Đức Phật và con người hiện đại
Hòa thượng Thích Minh Châu
(Diễn văn đọc tại Đại học Vạn Hạnh
trong dịp lễ Phật Đản 2.517 (17-5-1973) tại Viện Đại học Vạn
Hạnh)
Kính thưa quý vị,
Hôm nay chúng ta làm lễ Phật đản 2.517. Hơn 2.500 đã trôi qua, từ khi bức
thông điệp của Đức Phật được nói lên tại vườn Lộc Uyển, bức thông điệp vì
con người và cho con người, "vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho
chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư
Thiên và loài người". Và con người của hơn 2.500 về trước cũng như con
người hiện tại, đã mang thân phận con người, đã sống đời sống con người,
thì những căn bệnh trầm kha đã đè nặng trên kiếp sống con người 25 thế kỷ
về trước, cũng vẫn đè nặng lên kiếp sống con người hiện tại, nếu không
phải là tinh vi hơn, phức tạp hơn và do vậy đau đớn hơn, tê tái hơn.
Khi Đức Phật nói lên sự thật thứ nhất, Khổ khổ, Dukkhadukkhatà, sanh là
khổ, già là khổ, chết là khổ, cầu không được là khổ, thương phải xa lìa là
khổ, ghét phải gặp gỡ là khổ. Ngài chỉ nói lên cho chúng ta thấy thực
trạng của con người, một thực trạng liên tục từ hơn 2.500 năm lại đây, gần
như là không biến đổi, chỉ có trầm trọng, đau đớn và tinh vi hơn. Ngày
này, chúng ta có nhiều bác sĩ bao nhiêu, chế tạo ra nhiều được phẩm bao
nhiêu, thì hình như con bệnh càng nhiều thêm bấy nhiêu, chứng bệnh càng
nan y bấy nhiêu, như để mỉa mai tất cả sự tiến bộ của Y học rất đáng khích
lệ của con người trong hơn 25 thế kỷ lại đây. Khi Đức Phật nhận thức thêm
một thực trạng nữa của đau khổ của con người, aniccatà dukkha, vô thường
là khổ. Đức Phật chỉ nói lên tính cách giả tạm, biến hoại mỏng manh kiếp
sống con người, quá khứ, hiện tại và tương lai. Với những phát minh kinh
khủng của khoa học của chiến tranh, với những vận chuyển giao thông càng
nhanh chóng tân kỳ, định lý vô thường lại càng chứng minh một cách linh
động, một cách khủng khiếp từng giờ từng phút. Bạn của chúng ta đang vui
cười hôm nay, ngày mai đã là người thiên cổ. Nhà cửa cao lớn, phố xá trù
mật hôm nay, một mai một chiều đã trở thành đống tro tàn trước mắt chúng
ta do chiến tranh tàn khốc gây nên. Con người cảm thấy định lý vô thường
được áp dụng với tốc độ nhanh chóng hơn, song song với nhịp độ ngày càng
nhanh chóng của cuộc sống. Con nít ngày nay đã lớn lên rất mau, khôn ngoan
rất mau để mà lập gia đình rất mau, và để mà chết cũng rất mau. Và chúng
ta có thể nói, không ai có ý thức rõ rệt định lý vô thường hơn tuổi trẻ
Việt Nam, sinh ra trong chiến tranh, lớn lên trong chiến tranh, trưởng
thành trong chiến tranh và biết bao nhiêu tuổi trẻ đã bỏ mình vì chiến
tranh.
Nỗi đau khổ của kiếp người gắn liền, dính chặt vào sự hiện diện của con
người trên cuộc đời và trong cuộc đời. Và do vậy, Đức Phật đã nói lên một
loại nỗi khổ nữa, tức là pancupàdànakkhadhà, dukkhà, năm thủ uẩn là khổ.
