Nương theo giáo pháp Phật Ðà
Tâm Kinh Bát Nhã giúp ta độ đời.
Ðến bờ giác ngộ thảnh thơi
Thoát ly phiền não cuộc đời an vui.
Lời mở đầu: Bát Nhã Tâm Kinh là bài kinh nhựt tụng của
tất cả các tông phái Phật giáo. Nếu đọc tụng, hiểu rõ và đem
áp dụng những điều Ðức Phật dạy trong Bát Nhã Tâm Kinh vào đời sống
hằng ngày của người Phật Tử, dù tại gia hay xuất gia, ích lợi không thể
nghĩ bàn, phước đức và công đức vẹn toàn.
-oOo-
Trên cuộc đời này, dù giàu sang hay nghèo khó, dù trí thức hay bình dân,
dù nam phụ lão ấu, dù da trắng da đen hay da màu, dù vua chúa hay dân chúng,
nói chung, bất cứ người nào cũng có hai thứ bệnh: thân bệnh và tâm
bệnh. Ðối với thân bệnh, chẳng hạn như đau răng, nhức đầu, sổ mũi,
cảm cúm, ho hen, trặc xương, hoặc đau tim gan tì phế thận, chúng ta cần
tới tài năng, khả năng trị bệnh của các vị thầy thuốc, dù đông y hay
tây y. Ðể phòng ngừa thân bệnh, có những phương pháp tập thể
dục, những cách dưỡng sinh khoa học, những chế độ ăn uống thích ứng
với từng lứa tuổi, và tình trạng sức khỏe cá nhân. Những người nghĩ rằng:
nhờ theo môn phái này, theo tôn giáo kia, theo giáo chủ nọ, sẽ khỏe mạnh
sống lâu, sẽ vô bệnh vô tật, hoặc tu thiền trị dứt bệnh ung thư,
uống nước thánh trị được bá bệnh, đó chỉ là: những người đang sống
trong cơn mê. Ðạo Phật gọi đó là: vô minh. Tại sao vậy?
Bởi vì ngay đến Ðức Phật, là bậc toàn giác, vẫn Có thân
bệnh, nhưng Không phiền não và khổ đau, tâm trí vẫn an nhiên
tự tại, trong mọi hoàn cảnh. Nói một cách khác: Ðức Phật không có tâm
bệnh. Bất cứ ai sống trên đời này, còn mang thân xác con người, là còn
khổ vì thân bệnh, nếu không giác ngộ được chân lý vi diệu
nhiệm mầu. Các vị giáo chủ của các tôn giáo cũng có thân bệnh và
rồi cũng chết như mọi người mà thôi.
Trong thời buổi khoa học tiến bộ ngày nay, ngay tại những quốc gia
văn minh tiến bộ tây phương, vẫn còn một số người, bình dân cũng như
trí thức khoa bảng, khi có thân bệnh, lại đi tìm uống, nước suối nước
sông, cầu mong phép lạ, với cả niềm tin, thượng đế gia trì, hay ban
phép lành, hoặc được ân điển, từ đấng bề trên, nào đó chẳng
biết, trị dứt bá bệnh, cả bệnh nan y, thậm chí cứu được, người
chết sống lại!
Chúng ta thử suy nghĩ xem: những vị tự xưng là thượng đế, là thánh
thần thiên địa, tu hành chứng đắc gì đó, cứu người chết được sống
lại, để làm gì, để được người đời tôn thờ nể sợ hay chăng?
Tại sao chỉ cứu người này, không cứu những người khác? Dù có cứu được
bao nhiêu người, để rồi sau đó, những người này cũng lại chết một
lần nữa, lần này chết thiệt đó, như bất cứ mọi người nào khác,
trên thế gian này. Nhứt là những vị tự xưng là thượng đế, là thánh
thần thiên địa kia, rồi cũng chết như ai, và lại còn chết thảm,
không chỗ chôn thây, nữa là khác!
Nếu như các phép lạ, các điều linh thiêng huyền bí đó có
thực, các bệnh viện, các cơ quan y tế nên đóng cửa, các bác sĩ,
dược sĩ, y tá, điều dưỡng viên, chuyên viên y tế, nên giải
nghệ, và chức sắc các tôn giáo đó không cần có y sĩ riêng, không cần
nằm điều trị ở bệnh viện.
Nhiều người mê tín dị đoan hơn nữa, khi có thân bệnh, lại chạy
đi tìm, thầy bùa thầy ngải, tìm sư tìm sãi, thuốc tiên linh thiêng, chỉ một
viên thôi, trị dứt bá bệnh, thiệt là tội nghiệp, thực đáng
thương xót, chỉ khổ bị gạt, tiền mất tật mang. Những người như vậy là
những người không có trí tuệ bát nhã, không nhận được thực tướng của
các pháp thế gian, rất dễ bị lung lạc bởi bất cứ luận điệu
thuyết giảng, hay tuyên truyền nào, có vẻ mơ mơ hồ hồ, có vẻ linh
thiêng huyền bí, có vẻ như điển nhập, từ thế giới vô hình nào
đó, không giải thích được, thực ra không làm sao giải thích được, cho dù
họ là tiến sĩ kỹ sư, bác sĩ nha sĩ, văn sĩ thi sĩ, học sĩ
học giả, chuyên viên, chuyên gia, hay bất cứ ai. Tại sao vậy? Bởi vì
mọi người đều sợ chết, càng giàu càng giỏi càng sợ nhiều
hơn, sợ mất cái thân mạng này, mà thôi!
Còn đối với tâm bệnh thì sao? Tâm bệnh có thể chia làm hai
loại: các bệnh tâm thần và những khổ đau về mặt tinh thần. Ðối với
các thứ bệnh tâm thần, cũng đã có những bệnh viện thần kinh, các
dưỡng trí viện, với các chuyên viên tâm lý, bác sĩ tâm thần, chăm
sóc và điều trị. Ðối với những khổ đau về mặt tinh thần, con người
mới cần tới sự giúp đỡ của các tôn giáo. Sự giúp đỡ của các tôn giáo
có nhiều hình thức khác nhau, tùy theo căn cơ, tùy theo hoàn cảnh, tùy
theo địa phương, tùy theo phong tục và tập quán của mỗi dân tộc.
Nhiều khổ đau phiền não của con người không thể điều trị dứt
hẳn tận gốc, bằng thuốc men, hay các phương pháp tâm lý học, mà phải
được điều trị bằng đời sống nội tâm, bằng sức mạnh tâm linh, bằng
trí tuệ bát nhã. Trong phạm vi bài này, chúng ta đề cập đến vấn
đề đời sống nội tâm, hay sức mạnh tâm linh, hay trí tuệ bát nhã
trong đạo Phật, mà thôi.
Ðạo Phật là đạo cứu khổ nhân loại, cho nên mạnh mẽ nhận định: cuộc
đời là bể khổ. Chúng ta ai ai cũng đồng ý với nhau rằng: cuộc đời
khổ nhiều hơn vui. Nhưng không phải vì vậy mà chúng ta bi quan yếm
thế, chán đời thụ động, chấp nhận định mệnh sẵn có, chấp nhận số
phận đã an bài, chấp nhận các cảnh khổ đau của cuộc đời. Ðạo Phật không
dừng lại ở nhận định như vậy. Ðạo Phật dạy chúng ta nhiều phương
pháp: "Làm sao cho đời bớt khổ. Làm sao cho đời hết khổ".
Trong tất cả các kinh điển của đạo Phật, ghi lại lời chỉ dạy của
Ðức Phật, đều nêu rõ các pháp môn tu tập, nhằm mục đích giúp đỡ
chúng sinh, giải thoát khỏi phiền não và khổ đau, một cách tích cực, một
cách hiệu quả. Thực ra, đó mới chính là mục đích cứu kính của đạo
Phật vậy.
Tuy nhiên, Ðức Phật là một bậc đạo sư giác ngộ, đem chân lý giác
ngộ chúng sinh, chứ không phải là thần linh, hay thượng đế, chuyên ban
phước giáng họa, cho nên không có thể cứu giúp con người thoát khổ,
qua các lời khẩn cầu van xin, cầu nguyện khấn vái, mỗi khi con người
gặp phiền não và khổ đau. Trong kinh sách, có câu: "Chúng con khổ
nguyện xin tự độ". Con người phải biết tự độ mình, tự cứu
chính mình, nhưng bằng cách nào?
Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy:
"Hãy tự thắp đuốc lên mà đi.
Thắp lên với Chánh Pháp"
Nghĩa là: con người muốn tự cứu chính mình, thoát ly mọi khổ ách, cần
phải thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ, phải sáng suốt học hiểu và
nương theo Chánh Pháp, tức là các pháp môn tu tập, Ðức Phật dạy trong các
kinh điển, chẳng hạn như "Bát Nhã Tâm Kinh", và luôn luôn thực
hành trong cuộc sống hằng ngày, chứ không phải chỉ cầu nguyện suông.
"Bát Nhã Tâm Kinh" là bài kinh chỉ dạy phương pháp tu tâm dưỡng
tánh, dẹp trừ tâm loạn động bất an, cấu nhiễm uế trược, phát hiện
chân tâm, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm, để giúp cho chúng sanh
sống được an lạc hạnh phúc, không còn phiền não khổ đau, giác ngộ
được con người chân thật, để giải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
Chân tâm đó mới thực là mình, còn cái xác thân và cái tâm bất an loạn
động không phải là mình, sẽ bị bỏ lại thế gian, khi chúng ta ra đi sang
kiếp khác. Như vậy, chúng ta học Bát Nhã Tâm Kinh là để nhận
được bản tâm bản tánh thực sự của mình. Khi học xong kinh này, nếu
chúng ta trực nhận được bản tâm thanh tịnh hay chân tâm, tức là trí tuệ
bát nhã bừng sáng, con đường vào đạo đã khai mở. Thực ra, đó mới chính
là mục đích cứu kính của đạo Phật vậy.
Người Phật Tử sinh hoạt trong chùa, hay đi chùa lễ Phật tụng kinh, thường
thuộc lòng Bát Nhã Tâm Kinh. Bởi vì Bát Nhã Tâm Kinh rất quan trọng trong
Phật giáo, là cứu kính tối thượng của đạo Phật, cho nên bất cứ khóa tụng
kinh nào, bất cứ khóa hành thiền nào, bất cứ khóa tu học nào, thuộc
bất cứ tông phái nào của Phật giáo, cũng đều có Bát Nhã Tâm Kinh, dù
bằng tiếng Việt, tiếng Hán Việt, hay tiếng Pali. Thêm một
bước nữa, nếu như chúng ta cùng nhau tìm hiểu những điều Ðức
Phật dạy trong Bát Nhã Tâm Kinh, rồi đem áp dụng vào đời sống hằng ngày,
thì ích lợi vô lượng vô biên, công đức và phước đức viên mãn, không
thể nghĩ bàn.
