Đức Phật đã xử sự như thế nào khi được
cung kính, cúng dường
(Kinh
Đại Không, Trung Bộ 122)
Hòa thượng Thích Minh Châu
Chúng ta đã được biết Đức Phật đã
thành công rực rỡ và xuất sắc trong sứ mệnh thuyết pháp độ sanh. Trong
thời Ngài tại thế, Ngài đã hóa độ cho hai chúng xuất gia và tại gia của
Ngài, khiến cho hàng nghìn, hàng vạn người chứng quả. Ngài còn nhiếp phục
các ngoại đạo và tà giáo, khiến họ chấp nhận giáo lý của Ngài và trở thành
Phật tử.
Ngài lại còn cảm hóa rất nhiều vua chúa, đại thần, trăm họ. Cho nên luôn
luôn Ngài được các vị Tỷ kheo, các vị Tỷ kheo ni, các nam cư sĩ và các nữ
cư sĩ, vua chúa, đại thần, ngoại đạo sư, ngoại đạo đệ đoanh vây tôn trọng,
hỏi pháp, cúng dường.
Điều chúng ta muốn tìm hiểu ở đây là Ngài đã dùng pháp môn gì trong khi
tiếp xúc với nhiều thành phần như vậy, mà vẫn giữ phong thái giải thoát
nhẹ nhàng của một vị "Đã tịnh chỉ tất cả hành, đã chấm dứt mọi sanh y,
đã diệt trừ khát ái, đạt đến ly tham, đoạn diệt, Niết bàn". Như Ngài
thuyết cho chúng ta rõ, Ngài đã an trú nội không, ngoại không, nội ngoại
không, bất động, như đã trình bày trong Kinh Đại Không, số 122, Kinh Trung
Bộ.
Ngài nói : "Những sự an trú này, này Ànanda, đã được Như Lai hoàn toàn
giác ngộ, tức là sau khi không tác ý tất cả tướng, chứng đắc và an trú nội
không. Và này Ànanda trong khi Như Lai an trú trong an trú này, nếu có
nhũng Tỷ kheo, Tỷ kheo ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, quốc vương, đại thần,
ngoại đạo đệ tử đến yết kiến, trong khi ấy, này Ananda, Như Lai với tâm
hướng đến viễn ly, thiên về viễn ly, nặng về viễn ly, sống độc cư, hoan hỷ
trong ly dục, làm cho đoạn tất cả pháp, dựa trên ấy các lậu hoặc an
trú, nói lên tại chỗ ấy những lời thuần túy liên hệ đến khích lệ". Như vậy
Thế Tôn đã an trú nội không, và nhờ an trú nội không, nên đã an trú rất
nhiều. Và với kinh nghiệm bản thân như vậy, nên Đức Phật đã dạy cho hàng
đệ tử của mình phương pháp an trú nội không này rất kỹ lưỡng và nhiều chi
tiết như đã ghi rõ trong Kinh Đại Không.
Trước khi an trú nội không, vị Tỷ kheo cần phải an định nội tâm, tức là
cần phải tu thiền, chứng đắc sơ thiền, thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền
thứ tư, chứng tỏ muốn an trú nội không có hiệu quả, vị hành giả cần dựa
trên sức mạnh của thiền lực. Có thiền lực thời an trú nội không mới có kết
quả.
Rồi người hành giả phải tự quan sát mình, trong khi an trú nội không như
vậy, tâm của mình có thích thú, tịnh tín, an trú và hướng đến nội không,
ngoại không, nội ngoại không, và bất động hay không?
Nếu tâm mình chưa có hân hoan, thì người hành giả cần phải an trú, an tọa,
chuyên nhất và an định nội tâm trên định tướng đã đề cập đến trước.
Sự hành trì này chỉ chấm dứt khi vi hàng giả nhận thấy mình an trú nội
không với tâm thích thú, hân hoan, tịnh tín, an trú và hướng đến nội
không. Người hành giả liên tục an trú nội không, ngoại không, nội ngoại
không, bất động, vị ấy ý thức rõ ràng như vậy.
Trong khi vị ấy đang an trú với an trú này, nếu vị ấy hướng đến đi kinh
hành, với tâm an trú rằng: "Trong khi ta đi kinh hành, tham và ưu, các
ác bất thiện pháp không được chảy vào". Vị ấy phải tự mình ý thức rõ
ràng như vậy.
Cũng vậy khi vị ấy đứng lại, ngồi và nằm xuống, luôn luôn trong uy nghi.
Cử chỉ nào vị hành giả cũng giữ gìn không tham ưu, các ác bất thiện pháp
chảy vào. Trong khi vị ấy an trú này, nếu vị hành giả nói, vị ấy sẽ không
nói đến các lời nói phù phiếm vô ích.
