn toàn không bị thiếu
khuyết; không những ở nơi con người như vậy, mà ở ba đường: địa ngục,
ngạ quỷ, súc sinh – các chúng sinh đó cũng như thế. Cho nên chúng sinh
tuy ở trong sáu đường luân hồi theo nghiệp mà luân chuyển, thế nhưng
chơn tâm vẫn vĩnh viễn không bị bào mòn và hủy diệt. Chỉ cần có một ngày
có thể bỏ hết vọng tâm, thì chơn tâm sẽ hoàn toàn hiện hữu. Thế gọi là
tu hành thành Phật.
Vì sao gọi là vọng tâm? Chỉ vì
nhân cái tâm chơn sáng suốt vi diệu kia không được giữ ở nơi tự tánh,
một niệm chẳng tỉnh giác nên vô minh vọng khởi biến động, chơn và vọng
hòa hợp tức thì phát sinh ra một cái thức A LẠI DA; thức nầy gọi là
“Tàng thức”, tức là thức thứ tám. Thức nầy nắm giữ tất cả hột giống
thiện và ác, lại là mầm mống của tình dục, cội rễ của nghiệp mê lầm. Khi
một niệm dấy động ở nơi thức nầy, thì vọng khởi chấp, theo đó mà lưu
chuyển, lại sinh ra một thức MẠT NA, thức nầy lại có tên là “Truyền tống
thức” (truyền đạt và đưa đi), tức là thức thứ bảy. Thức thứ bảy vọng
chấp phần thấy biết của thức thứ tám làm “Ngã” (cái ta); Do dính mắc mà
chuyển vào thức thứ sáu, thức nầy gọi là Ý thức. Lại khởi ra phân biệt.
Mắt, tai, mũi, lưỡi, và thân – năm thức trước nầy đều bị sức phân biệt
của thức thứ sáu nầy chuyển biến, lại tham đắm dính mắc sáu trần là:
Sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp; rồi từ đó phát sinh ra tất cả tình
ái, tham muốn, khởi lên những mê lầm, nghiệp chướng; đây gọi là “vọng
tâm”. Vọng tâm nầy từ trong mảnh ruộng của thức thứ tám trôi bày ra;
chúng ta hãy nhìn lại, đã gọi là THỨC tức không phải là TÂM, thực tại là
ở ngay trong cái Thần của Thức mà dụng việc; người hiện tại đều lầm cho
Thần của thức ấy là Tâm.
Ví như nói rằng: Trong tâm ta
muốn cần ăn cơm, trong tâm ta muốn cần mặc áo…cần nên hiểu rằng muốn ăn
cơm, muốn mặc áo…đều là thần thức của ta, thật sự không phải là tâm ta.
Nếu đem nó ra để làm tâm ta, như thế không những là sai lầm lớn mà là
đặc biệt sai lầm rồi.
Ngươi đời chỉ nhân nơi sự ngộ
nhận vọng tâm làm tâm, không biết đi tìm tâm chơn sáng suốt vi diệu của
chính mình, để đến nổi chìm đắm nơi sinh tử, trọn không thể nhô đầu ra
khỏi, rất là đáng xót đáng thương! Tổ sư có bài thi rằng:
“Hỡi người học đạo chẳng biết chơn!
Thần của thức xưa đã từng trông,
Thực sự là mầm sinh tử mãi.
Người si lầm nhận “chủ nhân ông”!
Cho nên chúng ta cần nên cố gắng
buông rời tất cả vọng tâm, tìm lấy chơn tâm mới được.
Chơn tâm và vọng tâm vốn chỉ là
một; mê rồi thì chơn tâm sẽ thành vọng tâm, bỏ hết vọng tâm lại hiển
hiện chơn tâm. Cho nên trong luận KHỞI TÍN nói rằng: “Vọng tâm không
có Thể, lấy chơn tâm làm Thể”. Người tu hành cần phải tìm chơn tâm
của mình, chỉ cần dùng công phu trừ vọng, bất tấc phải bôn ba tìm cầu
đâu ở bên ngoài. Ví như một mặt gương sáng tức là chơn tâm, bị bụi nhơ
che mờ tức là vọng tâm; lau đi bụi nhơ thì gương sáng tự hiện; cũng vậy,
dẹp đi vọng tâm thì chơn tâm hiển hiện. Nhưng gương sáng kia cần phải
lau cho sạch, không được để lại một dấu vết bụi nhơ; cũng vậy, vọng tâm
cần nên trừ bỏ hết, chẳng nên lưu lại một chút mảy mún “tình kiến”. Hễ
trong tâm chơn còn có một chút cặn bã mảy mún tình thức phàm phu hay
kiến chấp Thánh Hiền, đó lại là cội rễ của vô minh, chẳng có thể nào
vượt ra khỏi luân hồi sinh tử được.