* * *
Theo kinh điển của đạo Phật, con người có tám muôn bốn ngàn thứ tâm
bệnh. Nào là bệnh tham lam, bệnh sân hận, bệnh si mê, bệnh
cố chấp, bệnh nghi ngờ, bệnh cao ngạo, bệnh thành kiến, bệnh
tà kiến, bệnh biên kiến, bệnh thiên kiến, bệnh định
kiến, bệnh thường kiến, bệnh đoạn kiến, bệnh kiến
thủ, bệnh giới cấm thủ, bệnh tưởng tượng, bệnh cảm thọ,
bệnh trạo cử, bệnh hôn trầm, bệnh giải đãi. Bởi vậy cho nên,
Ðức Phật chỉ dạy tám muôn bốn ngàn pháp môn tu tập, để đối trị và
diệt trừ từng thứ tâm bệnh.
Chẳng hạn như để diệt trừ tâm tham lam, bỏn sẻn, Ðức Phật dạy
giữ giới và thực hành pháp môn bố thí. Người nào hiểu được hạnh bố
thí đem lại vô lượng vô biên phước báu, và thực hành được hạnh bố thí
hằng ngày, thì tâm tham lam, bỏn sẻn sẽ giảm đi nhiều. Người nào
biết cho ra, biết cứu người giúp đời, cuộc sống được an vui. Người
nào chỉ biết tìm mọi cách hốt vô, mưu mô hại người hại đời, bất
chấp thủ đoạn, bất kể tha nhân, cuộc sống chắc chắn bất an. Muốn giảm
bớt tâm tham lam, chúng ta phải bớt ham muốn, bớt ham thích, bớt nhu cầu, và
nên biết thế nào là đủ. Người không biết thế nào là đủ,
ví như người khát nước, lại uống nước biển mặn, càng lúc càng thêm
khát, không bao giờ thỏa mãn! Nếu không có những gì mình thích, thì hãy
thích những gì mình có. Thế là yên chuyện! Khỏi tạo tội tạo
nghiệp thêm nữa!
Trong Kinh Di Giáo, Ðức Phật có dạy:
"Tri túc chi nhơn tuy ngọa địa thượng du vi an lạc.
Bất tri túc giả thân xử thiên đường diệc bất xứng ý".
Nghĩa là: Người biết thế nào là đủ, tuy nằm trên đất, cũng thấy
an vui lợi lạc. Người không biết thế nào là đủ, tuy thân ở trên
cảnh giới thiên đường, tâm ý vẫn không thỏa mãn! Chẳng hạn như để
diệt trừ tâm sân hận, hay nóng giận, Ðức Phật dạy thiền định và
thực hành pháp quán từ bi. Con người tăng trưởng tâm từ bi được thì những
cơn nóng giận sẽ giảm đi rất nhiều. Cặp mắt của người có tâm từ bi,
luôn luôn cảm thông, thương nhìn cuộc đời, cư xử nhẹ nhàng, dễ dãi khoan
dung, với mọi người chung quanh, khó nổi cơn sân đối với những lỗi
lầm, những sai trái của người khác, dù là người thân hay kẻ thù cũng vậy,
và không lợi dụng lòng từ bi của người khác.
Các bậc phụ huynh cần có tâm từ bi quảng đại, mới có thể giữ gìn
được hạnh phúc trong gia đình. Các nhà giáo cần có tâm từ bi quảng đại,
mới có thể thương yêu, dạy dỗ học sinh, như con ruột của chính
mình. Các nhà tu cần có tâm từ bi quảng đại, mới có thể thương xót
chúng sanh đang trầm luân đau khổ, phát nguyện tu hành tinh tấn, để
tự độ và độ tha, sẵn sàng hy sinh, phục vụ nhơn loại.
Chẳng hạn như để diệt trừ tâm si mê, Ðức Phật chỉ dạy trí
tuệ bát nhã. Ðó chính là tam vô lậu học của Phật giáo:
Giới-Ðịnh-Tuệ, là phương tiện giúp đỡ chúng sinh giải thoát, không
còn lọt vào vòng sanh tử luân hồi, phiền não và khổ đau nữa. Chẳng
hạn như để diệt trừ tâm hay cố chấp, sống để dạ chết mang
theo những lời người khác nói mích lòng, Ðức Phật chỉ dạy pháp đối trị
là tâm hỷ xả. Người nào hiểu được rằng chứa chấp càng nhiều
thứ trong tâm thức của mình, đầu óc càng nặng nề nhức nhối, càng bị
trầm luân trong sanh tử luân hồi, trong phiền não và khổ đau, chẳng ích
lợi gì, bèn cố gắng phát triển tâm hỷ xả, tự khắc sẽ cảm thấy khinh
an nhẹ nhàng, mắt sẽ nhìn cuộc đời một cách lạc quan hơn, cuộc sống sẽ an
vui lợi lạc hơn.
Trí tuệ bát nhã trong đạo Phật, được giảng giải trong Bát Nhã Tâm
Kinh, cũng như được đề cập đến trong tam tạng kinh điển, khác
với trí tuệ của thế gian. Ở thế gian, người có trí tuệ là
người học cao hiểu rộng, có bằng cấp đủ các ngành nghề, hoặc là
người thông minh lanh lợi, khôn ngoan sáng suốt, biết cách đối phó, ứng
xử nhanh chóng, đối đáp mạch lạc, nói năng lưu loát, thuộc nhiều vấn
đề, qua nhiều phương diện, trong mọi hoàn cảnh. Nhưng, người
có trí tuệ trên thế gian vẫn sống trong điên đảo mộng tưởng, vẫn
sống trong phiền não khổ đau, vẫn bị cảnh trần lôi cuốn đắm nhiễm, cũng
như bao nhiêu người khác. Khi đắc thời được thế, vinh quang thắng lợi,
họ hả hê hỉ hạ, hân hoan hớn hở, vui vẻ rỡ ràng. Khi thời thế xoay
trở, mất mát thất thu, cơ nghiệp suy tàn, gia cảnh lầm than, họ ưu tư
sầu muộn, phiền não khổ đau, có khi không còn muốn sống nữa.
Còn trí tuệ bát nhã trong đạo Phật là phương tiện giúp đỡ tất
cả chúng sinh, hiểu biết muôn sự mọi việc trên đời, một cách
"đúng như thực", không điên đảo mộng tưởng, không nhận giả làm
chân, để đạt được giác ngộ và giải thoát khỏi sanh tử luân hồi,
thoát ly phiền não khổ đau, để kiến tạo một cuộc sống an lạc và
hạnh phúc, ngay trên thế gian này.
* * *
Mở đầu Bát Nhã Tâm Kinh, Ðức Phật dạy:
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời, chiếu
kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách. Xá Lợi Tử! Sắc bất
dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ,
tưởng, hành, thức, diệc phục như thị".
Nghĩa là: Muốn quán chiếu cuộc sống một cách tự tại, như các bực Bồ
Tát, cần phải thực hành trí tuệ bát nhã một cách thâm sâu, đến mức
tột cùng ba la mật, khi đó xét thấy năm uẩn đều không, con người sẽ
vượt qua được tất cả mọi khổ ách. Ở trên đời này, sắc chẳng khác
không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc, các uẩn
khác: thọ, tưởng, hành, thức, cũng đều như vậy.
* Thế nào là: "Xét thấy năm uẩn đều không?".
Năm uẩn gồm có: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc là phần thân xác, có
hình tướng, có sắc tướng, nhận thấy được bằng mắt thường. Thọ,
tưởng, hành, thức, là phần tinh thần, hay tâm linh, không hình tướng, không
nhận thấy được bằng mắt thường.
* Chúng ta nên biết rằng: nguồn gốc của mọi sự đau khổ trên
thế gian này đều do "tâm cố chấp" mà ra. Chúng ta cố chấp
điều gì? Chúng ta cố chấp rất nhiều thứ. Chẳng hạn như chúng ta
không nhận thấy được "con người chân thật", cho nên chấp rằng: ngũ
uẩn là thực, tức là chấp thân này và tâm này là thực, trong kinh sách
gọi như vậy là "chấp ngã". Chẳng hạn như chúng ta không nhận
định được toàn bộ sự thực, nguyên vẹn chân lý, cho nên chấp rằng:
việc này đúng, việc kia sai, thế này là phải, thế kia là quấy,
suốt ngày thích tranh cãi chuyện thị phi, trong kinh sách gọi như vậy
là "chấp pháp".
Trong Kinh Viên Giác, Ðức Phật có dạy:
"Con người vì vô minh cho nên có hai thứ chấp: chấp ngã và chấp
pháp.
Ðó là hai nguyên nhân chính gây ra phiền não và khổ đau của cuộc
đời".
Khi nào hiểu được một cách rõ ràng và phá trừ được hai nguyên nhân
chính gây ra khổ đau về mặt tinh thần này, chúng ta sẽ tìm được an lạc
và hạnh phúc thực sự, ngay trong cuộc sống hiện tại.
Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu về chấp ngã. Chấp
ngã có nghĩa là: chúng ta chấp cái thân giả tạm và cái tâm vô thường, lại
cho là "thực", lại tưởng chính là "mình", cho nên mới
phiền não và khổ đau.
1) Trước hết, nói về cái sắc thân giả tạm, tức là cái thân xác
của chúng ta, lúc mới sanh ra đời, chỉ có vài ký lô thôi, bây giờ thì
cân nặng đến mấy chục ký lô. Ở đâu ra mấy chục ký lô đó,
nếu không do các chất: đất, nước, gió, lửa, tạo nên mà thôi. Ðất là
những chất cứng trong thân người như: tóc, lông, răng, móng, xương, thịt.
Khi còn sống, chúng ta mượn những chất từ đất mà ra, để bồi bổ cái
thân này hằng ngày như: cơm gạo, bánh mì, trái cây. Ðến khi chết,
những thứ này trở về với đất. Nước là những chất lỏng trong thân
người như: máu, mủ, nước miếng. Khi còn sống, chúng ta mượn những chất
từ nước mà ra, để bồi bổ cái thân này hằng ngày như: canh, sữa, nước
giải khát. Ðến khi chết, những thứ này trở về với nước. Gió là
những chất hơi trong thân người. Khi còn sống, chúng ta mượn những chất từ
không khí, hít vô thở ra, để bồi bổ cái thân này hằng ngày. Ðến
khi chết, những thứ này trở về với không khí. Lửa là những chất ấm
trong thân người. Khi còn sống, chúng ta mượn những chất sanh nhiệt,
để bồi bổ cái thân này hằng ngày như: gừng, chất đạm. Ðến khi
chết, những thứ này trở về với hư không.