Thời hiện tại, nói theo triết gia Heidegger trong các tác phẩm của ông, là
thời đại của điêu linh thống khổ vì đêm tối đã bủa vây nhân loại. Theo
Jaspers, thì chúng ta đang sống trong tình trạng nghịch lý kỳ dị: thay vì
giải phóng con người, kỹ thuật lại tròng lên con người một ách nô lệ mới,
tinh vi và tàn khốc hơn. Vấn đề trước đây của con người khi mới xuất hiện
trên trái đất, là chinh phục những sức mạnh mù quáng hung bạo của thiên
nhiên, để chinh phục và sở hữu hóa hoàn toàn thế giới, nhưng khi đã sở hữu
hóa được hoàn toàn thế giới rồi, con người lại đánh mất chính thế giới độc
đáo của nhân cách mình, thế giới sinh hoạt kết dệt bằng hoạt động sáng
tạo, nhờ đó, con người mới là Con Người đúng nghĩa. Nói tóm lại, con người
đã vong thân, đã đánh mất phẩm giá cao quý của mình để chạy đuổi theo hiệu
năng và số lượng mà kỹ thuật đòi hỏi, chạy theo những hàng hóa được tân
chế hàng tháng, từng tuần, dưới sức thúc đẩy để có điều kiện của kỹ thuật
quảng cáo. Trong thế giới đó, con người không còn nhận ra chính mình nữa
như lời tiên tri của thi sĩ Rimbaud: Je suis un Autre, tôi là một kẻ khác.
Các nhà tâm lý học, xã hội học thường xuyên bàn giải về nỗi cô đơn, lạc
loài của cong người trong đô thị hay giữa đám đông vô danh, về sự nhàm
chán do đời sống đã được tổ chức quản trị quá chặt chẽ, khiến con người
như bị bưng bít, nghẹt thở, cảm thấy bị cướp đoạt hết tự do, mất hết sinh
lực sáng tạo. Họ sống vô mục đích, thiếu tin tưởng trong một thế giới chú
tâm quá nhiều đến an toàn vật chất cho con người và biến lòng tin tưởng
vào sức mạnh của khoa học kỹ thuật thành một thứ tôn giáo mới. Dần dần,
những sự quản trị con người đã biến tướng để đồng nhất với sự quản trị
những đồ vật, phục vụ cho những tiêu trừu tượng, con người sang tạo tự do
thuở ban đầu, nay đã biến thành con người tổ chức (organization-man), nói
theo danh từ của một nhà xã hội học nổi tiếng nước Mỹ (xin đọc Nicolas
Berdvaev: Creativity and The Structure of Society in the meaning of the
Creative Act, page 255).
Với ba xưng danh: khổ khổ, hoại khổ và năm thủ uẩn khổ, Đức Phật chỉ nói
lên thực trạng của kiếp người, con người quá khứ cũng như con người hiện
tại. Nhưng đồng thời, Đức Phật cũng nói lên sự thật thứ ba, Diệt đế
(Nirodhasacca). Với kinh nghiệm bản thân, Ngài đã tuyên bố: Các sự đau khổ
trên có thể diệt trừ được, ngay trong hiện tại nếu con người có đủ bền chí
và kiên gan đi theo con đường Trung đạo mà Đức Phật đã giới thiệu trong
đạo đế (Magagasacca). Nếu với sự thật thứ nhất khổ đế, Đức Phật đã gióng
lên một báo động bi quan, thời với sự thật thứ ba, Diệt đế, Đức Phật cũng
gióng lên ngân vang lạc quan của một vị đã giải thoát các sự khổ đau trên.
Và thực vậy, trong bốn mươi chín năm thuyết pháp của Ngài, Ngài chỉ nói
lên bức thông điệp độ sanh, tìm hiểu những ưu điểm, nhược điểm của con
người, rồi Ngài giới thiệu phương pháp thực tiễn hữu hiệu để con người có
thể vươn mình thoát khỏi các căn bệnh trầm kha đè nặng trên kiếp sống của
con người hiện đại. Khi Đức Phật phân tích con người gồm có Danh (nàma) và
Sắc (rùpa), Ngài cho chúng ta thấy con người chúng ta sống ở đời này là bị
chi phối bởi hai sức mạnh: Rùpajivitindriyana, sắc mạng căn, và
Nàmajivitindriva hay danh mạng căn. Chính sắc mạng căn khiến chúng ta di
đứng nằm ngồi, khiến tim chúng ta đập, phổi chúng ta thở, mạch máu chúng
ta chảy, tóc chúng ta dài, thân chúng ta lớn... Chính danh mạng căn khiến
chúng ta suy nghĩ điều này, lo âu việc nọ, khi thì tánh tham nổi lên, khi
thì tánh sân ngự trị, tóm lại tất cả đời sống tình cảm, tánh tình, tri
thức của ta điều bị chi phối từ khi sanh ra cho đến khi chết. Và sự giáo
hóa, giáo dục hay tu hành ở đây là làm thế nào phát triển hai sức mạnh
Danh mạng căn và Sắc mạng căn một cách tốt đẹp. Nói một cách khác, đạo
Phật không có tách rời thân thể ra khỏi tâm trí con người. Không thể có
một tâm trí trong sạch trong một thân thể nhớp nhúa, cũng như không thể có
một thân thể cường tráng trong một tâm hồn bệnh hoạn.
