Cư
Trần
Lạc
Ðạo
(Trọn
bộ 3 tập)
Toronto, Canada
1999 - PL 2543
---
o0o
---
Tập
2
[10]
Pháp
môn
Chăn
trâu
Trong
một
bài
hát
quen
thuộc
với
mọi
người
chúng
ta,
có
câu:
"Ai
bảo
chăn
trâu
là
khổ?
Chăn
trâu
sướng
lắm
chứ!".
Ðó
là
lời
mở
đầu
của
một
ca
khúc
nói
về
sinh
hoạt
của
các
mục
đồng
chăn
trâu
ở
thôn
quê.
Trong
Phật
giáo,
đặc
biệt
là
thiền
tông,
chư
vị
Tổ
Sư
chỉ
dạy
một
phương
pháp
tu
hành
gọi
là
"Pháp
Môn
Chăn
Trâu".
Pháp
môn
này
áp
dụng
triệt
để
lời
dạy
của
Ðức
Phật,
trong
cuộc
sống
hằng
ngày
của
người
Phật
Tử,
tại
gia
hay
xuất
gia.
Khi
hiểu
được
và
hành
được
pháp
môn
này,
người
Phật
Tử
sẽ
thấy
được
con
đường
vào
đạo,
tâm
sẽ
được
nhập
lưu,
tức
là
nhập
vào
dòng
thánh,
khác
với
dòng
đời,
tuy
thân
vẫn
sống
ở
đời,
như
bao
nhiêu
người
khác,
mà
tâm
không
hề
khổ
đau
lụy
phiền.
Dòng
thánh
gồm
có
bốn
quả
vị,
gọi
là
Tứ
Thánh
Quả,
bắt
đầu
gồm
có
Tu
Ðà
Hoàn,
đến
Tư
Ðà
Hàm,
A
Na
Hàm
và
A
La
Hán.
Khi
hiểu
được
và
hành
được
pháp
môn
này,
trí
tuệ
sáng
ra,
cuộc
đời
thay
đổi
kể
từ
ngày
này,
người
Phật
Tử
đối
với
Chánh
Pháp,
sẽ
không
còn
thoái
chuyển,
phát
tâm
tu
dưỡng,
phát
nguyện
chăn
trâu,
việc
ác
ngưng
làm,
quyết
làm
việc
thiện,
không
còn
mặc
cảm,
tự
tôn
tự
ti,
chân
trời
an
lạc
và
hạnh
phúc
bắt
đầu
ló
dạng.
Khi
hiểu
được
và
hành
được
pháp
môn
này,
người
Phật
Tử
không
còn
đi
vòng
vòng
bên
ngoài,
vừa
vui
chơi
thích
thú,
cười
nói
hả
hê,
cũng
vừa
kêu
khổ,
kêu
khổ
chưa
xong,
cầu
nguyện
van
xin,
khấn
vái
khẩn
cầu,
vừa
mê
tín
dị
đoan,
vừa
tiền
mất
tật
mang,
chẳng
lợi
ích
gì,
hết
cầu
an
cầu
siêu,
đến
cầu
đoàn
tụ,
cầu
buôn
may
bán
đắt,
cầu
trúng
số
độc
đắc,
thực
sự
có
được
gì
đâu?
Khi
hiểu
được
và
hành
được
pháp
môn
này,
người
Phật
Tử
tại
gia
không
còn
thấy
chuyện
tu
tâm
dưỡng
tánh
là
chuyện
của
những
người
xuất
gia
vào
ở
trong
chùa,
mà
tu
tâm
dưỡng
tánh
chính
là
chuyện
của
mọi
người,
chuyện
của
chính
mình,
chuyện
của
bất
cứ
ai
muốn
giảm
bớt
khổ
đau,
muốn
xuất
phiền
não
gia,
muốn
ra
khỏi
căn
nhà
lửa,
muốn
được
an
lạc
và
hạnh
phúc
ngay
hiện
tại,
trên
thế
gian
này,
trong
mọi
hoàn
cảnh,
trong
cuộc
sống
hằng
ngày.
Trên
thế
gian
này,
hầu
như
mọi
người,
thảy
đều
nghĩ
rằng,
ai
cũng
cho
rằng,
mình
là
người
thiện,
không
ai
chịu
nhận,
mình
là
người
xấu,
mình
là
kẻ
ác.
Nếu
không
phải
là
người
lương
thiện
nhứt
trên
đời,
thời "mình
cũng
là
người
không
làm
gì
nên
tội",
chắc
là
sau
khi
từ
giã
cõi
đời
này,
sẽ
được
lên
thiên
đàng
hay
cực
lạc,
không
việc
gì
phải
lo
cả.
Muốn
chắc
ăn
hơn,
nhớ
dặn
thân
nhơn,
sau
khi
mình
chết,
thỉnh
thiệt
nhiều
sư,
rước
thiệt
nhiều
cha,
mời
nhiều
ông
bà,
về
nhà
cầu
nguyện,
đăng
báo
phân
ưu,
tụng
kinh
cầu
siêu,
cầu
chúc
tiêu
diêu,
nơi
miền
cực
lạc,
hoặc
thăng
nơi
cõi,
thiên
đàng
vĩnh
viễn!
Nếu
có
ai
đó
khuyên
mình
tu
tâm
dưỡng
tánh,
thì
liền
nghĩ
rằng:
người
đó
chắc
khùng.
Không
khùng
sao
được,
bởi
chuyện
tu
hành
là
chuyện
của
quý
sư
trong
chùa,
chuyện
của
quý
cha
trong
tu
viện,
không
phải
là
chuyện
của
người
đời
đang
sống
ngoài
thế
gian,
bận
rộn
với
đủ
thứ
chuyện
trần
thế,
còn
thì
giờ
đâu
mà
nói
chuyện
tu
với
hành?
Có
người
nghĩ
rằng:
tu
học
làm
chi,
biết
nhiều
thêm
khổ,
không
biết
khỏi
tội,
khỏi
lội
qua
sông,
tốn
công
học
hỏi,
như
vậy
khỏe
re!
Thực
ra,
chuyện
đời
cũng
như
chuyện
đạo,
đâu
ai
có
thể
lý
luận
một
cách
quá
đơn
giản
như
vậy!
Con
người
vì
vô
minh
che
lấp
chơn
tánh,
từ
nhiều
đời
nhiều
kiếp,
cho
nên
lăn
lộn
trong
sanh
tử
luân
hồi,
sống
trong
cơn
mê,
sống
trong
mộng
tưởng,
sống
trong
điên
đảo,
mà
không
hề
hay
biết.
Tại
sao
vậy?
Bởi
vì
sống
trong
cơn
mê,
cho
nên
con
người,
vô
tình
hoặc
cố
ý,
gây
tạo
quá
nhiều
tội
nghiệp,
từ
trước
đến
nay.
Chẳng
hạn
như
khi
lái
xe
phạm
luật,
rồi
cho
là
không
biết
luật
giao
thông,
thì
được
miễn
tội
chăng?
Chẳng
hạn
như
mình
khai
gian
trong
giấy
tờ,
rồi
cho
là
không
biết
ngoại
ngữ,
thì
xong
chuyện
chăng?
Chẳng
hạn
như
mình
gây
tù
tội,
tạo
phiền
não,
đem
khổ
đau,
đến
cho
người
khác,
và
gia
đình
của
họ,
dù
cho
là
họ
đáng
tội,
đáng
bị
trừng
phạt,
thì
mình
yên
tâm
được
chăng,
tâm
như
vậy
là
tâm
gì?
Bởi
vì
sống
trong
mộng
tưởng,
cho
nên
con
người
luôn
luôn
mơ
ước
cảnh
giới
thiên
đàng
cực
lạc,
mà
không
biết
mình
đang
sống
trong
hiện
tại,
không
biết
mình
đang
sống
một
cuộc
đời
hết
sức
vô
nghĩa,
chẳng
làm
gì
ích
lợi
cho
ai,
chỉ
biết
ăn
ngủ
hưởng
thụ,
đấu
tranh
giành
giựt,
hơn
thua
phải
quấy,
rồi
chờ
ngày
chết!
Bởi
vì
sống
trong
điên
đảo,
cho
nên
con
người
nhận
lầm
cái
giả
tưởng
là
thực,
cái
khổ
lại
cho
là
vui.
Chẳng
hạn
như
ai
cũng
biết
chuyện
cờ
bạc
thua
lỗ
là
khổ,
vẫn
có
nhiều
người
tham
gia.
Mình
thắng
người
khổ,
mình
thua
mình
lỗ,
tự
mình
chuốc
khổ,
chớ
có
than
van!
Chẳng
hạn
như
nhiều
người
cứ
tưởng
cái
xác
thân
này
là
"mình"
và
sẽ
mang
cái
xác
đó
lên
thiên
đàng
hưởng
phước,
hoặc
đem
cái
xác
đó
lên
cực
lạc
cho
sướng
tấm
thân!
Ðâu
chẳng
biết
rằng,
sau
khi
hết
thở,
chính
cái
xác
này,
gọi
là
thây
ma,
ai
dám
đến
gần?
Cát
bụi
sẽ
trở
về
cát
bụi!
Chỉ
có
nghiệp
báo
thiện
ác
theo
"mình",
như
hình
với
bóng,
không
bao
giờ
rời,
qua
bao
nhiêu
kiếp
sau
nữa.
Còn
"mình"
thực
ra
là
ai,
thì
lại
chẳng
biết!
"Con
Người
Chân
Thật"
đã
bị
vô
minh
che
lấp
tự
lâu
lắm
rồi,
mà
chúng
ta
vẫn
không
chịu
tỉnh
thức
để
nhận
ra!
Con
người
thức
tỉnh
biết
"dừng
nghiệp
và
chuyển
nghiệp"
thì
trí
tuệ
bừng
sáng.
Khi
đó,
con
người
sẽ
tự
tại
bước
ra
khỏi
màn
vô
minh,
thoát
ra
khỏi
sanh
tử
luân
hồi,
không
còn
phiền
não
và
khổ
đau,
sống
trong
an
lạc
và
hạnh
phúc.
Ví
như
khi
nào
mây
đen
tan
hết,
bầu
trời
lại
trong
sáng,
mọi
cảnh
vật
hiện
rõ
ràng
trước
mắt,
nhìn
thấy
muôn
sự
mọi
việc
"đúng
như
thực",
không
còn
mơ
hồ,
không
còn
điên
đảo,
mình
sẽ
nhận
biết
rõ
ràng
"mình
là
ai",
không
còn
nghi
ngờ
gì
nữa
cả.
Nhưng
làm
sao
để
thức
tỉnh,
làm
sao
để
trí
tuệ
bừng
sáng?
Ðó
chính
là
mục
đích,
cũng
là
kết
quả
của
"Pháp
Môn
Chăn
Trâu".
* * *
Từ
lúc
còn
nhỏ,
con
người
đã
tạo
nghiệp
lành,
đồng
thời,
tạo
nghiệp
chẳng
lành.
Có
người
từ
nhỏ
đã
biết
làm
việc
tốt,
giúp
đỡ
những
người
chung
quanh,
từ
trong
gia
đình,
ra
đến
học
đường,
và
ngoài
xã
hội.
Ðồng
thời,
cũng
có
những
đứa
trẻ
nghịch
nghịch
ngợm
ngợm,
nghinh
nghinh
ngang
ngang,
phá
phách
xóm
làng,
văng
tục
chửi
thề,
hỗn
hào
xấc
xược,
gạt
gẫm
người
già,
trộm
gà
bắt
vịt,
nghịch
phá
nhà
người,
chặt
cây
trộm
trái,
hái
hoa
bứt
lá,
chọc
chó
đá
mèo,
leo
trèo
khắp
chốn.
Lúc
còn
trẻ
tạo
tội
nghiệp
như
vậy,
nhưng
nếu
biết
dừng
nghiệp
và
chuyển
nghiệp
kịp
thời,
thì
có
thể
trở
nên
người
tốt,
có
ích
lợi
bản
thân,
cho
gia
đình
và
cho
xã
hội.
Ðời
nay,
ở
các
xứ
tây
phương,
văn
minh
tiên
tiến,
vật
chất
dư
thừa,
có
những
đứa
trẻ
biết
kêu
cảnh
sát
đến
bắt
giam
cha
mẹ,
chỉ
vì
răn
dạy
chúng
bằng
roi
vọt,
còn
có
những
đứa
trẻ
dùng
dao
đâm
chết
người,
mang
súng
vào
trường,
giết
người
hàng
loạt!
Thực
là
khủng
khiếp!