Cái sắc thân giả tạm nặng mấy chục ký lô này của chúng ta bao gồm
bốn thứ nói trên, trong kinh sách gọi đó là thân tứ đại - không phải
là "thực". Tại sao vậy? Bởi vì nếu cái thân tứ đại này thực
là của chúng ta, thì nó phải tuân lệnh và tùy thuộc quyền xử dụng
của chúng ta. Chúng ta ai ai cũng muốn cái thân tứ đại này trẻ mãi không
già, khỏe mãi không đau, còn mãi không hoại. Nhưng, từ xưa đến nay, từ
đông sang tây, từ hoàng gia đến dân chúng, từ giàu sang đến nghèo
hèn, từ học thức đến bình dân, có ai được toại nguyện như vậy
đâu? Vậy mà ai động đến "nó", chúng ta liền nổi xung, nhứt
định ăn thua đủ, nhứt định vác đơn kiện, nhứt định đòi bồi thường,
nhứt định làm tới luôn, cho hả giận cho đã nư, không thể nhịn nổi, chỉ
nhằm bảo vệ cái thân tứ đại vốn giả tạm, vốn không thực này, để
rồi một ngày kia, dù-muốn-hay-không, mọi người đều phải bỏ
lại, để đi sang thế giới khác, để tái sinh kiếp khác, với cả
một đống nghiệp báo bất thiện chẳng lành chồng chất!
Ðời người chẳng qua chỉ là hơi thở, khi thở hơi ra mà chẳng hít vào
được nữa, thì ô hô tử vong! Ðời người chỉ là tạm vay mượn đất, nước,
gió, lửa, từ bên ngoài, để bồi bổ cho đất, nước, gió, lửa, bên trong
thân, từng ngày từng giờ, từng phút từng giây. Khi không vay mượn nữa, con
người không tồn tại được. Chỉ vì con người, cuộc sống quay cuồng, mãi lo
kiếm tiền, mãi lo hưởng thụ, mãi lo giữ gìn, mặt mũi hão huyền,
lúc nào cũng tưởng: "đời còn dài mà", cho nên hơn thua, từng câu
từng lời, kiếm chuyện đấu tranh, chiếm đoạt tài sản, danh lợi phù
du, giành giựt miếng ăn, dựng chuyện thưa kiện, đòi hỏi bồi
thường, tiền bạc phi nhân, chỉ biết lợi mình, bất kể hại người,
đem lại khổ đau, cho bao người khác. Bởi vậy chính mình cũng chịu đau khổ
phiền não, tâm trí luôn luôn bất an.
Con người quên rằng: Ở ngoài nghĩa trang, đâu phải chỉ có, mộ phần
các cụ, trăm tuổi mà thôi! Hiểu được như vậy, chúng ta không còn chấp
cái thân tứ đại mấy chục ký lô này là thực nữa, thì sự đau khổ, cho
mình và cho người, chắc chắn sẽ giảm bớt. Cái thân tứ đại không còn là
thực nữa, thì những thứ phụ thuộc như: nhà cửa, tiền bạc, danh vọng,
địa vị, còn có ý nghĩa gì nữa đâu, mà ham muốn tranh chấp, đấu đá
sát phạt, hơn thua được mất, cho đời thêm đau khổ? Cái thân tứ đại, còn
phải bỏ lại, thì có thứ gì, đem theo được chứ? Có đem theo chăng, chẳng
qua là tội, là nghiệp là báo, đã tạo trong đời, mà thôi.
Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy:
"Người hơn thì thêm oán. Kẻ thua ngủ chẳng yên.
Hơn thua đều xả hết. Giấc ngủ được an lành".
Làm được như vậy, chúng ta khỏe re! Bằng không như vậy, đừng than khổ
nhọc, như bò kéo xe, te tua tơi tả! Chuốc khổ vào thân là tự chúng ta mà
thôi. Ðừng than trời trách đất. Không ai làm cho chúng ta đau khổ và
phiền não được, nếu chúng ta không muốn tiếp nhận sự phiền
não và khổ đau đó. Ví như người ta đưa lửa phiền não đến,
nếu chúng ta không đưa thân tâm mình ra đón nhận, thì lửa đó chẳng có
tác dụng phiền não gì cả! Chẳng hạn như là: có người tới nói, mình là
người xấu, mình có thực xấu, hay không phải xấu, tự xét tự biết, tự
sửa tự đổi, tự mình chuyển hoá, tự nguyện sám hối, giận dữ làm chi,
cho chúng khinh khi, xá gì lời nói! Không tức không giận, thì sẽ không hận,
ngủ khò ngủ khì! Khỏe quá khỏe quá!
2) Cái thân tứ đại, mấy chục ký lô, tất cả mọi người, là như
vậy đó. Còn cái "tâm" thì sao? Con người chúng ta là một, còn cái
tâm thì lăng xăng lộn xộn, thay đổi liên miên. Tại sao chúng ta bị khổ đau
nhiều đời nhiều kiếp như vậy? Bởi vì chúng ta, chấp lầm
"vọng tâm", lăng xăng lộn xộn, thay đổi liên miên, cho đó là
"mình", rồi nương theo đó, chợt vui chợt buồn, chợt cười chợt
khóc, suốt ngày suốt đêm, suốt tháng suốt năm, suốt cả đời này, và những
đời sau!
*Vọng tâm gồm có: tâm thọ, tâm tưởng, tâm hành, tâm thức.
Do tâm tham lam, con người thọ nhận, đủ thứ vật chất, của cải tiền
bạc, vinh thân phì gia, không cần biết đến, của đó chính tà, bo bo
giữ gìn, cho đến lúc chết, sinh lòng tiếc của, nhắm mắt không
yên. Do tâm sân hận, con người thọ nhận, đủ thứ lời nói, thiệt là
khó nghe, dù vô nghĩa lý, sinh lòng thù oán, bực dọc tức tối, khó
chịu bất an. Do tâm si mê, con người thọ nhận, những chuyện thị phi,
phải quấy đúng sai, hơn thua tốt xấu, những chuyện thương ghét, trả thù
báo oán, gặp điều bất bình, chạm chút tự ái, hăm he thưa kiện, gây
bao đau khổ, phiền lụy người khác, dù thân hay thù. Nói vắn tắt là:
thọ nhiều khổ nhiều, chấp nhiều mệt nhiều. Buông xả thì
thanh thản, tha thứ thì thư thái. Chuyện hiểu rất đơn giản, thực hành
không dễ dàng, nhưng không phải bất khả.
Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy:
"Thắng lợi sinh thù oán. Thất bại chịu khổ đau.
Không quan tâm thắng bại. Sống an lạc hạnh phúc".
Cái tâm nghĩ suy, tính toán hơn thua, lăng xăng lộn xộn, suốt ngày suốt
đêm, có phải "thực" là chúng ta hay chăng? Trong sách có câu:
Người vui cảnh đẹp bao lâu.
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Nghĩa là cùng một cảnh, nếu chúng ta có tâm sự buồn phiền áo não,
không thấy cảnh vui chút nào. Còn nếu như chúng ta có tâm trạng hân hoan
vui vẻ, dù cây khô trụi lá, cảnh vẫn đẹp vui như thường. Cái tâm hân hoan
vui vẻ là của chúng ta, hay cái tâm buồn thảm lê thê là của chúng ta?
Sách cũng có câu:
Tâm buồn cảnh được vui sao.
Tâm an dù cảnh ngộ nào cũng an.
Cùng một câu nói, nếu tâm an ổn, vui vẻ mát mẻ, chúng ta cho là: nói
đúng nói phải, nói sao cũng được, nói ngược cũng xong. Trái lại, tâm đang
bực bội, ai nói câu nào, chúng ta cho là: nói sai nói bậy, nói xiên nói xỏ,
nói bóng nói gió, nói hành nói tỏi, nói quấy nói quá. Ðối với người
thân, thương yêu trìu mến, tâm chúng ta tốt, mặc dù chưa chắc, lúc nào
cũng tốt, được y như vậy. Còn như đối với, kẻ thù người oán, tâm mình
không tốt, sẵn sàng gây nên, phiền não khổ đau, cho cả nhà họ.
Họ càng khổ đau, nhiều đến chừng nào, mình khoái chừng đó!
* Vậy, thực sự nghĩ xem, chúng ta là người: có tâm thực tốt, hay
tâm không tốt? Chẳng hạn như là: chúng ta đang cần, giúp đỡ khẩn cấp,
khi gặp tai biến, thì viên cảnh sát, chính là ân nhân. Còn nếu chúng
ta, vi phạm luật pháp, làm chuyện mờ ám, làm ăn phi pháp, bóng dáng cảnh
sát, thực chẳng đáng ưa, chút xíu nào cả. Cùng một câu chuyện, chúng ta
ưa thích, thì cho là đúng, ngược lại không ưa, liền cho là sai. Cái tâm
thay đổi, bất thường như vậy, "thực" là chúng ta, như vậy hay sao?
Bởi vậy, trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Tùy tâm
biến hiện".
Nghĩa là mọi sự việc trên thế gian này biến hiện như
thế nào, tốt hay xấu, lành hay dữ, đúng hay sai, phải hay quấy, được hay
không, đều do tâm của chúng ta biến hiện ra cả. Cái sự cảm
thọ, tùy theo tâm trạng, tùy theo cá nhân, không ai giống ai, không có lúc
nào, giống với lúc nào, không có nơi nào, giống với nơi nào, không thời
đại nào, giống thời đại nào. Do đó cho nên, "tâm thọ" thực
sự, hết sức nguy hại, không đáng tin cậy, một chút nào cả.
3) Lại thêm nữa, tâm của chúng ta luôn luôn giàu sự tưởng tượng nên mới
gây ra đau khổ. Có người nói ra, một câu thực là: vô thưởng vô phạt,
chúng ta tưởng tượng, suy diễn thêm ra, vẽ rắn thêm chân, để rồi chuốc
lấy, giận dỗi bực bội, phiền não khổ đau. Chuyện này xảy ra, trong
mọi cuộc sống, của mọi gia đình, ở khắp mọi nơi, rất là thường
xuyên. Trong cuộc nói chuyện, thảo luận đông người, thường dễ xảy ra,
những chuyện mích lòng, chỉ vì câu nói, hiểu lầm nào đó, từ
miệng một người, được cộng thêm với, tâm trí tưởng tượng, của các
người khác.