Từ Danh và Sắc, Đức Phật đi đến phân tích con người thành năm uẩn : Sắc -
Thọ - Tưởng -Hành - Thức uẩn. Sự phân chia này nói theo danh từ hiện đại
phân tích con người thành năm phần: thân thể - tình cảm - tính tình - tri
thức - và trí tuệ. Món ăn, bao tử chúng ta tiêu hóa, khí trời, phổi và da
thịt chúng ta thở, khung cảnh chúng ta sống, sách vở chúng ta đọc... đều
ảnh hưởng tới Sắc mạng căn và Danh mạng căn của chúng ta. Một đường hướng
giáo dục phiến diện chỉ chú trọng một thành phần con người và xao lãng các
thành phần khác sẽ đào tạo những con người mất thân bằng cô đơn, lạc long,
khắc khoải và cuồng tín như chúng ta đã thấy ở con người hiện đại. Ở đây,
đạo Phật chủ trương một sự giáo hóa, một đường hướng giáo dục phát triển
toàn diện, phát triển đồng đều, thăng bằng cả thân và tâm con người, cả
năm mặt thân thể, tình cảm, tính tình, trí thức và trí tuệ con người. Đạo
Phật tin rằng chỉ có con đường hướng giáo dục ấy mới chữa trị được những
thân bịnh và tâm bịnh con người hiện đại, đào tạo được một thế hệ mới, vừa
giữ được thoải mái của thân tâm, vừa xây dựng được lòng tin tuổi trẻ, vừa
phát triển được những gì tốt đẹp nhất của tình người và con người.
Từ nơi sự phân tích con người thành danh, sắc, năm uẩn, Đức Phật đưa đến
phân tích con người thành mười hai xứ túc là sáu căn đối mặt với sáu trần,
mắt thấy, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi lếm vị, thân cảm xúc và ý
thức pháp. Và đối với con người phàm phu trong quá khứ cũng như trong hiện
tại, khi mắt thấy sắc đẹp, thời tham tâm khởi lên, thấy sắc xấu thì sân
tâm khởi lên. Khi tai nghe tiếng hay thì tham tâm khởi lên, nghe tiếng khó
chịu thì sân tâm khởi lên... Nói tóm lại, khi sáu căn đối mặt với sáu trần
thì tham tâm và sân tâm tiếp tục hiện khởi. Các căn của chúng ta sẽ hoàn
toàn bị chi phối, hoàn toàn bị sáu trần nô lệ. Các cô càng ngày càng đẹp
hơn, quyến rũ hơn; âm nhạc càng ngày càng du dương hơn, quyến rũ hơn; các
món ăn càng ngày càng ngon miệng hơn, quyến rũ hơn đều nhằm mục đích tấn
công sáu căn của chúng ta, khiến chúng ta trở thành những kẻ bại trận,
những kẻ nô lệ. Đức Phật nhận thức được những nhược điểm ấy của con người,
nên trong cuộc đối mặt giữa mắt với sắc, tai với tiếng, mũi với hương,
lưỡi với vị, thân với xúc và ý với pháp, Ngài giới thiệu cho chúng ta
phương pháp hộ trì các căn (Indriyasamvara), sự hộ trì này giúp con người
sự chiến thắng tham tâm của mình, một sự chiến thắng mà Đức Phật đã đề cập
trong kinh Dhammapada, kệ thứ 103:
Dầu tại bãi chiến trường,
Thắng ngàn ngàn địch quân,
Không bằng tự thắng mình,
Thắng mình thắng tối thượng.