Ðến
khi
lớn
lên,
bước
chân
ra
đời,
cuộc
sống
khó
khăn,
con
người
bon
chen,
tranh
đấu
sống
còn,
cho
nên
bất
chấp,
mọi
thứ
thủ
đoạn,
miễn
sao
có
lợi,
cho
mình
thì
thôi,
người
khác
ra
sao,
đau
khổ
thế
nào,
sống
chết
mặc
kệ!
Con
người
sẵn
sàng,
thượng
đội
hạ
đạp,
để
được
tiến
thân,
để
giành
quyền
lợi,
để
đợi
thời
cơ,
để
mơ
địa
vị.
Con
người
sẵn
sàng,
đá
giò
lái
bạn,
đâm
lưng
chiến
sĩ,
thưa
gửi
kiện
tụng,
đụng
độ
đồng
nghiệp,
hạ
nhục
đồng
môn,
đem
chôn
đồng
bào,
cào
nhà
đồng
đội,
dội
nước
đồng
hương,
chẳng
thương
đồng
đạo,
giả
tạo
đồng
minh,
tất
cả
cũng
vì,
đồng
tiền
mà
thôi!
Con
người
sẵn
sàng,
phao
truyền
tin
đồn,
mặc
kệ
đúng
sai,
phổ
biến
thư
rơi,
bôi
lọ
kẻ
thù,
nói
xấu
sau
lưng,
đặt
điều
thêm
bớt,
vu
oan
giá
họa,
chỉ
vì
ganh
tị,
đố
kỵ
mà
thôi.
Người
khác
thua
mình,
khinh
khi
biếm
nhẽ,
nhìn
nửa
con
mắt.
Người
khác
hơn
mình,
tức
giận
gièm
pha,
phá
cho
tan
nhà,
nát
cửa
chửa
thôi.
Tất
cả
những
việc
làm,
những
lời
nói
trên
đây,
đều
được
chỉ
huy
bởi
tư
tưởng,
ý
nghĩ
của
con
người.
Nói
một
cách
khác: "Tư
tưởng
làm
chủ,
chỉ
huy,
phát
xuất
ra
hành
động
và
lời
nói".
Con
người
có
tư
tưởng
hay
tâm
ý
thiện,
thì
hành
động
và
lời
nói
thiện.
Con
người
có
tư
tưởng
hay
tâm
ý
ác,
thì
hành
động
và
lời
nói
ác.
Như
vậy
tâm
ý
của
con
người,
có
lúc
thiện,
có
lúc
ác,
cho
nên
hành
động
và
lời
nói,
lẫn
lộn
thiện
và
ác.
Tâm
ý
của
con
người
luôn
luôn
lăng
xăng
lộn
xộn
hằng
ngày
như
vậy.
Trong
kinh
sách,
tâm
ý
của
con
người
thường
được
ví
như
con
vượn
chuyền
cây,
như
con
ngựa
chạy
rong,
nên
gọi
là
"tâm
viên
ý
mã".
Con
ngựa
chạy
rong,
tung
tăng
khắp
chốn,
khó
mà
điều
khiển,
thuần
phục
dễ
dàng.
Con
vượn
chuyền
từ
nhánh
cây
này
sang
nhánh
khác,
cũng
như
tâm
ý
của
con
người
nghĩ
ngợi
lung
tung
linh
tinh
lang
tang,
hết
chuyện
đông
đến
chuyện
tây,
hết
chuyện
ta
đến
chuyện
tàu,
hết
chuyện
người
này
đến
chuyện
người
khác,
hết
chuyện
gia
đình
đến
chuyện
làng
xóm,
hết
chuyện
năm
châu
thế
giới
đến
chuyện
hang
cùng
ngõ
hẻm,
hết
chuyện
khoa
học
kỹ
thuật
đến
chuyện
chính
trị
tôn
giáo,
hết
chuyện
quốc
gia
đại
sự
đến
chuyện
phụ
nữ
nhi
đồng.
Trong
thiền
tông,
tâm
ý
của
con
người
thường
được
ví
như
con
trâu.
Con
trâu
không
được
chăn
giữ
thường
hay
xâm
phạm,
giẫm
đạp
lúa
mạ
của
người
khác,
gây
nhiều
tổn
thất
hoa
màu,
mùa
màng
của
những
người
láng
giềng
lân
cận
chung
quanh.
Con
trâu
được
chăn
dắt
cẩn
thận,
chăm
nom
kỹ
lưỡng,
canh
chừng
thường
xuyên,
đem
lại
ích
lợi
lớn
lao
cho
nông
gia
và
cho
xã
hội.
*
Ðiều
quan
trọng
là: "Con
người
hãy
chăn
dắt
con
trâu,
chớ
để
con
trâu
dẫn
dắt
con
người!
Nếu
để
con
trâu
dẫn
dắt,
không
biết
con
người
sẽ
đi
về
đâu?".
Cho
nên
mới
có
pháp
tu
gọi
là
"Pháp
Môn
Chăn
Trâu",
chính
là
nghĩa
đó
vậy.
Bây
giờ
chúng
ta
thử
bắt
đầu
tìm
hiểu
pháp
môn
này.
Pháp
môn
chăn
trâu
trình
bày
phương
pháp
tu
tâm
dưỡng
tánh
qua
mười
giai
đoạn
như
sau:
1)
Thoạt
đầu
không
ai
biết
con
trâu
của
mình
đang
ở
đâu,
đang
làm
gì?
Tức
là
con
người
thường
không
nhận
ra
tâm
ý
của
mình
đang
ở
ngõ
ngách
nào?
Chẳng
hạn
như
mình
đang
nghĩ
gì,
muốn
gì,
âm
mưu
gì,
tính
toán
gì,
thiện
hay
ác,
tốt
hay
xấu,
lành
hay
dữ,
hiền
lương
hay
bất
lương?
Con
người
sống
theo
dòng
đời,
thường
bị
cuốn
trôi
theo
ngũ
dục,
thường
bị
"con
trâu
tâm
ý"
của
mình
dẫn
dắt,
thường
làm
những
chuyện
bất
nhân
thất
đức,
thường
nói
những
lời
độc
ác,
lợi
mình
hại
người.
Hành
động
và
lời
nói
thường
bị
tâm
tham
lôi
cuốn,
tâm
sân
thúc
đẩy,
tâm
si
điều
khiển,
con
người
tạo
không
biết
bao
nhiêu
tội
nghiệp,
mà
không
hề
hay
biết
đó
thôi,
hoặc
biết
mà
vẫn
cố
phạm!
Thí
dụ
như
là,
tâm
tham
lôi
cuốn,
thấy
lợi
thì
ham,
chẳng
muốn
đi
làm,
chỉ
muốn
hưởng
nhàn,
lại
có
tiền
xài,
tức
ham
phát
tài,
theo
cách
bất
lương,
nên
không
ngần
ngại,
kiếm
chuyện
vu
oan,
giá
họa
người
khác,
nộp
đơn
kiện
tụng,
bày
chuyện
thiệt
hơn,
đòi
phải
bồi
thường,
ba
bốn
triệu
bạc!
Thí
dụ
có
người,
đã
từng
giúp
mình,
được
rất
nhiều
chuyện,
nhưng
khi
chỉ
có,
một
chuyện
không
được,
hài
lòng
vừa
ý,
tâm
sân
thúc
đẩy,
mình
liền
cảm
thấy,
tức
giận
khó
nguôi.
Ơn
nghĩa
trước
đây,
sâu
dầy
thế
mấy,
cũng
đều
phủi
sạch,
không
thèm
nhớ
tới,
nhắc
tới
làm
chi.
Thậm
chí
người
đó,
là
cha
mẹ
ruột,
sanh
thành
nuôi
dưỡng,
từ
nhỏ
đến
nay,
bây
giờ
khôn
lớn,
có
vợ
có
chồng,
nếu
như
cha
mẹ,
lôi
thôi
khó
chịu,
do
tâm
si
khiến,
mình
liền
từ
ngay!
Bạn
bè
thân
thiết,
trải
qua
tháng
năm,
quen
biết
rất
nhiều,
hy
sinh
giúp
đỡ,
thế
nào
chăng
nữa,
thì
cũng
mặc
kệ,
vì
tham
danh
lợi,
nhứt
là
vì
tiền,
mình
vẫn
trở
mặt,
bán
đứng
như
thường!
Con
trâu
lúc
này
thực
là
đen,
mà
lại
lẫn
trong
bóng
đêm
mờ
tối
của
chuyện
thị
phi
thế
gian,
cho
nên
con
người
không
nhận
ra
nó
đang
ở
đâu
và
đang
làm
gì.
Người
phát
tâm
muốn
tu
tập,
nhờ
học
hỏi
và
thâm
nhập
giáo
lý,
mới
tin
nơi
mình
có
tâm
thể
chân
thật,
bất
sanh
bất
diệt,
ngoài
cái
xác
thân
tứ
đại
giả
tạm
này
ra,
nhưng
chưa
hề
sống
được
với
chân
tâm
đó,
bởi
vì
chưa
biết
cách
chăn
trâu.
Học
hỏi
kinh
sách,
như
Kinh
Hoa
Nghiêm,
chúng
ta
được
biết,
Ðức
Phật
dạy
rằng: "Nhứt
thiết
chúng
sanh
giai
hữu
Phật
Tánh", tức
là: "Tất
cả
mọi
người
đều
có
Tánh
Giác".
Cho
nên
chúng
ta
muốn
tìm,
muốn
hiểu
muốn
biết,
nhưng
không
biết
tìm
kiếm
"Tánh
Giác"
ở
đâu?
Người
phát
tâm
cầu
học
Chánh
Pháp,
tìm
đến
các
chùa,
các
đạo
tràng,
các
pháp
hội,
để
học
hỏi,
để
tìm
tòi.
Càng
đi
tìm,
càng
cầu
học,
càng
phí
sức
nhọc
công,
càng
xa
lìa
tánh
giác.
Chẳng
gặp
Chánh
Pháp,
lại
gặp
quá
nhiều
những
hình
thức
mê
tín
dị
đoan
lẫn
lộn
trong
Phật
giáo,
những
hình
thức
cúng
kiến
nghi
lễ
bày
vẽ
quá
rườm
rà,
không
có
ghi
trong
kinh
sách
nào
cả.
Hoặc
khi
gặp
phải
những
người
không
chân
tu
thực
học,
trốn
tránh
trần
thế,
mượn
áo
tu
sĩ,
nói
quàng
nói
xiên,
đem
đời
vào
đạo,
cơm
gạo
qua
ngày,
bày
thi
văn
học,
văn
nghệ
văn
gừng,
tưng
bừng
ca
hát,
náo
động
thiền
môn,
đại
ngôn
thi
sĩ,
văn
sĩ
kiêm
luôn,
thầy
bà
địa
lý,
thầy
tụng
đám
tang,
thầy
bùa
thầy
bói,
coi
ngày
tốt
xấu,
cưới
gả
ma
chay,
thật
thảm
thương
thay,
những
người
như
vậy!
Nhìn
lại
chỉ
thấy,
sinh
hoạt
thường
nhựt,
của
ngày
tháng
qua,
chẳng
gì
mới
lạ!
Tại
sao
như
vậy?
Bởi
vì
trong
cuộc
sống
hằng
ngày,
chúng
ta
quen
chạy
theo
trần
cảnh
bên
ngoài,
khởi
vọng
tâm,
vọng
tưởng,
vọng
thức,
vọng
niệm
liên
miên,
khiến
cho
tánh
giác
bị
che
khuất.
Tánh
giác
chính
ở
ngay
nơi
mình.
Khởi
công
tìm
kiếm,
là
khởi
vọng
niệm,
xa
lìa
tánh
giác.
Cũng
như
nhiều
mây
đen
che
khuất
ánh
sáng
mặt
trời,
hay
mặt
trăng.
Chẳng
hạn
như
khi,
mắt
thấy
hình
sắc,
xinh
tươi
tốt
đẹp,
hạp
nhãn
vừa
lòng,
khởi
tâm
ham
muốn,
mua
sắm
về
nhà,
chiếm
đoạt
sở
hữu.
Chẳng
hạn
như
khi,
tai
nghe
âm
thanh,
ca
tụng
tán
dương,
vừa
tai
hạp
ý,
say
mê
thích
thú,
khởi
tâm
đắm
nhiểm,
muốn
được
nghe
tiếp.
Chẳng
hạn
như
khi,
tiếp
xúc
với
ai,
ngọt
ngào
tử
tế,
có
lợi
cho
mình,
liền
khởi
tâm
thương,
cho
là
người
tốt,
không
vừa
ý
ai,
thì
khởi
tâm
bực,
cho
là
người
xấu.