Vị ấy không nói đến các câu chuyện hạ liệt, đê tiện, phàm phu, không xứng
bậc Thánh, không liên hệ đến mục đích, không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn
diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết bàn. Trái lại, vị hành giả có
nói, thời nói đến những lời khắc khổ, khai tâm, đưa đến nhất hướng yếm ly,
ly tham đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết bàn, như là thiểu
dục luận, tinh cần luận, tri, độc cư luận, bất chúng hội luận, tinh cần
luận, túc luận, giới luận, định luận, tuệ luận, giải thoát luận, giải
thoát tri kiến luận. Vị ấy nghĩ: "Ta sẽ nói những luận như vậy". Ở
đây vị ấy ý thức rõ ràng như vậy.
Lại nữa, vị hành giả trong khi an trú với an trú như vậy, tâm vị ấy khởi
lên những suy tầm (Vitakka). Vị ấy không suy tầm đến các tầm hạ liệt, đê
tiện, phàm phu, không xứng bậc Thánh, không liên hệ đến mục đích, không
đưa đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết
bàn, như dục tầm, sân tầm, hại tầm. Trái lại, vị ấy suy tư đến các suy tầm
có khả năng cầu tiến, hướng dẫn người suy tầm đến đoạn trừ hoàn toàn khổ
đau, như dục ly tầm, vô sân tầm, bất hại tầm. Vị ấy nghĩ: "Ta sẽ suy tư
như các loại tầm này". Ở đây vị ấy ý thức rõ ràng như vậy.
Vị hành giả có ý thức nhận định năm dục trưởng dưỡng (Kàmagunà), tức là
sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, xúc êm dịu. Nếu vị hành giả thấy
rằng mình còn tham dục đối với năm dục trưởng dưỡng, khả ái này, vị ấy ý
thức rõ ràng mình còn đang tham dục đối với năm dục trưởng dưỡng. Trái
lại, trong khi quan sát như vậy, biết rằng tâm mình không có tham dục đối
với năm dục trưởng dưỡng, thời vị ấy ý thức rõ ràng tâm mình không có tham
dục khởi lên đối với sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, xúc êm dịu.
Vị ấy ý thức rõ ràng là như vậy đối với năm dục trưởng dưỡng.
Còn đối với năm thủ uẩn, vị hành giả cần phải tùy quán chúng để đoạn diệt
chúng: Đây là sắc, đây là sắc tập khởi, đây là sắc đoạn diệt. Đây là thọ,
đây là thọ tập khởi, đây là thọ đoạn diệt. Đây là tưởng, đây là tưởng tập
khởi, đây là tưởng đoạn diệt. Đây là hành, đây là hành tập khởi, đây là
hành đoạn diệt. Đây là thức, đây là thức tập khởi, đây là thức đoạn diệt.
Trong khi vị hành giả an trú tùy quán sự sanh diệt của năm thủ uẩn này,
nếu có ngã mạn (asminàna) nào khởi lên đối với năm thủ uẩn, ngã mạn ấy
được đoạn tận. Sự kiện là như vậy, thời vị hành giả tuệ tri như sau:
"Phàm có ngã mạn nào khởi lên nơi Ta, Ta sẽ đoạn tận ngã mạn ấy". Ở
đây vị ấy ý thức rõ ràng như vậy.
Cuối cùng Đức Phật nhắc lại cho tôn giả Ànanda, những pháp ấy thuần nhứt,
liên hệ đến thiện, thuộc hiền thánh, siêu thế, vượt khỏi tầm của Ác ma. Đó
là những pháp nằm trong an trú nội không, ngoại không, nội ngoại không,
bất động. Chính nhờ những pháp này, người hành giả y như tu tập hành trì,
nhờ vậy, dầu cho có được người đời tôn trọng, cung kính, cúng dường, cũng
không rơi vào đọa lạc.
Cuối bài kinh này, thế tôn nói lên ba trường hợp khởi lên bất hạnh cho
hàng đạo sư, cho hàng đệ tử và cho các vị tu Phạm Hạnh.
Thế nào là sự bất hạnh cho vị Đạo sư? Có vị Đạo sư (chỉ cho ngoại đạo) lựa
một trú xứ xa vắng, trong rừng, dưới một gốc cây. Trong khi sống viễn ly
như vậy, vị ấy được các Ba La Môn, cả thị dân và nông dân bao vây xung
quanh, tôn trọng cúng dường. Vị Đạo sư ấy sanh tâm phóng dật, khởi lên
tham dục, rơi vào dục vọng, khởi lên tham ái, rơi vào đời sống đầy đủ vật
chất, trở lui lại vào đời sống sung túc. Như vậy được gọi là sự bất hạnh
cho các vị Đạo sư, vì các ác bất thiện pháp, tạp nhiễm, dẫn đến tái sanh,
đáng sợ hãi, đưa đến khổ quả, dẫn đến sanh già chết trong tương lai, các
pháp ấy tấn công vị Đạo sư. Như vậy là sự bất hạnh cho vị Đạo sư.