Tâm trí tưởng tượng, của vợ hay chồng, cũng thường dẫn tới, những
chuyện ghen tuông, tạo nên sóng gió, làm giảm rất nhiều, hạnh phúc gia
đình. Có một đám mây, ở trên không trung, lơ lửng bay qua, ánh sáng thái
dương, hiện ra ngũ sắc, rực rỡ huy hoàng, con người tưởng tượng, đó
là thần linh, thượng đế giáng trần, ban phước phép lành, giáng điển
ứng nghiệm. Thực là quá sức, mê tín dị đoan! Do đó cho nên, "tâm
tưởng" thực sự, hết sức nguy hại, không đáng tin cậy, một chút nào
cả.
4) Tâm trí suy nghĩ, luôn luôn tiếp nối, không ngừng không nghỉ, từ
chuyện này đến chuyện khác, từ việc này đến việc
khác, từ người này đến người khác, từ nơi này đến nơi khác, từ
xứ này đến xứ khác, từ đời này đến đời khác, tạo thành một dòng
tư tưởng, kéo dài vô cùng vô tận, gọi là tâm hành. Trong những lúc
đó, tâm chúng ta có, những dòng tư tưởng, tiếp nối liên tục, chúng ta
hãy thử, tìm cách dừng lại, không suy nghĩ tiếp, xem được hay không?
Chắc chắn là không!
Lúc đó, dừng nó không dễ, thì mới biết rằng: chúng ta không làm chủ
được tâm hành của chính chúng ta vậy. Lúc thân khỏe mạnh như vậy, tâm trí
minh mẫn như vậy, chúng ta còn không kiểm soát, không điều khiển,
không làm chủ được tâm hành của chính mình. Lúc sắp lìa đời, thân
thể rã rời, tứ chi đau đớn, thần kinh suy nhược, chắc chắn chúng ta, sẽ
bị tâm hành, dẫn dắt đi đâu, thì đến đó vậy. Thí dụ như lúc, lên
giường muốn ngủ, nhưng cái tâm hành, cứ suy nghĩ hoài, lo lo lắng lắng, vớ
vẩn vẩn vơ, muốn dừng không được, tiếp nối liên tục, trằn trọc
suốt đêm, không thể chợp mắt! Do đó, chúng ta nên biết: "tâm
hành" chính là động cơ, dẫn dắt con người vào vòng sanh tử luân hồi,
nên trong kinh sách, còn gọi là "hành nghiệp".
5) Chúng ta luôn luôn khởi vọng niệm đẹp hay xấu, khi mắt trông
thấy một hình sắc nào đó, gọi là nhãn thức. Chúng ta luôn luôn khởi
vọng niệm dễ nghe hay khó nghe, khi tai nghe thấy một âm thinh nào đó,
gọi là nhĩ thức. Chúng ta luôn luôn khởi vọng niệm dễ chịu hay
khó chịu, khi mũi ngửi thấy một mùi nào đó, gọi là tĩ thức. Chúng ta
luôn luôn khởi vọng niệm ngon hay dở, khi lưỡi nếm thấy một vị
nào đó, gọi là thiệt thức. Chúng ta luôn luôn khởi vọng niệm
thích hay không thích, khi thân xúc chạm một vật nào đó, gọi là thân
thức. Chúng ta luôn luôn khởi vọng niệm luyến thương hay tức giận,
khi ý nghĩ nhớ tới một chuyện nào đó, gọi là ý thức.
Ðể rồi những vọng niệm như vậy, gọi chung là lục thức,
được đưa đến kho tàng tâm thức, trong kinh sách còn gọi là tàng
thức, là nơi chứa đựng những chuyện vui hay buồn, thương hay ghét, suốt
cả cuộc đời của mình. Chính những vọng niệm, vọng thức này là
nguồn gốc của khổ đau. Tại sao vậy? Bởi vì, những vọng niệm như:
đẹp hay xấu, dễ nghe hay khó nghe, dễ chịu hay khó chịu, ngon hay dở, thích hay
không thích, đâu có phải lúc nào cũng tuyệt đối đúng hết đâu.
Thí dụ như là: cùng một con người, chúng ta khen đẹp, người khác chê
xấu, sanh ra mích lòng, đưa đến đấu tranh, cãi cọ cãi vã, cuối cùng
đánh nhau, tức nhiên khổ đau. Thí dụ như là: cùng một món ăn, lúc mới bắt
đầu, vì quá đói bụng, chính mình khen ngon, ngon đáo ngon để, đến
lúc no rồi, thì lại thấy dở, hết còn ngon miệng. Cùng một món trái
cây như sầu riêng, một món ăn như khô mắm chẳng hạn, người khen ngon thơm
quá xá, thấy là phát thèm, người chê hôi thúi, khó nuốt khó ngửi, tức
nhiên sanh ra, tranh cãi với nhau, đưa đến khổ đau, tạo ra phiền não.
Như vậy, "tâm thức" gồm các vọng niệm, vọng thức đó
chính là nguồn gốc của sự khổ đau vậy.
Cái thân tứ đại gọi là hình sắc, và các vọng tâm gồm có: tâm
thọ, tâm tưởng, tâm hành, tâm thức, nói chung gọi là "ngũ
uẩn". Nếu chúng ta biết "chiếu kiến ngũ uẩn giai
không", quán sát, chiếu soi, xem xét, thấu hiểu "ngũ
uẩn" giai không, nghĩa là không thực, không thường còn, không vĩnh viễn,
không cố định, không đáng để chúng ta quan tâm, thì chắc chắn chúng ta
sẽ "độ nhất thiết khổ ách", tức là độ được, qua được
hết thảy mọi khổ ách trên đời. Chúng ta sẽ sống một cuộc đời an
lạc và hạnh phúc, không nghi ngờ gì cả. Lúc đó, lòng tự ái của chúng ta,
tức là sự chấp ngã - giảm bớt được bao nhiêu, chúng ta được an vui lợi
lạc trong cuộc sống được bấy nhiêu.
Khi chúng ta thực sự "xét thấy năm uẩn đều không", khổ
nạn nào cũng qua khỏi, tức là chúng ta đã "hành thâm bát nhã". Chứ
không phải mỗi ngày đọc tụng Bát Nhã Tâm Kinh đều đều, lưu
loát, trơn tru, rào rào, rầm rầm, gọi là hành thâm bát nhã đâu, đó
chỉ là trả bài thuộc lòng mà thôi. Hỏi rằng đọc tụng như vậy có ích
lợi gì không? Câu trả lời: Tùy! Tùy người! Tùy hoàn cảnh! Tùy nhiều
yếu tố khác nữa. Tại sao vậy? Bởi vì như vậy con người vẫn chưa qua
khỏi được các khổ nạn!
* * *
Chúng ta đã hiểu qua: thế nào là chấp thân và chấp tâm, nói chung
là "chấp ngã".
Bây giờ, chúng ta thử tìm hiểu: Thế nào là "chấp
pháp"?
Chấp pháp nghĩa là: đối với tất cả, các pháp trên đời, bao gồm mọi
sự, mọi việc thế gian, con người chấp chặt, ý kiến cá
nhân, thành tích khả năng, suy nghĩ hiểu biết, kiến thức sở
học, kinh nghiệm bản thân, không muốn thay đổi, không muốn cải
thiện, không muốn sửa chữa, không muốn chuyển hóa, không muốn nghe ai,
bịt cả hai tai, chỉ mở cái miệng. Thậm chí biết rằng, mình đã nghĩ
sai, làm sai nói sai, tin sai hiểu sai, cũng vẫn chấp chặt!
Có câu chuyện hai anh chàng vào rừng kiếm củi. Ngày kia, cả hai
mỗi người bó được một gánh củi đem về. Trên đường về, hai anh
chàng gặp được quế. Anh thứ nhứt bỏ củi, gánh quế đem về vì
biết quế có giá trị hơn, bán được nhiều tiền hơn. Anh thứ
hai tuy cũng biết như vậy, nhưng chấp chặt cái công phu gánh củi từ sớm
đến giờ, không chịu thay đổi. Ở trên thực tế, lắm khi con người,
biết là sai đường, biết làm sai việc, biết nói lỡ lời, suy
nghĩ tầm bậy, nhưng đã lỡ rồi, cho nó lỡ luôn, sửa lại quê quá, xin
lỗi mất mặt, chạm tự ái quá, nhứt định không được, tới đâu thì tới,
đâu ngán ai chứ!
Trong lòng cố chấp, nặng nề như vậy, thường dẫn chúng ta, đến
chỗ đấu tranh, bắt đầu bằng lời, rồi tới võ lực, tức nhiên dẫn
đến, phiền não khổ đau. Những người có thêm, một chút học thức,
trong lòng cố chấp, tăng thêm một chút, họ ít khi chịu, nhìn thấy sự
thực, ít khi chịu nhận, lỗi lầm của mình, ít khi chịu nhịn, nhường bước
người khác. Trong kinh sách gọi đó là "sở tri chướng". Nghĩa là
cái sở tri, cái kiến thức, sự hiểu biết, đã có từ bấy lâu nay,
thường làm chướng ngại, ngăn đường cản lối, không cho chúng ta, nhận ra lẽ
phải, thấu suốt chân lý.
Chân lý không lệ thuộc tôn giáo nào, giai cấp nào, dân tộc nào,
quốc gia nào, thế lực nào, thời đại nào, không gian nào.
Chân lý bất biến, bất tùy phân biệt, chính là nghĩa đó vậy.
Có câu chuyện một học giả đến xin hỏi đạo với một thiền
sư. Thiền sư mời học giả ngồi, rồi mang trà ra tiếp đãi.
Thiền sư chậm rãi, rót trà ra tách, để trước mặt khách, tiếp
tục rót trà, đến khi tràn ra, vẫn không chịu dừng. Học giả thấy vậy,
không còn chịu được, bèn lên tiếng hỏi, lý do tại sao. Thiền sư
từ tốn đáp rằng: Ngài đến đây với đầy ắp kiến thức trong tâm
trí, đâu còn chỗ để thu nhận lý thiền, lẽ đạo. Cũng như
tách trà đã đầy, không còn chỗ nhận thêm nữa vậy.
Trong cuộc sống, chúng ta chứa đầy ắp những thành kiến, định kiến,
thiên kiến, biên kiến, tà kiến, ác kiến, thường kiến,
đoạn kiến, trong tâm trí, cho nên khó mà chấp nhận được bất cứ ý
kiến nào của người khác, khó mà nhận được thế nào là chánh
kiến. Trong cuộc sống vợ chồng, nếu ai cũng chấp chặt ý kiến
của mình là đúng, không chịu nghe giải thích, không chịu ngồi xuống bàn
luận với nhau, làm sao gia đình có được hạnh phúc! Lại đi nghe lời, ông bà
thầy bói, bèn đổi cái cửa, bèn sửa cái bếp, thêm xoay cái bàn, lại trở
cái giường, đi phá cái tường, xây thêm tấm vách, thực là lãng nhách, tốn
công phí sức, hao tiền tốn của, một cách vô ích. Ðiều cần phải sửa,
chính là cái "lòng cố chấp" của chúng ta, mà thôi.
Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy câu chuyện năm người mù rờ voi, sau
này thường được viết trong sách giáo khoa, đem dạy ở trường học,
đáng để chúng ta suy gẫm như sau: Có năm người mù được dẫn tới rờ
một con voi và sau đó cho biết ý kiến của từng người. Người rờ
được cái vòi thì nhứt định cho là con voi giống như con trùng thật lớn.
Người rờ được cái chân thì nhứt định cho là con voi giống như cái cột
nhà thật lớn. Người rờ được cái tai thì nhứt định cho là con voi giống
như cái quạt thật lớn. Người rờ được cái bụng thì nhứt định cho là con
voi giống như cái trống thật lớn. Người rờ được cái đuôi thì nhứt định
cho là con voi giống như cái chổi. Thế là cả năm người đều chấp
chặt cái sở tri, cái hiểu biết của riêng mình, có chứng nghiệm rõ
ràng qua sự rờ rẫm hiện vật, cho nên cãi vã nhau, chướng ngại nhau, không
ai muốn nghe, muốn tin điều người khác nói ra, nhứt định cho mình là
đúng. Tức nhiên, câu chuyện nhứt định dẫn đến chỗ tranh chấp,
ấu đả và khổ đau.
Chúng ta cũng thường mắc phải những lỗi lầm như thế, trong cuộc
sống, cho nên phiền não khổ đau. Chúng ta thường nghe thoáng qua một câu
chuyện truyền miệng, không biết đâu là xuất xứ, rồi vội vàng
kết luận là người này tốt, người kia xấu, người này phải, người kia
quấy, đưa đến chỗ bất đồng ý kiến, tranh cãi, phiền não
và khổ đau. Chúng ta không có thời gian, không có khả năng, không có hoàn
cảnh, không có điều kiện, để tìm hiểu "nguyên hình"
của con voi như thế nào, mà đã vội vàng kết luận thì nhứt định
không sai, nhưng cũng nhứt định không đúng vậy. Chúng ta có thể chỉ
"đúng một phần" thôi, hãy lắng nghe ý kiến của người khác!
Thực hiện được như vậy, có phải chúng ta tránh được những cuộc tranh
cãi vô ích, trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Thực hiện được như
vậy, chắc chắn chúng ta tránh được phiền não và khổ đau, chắc chắn
chúng ta sống được an lạc và hạnh phúc, không nghi ngờ gì nữa cả. Thực
hiện được như vậy, chúng ta mới là người thực sự biết tôn
trọng chân lý.
Sự khổ đau, trong các gia đình, thường là do sự chấp chặt giữa cha mẹ và
con cái. Cha mẹ thì nhứt định phải như vầy và như vầy thì mới đúng, khác
đi là không được. Con cái thì nhứt định phải như vậy và như vậy thì mới
được, khác đi là không đúng. Những gia đình như thế và như thế
nhứt định không thể có hạnh phúc. Chúng ta đừng than phiền con cái
đời nay khó dạy.
Thực ra, con người đời nào cũng vậy, con cái đời nào cũng vậy thôi,
chỉ có chúng ta "biết" cách nào dạy con cái, và nhứt là
"biết" cách nào dạy chính mình hay không, mà thôi.
Hai thế hệ khác nhau tức nhiên có những khác biệt trong lề
lối suy nghĩ và hành động. Nếu biết thông cảm, dung hòa, tha thứ,
hiểu biết, thì vui vẻ hạnh phúc. Trái lại nếu cố chấp, bảo thủ
ý kiến, thì khiến phiền não và khổ đau. Rõ ràng là như vậy.
Tệ hơn nữa là người lớn nghe lời xúi dại của con cái, làm những
chuyện lợi mình hại người, gây nên tội báo nghiệp báo.
* * *
Trên đây, chúng ta đã tìm hiểu qua thế nào là chấp ngã và chấp
pháp. Vượt qua được chấp ngã và chấp pháp, tức là chúng ta đã vượt qua
được hết thảy mọi khổ ách. Hiểu được tường tận như vậy,
chúng ta dễ nhận định rằng: "Sắc bất dị không, không bất dị sắc,
sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc
phục như thị". Tại sao vậy?
Bởi vì sắc và không chẳng có gì khác nhau, còn và mất cũng vậy, tuy
không đồng nhau. Chẳng hạn như một cái đồng hồ do nhiều thứ ráp lại
tạo thành. Có người tò mò tháo rời từng bộ phận ra, rồi không biết ráp
lại thì cái đồng hồ không còn nữa. Hoặc giả đến một lúc nào đó, lâu
hay mau, sớm hay muộn, chúng ta cần tiền đem bán, hoặc đem cho người khác,
hoặc cái đồng hồ bị hư hoại, thì cũng không còn nữa. Ngay khi cái đồng hồ
còn hiện tiền, chúng ta đã hiểu biết bản chất của nó là
không, tức là không tồn tại vĩnh viễn. Cho nên mọi chuyện biến
đổi đối với cái đồng hồ không làm cho chúng ta ngạc nhiên, không làm cho
chúng ta phiền não và khổ đau, tức là chúng ta được an nhiên tự tại,
trước sự còn mất của cái đồng hồ, nói riêng, trước sự còn mất của tất
cả muôn pháp trên thế gian, kể cả cái mạng sống của chúng ta, nói
chung.
Chẳng hạn như có một căn nhà tiền chế, có thể tháo ráp
được. Khi chưa được ráp lại, đó chỉ là một đống vật liệu như là:
cây, gổ, sắt, gạch, đá, ngói, xi măng, khung cửa, máng xối, vân vân, chưa
phải là căn nhà. Khi ráp xong rồi, đó mới được gọi là căn nhà. Như
vậy, bản chất của căn nhà vốn là không. Do duyên hợp nên căn nhà tạm có.
Khi hết duyên, cái nhà rã ra, trở thành đống gạch vụn, không còn là căn
nhà nữa vậy.
Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy: "Phàm sở hữu tướng giai thị
hư vọng".
Nghĩa là: tất cả mọi thứ trên thế gian có hình tướng, nhỏ như
hạt cải, cái bàn cái ghế, cái nhà cái xe, to lớn như dãy núi, hay quả
địa cầu, tất cả đều hư vọng, không tồn tại vĩnh viễn, có ngày
cũng biến hoại, sau vài chục năm, vài trăm năm, hoặc vài chục triệu
năm. Cũng vậy, cái thân tứ đại gồm có: đất, nước, gió, lửa, hay còn
gọi là cái thân ngũ uẩn gồm có: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, của
con người cũng như vậy mà thôi. Còn đối với các pháp trên thế gian,
chuyện gì có cũng như không, không có chuyện gì tồn tại vĩnh viễn,
lâu dài. Cho nên khi đắc thời được thế, con người không nên kiêu căng
phách lối, ngạo mạn khinh người. Tại sao vậy? Bởi vì chuyện đó không
chắc tồn tại được lâu đâu!
Hoặc khi gặp chuyện bất bình bực bội, xui xẻo rắc rối, hư hại thất
bại xảy ra, con người cũng đừng để tâm trí rối loạn quá đáng. Tại sao
vậy? Bởi vì chúng ta biết ngay: chuyện gì rồi cũng qua đi, chỉ sớm hay
muộn, chóng hay chầy, mà thôi. Cố gắng giữ sự bình tĩnh thản nhiên, được
bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Một cơn giận tới, do bị chửi mắng sỉ nhục, do bị
công kích khiêu khích, do bị phân biệt đối xử, một cách bất công, do bị
vu oan giá họa, nói chung, do bị ngoại cảnh chi phối, do người đời chung
quanh gây nên, không thể tránh được.
Chúng ta nên quán chiếu: cơn giận đó không thiệt, không tồn tại
lâu, chỉ quấy động tâm sân của mình, không nhằm nhò gì đến con người
chân thật của mình, vốn bình tĩnh thản nhiên, vốn thanh tịnh từ ái. Chúng ta
không theo cơn giận đang khởi lên đó, cơn giận đó sẽ qua, sẽ tan biến,
sẽ lắng xuống. Mây đen tan biến, bầu trời quang đãng. Tuy nhiên, cơn giận
qua mau hay chậm, tùy theo năng lực tu tập, công phu quán chiếu, khả năng
hành trì của mỗi người. Chúng ta không theo, cơn giận sẽ nguội dần.
Mọi sự mọi việc sẽ bình yên.
Ngược lại, chúng ta theo cơn giận đó, đi gây sự, sinh sự thì sự sinh ra
ngay. Thí dụ như tức quá nhịn không nổi, phản ứng ngay tại chỗ: chửi cấp
trên thì bị mất việc, đánh người thì bị phạt, giết người thì ở
tù. Một chuỗi hậu quả liên tục sẽ đổ ập lên đầu chúng ta, tiếp
theo ngay sau cơn giận của mình, khó lường trước được. Khi gặp nghịch cảnh,
không chịu dùng trí tuệ bát nhã quán chiếu, càng cầu mong chuyện
qua mau, chuyện lại càng chẳng chịu qua. Cứ để tự nhiên, đến đâu
đối phó đến đó, lo lắng quá nhiều, buồn bực thái quá, sức khỏe suy
yếu, không ích lợi gì.
"Sắc" và "không" là hai từ ngữ chỉ sự đối đãi trong
cảnh giới tương đối. Khi còn ở trong cảnh giới tương đối, con người vẫn
còn phiền não và khổ đau, cho nên trong kinh sách gọi là còn trong
vòng sanh tử luân hồi. Chẳng hạn như còn thương thương ghét ghét, còn
đúng sai phải quấy, còn thị phi nhơn ngã, tức là còn khổ đau phiền não.
Chẳng hạn như còn chấp chặt sự quan trọng của mặt mũi, địa vị, danh
vọng, tiền bạc, của cải, sự nghiệp, tức là còn phiền não khổ
đau. Không có cái gì tồn tại vĩnh viễn. Bản chất của muôn pháp là không.
Hiểu biết được như vậy, chúng ta phá được chấp ngã và chấp pháp,
tâm của mình mới được thanh tịnh. Không bị cảnh trần chi phối, lôi cuốn,
tức là không còn phiền não khổ đau, thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi,
chính là nghĩa đó vậy. Ðó là tinh thần bát nhã, còn gọi là "pháp
môn bất nhị". Bất nhị nghĩa là: không hai, cũng không phải là một. Nói
hai cũng trật, nói một cũng sai, cho nên gọi là: "Không Hai".