Ðây
là
giai
đoạn,
của
một
người
tu,
tại
gia
xuất
gia,
chưa
biết
chăn
trâu,
tức
là
chưa
biết,
giữ
gìn
kềm
chế,
tâm
niệm
của
mình,
để
tâm
buông
lung,
nghĩ
ngợi
lung
tung,
linh
tinh
lang
tang,
chạy
theo
cảnh
đời,
tạo
tội
tạo
nghiệp,
rồi
bị
nghiệp
dắt,
vào
trong
lục
đạo,
sanh
tử
luân
hồi,
xa
lìa
tánh
giác.
*
Thương
ghét,
phải
quấy,
đẹp
xấu,
đúng
sai,
hơn
thua,
chính
là
vọng
tâm,
vọng
tưởng,
vọng
thức,
vọng
niệm.
Ðó
chính
thực
là
con
trâu,
mà
người
tu
theo
Phật
phải
chăn
phải
dắt,
phải
kềm
phải
chế,
phải
điều
phải
khiển,
phải
thuần
phải
phục,
thúc
liễm
luôn
luôn.
Chăn
trâu
thành
công
thì
tánh
giác
hiển
lộ.
* * *
2)
Ðến
khi
nghe
bạn
đạo
bàn
chuyện
"chăn
trâu",
mình
mới
bắt
đầu
thấy
dấu
chân
con
trâu
của
mình,
nhưng
vẫn
chưa
thấy
được
nguyên
hình
con
trâu.
Tức
là
con
người
thỉnh
thoảng
có
cảm
giác
mình
làm
việc
thiện,
thỉnh
thoảng
có
cảm
giác
mình
làm
việc
bất
thiện,
nhưng
vẫn
chưa
phân
biệt
được
việc
nào
thiện,
việc
nào
bất
thiện,
vì
chưa
hiểu
biết
Chánh
Pháp.
Trong
giai
đoạn
này,
mình
nhận
biết
được
tâm
ý
của
mình
thay
đổi
liên
miên,
lăng
xăng
lộn
xộn,
lúc
thích
thế
này,
lúc
thích
thế
kia.
Lúc
muốn
giúp
đỡ,
người
này
người
kia,
khi
muốn
hãm
hại,
người
này
người
khác.
Lúc
phát
từ
tâm,
làm
việc
phước
thiện,
bố
thí
cúng
dường,
muốn
làm
người
tốt,
tạo
được
phước
báu.
Khi
muốn
sang
đoạt,
của
cải
tiền
bạc,
vốn
liếng
phần
hùn,
tác
quyền
tác
phẩm,
công
ăn
việc
làm,
trở
thành
kẻ
xấu,
tạo
tội
tạo
nghiệp!
Lúc
muốn
hùn
phước,
ấn
tống
kinh
sách,
đi
chùa
lạy
Phật,
góp
quỹ
từ
thiện,
cứu
trợ
nạn
nhân,
thiên
tai
bão
lụt,
muốn
làm
người
tốt,
tạo
được
phước
báu.
Khi
tính
mưu
kế,
vu
khống
kiện
người,
đòi
hỏi
bồi
thường,
hơn
ba
bốn
triệu,
trở
thành
kẻ
xấu,
tạo
tội
tạo
nghiệp!
Lắm
lúc
nhiều
khi,
làm
ăn
bất
chánh,
gặp
thời
trúng
mánh,
giựt
hụi
quịt
nợ,
lường
gạt
sang
đoạt,
giả
tạo
thương
tích,
tròng
tréo
giấy
tờ,
khai
gian
hoàn
cảnh,
cờ
gian
bạc
lận,
dụ
dỗ
kẻ
khờ,
làm
việc
bất
lương,
vồ
được
một
vố,
tiền
của
khá
lớn.
Con
người
sợ
sệt,
mang
tội
một
mình,
chắc
đọa
địa
ngục,
chịu
nhiều
khổ
đau,
bèn
đem
chút
ít,
tiền
lẽ
cúng
chùa,
trút
hết
tội
lỗi,
cho
các
nhà
sư,
gánh
vác
thay
mình,
hoa
quả
nhang
đèn,
hối
lộ
tượng
Phật,
để
được
tạm
thời,
an
tâm
chút
chút!
Người
phát
tâm
tu
theo
Phật,
nương
theo
Chánh
Pháp,
hiểu
biết
mình
có
tánh
giác,
nhưng
chỉ
biết
suông,
chưa
biết
rõ
ràng,
một
cách
tường
tận.
Chẳng
hạn
như
là,
mới
chỉ
biết
được,
các
đồ
trang
sức,
dù
là
vòng
xuyến,
hoa
tai
dây
chuyền,
nhẫn
trơn
nhẫn
cưới,
tuy
có
khác
nhau,
về
mặt
hình
thức,
nhưng
mà
tất
cả,
đều
cùng
bản
chất,
đó
là
chất
vàng.
Cũng
ý
như
vậy,
tất
cả
mọi
người,
tuy
không
giống
nhau,
về
các
màu
da,
cũng
không
đồng
nhau,
về
mặt
kiến
thức,
cũng
không
hợp
nhau,
về
các
sở
thích,
cũng
không
cùng
nhau,
về
các
hình
tướng,
nam
phụ
lão
ấu,
nhưng
mà
tất
cả,
đều
cùng
bản
chất,
điều
đó
chính
là: "Bản
Tâm
Thanh
Tịnh",
người
nào
cũng
có.
Chẳng
hạn
như,
nếu
không
có
thù
oán
trước
đây,
không
có
cạnh
tranh
nghề
nghiệp,
không
có
ganh
tị
đố
kỵ,
không
có
đụng
chạm
tự
ái,
không
có
va
chạm
quyền
lợi,
chắc
chắn
con
người
đem
bản
tâm
thanh
tịnh
của
mình
đối
xử
với
nhau,
rất
là
cởi
mở,
rất
là
tốt
đẹp,
rất
là
nhân
đạo.
*
Hay
nói
cách
khác: Bản
tâm
thanh
tịnh
của
tất
cả
mọi
người
đều
giống
nhau,
không
khác,
đều
đồng
nhứt
thể.
Chỉ
vì
con
người
tạo
nghiệp
khác
nhau,
cho
nên
hình
tướng
khác
nhau.
Có
nhiều
người
trong
chúng
ta
thường
phát
biểu:
"Không
ai
chọc
ghẹo,
tôi
hiền
lắm
đó!".
Ðiều
này
chứng
tỏ,
mọi
người
đều
thực
sự
hiền
lành,
đều
sống
với
bản
tâm
thanh
tịnh,
với
điều
kiện:
đừng
có
gặp
nghịch
duyên,
đừng
có
gặp
việc
gì
trái
ý.
*
"Bản
Tâm
Thanh
Tịnh"
đó,
không
có
hình
tướng,
không
phải
là
một
vật,
trong
kinh
sách,
thường
được
gọi
là
Tánh
Giác,
là
Chơn
Như,
là
Chơn
Tâm,
là
Phật
Tánh,
là
Pháp
Vô
Sanh,
là
Pháp
Bất
Diệt,
là
Pháp
Bất
Tử,
là
Pháp
Tối
Thượng,
là
Viên
Giác
Tánh,
là
Pháp
Thân
Huệ
Mạng,
là
Trí
Tuệ
Bát
Nhã,
là
Bản
Lai
Diện
Mục,
là
Bản
Tánh
Sáng
Suốt,
là
Bản
Thể
Chân
Thật,
là
Bản
Nguyên
Chân
Thật,
là
Con
Người
Chân
Thật,
là
Con
Người
Bất
Tử,
là
Kim
Cang
Bất
Hoại,
là
Tịch
Diệt
Hiện
Tiền,
là
Vô
Sanh
Pháp
Nhẫn.
Tùy
theo
kinh
sách,
tên
gọi
có
khác
nhau,
nhưng
đều
chỉ
cùng
không
phải
là
một
vật,
từ
xưa
đến
giờ,
từ
trước
đến
nay.
Trong
Kinh
Pháp
Bảo
Ðàn,
Lục
Tổ
Huệ
Năng
có
dạy:
"Bản
Lai
Vô
Nhất
Vật",
chính
là
nghĩa
đó
vậy.
* * *
3)
Sau
một
thời
gian
học
hiểu
Chánh
Pháp
nhiều
hơn,
đem
những
lời
dạy
của
Ðức
Phật
quán
chiếu,
soi
xét
những
hành
động,
những
lời
nói,
những
ý
nghĩ
của
mình,
lúc
đó
mới
hay,
mình
đã
tạo
quá
nhiều
nghiệp
xấu
ác,
còn
nghiệp
thiện
lành,
hình
như
chẳng
có
chút
nào
đáng
kể!
Trong
bóng
tối
của
cuộc
đời,
nơi
cuối
con
đường
hầm,
có
dạng
chút
ánh
sáng
le
lói,
đủ
soi
thấy
bóng
dáng
của
con
trâu.
*
Con
trâu
tâm
ý
của
mình
lúc
đó
mới
hiện
nguyên
hình:
Ðó
là
con
trâu,
đen
thủi
đen
thui,
từ
đầu
tới
đuôi.
Con
trâu
đen
thui,
tượng
trưng
cho
những,
ý
nghĩ
tư
tưởng,
ác
nhơn
thất
đức,
xấu
xa
độc
địa,
cúp
điện
tối
đen,
hắc
ám
mịt
mờ,
ti
tiện
nhỏ
nhen,
giả
nhơn
giả
nghĩa,
gian
xảo
điêu
ngoa,
đầy
trong
tâm
địa,
tất
cả
mọi
người,
ngày
cũng
như
đêm,
quanh
năm
suốt
tháng.
Con
người
nhận
thấy,
con
trâu
của
mình,
đen
thủi
đen
thui,
quá
sức
to
lớn,
cảm
thấy
sợ
hãi,
bắt
đầu
vùng
vẫy,
cố
gắng
giẫy
giụa,
nói
một
cách
khác,
tức
là
ra
sức,
biện
bạch
bào
chữa,
cho
những
lỗi
lầm,
trong
lúc
hành
động,
cũng
như
lời
nói.
Ðôi
khi
lắm
lúc,
con
người
tỏ
ra,
ăn
năn
hối
cải.
Ví
như
sau
khi,
đọc
Kinh
Thủy
Sám,
Ðức
Phật
chỉ
dạy,
một
cách
rành
rẽ,
những
việc
làm
nào,
những
lời
nói
nào,
những
ý
nghĩ
nào,
tạo
tội
tạo
nghiệp,
chúng
ta
mới
biết,
giựt
mình
tỉnh
thức,
cảm
thấy
tội
lỗi,
chất
cao
như
núi.
Cũng
giống
như
là,
"tấm
gương
chiếu
yêu",
soi
thấy
tâm
địa,
yêu
ma
quỉ
quái,
ẩn
tàng
bên
trong,
hình
dáng
con
người,
nhờ "gương
chiếu
trâu",
chúng
ta
nhận
thấy,
một
cách
rõ
ràng,
từ
trước
đến
giờ,
mình
luôn
luôn
nghĩ,
tự
kỷ
ám
thị,
thấy
chuyện
mình
tốt,
che
dấu
tội
lỗi,
đã
và
đang
làm,
bằng
các
chiêu
bài,
bằng
các
danh
nghĩa,
bằng
các
bình
phong,
bằng
các
mỹ
từ,
đao
to
búa
lớn.
Chẳng
hạn
như
muốn,
hãm
hại
người
nào,
chỉ
vì
ganh
tị,
bèn
khoác
bên
ngoài,
các
thứ
chiêu
bài:
trừ
gian
diệt
bạo,
thế
thiên
hành
đạo.
Chẳng
hạn
như
muốn,
tiêu
diệt
đối
thủ,
triệt
hạ
đối
phương,
cạnh
tranh
nghề
nghiệp,
bèn
khoác
bình
phong:
bảo
vệ
công
lý,
nêu
cao
chính
nghĩa,
tranh
đấu
tự
do,
bênh
vực
lẽ
phải.
Chẳng
hạn
như
vì,
tham
tiền
tham
vàng,
tham
lợi
tham
danh,
sẵn
sàng
đấu
tranh,
hơn
thua
giành
giựt,
ngay
cả
với
anh,
với
chị
em
ruột,
ở
trong
gia
đình,
bất
kể
mẹ
cha,
mình
cũng
chẳng
tha,
biện
bạch
lý
do:
vì
vợ
vì
chồng,
vì
con
vì
cháu,
vì
chuyện
nhân
nghĩa,
mới
làm
như
vậy!
Ðâu
chẳng
biết
rằng:
vợ
chồng
con
cháu,
sung
sướng
thụ
hưởng,
của
cải
giàu
sang,
do
mình
tranh
giành,
đoạt
được
đem
về,
còn
mình
thì
sao,
lãnh
đủ
nghiệp
báo,
đời
này
kiếp
khác.