PHƯƠNG PHÁP HÀNG PHỤC MA
CỦA NGƯỜI TU HÀNH ^
“Đạo cao một thước, ma cao một
trượng”, đó là điều nhất định vậy. Tu hành đến lúc công phu sâu dày, khó
tránh khỏi không có ma đến. Ma có hai loại: Nội ma và ngoại ma. Ngoại ma
thì dễ đẩy lùi, còn nội ma thì khó mà hàng phục. Như không có thể hàng
phục, thì ắc phải bị dính mắc với ma; chẳng những công tu hành tổn thất,
mà vả lại sự nguy hiểm rất đáng lo! – nếu nói về việc hàng phục ma, thì
ước có bốn phương pháp:
1.
Cần biết tướng trạng của ma:
Phàm người dính mắc ma, phần
nhiều lúc gặp ma, chẳng biết nó là ma, vì vậy dính líu với ma. Nếu như
có thể biết được tướng ma, tức chẳng dính mắc mà nó tự thối lui. Thế nào
là tướng ma? Phần lớn phàm là người, vật hay cảnh giới trước mắt khiến
ta có việc: yêu, tham, sợ, ghét v.v…thì không có cái nào chẳng phải là
ma. Cho đến nội ma của ngũ ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức ấm) rất là
nguy hại. Trong Kinh Lăng Nghiêm đã có nói về năm mươi món ấm ma rất là
tường tận, cần gấp tham cứu tường tận rõ ràng lỹ lưỡng, để khỏi phải gặp
lúc bị gánh chịu.
2.
Bỏ thân cũng chẳng sợ:
Con người ắc phải trước nhất có
cái tâm xả bỏ thân mạng, nhiên hậu mới có thể học Phật; có cái sự mạnh
mẽ xem xét phá bỏ sinh tử, mới có thể hàng phục được ma. Ma hóa thành Dạ
xoa, La sát đến hại ta, hóa thành hỗ dữ, rắn độc đến ăn cắn ta…đều là
tưởng tượng huyển hóa nào có sợ gì? Nếu thật sự bị nuốt ăn, cũng chỉ là
nghiệp xưa đã chuốt lấy, huống nữa là thoát đi bao da (thân) mà vãng
sinh Cực lạc, chính phải cảm tạ đối với chúng, vì đó mà ta sớm được giải
thoát. Cho nên người tu hành, sấm chớp nổ ở bên mà chẳng sợ, Thái sơn đổ
ở trước mà không động, ma lực tuy lớn nào có sá gì? Nếu chẳng được vậy
thì tham sanh sợ tử, kinh hãi bàng hoàng, không đợi đến khi ma tới mà
trong lòng đã hoảng loạn rồi, chẳng muốn dính mắc với ma thì có được
chăng?
3.
Chẳng chấp lấy – chẳng xả bỏ:
Ma là vật mà lấy chẳng được, bỏ
cũng chẳng nên. Lúc gặp ma quyết cần phải trấn định tâm ta, đã chẳng
được tham luyến nó, lại chẳng được nhàm ghét nó (nhàm ghét cũng là dính
mắc với ma, ta càng nhàm ghét nó càng vướng mắc), cần nên khởi lên những
suy nghĩ: Ma tức là Phật, Phật tức là ma, mê là ma, ngộ là Phật, ma như
vậy Phật như vậy, trọn không hai lý. – Lại nghĩ rằng quyến thuộc tức ma,
có câu rằng: “nhân sinh quyến thuộc, đô thị ma đầu” (tức là: quyến thuộc
của đời người đều là ma chướng cả), ma tức là quyến thuộc. Cùng ở chung
với quyến thuộc đó là điều thường tình của con nguời. Ma ở bên ta, hại
gì đến ta đâu? – Lại nghĩ rằng ma cũng là một chúng sinh, mà tất cả
chúng sinh ta đều khuyên phát tâm niệm Phật, thì ma cũng là chúng sinh,
ta cũng cần khuyên nó phát tâm niệm Phật, bậu bạn ta tu hành, chuyển
thành bạn đạo. (Bồ Tát hàng long phục hổ, chính là lý nầy). Tóm lại, ma
đến chẳng chống cự, ma đi chẳng lưu giữ; như vậy thì ma thuật đều hết,
không luận là nội ma hay ngoại ma, thảy đều lui tan.