Chúng ta tạm dùng thí dụ sau đây cho dễ hiểu. Người đời thường nói:
"Tuy hai mà một. Tuy một mà hai". Câu đó thường dùng để
chỉ những cặp vợ chồng hòa thuận đồng lòng, nhứt tâm nhứt trí, trong
mọi vấn đề, trong mọi hoàn cảnh, trong mọi trường hợp. Tuy là
hai người khác nhau, nhưng họ chỉ có một ý kiến, có một quyết
định, khi cần chỉ hỏi một người cũng đủ, cũng như hỏi người kia. Họ
cũng như một người về mặt tinh thần, nhưng thực tế họ là hai.
Chúng ta thử xét thí dụ khác: Mặt biển lúc nổi sóng và mặt biển lúc
thanh bình, tuy là hai trạng thái hoàn toàn khác nhau, nhưng không phải là hai
biển. Cũng vậy, tâm chúng ta lúc bình tĩnh thản nhiên và lúc nổi cơn
tức giận, không hai, nhưng cũng không phải một. Tuy hai mà một, tuy một mà
hai, chính là nghĩa đó vậy.
Trong cảnh giới tương đối, chúng ta thấy có cái này thì phải có cái kia.
Chẳng hạn như có sáng thì có tối, có đúng thì có sai, có thương thì có
ghét, có phải thì có quấy. Chấp một bên thì chúng ta khổ đau ngay, phiền
não ngay. Ðó còn gọi là cảnh giới nhị biên. Khi nào chúng ta phát huy
được trí tuệ bát nhã, vượt ra khỏi vòng tương đối, chúng ta sẽ
hết phiền não và khổ đau, sẽ được giác ngộ và giải thoát, sẽ
được an lạc và hạnh phúc, sẽ được an nhiên và tự tại. Chẳng hạn như khi
gặp một người, nếu không quan tâm chuyện thương ghét, tâm chúng ta
sẽ bình thản. Chẳng hạn như khi vào một căn phòng không có mùi thơm, không
có mùi hôi, tâm chúng ta sẽ bình thản.
Ðây mới chính là ý nghĩa thiết yếu của việc tu tâm
dưỡng tánh theo đạo Phật:
Trong tâm khởi niệm, nếu giác kịp thời, liền biết không theo,
đó là chân tâm.
Trong tâm khởi niệm, nếu còn mê muội, không giác kịp thời, liền
theo niệm đó, trở thành vọng tâm.
Cũng ví như là: Khi có gió thổi, mặt biển nổi sóng, gọi là
biển động. Mặc dù có gió thổi, mặt biển vẫn bình yên, đó là
biển thái bình, ví như bản tâm thanh tịnh.
Tu theo đạo Phật, không phải chỉ có: cúng kiến lễ lạy, van xin cầu
nguyện, không còn gì khác!
Ðiều đáng quan trọng không phải là "vọng tâm" thay
đổi bất chợt, bất thường nói trên, mà chính là cái "chân tâm"
không sanh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm của
tất cả chúng ta vậy. Hiểu được, nhận được: "thế nào là chân
tâm", chính là mục đích cứu kính của đạo Phật, được Ðức Phật giảng
giải rõ ràng trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, và đồng thời, trong Bát Nhã Tâm
Kinh, phần tiếp theo sau đây:
"Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất
cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ,
tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc,
thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô
vô minh diệc, vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử
tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc
cố, bồ đề tát đỏa y bát nhã ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại; vô
quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh
niết bàn. Tam thế chư Phật y bát nhã ba la mật đa cố, đắc a nậu đa
la tam miệu tam bồ đề".
Nghĩa là: Hãy nhìn thấy các pháp không qua các hình tướng bên ngoài,
chúng ta mới có thể nhận thấy được bản thể chơn thực không sanh
không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm. Hãy nhìn thấy
trong chơn không, không có ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, không
có lục căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có lục trần: sắc, thinh,
hương, vị, xúc, pháp, không có lục thức: từ nhãn thức cho đến ý
thức, không có vô minh, không có hết vô minh, không có già chết,
không có hết già chết, không có tứ đế: khổ, tập, diệt, đạo,
không có trí tuệ, cũng không có chỗ chứng đắc. Vì không có chỗ
chứng đắc, tức là không bị dính mắc, dù là pháp thế gian, hay pháp xuất
thế gian, cho nên Bồ Tát nương theo trí tuệ bát nhã, tâm không còn
điều gì ngăn ngại, không có gì cản trở được, không có gì làm cho sợ
hãi, chính vì thế xa lìa hẳn những chuyện điên đảo mộng tưởng,
đạt tới cảnh giới cứu kính niết bàn. Chư Phật trong ba thời: quá khứ,
hiện tại và vị lai, đều nương theo trí tuệ bát nhã, đạt được
đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Hình tướng của các pháp ở thế gian đều do con người tạo ra. Chẳng
hạn như chế tạo ra kiểu xe này, kiểu xe khác, tùy theo sáng chế
của viên kỷ sư, tùy theo nhu cầu của người mua sắm, tùy theo mức tiêu
thụ, trên các thị trường khắp nơi. Chẳng hạn như xây cất nhà cửa, kiểu
này kiểu khác, tùy theo đồ án thiết kế của kiến trúc sư, tùy
theo chức năng xử dụng của công trình, nào là nhà ở đủ loại, nào là nhà
thương, trường học, nhà máy, phi trường, vân vân.
Chẳng hạn như hình tướng người hiền, hình tướng người dữ, tùy theo
tâm tánh của mỗi người, hiển lộ trên gương mặt, trên tướng mạo
bên ngoài. Các chuyên viên hóa trang trong ngành điện ảnh, trong nghệ
thuật sân khấu, kịch nghệ hay cải lương, có khả năng biến một người
thành dáng hiền nhân quân tử, hay đạo tặc tiểu nhân, thậm chí
biến một người thành dáng nam hoặc nữ, tùy theo yêu cầu của kịch bản.
Chẳng hạn như cùng một chất vàng, con người có thể làm ra đủ thứ loại
nữ trang, hình tướng khác nhau, nào là vòng, xuyến, cà rá, hoa tai, dây
chuyền đủ kiểu. Cho nên khi nhìn các món nữ trang, chúng ta không nên
chấp vào hình tướng khác nhau, hình thức bên ngoài, chúng ta sẽ dễ dàng
nhận biết: tất cả đều được làm bằng vàng, bản thể là chất
vàng.
Cũng vậy, khi chúng ta nhìn con người không qua các hình tướng khác
nhau, các hình thức bên ngoài, chẳng hạn như: nam phụ lão ấu, già trẻ lớn
bé, giàu nghèo, sang hèn, quan dân, đẹp xấu, mạnh yếu, cao thấp, sắc tộc,
màu da, xuất xứ, học thức, địa vị, lúc đó chúng ta sẽ nhận ra được
tất cả mọi người đều giống nhau ở chỗ: bất cứ người nào cũng
có "Bản Tâm Thanh Tịnh", còn gọi là "Chân Tâm".
Bản tâm thanh tịnh của tất cả mọi người đều giống nhau, không
khác, đều đồng nhứt thể. Chỉ vì mê ngộ không đồng, con người tạo
tội tạo nghiệp khác nhau, cho nên hình tướng bên ngoài khác nhau.
Bất cứ người nào trên đời, nếu không bị ai chửi mắng, không bị ai
nguyền rủa, không bị ai thưa kiện đòi tiền, không bị ai đánh
đập, không bị ai nói xấu, không bị ai lường gạt, không bị ai chọc ghẹo,
không bị ai vạch áo coi thẹo sau lưng, không bị ai cướp tác quyền, không
bị ai vu khống cáo gian, không bị ai đá giò lái, không bị ai thọc gậy
bánh xe, không bị ai vạch lá tìm sâu, không bị ai đem đuốc rê chân mình,
không bị ai đào mồ tổ tiên ba bảy đời, không có lòng tham, không dễ nổi
sân, không si mê ám chướng, tất cả những người như vậy chắc chắn đều
sống trong cảnh giới an nhàn, thanh tịnh, thanh thản, thảnh thơi, thư thái, tự
tại, giải thoát. Nói một cách khác, khi con người không bị cảnh trần lôi
cuốn, thì tâm trí chắc chắn thanh tịnh. Bản tâm thanh tịnh không phân
biệt hình tướng bên ngoài của người đó như thế nào, dù người đó
theo bất cứ tôn giáo nào, dù người đó là tu sĩ hay tín đồ cũng vậy.
Bất cứ người nào cũng có bản tâm thanh tịnh, còn gọi là chân tâm.
Ðó là điều cứu kính Ðức Phật chỉ bày trong Bát Nhã Tâm Kinh. Mặc dù
con người sống ở trên thế gian, dĩ nhiên ai ai cũng có mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ý; cũng đều phải tiếp xúc với trần cảnh gồm có:
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Nhưng nếu mắt nhìn thấy sắc, tai nghe
thấy tiếng, mũi ngửi thấy mùi, lưỡi nếm thấy vị, thân thấy xúc
chạm, mà tâm trí vẫn không xao động, tâm tư vẫn bình tĩnh thản nhiên, tâm
ý không khởi lên bất cứ niệm nào, tâm trạng không đổi thay, tức là
người đó sống trong cảnh giới thiền định, cảnh giới thanh tịnh, cảnh
giới niết bàn. Nếu bản tâm thanh tịnh hiển lộ trong mọi trường
hợp, trong mọi khoảnh khắc, trong mọi hoàn cảnh, trong mọi thời gian,
trong mọi nơi chốn, lúc đó con người trở thành bậc thánh hiền. Bản
tâm thanh tịnh chỉ hiển lộ khi nào trong tâm trí con người hoàn toàn
trống rỗng và lặng lẽ, không có vọng thức hay tạp niệm nào cả,
trong kinh sách còn gọi đó là "Chân Không".
Trong chân không thanh tịnh đó, không lệ thuộc nơi sáu căn: mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân, ý; cũng không lệ thuộc nơi sáu trần: sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp. Nghĩa là dù sống ở giữa cảnh phồn hoa đô hội, thị
tứ náo nhiệt, nhưng nếu biết canh chừng tâm trí của mình, không
để bị cảnh trần lôi cuốn, con người cũng có thể sống trong cảnh
giới thiền định được, định trong cảnh động. Mặc dù sống trong cảnh
yên lặng của núi rừng thôn dã, hay cảnh tịch tịnh của tu viện, nhưng tâm
tư chưa dứt bụi trần, chưa dứt nghiệp duyên, còn nhiều ham muốn, còn
nhiều phiền lụy, không biết pháp môn chăn trâu, không biết
chăn giữ tâm trí của mình, tâm trí vẫn còn loạn động, tạp niệm vẫn
tiếp diễn không ngừng, chắc chắn người đó chưa thể sống trong cảnh
giới thiền định được vậy.