Chúng
ta
nên
biết: "có
vay
phải
trả", "mình
làm
mình
chịu",
không
ai
thay
được,
dù
là
cha
mẹ,
dù
là
vợ
chồng,
hay
là
con
cháu,
không
ai
cứu
được,
dù
có
van
xin,
Phật
Trời
cứu
giúp,
cũng
chỉ
vậy
thôi.
Ðó
mới
thực
là:
công
bằng
tuyệt
đối!
*
Ðiều
quan
trọng
hơn
hết
trong
việc
tu
tâm
dưỡng
tánh,
chính
là
chúng
ta
phải
biết
cách
chăn
trâu.
Nghĩa
là
chúng
ta
phải
biết
cách
dừng
các
vọng
tâm,
vọng
tưởng,
vọng
thức,
vọng
niệm.
Ðó
chính
là
công
phu
tu
tập
theo
đạo
Phật,
để
cải
thiện
cuộc
đời
mình,
để
chuyển
hóa
những
ưu
tư
phiền
muộn,
trở
thành
vô
tư
tự
tại.
Chẳng
hạn
như
khi,
tâm
tham
nổi
lên,
lợi
mình
hại
người,
muốn
được
bạc
triệu,
xài
chơi
cho
sướng,
nghĩ
cách
hại
người,
bất
chấp
thủ
đoạn,
chúng
ta
liền
biết,
lập
tức
dừng
ngay,
không
nên
tiếp
tục,
theo
đuổi
vọng
tâm,
vọng
tưởng
vọng
thức,
vọng
niệm
đó
vậy,
tức
là
chúng
ta,
đã
dừng
được
nghiệp,
và
chuyển
được
nghiệp.
Chẳng
hạn
như
khi,
tâm
sân
khởi
lên,
muốn
hại
người
khác,
cho
đã
cơn
tức,
cho
được
thỏa
lòng,
tự
ái
cao
độ,
muốn
cho
kẻ
thù,
chết
phứt
cho
rồi,
hoặc
ít
ra
cũng,
khốn
khổ
khốn
kiếp,
tù
tội
te
tua,
tả
tơi
xơ
xác,
tan
tành
hoa
lá,
hết
đường
sinh
sống,
bức
bách
khổ
não,
thân
tàn
ma
dại,
sự
nghiệp
tiêu
tan,
tán
gia
bại
sản,
mất
hết
việc
làm,
đói
rách
nghèo
nàn,
mới
thiệt
hả
giận,
chúng
ta
liền
biết,
lập
tức
dừng
ngay,
không
nên
tiếp
tục,
theo
đuổi
vọng
tâm,
vọng
tưởng
vọng
thức,
vọng
niệm
đó
vậy,
tức
là
chúng
ta,
đã
dừng
được
nghiệp,
và
chuyển
được
nghiệp.
Trong
giai
đoạn
này,
người
nào
phát
tâm
chuyển
hóa
cuộc
đời
mình,
muốn
biến
phiền
não
khổ
đau
thành
an
lạc
hạnh
phúc,
nhứt
định
phải
biết
cách
chăn
trâu.
Người
không
biết
cách
chăn
trâu
sẽ
đuổi
theo
vọng
tâm,
vọng
tưởng,
vọng
thức,
vọng
niệm
đó,
đem
ra
thực
hiện,
tức
là
tiếp
tục,
tạo
thêm
nghiệp
mới!
Người
tu
tâm
dưỡng
tánh,
biết
cách
chăn
trâu,
sẽ
lập
tức
tự
quở
trách
chính
mình:
"Lại
tạo
tội
tạo
nghiệp
nữa
rồi!
Muốn
đọa
địa
ngục
hay
sao?
Hãy
dừng
ngay
lập
tức!".
Chuyện
này
khó
khăn,
không
phải
dễ
dàng,
cần
nhiều
thời
gian,
mới
thực
hành
được.
Khi
mình
cưỡng
lại,
sức
kéo
con
trâu,
thực
là
điêu
đứng,
vất
vả
nhọc
nhằn.
Lắm
lúc
gặp
phải,
hoàn
cảnh
trái
ngang,
kẻ
chửi
người
mắng,
hoặc
khi
gặp
chuyện,
bất
bình
trái
ý,
hãy
tự
nhủ
thầm:
Một
nhịn
chín
lành,
cho
nên
phải
nhịn,
nhịn
nhịn
và
nhịn,
mới
là
phải
đạo,
mới
là
người
hiền,
mới
là
người
tu.
Lập
tức
vọng
tâm,
vọng
tưởng
vọng
thức,
vọng
niệm
của
mình,
nổi
lên
chống
lại,
xui
khiến
xúi
giục:
Tại
sao
phải
nhịn?
Nhịn
thì
nhục,
cự
thì
đục,
nhịn
ở
đàng
chân,
chúng
lân
đàng
dầu,
nhịn
hoài
thì
chúng,
được
nước
làm
tới,
nhịn
hoài
chúng
khinh,
chúng
khi
khờ
dại,
chúng
mắng
ngu
ngơ,
nếu
như
làm
tới,
không
nhịn
không
ngưng,
chúng
biết
tay
ông,
chúng
ngán
tay
bà,
cả
nhà
chúng
sợ!
Ôi
thôi!
Tâm
niệm
như
vậy,
thực
là
con
trâu,
ngang
tàng
hoang
dã,
thực
đã
lâu
đời,
ngông
cuồng
ngược
xuôi,
rất
khó
chăn
giữ.
Ngọn
hỏa
diệm
sơn,
tức
là
tâm
sân,
trong
lòng
mỗi
người,
thực
là
dễ
sợ!
Cần
phải
tìm
được,
cây
quạt
ba
tiêu,
mới
mong
dập
tắt,
được
lửa
sân
hận.
Cây
quạt
"ba
tiêu",
trong
Tây
Du
Ký,
là
cái
gì
vậy?
Ðó
chính
thực
là,
ba
điều
cần
tiêu,
cần
phải
diệt
trừ.
Như
trong
kinh
sách,
có
lời
phát
nguyện:
Nguyện
tiêu
tam
chướng
trừ
phiền
não.
Nguyện
đắc
trí
tuệ
chơn
minh
liễu.
Phổ
nguyện
tội
chướng
tất
tiêu
trừ.
Thế
thế
thường
hành
bồ
tát
đạo.
Nghĩa
là
muốn
dứt
hết
khổ
đau
phiền
não,
muốn
đạt
được
trí
tuệ
sáng
suốt,
để
đời
đời
tu
theo
hạnh
của
chư
vị
bồ
tát,
đem
lại
ích
lợi
cho
chúng
sanh, chúng
ta
phải
tiêu
trừ
tam
chướng,
tức
là
tiêu
trừ
ba
chướng
nạn
lớn
của
cuộc
đời,
gồm
có:
tội
chướng,
nghiệp
chướng
và
sở
tri
chướng.
Do
tâm
tham
lam
sân
hận
si
mê,
chúng
ta
tạo
không
biết
bao
nhiêu
tội
lỗi,
mà
không
hề
hay
biết,
hoặc
biết
mà
vẫn
cố
phạm.
Do
thói
quen
hằng
ngày,
trong
mọi
hành
động,
lời
nói
hay
tư
tưởng,
chúng
ta
tạo
nghiệp
không
biết
bao
nhiêu,
mà
không
hề
hay
biết,
hoặc
biết
mà
vẫn
cố
phạm.
Do
sự
hiểu
biết,
kiến
thức
ngoài
đời,
từ
những
bằng
cấp
địa
vị,
hay
những
hiểu
biết
trong
đạo,
người
đời
gặp
không
biết
bao
nhiêu
là
chướng
ngại,
khó
có
thể
thấy
được
đạo,
càng
ngày
càng
bị
con
trâu
của
mình
dẫn
dắt
đi
quá
xa
quê
hương,
muốn
trở
về
cũng
không
còn
biết
lối
nào
nữa
cả!
Người
nào
hữu
duyên,
được
gặp
Chánh
Pháp,
có
nhiều
thiện
căn,
nên
khi
thấy
được,
nguyên
hình
con
trâu,
liền
nhận
biết
ngay,
mình
đã
tạo
tội,
nhiều
tội
tày
trời,
từ
trước
đến
giờ,
chắc
chắn
sẽ
phải,
đền
trả
nay
mai,
không
thể
chạy
đâu,
cho
thoát
nghiệp
báo,
giựt
mình
tỉnh
thức,
lập
tức
ngưng
ngay,
hành
động
bất
thiện,
liền
chừa
bỏ
ngay,
lời
nói
độc
ác,
liền
dẹp
bỏ
ngay,
tư
tưởng
lợi
mình,
ý
nghĩ
hại
người!
*
Ðó
là
giai
đoạn,
chăn
giữ
con
trâu.
Chăn
trâu
nghĩa
là:
Áp
dụng
Chánh
Pháp,
vào
trong
cuộc
sống,
của
mình
hằng
ngày,
dẹp
trừ
vọng
tâm,
vọng
tưởng
vọng
thức,
vọng
niệm
liên
miên,
chuyển
hóa
ba
nghiệp,
thân
khẩu
ý
mình,
bất
lương
bất
thiện,
thành
ra
ba
nghiệp,
hoàn
toàn
thanh
tịnh.
*
Kinh
sách
có
câu:
"Tam
nghiệp
hằng
thanh
tịnh.
Ðồng
Phật
vãng
tây
phương".
Nghĩa
là
khi
nào
ba
nghiệp
thân
khẩu
ý
thường
thanh
tịnh,
tức
là
con
trâu
đã
được
chăn
thuần
thục,
đã
biến
mất
tiêu,
chúng
ta
sẽ
sống
được
trong
cảnh
giới
tịnh
độ
như
chư
Phật
mười
phương.
* * *
4)
Khi
con
trâu
đã
hiện
nguyên
hình,
nếu
không
hạ
quyết
tâm
chăn
trâu,
không
chịu
ra
công
thuần
phục
con
trâu
tâm
ý
của
mình,
người
đời
sẽ
dễ
dàng
bị
cám
dỗ,
dễ
bị
sa
ngã,
dễ
bị
lôi
kéo
đi
vào
con
đường
gian
tà,
ác
đạo.
Chuyện
gì
cũng
dám
làm,
lời
nói
nào
cũng
phun
ra
được,
ý
nghĩ
nào
cũng
dẫn
tới
chỗ
lợi
mình
hại
người,
chẳng
chút
vị
tha,
bất
chấp
thủ
đoạn.
Cuộc
đời
đau
khổ,
vẫn
hoàn
khổ
đau,
không
sao
tránh
được.
Trong
giai
đoạn
này,
người
chăn
còn
yếu,
con
trâu
còn
mạnh,
phải
rất
nhọc
nhằn,
lôi
cổ
nó
lại,
nhưng
nó
chống
cự,
trì
chân
ghì
kéo,
trở
lại
đường
củ.
Tức
là
vọng
tâm
vọng
tưởng,
vọng
thức
vọng
niệm,
vẫn
theo
duyên
trần,
dấy
khởi
đều
đều.
Con
người
thường
sống,
theo
thói
quen
cũ,
hằng
ngày
như
vậy,
rất
khó
điều
phục,
cho
nên
phải
biết,
thực
sự
quyết
tâm,
kiên
gan
trì
chí,
không
được
lơi
lỏng,
dù
trong
giây
phút.
Chúng
ta
hãy
chiêm
nghiệm
câu
chuyện
sau
đây:
Trên
một
chuyến
xe
lửa,
người
lái
ngủ
say
sưa,
hầu
hết
các
hành
khách,
đều
vui
chơi
ca
hát,
nhảy
nhót
múa
may,
quay
cuồng
thỏa
thích,
cười
nói
huyên
thiên,
khoe
của
khoe
tài,
khoe
giàu
khoe
sang,
khoe
nhà
khoe
xe,
khoe
con
khoe
cháu,
nói
xấu
xóm
làng,
châm
chích
chọc
chọt,
khoái
tỉ
tì
ti,
lo
ăn
ngủ
khì,
nhìn
trời
ngắm
mây,
chẳng
hay
biết
gì.
Không
ai
biết
rằng:
chẳng
bao
lâu
nữa,
vì
không
người
lái,
chuyến
xe
lửa
đó,
tốc
độ
sẵn
có,
sẽ
trật
đường
rầy,
lao
xuống
hố
sâu,
không
còn
dừng
được,
tất
cả
hành
khách,
mạng
vong
thảm
tử,
không
sót
một
ai!