4.
Trì chú đẩy lùi ma:
Lúc mới tu hành, chút ít liên
quan đến ma nên dễ dẹp bỏ; đến khi đạo lực càng sâu, những hạt giống
chứa nhóm ở trong thức thứ tám đã sinh ra nhiều thói quen căn bản, bị
công phu bức bách, hoặc dục niệm bành trướng, hoặc vọng tâm loạn khởi,
lực lượng nó rất lớn chẳng bình thường. Người tu hành duy chỉ liên quan
đến một việc sau cùng nầy rất khó mà vượt qua. Hoàn toàn nhờ ở nơi tự
lực thành thử e rằng không nắm chắc, nên cần nhờ Phật lực giúp đỡ; thì
chỉ có nhiếp trụ tâm thần, trì tụng thần chú. Chú là tâm ấn Kim Cang của
Phật, không luận là loại ác ma nào hễ gặp đến cũng biến thành phấn nát.
Lực của các chú hàng phục ma thì chú Lăng Nghiêm là tối thắng. Ngày xưa
đức A Nan chứng địa vị sơ quả Tu Đà Hoàn, hãy còn nhớ chú nầy mà thoát
ly chốn dâm. Thứ đến là chú Đại Bi, vì đức Bồ Tát Quán Thế Âm đã nói. Bồ
Tát Quán Thế Âm có mười bốn món công đức không sợ sệt, cho nên lực hàng
phục ma cũng rất là rộng lớn. Nhưng công phu trì chú thì quyết cần hằng
ngày trì cho được thuần thục, chẳng như vậy thì khi ma đến đụng đầu, sợ
rằng chữ câu đều chẳng nhớ, sao có thể thông suốt sắc bén được? Sao có
thể tương ứng được? Cho nên công khóa hằng ngày thì Lăng Nghiêm và Đại
Bi, hai chú ấy là mỗi ngày quyết cần phải niệm, chẳng được gián đoạn.
Lại nữa nhất tâm niệm Phật, tức không có việc ma; dẫu có ma đến, hãy còn
có thể chẳng hãi chẳng sợ, chí thành niệm Phật, thì quyết định sẽ lập
tức tiêu diệt. Bởi vì sao? Vì chánh niệm chiếu rõ ràng, ma chẳng có chỗ
dung thân. Đó cũng là người niệm Phật, không cần riêng tìm cách hàng
phục ma, mà việc ma tự nó không do đâu mà khởi được vậy.
NHẤT NIỆM LÚC LÂM CHUNG
^
Người tu hành hiện đời nầy chứng quả, đó là một điều chẳng phải dễ. Như
chẳng thể thân hiện đời chứng quả, thì việc rất cần kíp là lâm chung
nhất niệm. Sinh Tây phương cũng một niệm nầy, thăng thiên đường cũng một
niệm nầy, vào địa ngục cũng một niệm nầy. Một niệm nầy là then chốt của
Thánh – phàm, một niệm nầy là đầu mối liên quan của người – quỷ. Cần
gấp, cần gấp! Trong quyển tám của Kinh Lăng Nghiêm có một tiết nói rằng:
Đời người lúc lâm chung, đem thiện – ác một niệm đó, phân biệt ra quả
báo sinh thiên đường hay vào địa ngục, nói ra rất rõ ràng thích đáng.