Ở đây rất có thể có người ngần ngại cho rằng nếu sự huấn luyện các căn trở
thành "trơ như đá, vững như đồng" không còn biết thưởng thức các hay cái
đẹp thì đời sống còn gì đáng sống. Sự thật, ở đây không phải vấn đề thưởng
thức mà chỉ là vấn đề nộ lệ, vấn đề huấn luyện các căn thế nào khỏi sự chi
phối của sáu trần mà thôi. Và sự thoát ly ra ngoài sự chi phối của sáu
trần không có nghĩa là con người trở thành gỗ đá, không biết thưởng thức
cái hay cái đẹp của cuộc đời. Lịch sử cho chúng ta thấy các kiến thức của
Phật giáo, các tượng Phật, tượng Bồ Tát, các hình ảnh ở động Ajanta có thể
xem là những kiệt tác nhất nhì thế giới về kỹ thuật và về mỹ thuật, và
những nhà tu hành, như đã ghi chép hai tập Trường lão Tăng kệ
(Theragàthà). Trưởng lão Ni kệ (Therigàthà) cũng như trong các tập Thiền
Uyển Đăng Lục, đã là những nhà thi sĩ tuyệt tác, biết rung cảm trước cái
hay cái đẹp của cuộc đời. Dưới đây là bài thơ chữ Hán của Ngài Vạn Hạnh
Thiền sư vừa tràn đầy nhạc điệu ý thơ, vừa thâm trầm thiền vị giải thoát
để quý vị thấy các nhà giải thoát vẫn có thể vừa là thiền sư vừa là thi
sĩ:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô,
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy,
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
(Thân như bóng chớp chiều tà
Cỏ xuân tươi tốt thu qua rụng rời.
Sá chi suy thịnh của đời,
Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành).
Sau khi phân tích và tìm hiểu con người, Đức Phật giới thiệu con đường
giáo hóa con người của Ngài. Trong kinh Dhammacakkhapavattana - sutta,
kinh Chuyển Pháp Luân, Ngài đã bác bỏ hai lối sống cực đoan là hưởng thụ
dục lạc và tu hành khổ hạnh, mà Đức Phật xem là hạ phẩm cách con người và
không đưa lại hạnh phúc cho con người. Đức Phật giới thiệu con đường Trung
đạo (Majjhima Patipadà), con đường chánh tám ngành, tức là Giới học, Định
học và Tuệ học. Giới học là phương pháp điều hòa thân, điều hòa hơi thở,
điều hòa tâm, để thân tâm khỏi phải phí sức, mệt mỏi, bệnh hoạn, và để
thân tâm khỏi phải dao động và tán loạn. Định học là phương pháp tập trung
tâm trí vào một đối tượng và nhờ sự tập trung ấy, khai thác được những sức
mạnh tiềm tàng trong thân tâm, và những sức mạnh ấy được gọi là định lực.
Định học có khả năng hoán chuyển những tâm, tâm sở Dục giới thành những
tâm, tâm sở Sắc giới và Vô sắc giới, như sự thay thế năm triền cái tham
dục, sân, thụy miên, trạo cử, nghi, bằng năm thiền chi Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc,
Nhất tâm. Tuệ học là phương pháp dùng trí tuệ để quan sát các pháp đúng
với ba pháp ấn Khổ, Vô thường và Vô ngã. Chính nhờ sự quan sát chơn chính,
đúng với thực tướng này mà mười kiết sử được đoạn trừ, và con người được
giải thoát và giác ngộ. Theo Đạo Phật muốn diệt khổ, phải biết đến khổ,
muốn hiểu đời, phải biết nhìn, quan sát đời. Và chính tuệ học giúp chúng
ta có một quan niệm chính xác về con người và cuộc đời. Trí tuệ bao giờ
cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắng và tối hậu trong đạo Phật.
Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người, định căn và tuệ
căn là hai sức mạnh tiềm ẩn trong mọi cá nhân, định lực và tuệ lực mà con
người chúng ta quên không biết khai thác. Phương pháp giới định tuệ cũng
nói lên sự liên quan mật thiết giữa ba môn học này như đỉnh ba chân, không
thể thiếu môn học nào, và chỉ có một sự giáo hóa hay giáo dục toàn diện cả
Giới, Định, Tuệ bao hàm cả năm phương diện thể xác, tình cảm, tính tình,
tri thức, và trí tuệ mới đào tạo được những con người thăng bằng, bình
tĩnh, đủ sức đối trị với những nghịch cảnh của một thế giới hiện đại đầy
cam go thử thách.
Phương pháp Giới-Định-Tuệ cũng nêu rõ sự phát triển của một tâm sở, khi
được biến chuyển từ dục giới sang sắc giới, Vô sắc giới và qua siêu thế
giới, như Tầm tâm sở, Vitakka biến thành Appanà vitakka tức là an chỉ tầm,
tức là tầm với khả năng định lực. Lên siêu thế giới, Vitakka biến thành
Sammàsakappa hay Chánh tư duy trong Bát Chánh Đạo. Về huệ căn tâm sở cũng
vậy, ở dục giới, trong bất thiện tâm thì được gọi là Ditthi hay là tà
kiến. Cũng ở dục giới trong Tịnh quang tâm, thì được gọi là nanà hay Trí.