Trong
lúc
hưởng
thụ,
mọi
người
sẵn
sàng,
tranh
chấp
cãi
vã,
tranh
giành
phần
phải,
phần
hơn
phần
tốt,
phần
lợi
phần
thắng,
về
phía
của
mình,
bà
con
phe
nhóm,
ngày
này
ngày
khác!
Ðợi
cho
đến
lúc,
toa
đầu
xe
lửa,
lao
xuống
vực
sâu,
mọi
người
giựt
mình,
hoảng
hồn
la
hét,
mặt
mày
tái
mét,
lăng
xăng
lộn
xộn,
chộn
rộn
ngược
xuôi,
cầu
kinh
lần
chuỗi,
cầu
cứu
thánh
thần,
niệm
Phật
huyên
thiên,
kêu
trời
kêu
đất,
nhưng
mà
tất
cả,
đều
quá
muộn
màng!
Cũng
vậy,
tất
cả
mọi
người
chúng
ta
đều
ở
trên
chuyến
xe
lửa
định
mạng
của
cuộc
đời.
Trạm
cuối
cùng
của
chuyến
xe
lửa
định
mạng,
ai
ai
cũng
biết:
đó
là
nghĩa
địa,
hay
là
lò
thiêu!
Thế
là
xong
một
đời!
Vậy
mà
khi
còn
hít
thở
không
khí,
còn
khả
năng
làm
việc,
còn
nói
năng
và
suy
nghĩ,
người
đời
không
ngừng
tạo
tội
tạo
nghiệp,
vì
miếng
cơm
manh
áo,
vì
tự
ái
hơn
thua,
vì
ganh
tị
đố
kỵ,
vì
tức
giận
người
khác,
vì
tâm
tánh
luôn
luôn
thích
thú
nhìn
thấy
người
khác
phiền
não
khổ
đau.
Tại
sao
vậy?
Bởi
vì
con
người
thường
nghĩ:
Ðời
của
mình
còn
dài
lắm
mà!
Ðó
là
những
lúc,
mình
làm
mọi
việc,
thiện
ác
lẫn
lộn,
chuyện
gì
cũng
dám,
tạo
phước
cũng
làm,
tạo
nghiệp
chẳng
từ!
Thực
ra,
cuộc
đời
là
vô
thường,
danh
lợi
là
vô
thường,
tâm
ý
cũng
vô
thường.
Vô
thường
nghĩa
là:
nay
còn
mai
mất,
chứ
không
tồn
tại,
vĩnh
viễn
muôn
năm.
Tâm
tạo
tội
tạo
nghiệp
sẽ
dẫn
dắt
con
người
vào
vòng
sanh
tử
luân
hồi.
Tuy
nhiên,
tội
nghiệp
cũng
vô
thường.
Nếu
có
ý
chí
mạnh
mẽ,
con
người
có
thể
dừng
nghiệp
và
chuyển
nghiệp!
Biết
dừng
nghiệp
và
chuyển
nghiệp,
chúng
ta
sẽ
tránh
được
bao
nhiêu
hậu
quả
khó
lường,
sẽ
khỏi
được
bao
nhiêu
khổ
đau
phiền
não!
Khi
thấy
được
con
trâu,
tức
là
chúng
ta
đã
thấy
được
bao
nhiêu
ngày
tháng
trôi
qua
của
cuộc
đời
mình,
thực
là
phí
phạm,
tạo
tội
tạo
nghiệp,
đã
quá
nhiều
rồi.
Có
rất
nhiều
người,
bề
ngoài
chơn
chất,
có
vẻ
hiền
lành,
nhu
mì
nhỏ
nhẹ,
nói
năng
từ
tốn,
chưa
hề
hại
ai,
nhưng
mà
bên
trong,
tư
tưởng
nảy
sanh,
bao
nhiêu
ý
nghĩ,
đen
tối
bậy
bạ,
đó
chính
thực
là:
con
trâu
cần
phải
chăn
giữ.
Người
tu
tâm
dưỡng
tánh
thực
sự
phải
biết
cách
chăn
trâu.
Có
người
rất
ân
hận,
ăn
năn
sám
hối
về
những
đau
khổ,
do
vô
tình
hoặc
cố
ý,
mình
đã
gây
tạo
cho
người
khác,
chỉ
vì
tâm
tham
lam,
sân
hận
và
si
mê.
Có
người
quá
quẩn
trí
với
mặc
cảm
tội
lỗi,
muốn
kết
thúc
cuộc
đời
mình,
để
đền
trả
quả,
vẫn
cảm
thấy
cũng
còn
chưa
đủ.
Tuy
nhiên,
những
người
có
chút
ánh
sáng
trí
tuệ
từ
Chánh
Pháp,
bắt
đầu
dành
nhiều
thời
gian,
để
lo
tu
tâm
dưỡng
tánh,
tìm
gặp
thiện
hữu
tri
thức,
thầy
lành
bạn
tốt
trong
đạo,
cố
gắng
học
hỏi
cách
nào,
để
làm
lợi
mình
lợi
người,
hầu
trả
bớt
nghiệp
báo
đã
vay,
đã
tạo
đã
gây,
từ
bao
lâu
nay.
Người
tu
tâm
dưỡng
tánh
bắt
đầu
tìm
cho
mình
một
nơi
nương
tựa,
để
mong
rằng:
những
bước
trên
quãng
đường
đời
sau
này,
không
còn
tai
nạn
rủi
ro,
không
còn
hố
sâu
vực
thẳm,
hiểm
trở
chông
gai,
để
chuộc
lại
những
lỗi
lầm
đã
tạo
tác.
Tâm
sám
hối
mạnh
mẽ
thúc
đẩy
nhiều
người
phát
tâm
hành
thiện,
cứu
người
giúp
đời.
Ngày
xưa
có
người,
vô
minh
lâu
đời,
che
lấp
chơn
tánh,
không
được
sáng
suốt,
cho
nên
lúc
nào,
cũng
tìm
mọi
cách,
phỉ
báng
đạo
Phật,
chê
bai
Chánh
Pháp.
Cho
đến
một
ngày,
hoát
nhiên
tỉnh
ngộ,
vì
quá
ân
hận,
bèn
định
cắt
lưỡi,
từ
lâu
đã
nói,
những
lời
xằng
bậy,
gây
nên
không
biết,
bao
nhiêu
tội
nghiệp.
May
nhờ
gặp
lại,
một
vị
thiền
sư,
vốn
là
anh
em,
tu
hành
lâu
năm,
hết
lời
khuyên
bảo:
Nên
dùng
cái
lưỡi,
xưa
nay
phạm
tội,
để
mà
tuyên
xưng,
giảng
giải
Chánh
Pháp,
giúp
cho
nhiều
người,
liễu
ngộ
chánh
đạo,
hiểu
biết
rõ
ràng,
pháp
môn
rõ
ràng,
tu
tâm
dưỡng
tánh.
Như
vậy
mới
là,
phương
cách
tốt
nhứt,
thực
tâm
sám
hối,
để
tạo
phước
báu,
để
trả
nghiệp
báo,
đền
ơn
chư
Phật,
ích
lợi
cho
mình,
cho
muôn
người
khác.
Thời
gian
về
sau,
người
đó
trở
thành,
một
vị
thiền
sư,
chơn
tu
đắc
đạo,
nổi
tiếng
khắp
nơi.
Trong
Kinh
Vị
Tằng
Hữu,
Ðức
Phật
có
dạy:
"Tâm
trước
nghĩ
ác,
như
đám
mây
đen
che
khuất
mặt
trời.
Tâm
sau
ăn
năn
nghĩ
thiện,
như
ngọn
đuốc
sáng
tiêu
trừ
hắc
ám".
Tuy
đã
nhận
được,
mình
thực
sự
có,
bản
tâm
thanh
tịnh,
nhưng
mà
những
khi,
nghe
nói
trái
tai,
thấy
điều
gai
mắt,
gặp
chuyện
bất
trắc,
trong
tâm
liền
khởi,
bực
tức
giận
hờn.
Ðó
chính
là
lúc,
con
trâu
của
mình,
lên
cơn
hung
hăng.
Chúng
ta
luôn
luôn,
muốn
làm
người
tốt,
trở
nên
người
thiện.
Nhưng
nếu
có
người,
bày
mưu
mách
nước,
chỉ
chước
kiếm
tiền,
dễ
làm
giàu
nhanh,
kiếm
được
vài
triệu,
bất
chấp
thủ
đoạn,
lợi
mình
hại
người,
do
dự
giây
lâu,
mình
liền
nghe
theo.
Tức
là
chúng
ta,
bị
con
trâu
lôi,
tạo
tội
nghiệp
mới,
chứ
còn
gì
nữa!
*
Chăn
trâu
nghĩa
là:
Không
theo
sức
mạnh,
sức
kéo
sức
lôi,
của
tánh
tham
lam,
sân
hận
si
mê.
Chăn
trâu
nghĩa
là:
Phải
biết
kềm
giữ,
xỏ
mũi
kéo
lại,
đừng
để
con
trâu,
dẫn
mình
đi
đâu,
tạo
tội
tạo
nghiệp.
* * *
5)
Trong
giai
đoạn
này,
con
người
đã
biết
cách
chăn
trâu,
nhưng
nhiều
khi
vẫn
bị
sức
mạnh
của
con
trâu
kéo
lôi
ngược
lại,
có
khi
té
lăn
cù
bò
càng,
u
đầu
xước
trán.
Sau
một
thời
gian,
cố
gắng
nỗ
lực,
tu
tập
tinh
tấn,
tâm
không
còn
điên
đảo
mộng
tưởng
nữa.
Vọng
tâm
vọng
tưởng,
vọng
thức
vọng
niệm,
khởi
lên
liền
biết,
nên
tự
lắng
xuống,
thường
xuyên
tỉnh
giác,
không
bị
nghiệp
lôi.
Song
vọng
tâm,
vọng
tưởng,
vọng
thức,
vọng
niệm,
cứ
dấy
lên
đều
đều.
Nghĩa
là
con
người
vì
lăn
lộn
trong
cuộc
đời,
bị
vọng
tâm,
vọng
tưởng,
vọng
thức,
vọng
niệm
lôi
cuốn,
che
lấp
bản
tâm
thanh
tịnh,
quanh
năm
suốt
tháng
cả
ngày,
quên
mất
con
người
chân
thật
của
chính
mình,
trong
kinh
sách
gọi
là
"nghiệp
thức
che
đậy",
lúc
làm
người
tốt,
khi
làm
kẻ
xấu,
sanh
tử
tử
sanh
mãi
mãi,
không
biết
đến
bao
giờ
mới
chịu
dừng
nghiệp
và
chuyển
nghiệp.
Lúc
nào
mình
làm
chủ
được
con
trâu
của
mình,
tức
là
làm
chủ
được
thân
và
tâm
mình.
Còn
khi
nào
công
phu
chưa
được
thuần
thục
lắm,
chúng
ta
nên
tránh
bớt
các
cơ
hội
tiếp
xúc
với
trần
đời,
gan
dạ
cắt
đứt
các
duyên
liên
hệ
bên
ngoài,
để
tâm
ý
bớt
giao
động,
để
con
trâu
của
mình
không
có
cơ
duyên
nổi
cơn
hung
hăng
dữ
tợn.
Trong
lúc
tu
tập,
chúng
ta
thường
thấy,
hành
giả
chiêm
ngưỡng,
ba
bức
tượng
gổ,
hình
ba
con
khỉ:
một
con
bịt
mắt,
một
con
bịt
tai,
một
con
bịt
miệng,
chính
là
nghĩa
đó
vậy.
*
Thấy
cũng
như
không
thấy,
nghe
cũng
như
không
nghe,
nói
cũng
như
không
nói.
Khi
tiếp
xúc
với
cảnh
trần,
nhưng
không
ý
kiến,
không
lập
tri,
không
khởi
tâm
phân
biệt,
tức
là
không
dấy
khởi
vọng
tâm,
vọng
tưởng,
vọng
thức,
vọng
niệm,
cũng
như
lúc
không
tiếp
xúc
với
trần
duyên
vậy.
Trong
Kinh
Thủ
Lăng
Nghiêm,
Ðức
Phật
có
dạy:
"Tri
kiến
lập
tri
tức
vô
minh
bổn.
Tri
kiến
vô
kiến
tư
tức
Niết
bàn".
Nghĩa
là
khi
sống
ở
đời,
chúng
ta
hiểu
biết
tất
cả
mọi
việc,
nếu
dấy
khởi
vọng
tâm,
vọng
tưởng,
vọng
thức,
vọng
niệm
thì
gặp
phiền
não
khổ
đau,
đó
là
gốc
của
vô
minh.