Nay đem nguyên văn xin chép ra sau đây:
“Đến lúc lâm chung; chưa xả hơi
ấm, thiện ác một đời thảy đều mau chóng hiện ra trước mắt. Tử nghịch
sinh thuận, hai tập giao nhau (hai tập tức là sinh và tử, thuận và
nghịch). Thuần tưởng tức bay lên (Tưởng tức là thiện niệm), ắc sinh cõi
trời. Nếu ở trong tâm, gồm cả phước huệ và cùng tịnh nguyện, tự nhiên
tâm khai, thấy mười phương Phật. Tất cả tịnh độ (cõi Phật) theo nguyện
vãng sinh. Tình ít tưởng nhiều (Tình tức là ác niệm), nhẹ bay chẳng xa
(thiện niệm xen tạp với ác niệm, thì tuy bay mà chẳng xa), tức lên cõi
tiên, quỷ vương lực lớn, Dạ xoa bay đi, La sát trên đất (người làm thiện
nghiệp mà tâm sân chưa hết, phần nhiều làm Dạ xoa, La sát), dạo khắp bốn
phương, đi không trở ngại.
Trong đó nếu có thiện nguyện
thiện tâm, hộ trì Phật pháp; hoặc hộ giới cấm, theo người trì giới; hoặc
hộ thần chú, theo kẻ trì chú; hoặc hộ thiền định, giữ gìn pháp nhẫn; thì
những người ấy được ở gần gũi dưới tòa Như Lai. (“Trong đó nếu có”; là
nói về việc những người sau khi đã thành Phi tiên, quỉ vương, Dạ xoa, La
sát. Không phải là việc lúc lâm chung).
Tình – tưởng bằng nhau, chẳng
bay chẳng đọa, sinh ở nhân gian (loại nầy đời sau vẫn được làm người như
cũ), Tưởng minh được thông, Tình sâu bị độn.
Tình nhiều Tưởng ít, đọa vào súc
sinh, nặng thì lông mao, nhẹ thì lông vũ.
Tình bảy Tưởng ba, sinh loài ở
nước, sinh ở bên lửa. Chịu khí lửa dữ, thân làm ngạ quỉ, thường bị đốt
thiêu; nước cũng hại mình, chẳng ăn chẳng uống, trải trăm nghìn kiếp.
Tình chín Tưởng một, rơi vào Hỏa
luân (bánh xe lửa), thân vào ngục đó, gió lửa kề bên; nhẹ có thời hạn,
nặng không thời gian (Đây cũng tức là hai địa ngục: Hữu gián và Vô
gián).
Thuần tình tức đọa A Tỳ địa
ngục”.
Nương nơi kinh nghĩa trên, thì
sanh Thiên ở tại một niệm nầy, sanh Tây phương cũng ở một niệm nầy, sanh
nhơn đạo, đọa súc sinh đạo, ngạ quỉ đạo, địa ngục đạo cũng đều ở tại một
niệm nầy. Vậy thì lúc lâm chung “một niệm nầy” cần gấp hay không?
Có người bác bỏ rằng: Nói như
thế thì chỉ cần đến lúc lâm chung phát khởi niệm thiện, phát khởi niệm
thanh tịnh là được rồi, bèn có thể sinh thiện, lại có thể sinh Tây
phương, thế thì bình thường sao lại phải quyết tu hành ư?
Xin trả lời rằng: Chẳng phải như
vậy. Nhất niệm lúc lâm chung hoàn toàn nương vào sức tu trì hằng ngày,
công phu thuần thục hằng ngày, lâm chung mới có thể phát được nhất niệm;
không như vậy thì vợ con tôi tớ vây quanh, bệnh tậc hôn mê, gió thổi
cũng cảm thấy đau như dao cắt, thống khổ bức bách, những sự việc lúc
sống trải qua, sau khi chết chưa hết trói buộc dẫn dắt, mỗi mỗi việc
khởi động nơi tâm, muốn phát thiện niệm tịnh niệm là việc rất khó khăn,
là điều mà không có một hai người trong nghìn vạn người. Tức là người tu
hành đến lúc đó còn sợ rằng không làm chủ được mình, cần phải có thiện
tri thức ở bên để cảnh giác nhắc nhở, niệm Phật trợ đạo; lại nữa chẳng
để cho thân nhân khóc lóc, sợ loạn tâm người ra đi. Người tu hành hãy
còn như thế, huống gì người chẳng tu hành, đâu có gì để nắm chắc!?