Trong kinh sách, những tạp niệm, khởi lên trong tâm trí, được ví như
con trâu. Con trâu tâm trí thường dẫn dắt con người đi từ hiện tại mơ
màng, trở về quá khứ xa xăm, có khi đi từ hiện tại phiền não khổ
đau, đến tương lai xa vời, mộng tưởng, có khi đi từ đông sang tây, có
khi đi từ chuyện quốc gia đại sự, đến chuyện nhỏ nhặt riêng tư,
có khi đi từ chuyện trong nhà, đến chuyện hàng xóm. Nếu không
khéo chăn dắt gìn giữ con trâu đó, một cách hết sức cẩn thận, từng giờ
từng phút từng giây, chắc chắn con người sẽ bị nó dẫn dắt đi, tạo tội tạo
nghiệp, suốt đời suốt kiếp, mà thôi. Ðến khi phải đền trả
nghiệp báo, hay đến giờ phải đền tội, con người hả họng cỡ
nào, kêu làm sao cho thấu trời cao? Cho nên đau khổ vẫn hoàn khổ đau, dài
dài!
Sau khi chúng ta đã thấu hiểu thân và tâm này đều là giả tạm
không thực, chỉ là hình tướng, không tồn tại vĩnh viễn, chúng ta sẽ không
còn khổ đau, khi đối diện với những bất trắc của cuộc đời. Thậm chí,
chúng ta sẽ không đau khổ, như người thế gian thường tình, khi người
thân hết duyên sống trên đời, hoặc chính mình đến lúc bỏ lại thân
ngũ uẩn để ra đi. Khi đó, dù còn mang thân xác tứ đại, nhưng tâm
thọ, tâm tưởng, tâm hành và tâm thức, không còn chao động, không còn
lăng xăng lộn xộn nữa, chúng ta sẽ nhận ra được bản tâm thanh tịnh của
chính mình. Cũng ví như khi mây đen tan biến hết, mặt trời chiếu
sáng, tỏ rạng như tự thuở nào. Lúc mặt trời bị mây đen che khuất, chúng ta
tưởng đâu không có mặt trời, chỉ thấy toàn mây đen trên không trung.
Cũng vậy, trong cuộc sống, chúng ta mãi lo bon chen để kiếm sống,
để sống còn, mãi lo tranh giành danh và lợi, mãi lo chuyện hơn thua
thị phi phải quấy, mãi lo hàng trăm hàng ngàn thứ, hàng trăm hàng ngàn
việc, từ khi bước chân vào đời, cho đến khi nhắm mắt xuôi tay. Bởi
vậy cho nên, chúng ta luôn luôn để tâm trí dong ruỗi theo cảnh trần,
tâm trí luôn luôn bất an loạn động, tâm trí luôn luôn thay đổi trong từng
giây từng phút, tạo tác không biết bao nhiêu là tội nghiệp, nghiệp
chướng, nghiệp báo. Do đó chúng ta không nhận được bản tâm thanh tịnh
của chính mình, chỉ thấy tâm trí lúc buồn lúc vui, tùy theo cảnh trần bên
ngoài. Ví như những đám mây đen dầy đặc che khuất mặt trời, hay che khuất
mặt trăng, không còn chiếu sáng. Ví như những cơn sóng to cơn sóng nhỏ
che lấp mặt biển bao la. Khi các vọng tâm vọng niệm vọng
thức lắng xuống, ví như các ngọn sóng to sóng nhỏ lặng xuống, mặt
biển bản tâm thanh tịnh bao la không ngằn mé hiển hiện rõ ràng.
Bản tâm thanh tịnh, hay chân tâm bất sanh bất diệt, không sanh không
diệt, thường hằng, vĩnh viễn, luôn luôn hiện hữu. Chỉ có tâm sân
hận oán thù, mới có sanh và diệt, mà thôi. Chẳng hạn như khi gặp
chuyện bất như ý, tâm con người khởi sanh bực tức oán giận. Lúc đó,
con người quên mất bản tâm thanh tịnh của mình, tức là quên mất mình là ai.
Lâu sau nguôi dần, tâm con người trở lại trạng thái bình thường, tâm sân
hận diệt đi, không còn nữa. Sanh diệt có nghĩa là như vậy.
Chân tâm bất cấu bất tịnh, nghĩa là không dơ không sạch. Chỉ có tâm tham
lam tiền bạc của cải, tham lam danh hão, mới có sạch hay dơ, mà thôi. Chân
tâm bất tăng bất giảm, nghĩa là không thêm không bớt. Chỉ có tâm ngu si mê
muội, mới có tăng hay giảm, ngu nhiều hay ngu ít, mà thôi. Khi đó trí
tuệ bát nhã bừng sáng, chúng ta có thể hiểu thấu mọi sự
mọi việc trên thế gian này đúng như thực tướng.
Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy: "Ly nhứt thiết tướng thị
danh thực tướng".
Nghĩa là: Khi chúng ta lìa bỏ tất cả hình tướng bên ngoài, không cố chấp
bất cứ hình thức nào, thì chúng ta nhận thấy được thực tướng. Thực tướng
đó chính là bản tâm thanh tịnh, là chân tâm không có hình tướng, mắt
thường của người thế gian không có thể thấy được. Vì không có
hình tướng như vậy cho nên bản tâm thanh tịnh không tăng không giảm. Trước
đây chúng ta giác ngộ được, cũng như vậy. Bây giờ mới giác ngộ, cũng như
vậy, không khác, không hai. Ngàn kiếp sau mới chịu tu, mới giác ngộ, bản
tâm thanh tịnh cũng vẫn như vậy mà thôi. Vì không có hình tướng, cho nên
bản tâm thanh tịnh không nhơ không sạch, không ai có thể ném bùn, không
ai có thể bôi lọ, không ai có thể đụng tới được.
Nói một cách khác: người đời chỉ có thể làm hại cái thân tứ đại
của mình, có thể làm hại cái danh hão của mình, có thể làm hại của
cải, sự nghiệp trên đời của mình, nói chung, người đời chỉ có thể
làm hại những thứ gì thấy được, sờ được của mình, chứ không ai có
thể đụng tới được bản tâm thanh tịnh của mình.
Bởi thế cho nên, ngộ được bản tâm thanh tịnh, tức là chúng ta
vượt qua được tất cả mọi khổ ách, bởi vì chúng ta đã vượt qua được
những dính mắc gây phiền não khổ đau của cuộc đời, chính là nghĩa đó
vậy.
Chẳng hạn như mắt thấy sắc không còn sanh ra nhãn thức. Chẳng hạn như tai,
mũi, lưỡi, thân, ý, tiếp xúc với thanh, hương, vị, xúc, pháp, không
còn sanh ra các tâm thức, chất chứa trong kho thàng tâm thức nữa.
Có câu chuyện sau đây về một ông trưởng giả có bốn bà vợ. Ông
trưởng giả thương nhứt là cô vợ bé bự, nên đi đâu ông cũng mang theo,
không bao giờ thiếu vắng, nhứt định chặt không đứt, bứt không rời. Ông
vẫn thương bà vợ thứ ba nhiều lắm, nên đi đâu ông cũng thường mang
theo, tuy cũng có lúc quên. Ông vẫn còn thương bà vợ thứ hai, nên thỉnh
thoảng nếu nhớ, ông đem ra khoe cho vui. Ông dường như quên lững bà vợ
cả một thời đầu ấp tay gối, mặn nồng xưa kia. Suốt ngày ông chỉ bận bịu
với ba bà vợ kia mà thôi. Ðến lúc sắp phải đi theo tổ tiên, ông bèn
kêu các bà vợ đến bên giường bệnh, và hỏi xem có bà vợ nào muốn
đi theo ông hay không?
Cô vợ bé bự trả lời: Dù khi còn sống, ông cưng chiều, săn sóc tôi
hết mức, chăm lo ngày cũng như đêm, không thiếu thứ gì cả. Nhưng
ông có ra đi thì ra đi một mình. Khi ông hết thở, tôi sẽ bỏ ông tức
khắc, không thể theo ông được đâu! Bà vợ thứ ba trả lời: Khi ông
hết thở, tôi sẽ phải qua tay người khác, không thể nào tránh được
đâu! Tôi không muốn cũng không được. Bà vợ thứ hai trả lời: Tôi sẽ theo
ông tới nấm mồ thôi, không thể theo xa hơn được, không thể nào theo
ông mãi mãi được đâu! Ông đi một mình đi! Tới phiên bà vợ cả, bà từ
tốn trả lời: Ông đừng lo, dù ông có quan tâm đến tôi hay không, dù ông
có muốn hay không, đã là vợ chồng với nhau, lúc nào, đời nào, kiếp
nào, ông đi đến đâu, tôi sẽ theo ông tới đó, như bóng với hình vậy!
Câu chuyện trên ngụ ý rằng: Khi ông trưởng giả hết thở ra đi,
trước nhứt, ông bỏ lại cô vợ bé bự, chính là cái thân tứ đại mấy chục
người khiêng của ông, mà lúc nào ông chẳng mang theo khi còn sống. Kế
đó, ông bỏ lại bà vợ thứ ba chính là tiền bạc, của cải, phải sang tay
người khác ngay. Bà vợ thứ hai chính là danh vọng, chức tước chỉ có
thể theo ông trưởng giả tới nấm mồ, được nhắc lại trong các điếu
văn của bằng hữu, và được ghi khắc trên mộ bia của ông mà thôi.
Còn bà vợ cả chính là "nghiệp báo", do ông trưởng giả đã
hành động, đã nói năng, đã suy nghĩ, từ thân khẩu ý của chính ông,
khi còn sanh tiền, sẽ theo ông mãi mãi và dẫn dắt ông tái sanh vào cõi
lành hay cõi dữ, tùy theo ông trưởng giả đã làm lành hay dữ khi còn sanh
tiền. Chứ không có đấng nào, không có thần linh nào, không có bất cứ
ai, có thể cứu rỗi hay trừng phạt ông trưởng giả cả.
* "Tự ông làm, chính ông hưởng. Tự ông làm, chính ông chịu".
Chỉ có vậy mà thôi. Như vậy mới thực sự là chí công vô tư. Khi còn sanh
tiền, con người chỉ biết lo săn sóc, cưng chiều, cung phụng tấm
thân tứ đại cho đầy đủ, sung túc. Lo kiếm tiền bạc cho thiệt
nhiều, có tiền rồi thì dùng tiền kiếm tí danh, địa vị, dù
chỉ là danh hão cũng được, chứ ít có người biết quan tâm đến
"nghiệp báo", ít có người biết lo tu tâm dưỡng tánh,
biết lo dừng nghiệp và chuyển nghiệp, biết lo tu nhân tích
phước, biết lo làm việc phước thiện, để dành "phước
báo" cho mai sau.