Nhưng
nếu
không
dấy
khởi
vọng
tâm,
vọng
tưởng,
vọng
thức,
vọng
niệm,
thì
chúng
ta
sống
được
trong
cảnh
giới
niết
bàn.
Nói
cách
khác
đơn
giản
hơn,
sống
ở
đời
tuy
hiểu
biết
mọi
việc,
người
nào
nhiều
chuyện,
người
đó
tự
chuốc
khổ,
khổ
thân
và
khổ
tâm
đó
vậy.
Cái
hạnh
phúc
ở
chung
quanh,
nằm
trong
tầm
tay,
có
sẵn
từ
lâu,
nhưng
mình
quên
lững,
không
nhận
thức
được,
chỉ
vì
không
sống
trong
chánh
niệm,
đến
nay
hạnh
phúc
đó
hiện
hữu
trở
lại
trong
vòng
tay,
mình
phải
ý
thức,
biết
trân
quý
và
giữ
gìn,
làm
con
thuyền
đưa
ta
thoát
khỏi
biển
sanh
tử
luân
hồi.
Thời
Ðức
Phật
còn
tại
thế,
có
một
người
theo
ngoại
đạo,
mê
tín
dị
đoan,
tìm
giết
cho
đủ
một
trăm
người,
dâng
cúng
thần
linh,
để
được
thần
thông,
được
lên
thiên
đàng.
Anh
ta
đã
giết
chín
mươi
chín
người,
cho
nên
mọi
người
sợ
hãi
chạy
trốn
hết
trơn.
Túng
cùng,
trên
đường
về
nhà,
định
giết
mẹ
già,
cho
đủ
số
qui
định,
anh
ta
gặp
Ðức
Phật
đang
đi,
bèn
chạy
theo
định
giết.
Anh
ta
hô
to
lên:
Này
sa
môn
kia,
hãy
dừng
lại
đi!
Ðức
Phật
vẫn
thản
nhiên
bước
đi.
Anh
ta
đuổi
theo
và
hô
to
lên
thêm
hai
lần
nữa.
Ðức
Phật
từ
tốn
nói:
*
Như
Lai
đã
dừng
từ
lâu,
chỉ
có
ông
chưa
chịu
dừng
mà
thôi.
Như
Lai
đã
dừng
tạo
nghiệp
từ
lâu,
cho
nên
được
tự
tại
an
lạc.
Nếu
chịu
dừng
lại
như
vậy,
ông
cũng
sẽ
được
cảnh
giới
niết
bàn
không
khác.
Do
tấm
lòng
đại
từ
đại
bi,
đại
hỷ
đại
xả,
Ðức
Phật
đã
cảm
hóa
được
người
ngoại
đạo
mê
tín
kia,
quay
về
chánh
đạo,
tu
tập
tinh
tấn,
đắc
đạo
giải
thoát.
Ðó
là
đại
đức
Angulimala.
Có
người
suy
nghĩ,
mình
đã "lỡ"
tạo,
quá
nhiều
tội
nghiệp,
ăn
năn
sám
hối,
cũng
chỉ
bằng
thừa,
cũng
chỉ
vậy
thôi,
chi
bằng
tiếp
tục,
làm
ác
như
vậy,
đến
ngày
tàn
đời.
Có
người
thường
nghĩ:
Chiếc
áo
trắng
tinh,
dính
một
vết
dơ,
ai
ai
cũng
thấy.
Chiếc
áo
quá
dơ,
dính
thêm
một
vết,
cũng
chẳng
khác
gì!
Họ
thường
nghĩ
rằng:
"Chết
đi
là
hết",
không
ai
biết
được,
mình
đã
làm
gì,
tại
sao
không
chịu,
hưởng
thụ
cho
sướng,
cả
cuộc
đời
này?
Họ
không
biết
rằng,
sau
khi
chết
đi,
họ
chỉ
bỏ
lại,
cái
thân
tứ
đại,
còn
các
nghiệp
báo,
lành
dữ
đã
tạo,
không
thể
bỏ
lại,
sẽ
đi
theo
họ,
như
hình
với
bóng.
Dù
muôn
kiếp
sau,
họ
vẫn
phải
trả,
nặng
nề
hơn
nhiều.
Thí
dụ
như
những,
người
mãn
tù
ra,
vẫn
còn
tiếp
tục,
gây
tội
tạo
nghiệp,
bằng
cách
trả
thù,
người
đã
hại
mình,
thưa
gửi
kiện
tụng.
Thí
dụ
như
những,
người
có
thân
nhân,
tới
lúc
phải
trả,
nghiệp
báo
đã
vay,
từ
nhiều
kiếp
trước,
hưởng
hết
phước
báo,
mạng
vong
thảm
tử,
trong
các
tai
nạn,
người
đời
chẳng
biết,
thức
tỉnh
ăn
năn,
sám
hối
nghiệp
chướng,
làm
thiện
tạo
phước,
để
ngừa
nạn
sau,
lại
đi
dựng
chuyện,
lòng
tham
sai
khiến,
kiện
người
đòi
tiền,
gây
thêm
tội
nghiệp,
làm
khổ
chúng
sanh!
Như
vậy
tức
là,
người
đời
đang
mê,
chưa
chịu
thức
tỉnh,
chưa
chịu
chăn
trâu,
chưa
chịu
kềm
chế,
vọng
tâm
vọng
tưởng,
vọng
thức
vọng
niệm.
Nói
một
cách
khác:
người
đời
đang
bị,
con
trâu
lôi
kéo,
đi
trên
con
đường,
u
mê
tà
vạy,
xa
lìa
chánh
đạo,
đem
lại
khổ
đau,
nhiều
đời
nhiều
kiếp.
Nếu
người
đời
có,
gặp
tai
gặp
nạn,
thân
nhân
thảm
tử,
theo
Kinh
Ðịa
Tạng,
và
Kinh
Dược
Sư,
chúng
ta
nên
vì
họ,
làm
nhiều
điều
phước
thiện,
cứu
người
và
giúp
đời,
đem
tài
sản
của
họ,
bố
thí
và
cúng
dường,
để
hồi
hướng
cho
họ,
chứ
tuyệt
đối
không
nên,
tạo
tội
tạo
nghiệp
thêm,
cho
họ
và
cho
mình.
* * *
6)
Bắt
đầu
giai
đoạn
này,
chúng
ta
cảm
thấy
được
phần
nào
kết
quả
của
việc
chăn
trâu.
Con
trâu
được
trắng
trẻo
đôi
phần.
Tức
là
con
người
đã
biết
hướng
về
việc
thiện
nhiều
hơn,
biết
quên
mình
vì
người
nhiều
hơn,
tâm
tham
lam
ích
kỷ,
tật
đố
sân
hận,
si
mê
mờ
tối,
giảm
bớt
đi
nhiều.
Con
người
làm
chủ
được
hành
động,
làm
chủ
được
lời
nói,
làm
chủ
được
ý
nghĩ,
tức
là
con
người
làm
chủ
được
con
trâu
của
mình,
đã
chăn
dắt
con
trâu
theo
đúng
con
đường
mình
mong
muốn.
Trong
kinh
sách,
con
đường
đó
được
gọi
là
"Bát
Chánh
Ðạo",
người
đó
được
gọi
là
"Hành
Giả",
tức
là
người
đang
đi
trên
đường
tu
tập
hành
trì.
Ðó
là
người
thực
sự
biết
tu
tâm
dưỡng
tánh.
Trên
bước
đường
tu
tâm
dưỡng
tánh,
việc
trước
hết
là
xả
bỏ
tâm
tham
danh
tham
lợi,
tránh
làm
các
việc
ác,
các
điều
bất
lương
bất
thiện.
Những
sự
tướng
bên
ngoài
như
đi
chùa,
tụng
kinh,
niệm
Phật,
bố
thí,
cúng
dường,
ấn
tống
kinh
sách,
trích
huyết
tả
kinh,
giúp
đỡ
người
già,
kiếm
nhà
cho
trẻ,
giới
thiệu
việc
làm,
là
những
điều
hết
sức
cần
thiết,
trên
bước
đường
tu
tập,
để
tạo
phước
báu,
nhưng
như
vậy
thôi,
thì
cũng
chưa
đủ.
Tại
sao
như
vậy?
Bởi
vì
người
đời,
thường
làm
việc
thiện,
với
cùng
tâm
niệm:
muốn
được
phước
báu,
muốn
được
khen
thưởng,
muốn
người
biết
đến,
muốn
được
trả
ơn,
muốn
lên
thiên
đàng,
muốn
về
cực
lạc.
Những
tâm
niệm
như
vậy
chính
là
vọng
tâm
tạp
niệm,
chính
là
con
trâu
đen
thủi
đen
thui
vậy.
Tu
theo
đạo
Phật
là
phải
giác
ngộ
và
giải
thoát,
tức
là
chuyển
hóa
con
trâu
đen
thành
con
trâu
trắng.
Trong
tâm
còn
có
chữ
"muốn"
là
còn
bị
trói
buộc,
dù
là
muốn
về
cực
lạc,
muốn
lên
thiên
đàng!
Khi
còn
muốn
như
vậy,
chúng
ta
dễ
bị
dụ
dỗ,
dễ
bị
gạt
gẫm,
dễ
bị
mù
quáng,
dễ
đi
sai
đường,
lầm
đường
lạc
nẻo,
lạc
vào
ngoại
đạo,
rơi
vào
tà
giáo,
lúc
nào
không
hay.
Hành
giả
tu
tập,
tận
tâm
tận
tình,
tận
sức
tận
lực,
mới
mong
nhận
được,
bản
tâm
thanh
tịnh.
Tuy
nhận
ra
rồi,
nhưng
mà
vẫn
còn,
chợt
hiện
chợt
ẩn.
Hành
giả
quyết
tâm,
ngưng
việc
tạo
tội,
chỉ
làm
việc
thiện,
tạo
phước
mà
thôi.
Cho
nên
lúc
này,
con
trâu
của
mình,
chỗ
đen
chỗ
trắng.
Mặt
trời
trí
tuệ,
lúc
sáng
lúc
mờ,
vì
vẫn
còn
bị,
mây
đen
che
khuất.
Con
thuyền
bát
nhã,
còn
phải
vượt
qua,
nhiều
cơn
sóng
gió,
bát
phong
của
đời,
chưa
đến
bến
bờ,
một
cách
bình
yên.
Tâm
của
chúng
ta,
cũng
vậy
chẳng
khác,
vừa
mới
an
ổn,
vui
tươi
thoải
mái,
bổng
dưng
có
người,
đến
nói
khó
nghe,
hoặc
cũng
như
là,
con
cái
cãi
lộn,
không
biết
nghe
lời,
chỉ
dạy
của
mình,
hay
là
vợ
chồng,
bất
đồng
ý
kiến,
về
một
vấn
đề,
vọng
tâm
vọng
tưởng,
vọng
thức
vọng
niệm,
liền
dấy
khởi
lên.
Con
trâu
của
mình,
lại
nổi
cơn
lên,
phải
thực
khéo
lắm,
mới
điều
phục
được.
Kéo
dài
lâu
lắm,
tâm
của
chúng
ta,
mới
dịu
trở
lại.
Nhưng
chẳng
bao
lâu,
chuyện
khác
xảy
đến,
con
trâu
của
mình,
lại
lồng
lộn
lên.
Bởi
vậy
cho
nên,
chúng
ta
mới
thấy: "Ai
bảo
chăn
trâu
không
khổ?
Chăn
trâu
chẳng
sướng
lắm
đâu!"
.
Trong
giai
đoạn
này,
theo
trâu
thì
dễ,
chăn
trâu
khó
lắm,
khó
lắm
khó
lắm,
thiên
nan
vạn
nan.
Tuy
nhiên,
chúng
ta
nên
biết,
trong
sách
có
câu:
Vô
ma
khảo
bất
thành
đại
đạo
Nhân
bất
phong
sương
vị
lão
tài.
Người
không
sương
gió
khó
thành
công
Người
không
khổ
đau
sao
ngộ
đạo.
Nghĩa
là
trên
bước
đường
tu
tập,
hành
giả
nếu
gặp
những
ma
chướng,
những
bước
thăng
trầm,
những
nghịch
duyên,
những
thử
thách,
những
bát
phong,
những
sương
gió,
mới
chứng
tỏ
ý
chí
mạnh
mẽ,
kiên
tâm
trì
chí,
bồ
đề
tâm
kiên
cố,
mới
trở
thành
người
tài
ba
lão
luyện,
mới
đạt
được
đạo
cả
chí
thượng.
Bàn
về
chuyện
dễ
hay
khó,
Thiền
sư
Linh
Chiếu,
con
gái
của
Ngài
Cư
Sĩ
Bàng
Long
Uẩn,
có
dạy: "Dã
bất
nan,
dã
bất
dị,
cơ
lai
khiết
phạn,
khốn
lai
thùy".