Cho nên việc tu hành hằng ngày
rất là quan trọng, chính là vì dẫn bước đến lâm chung. Kinh Di Đà dạy
rằng:
“Nếu có người thiện nam, kẻ
thiện nữ nào nghe nói đức Phật A Di Đà, liền giữ trì danh hiệu; hoặc một
ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc
sáu ngày, hoặc bảy ngày, nhất tâm chẳng loạn; (Đây tức là công phu
và thành tích của sự niệm Phật hằng ngày). Người đó lúc mệnh chung,
đức Phật A Di Đà và chư Thánh chúng hiện ra trước mặt; người đó lúc lâm
chung mà tâm chẳng điên đảo, tức được vãng sinh về nước Cực lạc của đức
Phật A Di Đà”. (Đây tức là kinh nghiệm thật tế lúc lâm chung. Nếu
chẳng phải là công phu niệm Phật hằng ngày, niệm đến nhất tâm bất loạn,
lúc nầy sao có thể được tâm chẳng điên đảo, mà vãng sinh về nước Cực
lạc?).
Tháng ngày mãi trôi mau, đời
người như mộng mị, lúc đại hạn vô thường, đảo mắt ngay trước mặt – Chúng
ta nên khẩn cấp dự bị lúc “lâm chung nhất niệm” là vừa!
PHÂN BIỆT PHẬT HỌC VÀ HỌC PHẬT
^
Phật học và học Phật, vốn là một việc, không nên sinh tâm phân biệt.
Nhưng ngay thời mạt pháp, thường thường có một hạng người “Huệ nghiệp
văn nhân”, riêng giảng về Phật học mà chẳng chịu Học Phật. Nói đến nỗi
hoa trên trời loạn xạ rơi xuống, mà hãy còn không bổ ích thân tâm. Đây
cũng là cái tệ của một hạng người trong thời mạt pháp, chẳng thể chẳng
gấp rút mà sửa đổi cho ngay thẳng lại. Nay vì vậy, xin đem sự phân biệt
Phật Học và Học Phật, thử nói cùng quý vị:
Nắm chắc trong tay những vấn đề
cửa Phật, nghiên cứu cùng tột nghĩa lý trong kinh Phật, gọi là PHẬT HỌC.
Tu tâm dưỡng tánh, phát nguyện vãnh sinh…gọi là HỌC PHẬT.
Người Học Phật tuy cũng chẳng
nên bỏ đi Phật học, nhưng mà chuyên giảng Phật học chẳng chịu tu hành,
đây là sự lầm lạc đặc biệt lớn. Bởi vì học Phật, vấn đề nầy cần phải
dụng công thật sự, chẳng thể riêng nhờ nơi miệng nói. Như không thật sự
dụng công, bất luận giảng đến mức tinh thông như thế nào, rốt cuộc cũng
chỉ như là đếm châu báu cho người khác, tính chẳng xong của cải chính
mình, nói việc ăn uống bếp núc mà chẳng no được bụng ta. Huống nữa gần
đây có một hạng Danh sĩ và Tân học gia giảng về Phật học, không những
lấy kinh Phật làm môn “Khảo cứ học” (khảo tra chứng cứ) để nghiên cứu,
mà còn lấy kinh Phật làm môn “triết học” để tham cứu tường tận; rồi gán
ghép chi ly, sinh ra nhiều nhánh nhóc, chẳng những không có ích cho Phật
học, mà còn e rằng sinh ra các điều chướng ngại, thành ra các nhân duyên
chê bai Phật. Đây là một loại sai lầm được lưu truyền, họa đó còn hơn
nước lớn, thú dữ; hàng đệ tử Phật chúng ta nên phải cảnh tỉnh cho nhau.
Đức Phật THÍCH CA MÂU NI nói
rằng:
“Ta cùng với A Nan v.v…ở chỗ
của đức Phật Không Vương, đồng thời phát tâm Bề đề Vô thượng chánh đẳng
chánh giác; A Nan thường thích ưa nghe nhiều, còn Ta thì siêng năng tinh
tấn; do đó Ta đã thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác, mà A Nan hộ trì
pháp của Ta”.
Đa văn (nghe nhiều) tức là Phật
học, tinh tấn tu hành tức là Học Phật. Chúng ta nếu căn tánh thông minh
lanh lợi thì hãy gồm thực hiện cả hai: Phật học và Học Phật; đó là việc
hơn hết. Không như vậy thì đối với Phật học, không bằng học Phật tu hành.
Dịch xong – rằm trung thu 2004.
P.L. 2548
HẢI HUYỀN VIÊN GIÁO.
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-12-2004