* * *
Phần cuối cùng Bát Nhã Tâm Kinh:
"Cố tri bát nhã ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú,
thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ,
chơn thiệt bất hư. Cố thuyết bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết
chú viết: Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng
yết đế, bồ đề tát bà ha".
Nghĩa là: Nên biết bát nhã ba la mật là đại thần chú, là đại minh
chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, trừ được hết thảy khổ,
chơn thực không giả. Vì vậy, nói ra bài chú bát nhã ba la mật, liền nói
bài chú ấy rằng: Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la
tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.
Sau khi giảng dạy tường tận, cặn kẽ chân lý của các pháp, chỉ dẫn
những bước cần thiết để khai mở trí tuệ bát nhã, Ðức Phật cho
biết trí tuệ bát nhã chính là những điều cao tột, cứu kính, quí
báu, cũng như những đại thần chú, đại minh chú, vô thượng chú, vô đẳng
đẳng chú, có năng lực trừ được hết thảy khổ ách trên thế gian. Khi
bài chú ấy nói ra, chúng ta chẳng hiểu gì cả. Chính cái chỗ không
hiểu gì cả đó đem lại sự không tịch, rỗng lặng, thuần khiết,
thanh tịnh trong nội tâm, sau thời gian náo động, vận dụng sự suy tư, quán
chiếu, để tìm hiểu chân lý, để tìm hiểu thực tướng.
Bây giờ là lúc buông xả hết. Buông xả hết thì chân tâm hiện
tiền! Sanh diệt ký diệt, tịch diệt hiện tiền!
* * *
Tóm lại, chúng ta biết rằng, khi đứng trong một căn phòng, cầm đèn
rọi ra bên ngoài, thì mình sẽ thấy rõ, biết rõ cảnh vật bên ngoài,
còn bên trong căn phòng thì tối thui. Ngược lại, khi xoay ngọn đèn vào
bên trong căn phòng, dĩ nhiên căn phòng sáng tỏ, một cách rõ ràng, chúng ta
có thể thấy mọi thứ đồ đạc và đi đứng không bị vấp ngã. Cũng
vậy, khi chúng ta phóng tâm quán sát bên ngoài, chúng ta có thể phê phán
người này đúng, người kia sai, chuyện này phải, chuyện kia quấy, sách
này tốt, sách kia tồi, món này ngon, món kia dở, hội này hay, hội kia hỏng,
vân vân và vân vân. Chúng ta có thể biết chuyện khắp năm châu
bốn biển, chuyện thời sự khắp thế giới, chuyện văn chương kim
cổ đông tây, muôn sự mọi việc bên ngoài đều biết rõ ràng
rành mạch. Trái lại, chuyện bên trong tâm trí của chính mình thì mù tịt,
chẳng biết tí gì cả! Mình thực sự là ai, chẳng biết! Mình thực sự
đang muốn gì, chẳng biết! Mình thực sự đang làm thiện hay bất
thiện, chẳng biết! Mình thực sự đang nghĩ thiện hay bất thiện,
chẳng biết! Mình thực sự sống trên đời để làm gì, chẳng biết!
Mình sau này sẽ đi về đâu, nếu vẫn cứ tạo tội tạo nghiệp hằng
ngày, chẳng biết! Chuyện gì thuộc về bên trong, thuộc về nội
tâm, chúng ta cũng đều chẳng biết!
Tổ Sư Qui Sơn Linh Hựu có dạy: "Tiền lộ mang mang, vị tri hà
vãng".
Nghĩa là ngay khi, còn sống trên đời, lúc còn khỏe mạnh, tinh thần tỉnh
táo, nhưng con người vẫn, bị các cảnh trần, lôi cuốn quay cuồng, vẫn bị tâm
tham, tâm sân tâm si, sai xử liên miên, tâm trí bất định, đến khi sắp
chết, dù trẻ hay già, tâm thần hoảng hốt, nhớ lại tất cả, tội nghiệp
đã làm, đã nói đã nghĩ, trước đây trong đời, lo sợ nghiệp báo, con
đường trước mặt, mù mù mờ mờ, mang mang mịt mịt, thần thức rối ren, không
thể sáng suốt, không biết mình đi đâu, không biết mình vào cảnh
giới nào, lúc đó hối hận, cũng quá muộn màng!
Có một người, sau một thời gian vắng nhà, đi lang thang ngoài gió bụi, làm
khách phong trần lãng đãng đã nhiều năm tháng, cảm thấy mệt mỏi,
giờ đây muốn quay trở về quê hương, tìm về căn nhà xưa. Khi về
đến nhà, người đó nhận ra, tất cả đồ đạc, bên trong căn nhà, vương
vãi tứ tung, ngổn ngang trăm thứ, trên bàn trên ghế, trên cả sàn nhà,
giấy tờ rải rác, cùng khắp mọi nơi, bởi vì tất cả, cửa sổ cửa cái, cả
thảy là sáu, đều bị mở tung. Người đó bèn đi, đóng hết tất cả,
cửa sổ cửa cái, đốt ngọn đèn lên, cho sáng căn nhà, cho ấm căn phòng,
rồi ra công sức, quét dọn khắp nơi, sắp xếp đồ đạc, ngăn nắp
gọn gàng, trật tự mỹ quan. Xong xuôi tắm rửa, pha tách trà nóng, ngồi
xuống yên lặng, thưởng thức khung cảnh, ấm áp lạ thường, từ trong ra ngoài,
thực khó diễn đạt. Ngay lúc bấy giờ, người đó cảm thấy, bình yên thanh
thản, an lạc hạnh phúc.
Cũng vậy từ lâu, chúng ta vô minh, mở rộng sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, ý, đón nhận sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, thường
xuyên mỗi ngày, bởi vậy cho nên, nội tâm xáo trộn, sanh ra sáu thức: nhãn
thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. Chúng ta đã
từng nhận chịu quá nhiều phiền não khổ đau của cuộc đời. Cho nên
giờ đây, chúng ta muốn trở về với bản tâm thanh tịnh, muốn nội tâm
không còn xáo trộn, không còn náo động, không còn phiền não, không còn
khổ đau. Việc đầu tiên chúng ta phải làm là: đóng bớt sáu căn, giảm
bớt cơ hội tiếp xúc với sáu trần bên ngoài, tự khắc sáu thức cũng theo
đó giảm đi. Khi sáu thức giảm bớt, đến lúc không còn nữa, tức là trong
nội tâm không còn khởi bất cứ niệm nào nữa cả, khi đó chúng ta đã trở
về được căn nhà xưa, đã dọn dẹp mọi sự mọi việc ngăn
nắp, tìm được bản tâm thanh tịnh, đạt được cảnh giới cứu kính niết
bàn. Tức nhiên lúc đó, cuộc sống của chúng ta được an lạc và hạnh phúc,
bởi vì phiền não và khổ đau không còn nữa. Ðây chính là pháp môn tu
tập theo Bát Nhã Tâm Kinh.
Sự mầu nhiệm vi diệu của đạo Phật chính là sự áp dụng những lời
dạy của Ðức Phật vào đời sống hằng ngày của người Phật Tử, dù tại gia
hay xuất gia, để được an lạc hạnh phúc, để đạt giác ngộ giải
thoát, chứ không phải những chuyện mê tín dị đoan do những người tu mù,
không học hiểu kinh điển, giải thích giáo lý một cách mơ mơ
màng màng, cho có vẻ linh thiêng huyền bí, để lôi kéo tín đồ, mưu
mô lợi dưỡng, hưởng thụ cuộc đời, thêm danh thêm lợi, gọi là phương
tiện, quên mất cứu kính! Những việc như vậy, ngày nay tràn ngập, trong
các sinh hoạt, Phật giáo khắp nơi.
Người Phật Tử chân chánh, dù tại gia hay xuất gia, phát huy được trí
tuệ bát nhã, sẽ dễ dàng nhận ra, nơi nào hoằng dương Chánh Pháp. Ðó
là các nơi, giảng kinh thuyết pháp, mở lớp giáo lý, các khóa tu
học, giúp ích mọi người, hiểu rõ Phật Pháp, sống đời an lạc, tự
tại giải thoát. Còn những nơi nào, chỉ có cúng kiến, lễ lạy quanh năm,
lễ to lễ nhỏ, tụng kinh rầm rầm, bá tánh hiểu lầm, bày trò văn nghệ,
xổ số thu tiền, thi ca xướng hát, bói tướng cầu cơ, gieo quẻ xin xăm, xem
ngày tốt xấu, cưới gả ma chay, cho bùa buôn bán, trở lại cúng chùa, đó là
những nơi, không có Chánh Pháp.
Người có trí tuệ bát nhã sẽ tự cứu cuộc đời chính mình, ra khỏi
vòng vô minh từ vô thủy, sẽ không còn bị các hình thức mê tín dị đoan
thuyết phục, không còn tin các lời tuyên truyền, đồn nhảm, có tính
cách linh thiêng huyền bí, không còn lẫn lộn Chánh Pháp của đạo Phật,
với những tà thuyết chỉ có cái vỏ, thoáng nhìn có vẻ giống như đạo
Phật, mượn giáo lý của đạo Phật, trộn lẫn với đủ loại giáo thuyết
khác, tạo thành các "quái thai" tín ngưỡng, dụ dẫn con người, lạc
sang tà đạo. Vị trí của cái nhà, cái cửa, cái giường, cái bếp, cái
bàn, đâu có giúp chúng ta được hạnh phúc, cũng đâu làm mất hạnh phúc
của chúng ta. Hạnh phúc có được là do chúng ta có bỏ được "tâm cố
chấp" của chính chúng ta hay không mà thôi. Bỏ được bao nhiêu thì
hưởng được hạnh phúc bấy nhiêu. Rất là đơn giản.
Chúng ta nên biết, chỗ giác ngộ của Ðức Phật là: "Biết
tất cả mà không chấp tất cả". Bát Nhã Tâm Kinh có công năng dẹp
trừ mọi sự cố chấp, chấp chặt của con người. Ðó là căn bản, cũng là
mục đích cứu kính của đạo Phật. Chúng ta hãy tích cực quán sát và dẹp bỏ
hai thứ "Chấp Ngã và Chấp Pháp", để tạo dựng an lạc và hạnh
phúc, đời này và đời sau, rốt ráo hơn, để được giác ngộ và giải
thoát. Hiểu được như vậy, làm được như vậy, chúng ta mới thực sự có
lòng tôn kính, tán thán, biết ơn và đền ơn cứu khổ của Ðức Phật
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, đồng thời tìm được sự an lạc và hạnh phúc
hiện đời trong ánh đạo vàng./.