Nghĩa
là: "Chẳng
có
khó,
cũng
chẳng
dễ,
đói
đến
ăn
cơm,
mệt
ngủ
khò".
Thực
là
đơn
giản!
Vậy
mà
ít
người
chú
tâm
chú
ý
thực
hành!
Tu
tập
tinh
tấn
đạt
được
kết
quả
hay
không,
đa
phần
do
mình
có
quyết
tâm
mạnh
mẽ
hay
không,
một
phần
cũng
do
có
phước
duyên,
gặp
được
minh
sư
chỉ
dạy,
gặp
thiện
hữu
tri
thức
hướng
dẫn.
* * *
7)
Chúng
ta
còn
sống
trên
đời,
khi
sáu
căn
tiếp
xúc
với
sáu
trần,
vọng
tâm
vọng
tưởng,
vọng
thức
vọng
niệm,
vẫn
còn
khởi
lên.
Ý
nghĩ
này
vừa
dấy
lên,
tạp
niệm
khác
liền
tiếp
theo.
Tuy
nhiên,
chúng
ta
đã
biết
cách
chăn
trâu,
nghĩa
là
luôn
luôn
sống
trong
tỉnh
giác
tỉnh
thức,
sống
trong
chánh
niệm.
Nhờ
công
phu
tu
tập
lâu
ngày,
con
trâu
tạm
thuần,
mỗi
khi
niệm
khởi
lên,
chúng
ta
liền
nhận
biết
ngay,
không
theo.
Trong
Kinh
Pháp
Bảo
Ðàn,
Lục
Tổ
Huệ
Năng
có
dạy: "Ðừng
sợ
niệm
khởi.
Chỉ
sợ
giác
chậm", chính
là
nghĩa
đó
vậy.
Vọng
tâm,
vọng
tưởng,
vọng
thức,
vọng
niệm,
do
đó
sẽ
lặng
đi.
Ðó
là
công
phu
tu
tập
đã
sâu,
sức
mạnh
của
con
trâu
đã
giảm,
tức
là
sức
cuồng
loạn
của
tâm
ý
không
còn.
*
Ðây
mới
chính
là
ý
nghĩa
thiết
yếu
của
việc
tu
tâm
dưỡng
tánh
theo
đạo
Phật:
"Trong
tâm
khởi
niệm,
nếu
giác
kịp
thời,
liền
biết
không
theo,
đó
là
chơn
tâm.
Trong
tâm
khởi
niệm,
nếu
còn
mê
muội,
không
giác
kịp
thời,
liền
theo
niệm
đó,
trở
thành
vọng
tâm".
*
Cũng
ví
như
là:
Khi
có
gió
thổi,
mặt
biển
nổi
sóng,
gọi
là
biển
động.
Khi
có
gió
thổi,
mặt
biển
vẫn
bình
yên,
đó
là
biển
thái
bình,
ví
như
bản
tâm
thanh
tịnh.
Tu
theo
đạo
Phật,
không
phải
chỉ
có,
cúng
kiến
lễ
lạy,
van
xin
cầu
nguyện,
không
còn
gì
khác.
Sau
khi
hành
giả
chăn
dắt
một
thời
gian,
con
trâu
thuần
phục
được
tới
đâu,
hành
giả
khỏe
tới
đó.
Tu
tập
dụng
công
tới
đây
đã
được
nhẹ
nhàng,
đã
bớt
phần
nhọc
nhằn.
Con
trâu
không
còn
đi
húc
càn,
dẫm
đạp
lúa
mạ
của
người.
Con
trâu
của
mình
đã
khá
ngoan
ngoãn.
Ðến
đây,
hành
giả
không
còn
bị
con
trâu
dẫn
dắt,
lôi
kéo,
nên
đã
dừng
nghiệp
và
chuyển
nghiệp,
không
còn
tạo
nghiệp
mới
nữa.
Thí
dụ
như
trong
gia
đình,
có
chuyện
bất
bình,
tâm
ý
không
còn
khởi
niệm,
bực
tức
giận
hờn,
một
cách
dễ
dàng
như
trước.
Thí
dụ
như
khi
đang
làm
việc,
hoặc
khi
đang
chạy
xe
trên
đường
phố,
gặp
chuyện
bất
như
ý,
gặp
cảnh
bực
bội,
tâm
ý
vẫn
không
khởi
niệm
nào,
dù
là
khởi
ý
niệm
tốt,
như
là
tự
nhủ
rằng,
thi
ân
bất
cầu
báo,
chẳng
hạn.
Trong
Kinh
Pháp
Bảo
Ðàn,
Lục
Tổ
Huệ
Năng
có
dạy:
"Không
khởi
niệm
nghĩ
thiện
Không
khởi
niệm
nghĩ
ác
Bản
lai
diện
mục
hiện
tiền".
Nghĩa
là:
Dù
khởi
niệm
thiện
hay
khởi
niệm
bất
thiện,
tâm
thức
của
con
người
cũng
giao
động.
Khi
trong
tâm
thức,
không
có
niệm
khởi,
con
người
sống
với
cảnh
giới
niết
bàn
hiện
tiền.
Ðó
chính
là
lời
dạy,
đã
giúp
Thượng
Tọa
Huệ
Minh
khai
ngộ,
nhận
được "Bản
lai diện mục",
còn
gọi
là Chơn
Tâm
Phật
Tánh.
Lợi
ích
thiết
thực
trước
mắt
của
pháp
môn
chăn
trâu
là
chúng
ta
ngày
ăn
được
ngon,
tối
ngủ
được
yên,
đêm
không
ác
mộng.
Tại
sao
vậy?
Bởi
vì
con
trâu
đã
ngoan
ngoãn,
theo
sự
chăn
dắt
của
mình,
nên
cũng
ngủ
yên
rồi!
Ban
ngày
tâm
trí
loạn
động,
ban
đêm
nhứt
định
có
ác
mộng.
Ban
ngày
tâm
trí
bình
tĩnh
thản
nhiên
tự
tại,
ban
đêm
nhứt
định
có
giấc
ngủ
an
lành.
Những
người
nào
đã,
chăn
được
con
trâu,
tánh
tình
trở
nên,
vui
vẻ
cởi
mở,
hiền
hòa
tươi
tắn,
dễ
thương
dễ
chịu,
hòa
hợp
với
mọi
người,
thích
ứng
với
mọi
cảnh,
nhẫn
chịu
với
mọi
thời,
hài
lòng
với
mọi
việc,
không
hay
khiếu
nại,
không
thích
nhiều
chuyện,
không
muốn
tranh
đua,
không
chịu
hơn
thua,
không
tranh
cãi
vã.
Do
đó
cuộc
sống
đương
nhiên
an
lạc
và
hạnh
phúc.
Chư
Tổ
có
dạy:
"Nội
cần
khắc
niệm
chi
công.
Ngoại
hoằng
bất
tranh
chi
đức".
Nghĩa
là:
Bên
trong
khắc
chế
được
tâm
niệm
lăng
xăng
lộn
xộn,
tức
là
luôn
luôn
chăn
trâu,
được
gọi
là
công
phu
tu
tập.
Bên
ngoài
hành
trì
đức
độ
của
người
không
tranh
cãi.
Ðó
là
những
việc
phải
làm
của
người
chân
tu
thực
học.
Những
chuyện
cũ
từ
năm
xửa
năm
xưa,
nếu
có
hiện
trở
lại
trong
tâm
trí,
mà
chúng
ta
không
theo,
dừng
lại
kịp
thời,
không
tiếp
tục
nhớ
nghĩ
đến
nữa,
thì
nó
sẽ
lặng
đi,
lâu
ngày
cũng
sẽ
quên
luôn!
Kho
tàng
tâm
thức
sẽ
dần
dần
vơi
đi,
cho
đến
khi
hoàn
toàn
trống
trơn.
Tâm
trí
sẽ
dần
dần
nhẹ
nhàng,
khinh
an.
Cái
gì
mình
còn
nhớ,
lập
đi
lập
lại
nhiều
lần,
thì
sẽ
nhớ
dai,
nhớ
kỹ
nhớ
rõ,
nhớ
từng
chi
tiết.
Thí
dụ
như
một
bản
nhạc
quen
thuộc
hiện
lên
trong
tâm
trí,
nếu
mình
ư
ử
ca
theo,
mình
sẽ
nhớ
dai
lâu
dài,
có
thể
nhớ
suốt
đời.
Thí
dụ
như
có
người
bụng
bảo
dạ
rằng:
"Thù
người
truyền
kiếp,
năm
mười
năm
sau,
trả
thù
không
muộn.
Sống
để
dạ
chết
mang
theo".
Thực
là
dễ
sợ!
Con
người
như
vậy
sẽ
bị
con
trâu
của
mình
lôi
kéo
tạo
tội
tạo
nghiệp,
từ
chết
tới
bị
thương
mà
thôi.
Ðến
giai
đoạn
này,
do
công
phu
tu
tập
đem
lại
nhiều
ích
lợi
cho
thế
gian,
hành
giả
được
xưng
tụng
tán
thán,
có
thể
khởi
tâm
ngã
mạn,
liền
gặp
ngay
chướng
ngại
trên
đường
tu.
Hành
giả
tự
cảm
thấy
công
phu
tu
tập
của
mình
khá
quá,
ít
người
đạt
được
như
mình,
khởi
tâm
thích
làm
thầy
thiên
hạ,
tự
xưng
sơn
tăng,
tự
xưng
trang
chủ,
tự
lập
thiền
trang,
tự
làm
thiền
sư,
tự
tung
tự
tác,
bắt
đầu
kẹt
danh
lợi
ngay
trên
đường
tu.
Trường
hợp
của
ngài
Ngộ
Ðạt
Quốc
Sư
ngày
trước
là
một
thí
dụ
điển
hình.
Trong
Kinh
Di
Giáo,
Ðức
Phật
có
dạy:
"Chủng
chủng
hý
luận
kỳ
tâm
tắc
loạn.
Nhược
đắc
định
giả
tâm
tắc
bất
tán".
Nghĩa
là
người
nào
chứa
chấp
quá
nhiều
chuyện
thị
phi,
đúng
sai
phải
quấy,
tranh
đua
hơn
thua,
tâm
ý
của
người
đó
tức
nhiên
loạn
động.
Còn
người
nào
chăn
dắt
được
con
trâu
của
mình,
tức
là
khắc
chế
được
tâm
niệm
của
mình,
người
đó
đạt
được
cảnh
giới
thiền
định,
dù
là
sơ
thiền,
nhị
thiền
tam
thiền,
hay
được
tứ
thiền,
tâm
ý
không
còn
tán
loạn
nữa.
* * *
8)
Sau
một
thời
gian
lâu
hay
mau,
dài
hay
ngắn,
tùy
theo
căn
cơ,
trình
độ,
hoàn
cảnh,
khả
năng
của
mỗi
người,
hành
giả
quyết
tâm
chăn
trâu,
quyết
chí
tu
dưỡng,
tận
tâm
tận
tình,
tận
sức
tận
lực,
chuyển
hóa
tâm
tánh,
nhứt
định
thuần
phục
được
con
trâu
tâm
ý
của
mình. Lúc
đó
hành
giả,
hoàn
toàn
tự
tại,
giải
thoát
phiền
não,
khổ
đau
cuộc
đời,
không
còn
hay
bị,
cảnh
trần
kích
động,
lôi
cuốn
quyến
rủ,
chi
phối
tác
động.
Hành
giả
luôn
luôn,
hướng
về
những
việc,
ích
lợi
mọi
người,
lời
nói
đạo
đức,
êm
dịu
hòa
nhã,
ý
nghĩ
hiền
hậu,
tư
tưởng
hòa
vui,
từ
bi
hỷ
xả,
thêm
bạn
bớt
thù,
có
đủ
khả
năng,
đem
đạo
vào
đời,
làm
sáng
thêm
đạo,
tạo
đời
an
vui,
xoa
dịu
nỗi
khổ,
làm
cho
mát
lòng,
của
nhiều
người
khác,
ví
như
cam
lồ,
của
Ðức
Quán
Âm,
rưới
khắp
thế
gian,
tắm
mát
tâm
hồn,
đang
bị
nhiệt
não.
Ðó
là
những
bực,
chân
tu
thực
học,
thiện
hữu
tri
thức,
có
thể
giúp
đỡ,
những
người
hữu
duyên,
trên
đường
tu
tập,
hoặc
chuyển
hóa
được,
tâm
niệm
những
người,
sống
ở
chung
quanh,
bất
luận
người
thân,
hay
là
kẻ
thù.