Thế nào là sự bất hạnh cho vị đệ tử ? Vị đệ tử bắt chước vị đạo sư của
mình, lựa một trú xứ xa vắng, trong rừng núi thâm sâu. Khi sống viễn ly
như vậy người đệ tử được Bà la môn, gia chủ, cả thị dân, nông dân bao vây
xung quanh để tôn trọng cúng dường. Vị đệ tử ấy được bao vây như vậy, khởi
lên nhiễm tâm, rơi vào dục vọng, khởi lên tham ái, trở lui lại đời sống
sung túc. Như vậy được gọi là sự bất hạnh cho hàng đệ tử, vì các ác bất
thiện pháp tạp nhiễm, dẫn đến tái sanh, đáng sợ hãi, đưa đến khổ quả, dẫn
đến sanh già chết trong tương lai, các pháp ấy tấn công người đệ tử. Như
vậy là sự bất hạnh cho người đệ tử.
Như thế nào là sự bất hạnh của các vị đồng tu Phạm hạnh? Ở đây, Như Lai
xuất hiện là bậc A La Hán Chánh Đẳng Giác. Ngài sống viễn ly tại một trú
xứ xa vắng, được các Ba la môn, gia chủ, thị dân, nông dân cúng dường cung
kính. Ngài không khởi lên nhiễm tâm, không rơi vào dục vọng, không khởi
lên tham ái, không trở lui lại đời sống sung túc. Có vị đệ tử của bậc Đạo
Sư sống theo hạnh viễn ly tại một trú xứ xa vắng. Trong khi sống viễn ly
như vậy, các Bà la môn, gia chủ, cả thị dân và nông dân đoanh vây vị ấy để
cung kính cúng dường. Được tôn trọng như vậy, vị đệ tử khởi lên nhiễm tâm,
rơi vào dục vọng, khởi lên tham ái, trở lại đời sống sung túc. Như vậy gọi
là bất hạnh cho các vị tu Phạm hạnh, vì các ác bất thiện pháp, các pháp
đáng sợ hãi, đưa đến sanh già chết trong tương lai tấn công vị ấy. Như vậy
là sự bất hạnh cho các vị tu Phạm hạnh.
Trong ba sự bất hạnh này, nguy hiểm nhất là sự bất hạnh cho các vị đồng tu
Phạm hạnh, vì trước hết là có sự liên hệ trực tiếp đến Giáo hội Tăng già
của Đức Bổn Sư chúng ta. Sau nữa, vị đệ tử đã là đệ tử của Đức Bổn sư lại
không nghe lời giảng dạy của Đức Thế Tôn, không hành trì theo pháp môn an
trú nội không, ngoại không, nội ngoại không, bất động, cuối cùng khởi lên
tâm uế nhiễm và tâm tham ái, rơi vào các dục vọng, và trở lại đời sống
sung túc của một vị tại gia. Tác động của người đệ tử này đem lại nhiều
tai hại cho người đồng tu Phạm hạnh, cũng như đem lại nhiều bất hạnh cho
bản thân. Do vậy cuối cùng Đức Phật khuyên các đệ tử của mình nên đối xử
với Ngài với tâm thân hữu, không với tâm thù nghịch. Tâm thân hữu ở nơi
đây, chỉ có bậc Đạo Sư vì lòng từ mẫn thuyết pháp cho các đệ tử, nói lên
con đường đưa đến hạnh phúc cho người đệ tử. Và đệ tử ở đây chịu nghe
theo, chịu lắng tai, không chú tâm vào hướng khác, và không ngượi lại đi
xa lời dạy của bậc Đạo Sư. Ở trong Kinh này đối xử với Ngài với tâm thân
hữu là an trú nội không, ngoại không, an trú nội ngoại không, an trú bất
động. Chỉ có an trú như vậy, người đệ tử khi được các Ba la môn, gia chủ,
thị dân và nông dân bao quanh tôn trọng cúng dường, vị đệ tử không có đổi
khác, không có rơi vào dục vọng, không khởi lên tâm tham ái, nhờ vậy không
có trở lui đời sống sung túc, không có hoàn tục.
Ở nơi đây, chúng ta chứng kiến tất cả lòng từ bi thương tưởng của Đức Phật
đối với chúng ta, các chúng đệ tử xuất gia và tại gia của Ngài. Không
những Ngài đã an trú nội không, ngoại không, nội ngoại không, bất động
không để giữ vững trạng thái an nhiên giải thoát của một vị đã thật sự
giải thoát, Ngài còn giảng dạy pháp môn ấy cho các đệ tử của Ngài, để giúp
đệ tử khỏi rơi vào sự bất hạnh của các vị đồng tu Phạm hạnh. Nghĩa chữ
Không trong kinh này được trình bày thật rõ ràng. Tất cả những cung kính
cúng dường đoanh vây vị hành giả, vị hành giả đều quán với nội không,
ngoại không, nội ngoại không, bất động, tức là vị ấy hành trì hạnh viễn
ly, hạnh độc cư, hạnh thiểu dục tri túc, và đoạn tận các pháp, dựa trên ấy
các pháp lậu hoặc có thể sanh khởi, vị hành giả hoàn toàn đoạn tận các
pháp ấy.
Như vậy là thật nghĩa chữ KHÔNG trong kinh Đại không.
(Trích Tuyển tập "Hãy Tự Mình Thắp Đuốc Lên Mà Đi", Saigon, 1990)
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-05-2005