Lên đến sắc giới và vô sắc giới, Trí được gọi là Abhinnà hay Tăng thượng
trí trong lục thông, được gọi là Vimansa-iddhipada hay Tư duy thần túc
trong bốn thần túc, được gọi là Huệ căn, huệ lực trong năm căn, năm lực
được gọi là Dhàma vicaya, Trạch pháp giác chi trong Thất giác chi và được
gọi là Sammàditthi, Chánh tri kiến trong bát Chánh Đạo ở siêu thế tâm. Như
vậy sự chuyển biến của một tâm sở được thành tựu tùy thuộc vào sự tiến
triển của từng tâm sở và nghị lực tu trì của từng cá nhân ngay trong hiện
tại và trên cương vị hiện tại của mình. Cho nên khả năng hướng thượng của
con người thực sự rất tốt đẹp, nếu chúng ta có đầy đủ ý chí và nghị lực
muốn cải thiện đời sống của chúng ta.
Chính nghị lực này được Đức Phật đề cập đến với lý thuyết nghiệp và nghiệp
báo (kamma và kammavipàka). Đức Phật nêu rõ chính hành động chúng ta tạo
thành thân thế sự nghiệp của chúng ta, và hành động ấy chỉ được gọi là
nghiệp (kamma) khi nào hành động ấy có dụng ý (cetanà). Với định lý nghiệp
báo này, Đức Phật chỉ cho chúng ta thấy, chúng ta là thừa tự nghiệp báo
của chúng ta, kammadàyadà, và vì nghiệp liên hệ đến tư tâm sở cetanà, nên
chung quy mọi hành động đều tùy thuộc vào dụng ý của chúng ta, dụng tâm
của chúng ta, ý chí của chúng ta, quyết định của chúng ta. Như vậy đời
sống hiện tại của chúng ta được tạo ra bởi hành động của quá khứ và hiện
tại, và chính những hành động hiện tại và tương lai, tác thành thân thế và
sự nghiệp của chúng ta trong tương lai. Nói một cách khác, Đức Phật với
định lý Nghiệp và Nghiệp báo này thẳng thắn chỉ cho chúng ta những con
người hiện đại, chúng ta hoàn toàn chịu trách nhiệm hành động của chúng
ta. Tất cả sự đau khổ của con người hiện đại được đề cập đến trong khổ đế
đều có thể trừ diệt nếu chúng ta theo con đường Trung Đạo (Majjhima
patipada). Con đường này trước hết là một sự phát triển toàn diện và thăng
bằng con người cả hai sức mạnh Danh mạng căn, Sắc mạng căn và đủ cả năm
mặt thân thể, tình cảm, tính tình, trí thức, trí tuệ. Con đường này cũng
là một sự huấn luyện sáu căn, chúng ta được tự chủ và tự tại khi đối mặt
với sáu trần.
Kính thưa quý vị,
Với bức thông điệp về Khổ đế và Diệt đế, Đức Phật chỉ cho chúng ta căn
bệnh trầm kha đè nặng trên kiếp sống con người hiện đại và nói lên cho
chúng ta rõ các căn bệnh ấy đều có thể diệt trừ ngay trong hiện tại.
Với sự phân tích con người thành Danh sắc, Ngũ uẩn, Thập nhị xứ, Đức Phật
trình bày cho chúng ta rõ những sức mạnh đang chi phối đời sống chúng ta,
những nhược điểm và ưu điểm của con người hiện đại, và đường hướng giáo
hóa, giáo dục cần phải khai thác.
Với con đường Trung đạo, Đức Phật giới thiệu cho chúng ta pháp môn
Giới-Định-Tuệ, phương pháp giáo hóa và giáo dục một con người toàn diện để
con người hiện đại có thể tìm thấy một lý tưởng để
sống và để nâng cao giá trị con người.
Và với lý Kamma va Kammavipaka (Nghiệp và Nghiệp báo) Đức Phật giúp chúng
ta ý thức được khả năng và trách nhiệm của chúng ta, một khả năng hướng
thượng và hướng thiện rất tốt đẹp nếu chúng ta biết phát triển những năng
lực tiềm tang trong con người chúng ta. Đó là bức thông điệp Phật Đản mà
Đức Phật đã trao cho chúng ta, những con người hiện đại, trong đại lễ hôm
nay.
Xin trân trọng kính chào quý vị,
(Trích Tuyển tập "Hãy Tự Mình Thắp Đuốc Lên Mà Đi", Saigon, 1990)
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-05-2005