Tu
tập
đến
đây,
lúc
nào
cần
suy
nghĩ
thì
suy
nghĩ,
lúc
nào
cần
làm
việc
thì
làm
việc,
mọi
lúc
khác
thì
trống
không
lặng
lẽ,
vô
tâm
vô
niệm.
Tu
tập
càng
tiến,
tâm
trí
càng
thảnh
thơi
nhẹ
nhàng,
thấy
người
nào
cũng
có
điểm
tốt
để
mình
noi
theo,
thấy
cảnh
vật
nào
chung
quanh
cũng
vui
tươi
đẹp
đẽ
hơn.
Người
chưa
tu
hay
mới
bắt
đầu
phát
tâm
tu,
tâm
trí
còn
cuồng
loạn,
vì
chứa
chấp
quá
nhiều
chuyện
tranh
chấp,
cố
chấp
chấp
chặt,
chấp
nê
phiền
não,
cho
nên
cảm
thấy
cảnh
vật
nào
chung
quanh
cũng
buồn
bã
chán
chường,
cảm
thấy
người
nào
cũng
xấu
xa
đê
tiện,
phiền
toái
bực
mình,
đâm
ra
cau
có,
quạu
quọ
nhăn
nhó.
Nhưng
khéo
biết
điều
phục,
biết
cách
chăn
trâu,
một
thời
gian
sau,
tâm
trí
an
lạc,
cảm
nhận
hạnh
phúc,
cảm
thấy
mọi
người,
dễ
mến
dễ
thương,
cảnh
vật
tươi
sáng,
không
gian
đẹp
đẽ.
Do
đó,
chúng
ta
nên
biết:
tu
tâm
dưỡng
tánh
chính
là
chuyển
đổi
tâm
tánh
trở
nên
thanh
tịnh
tốt
đẹp,
chứ
không
phải
chuyển
đổi
cảnh
vật
bên
ngoài.
Bởi
vậy
cho
nên,
trong
sách
có
câu:
"Tâm
buồn
cảnh
được
vui
sao
Tâm
an
dù
cảnh
ngộ
nào
cũng
an".
Giai
đoạn
này
là
lúc
hành
giả
đã
biết
dừng
nghiệp
và
chuyển
nghiệp.
Mắt
trông
thấy
sắc
rồi
thôi,
không
còn
lưu
giữ
bất
cứ
hình
sắc
nào
trong
kho
tàng
tâm
thức,
dù
đẹp
dù
xấu,
dù
dễ
thương
dù
thấy
ghét.
Tai
nghe
thấy
tiếng,
nghe
rồi
thì
không,
không
giận
không
hờn,
không
yêu
không
hận.
Trong
lòng,
trong
tâm
thức,
không
khởi
lên
bất
cứ
một
niệm
nào,
khởi
lên
là
liền
biết,
không
theo,
niệm
đó
sẽ
lặng
đi.
Không
theo
có
nghĩa
là:
không
để
cho
con
trâu
dẫn
dắt
mình
đi
tạo
nghiệp!
Ðến
đây,
hành
giả
nhận
ra
rằng,
hạnh
phúc
của
mọi
người
trên
thế
gian
cũng
là
hạnh
phúc
của
mình.
Tâm
địa
bồ
tát,
tấm
lòng
vị
tha,
vì
người
quên
mình,
của
hành
giả
tăng
trưởng.
Hành
giả
mang
đạo
vào
đời,
làm
sáng
đẹp
cho
đời,
mà
không
bị
đời
làm
ô
nhiểm.
Hành
giả
thanh
thản,
thảnh
thơi,
thơi
thới,
nhẹ
nhàng
bước
ra
khỏi
cảnh
trầm
luân,
sanh
tử
luân
hồi.
Trong
kinh
sách,
có
bài
kệ
như
sau:
"Mắt
trông
thấy
sắc
rồi
thôi
Tai
nghe
thấy
tiếng
nghe
rồi
thì
không
Trơ
trơ
lẵng
lặng
cõi
lòng
Nhẹ
nhàng
ta
bước
khỏi
vòng
trầm
luân".
Tánh
giác
của
con
người
hiển
lộ
nơi
sáu
căn,
đó
là:
mắt,
tai,
mũi,
lưỡi,
thân
và
ý.
Khi
sáu
căn
tiếp
xúc
với
sáu
trần:
sắc,
thanh,
hương,
vị,
xúc
và
pháp,
mà
không
sanh
khởi
vọng
tâm,
vọng
tưởng,
vọng
thức,
vọng
niệm
gì
cả,
là
lúc
con
người
sống
được
với
bản
tâm
thanh
tịnh
của
mình.
Chẳng
hạn
như
có
người
đến
chửi
mắng
nhục
mạ,
tức
là
lỗ
tai
tiếp
xúc
với
tiếng
chửi
mắng,
mà
mình
vẫn
bình
tĩnh
thản
nhiên,
tức
là
âm
thanh
khó
nghe
đó
không
làm
cho
mình
nổi
sân,
không
làm
cho
mình
phát
khởi
vọng
tâm,
vọng
tưởng,
vọng
thức,
vọng
niệm
gì
cả.
Nói
một
cách
khác:
Dù
gặp
bát
phong,
dù
gió
thổi
đến,
mặt
biển
bản
tâm
thanh
tịnh
không
hề
gợn
sóng,
dù
nhỏ
dù
lớn.
Lúc
đó
công
phu
tu
tập
thuần
thục
lắm
rồi.
* * *
9)
Khi
tâm
địa,
hay
tâm
thức
của
hành
giả,
hoàn
toàn
không
tịch,
trống
rỗng
lặng
lẽ,
lẵng
lặng
thanh
tịnh,
không
còn
chứa
chấp
những
vọng
tâm,
vọng
tưởng,
vọng
thức,
vọng
niệm
nào
cả,
thì
trí
tuệ
bát
nhã
tự
bừng
sáng.
Tâm
được
thanh
tịnh
thì
cảnh
vật
cũng
thanh
tịnh,
chúng
sanh
chung
quanh
cũng
được
bình
yên.
Trong
kinh
Tịnh
Danh
và
kinh
Tâm
Ðịa
Quán,
Ðức
Phật
có
dạy:
"Tâm
tịnh
thì
độ
tịnh".
"Tâm
địa
bình
thì
thế
giới
bình".
Những
vọng
tâm
vọng
tưởng,
vọng
thức
vọng
niệm,
đều
đã
dứt
sạch.
Không
còn
tham,
không
còn
sân,
không
còn
si.
Tu
tập
đến
đây,
hành
giả
đạt
được
"cảnh
giới
bất
nhị",
tức
là
không
còn
kẹt
hai
bên,
không
còn
thị
phi,
không
còn
phải
quấy,
không
còn
tranh
chấp,
không
còn
hơn
thua,
không
còn
tạo
tội,
không
còn
tạo
nghiệp,
không
còn
cố
chấp.
Trong
kinh
sách
còn
gọi
đó
là
cảnh
giới
"vô
tâm
vô
niệm",
như
Ðức
Phật
đã
dạy
trong
Bát
Nhã
Tâm
Kinh:
Lúc
đó
hành
giả
sống
được
an
lạc
tự
tại,
vô
quái
ngại,
vô
hữu
khủng
bố,
viễn
ly
điên
đảo
mộng
tưởng,
đạt
được
cứu
kính
niết
bàn.
Tổ
Sư
Thiền
Phái
Trúc
Lâm,
ngài
Ðiều
Ngự
Giác
Hoàng,
tức
là
Hoàng
Ðế
Trần
Nhân
Tôn,
có
dạy: "Ðối
cảnh
vô
tâm
mạc
vấn
thiền".
Nghĩa
là:
Ðối
trước
mọi
cảnh
trần,
không
khởi
bất
cứ
tâm
niệm
gì,
gọi
là
vô
tâm,
tức
là
hành
giả
đang
sống
trong
cảnh
giới
thiền
định,
không
cần
hỏi,
khỏi
cần
nghi.
Thiền
sư
Bá
Trượng
Hoài
Hải
có
dạy: Tâm
địa
nhược
không,
tuệ
nhựt
tự
chiếu.
Một
căn
phòng
tăm
tối
ngàn
đời,
nhưng
chỉ
cần
bật
điện
một
cái,
hay
đem
vào
một
ngọn
đèn,
thì
liền
sáng
tỏ
ngay,
đâu
cần
đợi
ngàn
năm
sau
nữa,
mới
chịu
sáng
lại.
Cũng
vậy,
khi
hành
giả
chịu
mồi
ngọn
đuốc
trí
tuệ
của
mình
với
ngọn
đuốc
Chánh
Pháp
của
chư
Phật,
thì
ngọn
đuốc
trí
tuệ
của
mình
cũng
bừng
sáng
lên
ngay.
Giây
phút
bừng
sáng
đó,
trong
thiền
tông,
gọi
là
ngộ
đạo.
Cũng
như
mây
đen
tan
biến
hết,
tức
là
phiền
não
tan
biến
hết,
tâm
thức
trống
rỗng
lặng
lẽ,
thì
mặt
trời
trí
tuệ
bát
nhã
tự
chiếu
sáng.
Trong
Kinh
Di
Giáo,
Ðức
Phật
có
dạy: Chế
tâm
nhứt
xứ,
vô
sự
bất
biện.
Nghĩa
là
khi
cột
giữ
được
con
trâu
ở
một
chỗ,
bằng
cách
tụng
kinh,
niệm
Phật,
thiền
quán,
qua
sự
hiểu
biết
Chánh
Pháp,
tâm
trí
hành
giả
bình
tĩnh
thản
nhiên,
không
còn
chuyện
gì
để
cãi
vã
nữa,
để
tranh
chấp
nữa,
cho
nên
không
có
sự
việc
gì
hành
giả
không
biện
luận,
không
hiểu
biết
một
cách
thông
suốt,
sáng
tỏ,
rõ
ràng.
Ðiều
này
giải
thích
cho
chúng
ta
biết
rằng,
không
có
vị
Phật
nào
không
biết
thuyết
pháp
độ
sanh.
Trong
Kinh
Pháp
Bảo
Ðàn,
Lục
Tổ
Huệ
Năng
có
dạy: "Tâm
thông
thì
thuyết
thông",
chính
là
nghĩa
đó
vậy.
Hành
giả
nào
thực
tâm
tu
học,
không
phân
biệt
tại
gia
cư
sĩ,
hay
xuất
gia
tu
sĩ,
tâm
trí
thông
suốt,
đạt
được
đến
đâu,
thuyết
giảng
đến
đó,
làm
lợi
chúng
sanh.
Ví
như
trước
có
học
hành,
sau
đó
mới
có
thể
làm
thầy
chỉ
dạy
người
khác.
Hành
giả
đạt
đến
giai
đoạn
này,
tâm
địa
mở
rộng,
đồng
nhứt
bản
thể
với
vạn
pháp,
thấy
mình
và
mọi
loài
chúng
sanh
không
khác,
trí
tuệ
bát
nhã
càng
phát
triển,
thế
giới
Phật
càng
mở
rộng,
đó
là
thế
giới
của
yêu
thương,
hòa
hợp,
cảm
thông,
an
vui,
lợi
lạc,
giác
ngộ
và
giải
thoát.
Hành
giả
cảm
thông
được
nỗi
khổ
của
chúng
sanh.
Hành
giả
cảm
thông
được
tâm
bệnh
của
chúng
sanh.
Cho
nên
lúc
nào
tâm
từ
tâm
bi
của
hành
giả
cũng
hướng
về
khắp
chúng
sanh
mọi
loài
sống
chung
quanh.
Tu
tập
đến
đây,
bất
cứ
hành
động
nào,
bất
cứ
lời
nói
nào,
bất
cứ
ý
nghĩ
nào
của
hành
giả,
cũng
phát
xuất
từ
bản
tâm
thanh
tịnh,
bản
tánh
sáng
suốt,
cho
nên
đem
lại
thực
nhiều
ích
lợi
cho
thế
gian,
được
mọi
người
chung
quanh
ngưỡng
mộ,
kính
phục,
qui
y,
nương
tựa,
bởi
vì
cảm
thấy
mát
dịu
khi
gần
gũi,
cảm
thấy
yên
tâm
khi
quan
hệ,
cảm
thấy
ích
lợi
khi
cầu
học.
* * *
10)
Khi
đạt
được
cảnh
giới
trên,
hành
giả
đã
thực
sự
bước
đến
gần
quả
vị
Phật,
nghĩa
là
tâm
của
hành
giả
cũng
gần
như
là
tâm
Phật.
Hành
giả
đã
thảnh
thơi
lắm
rồi,
nhưng
còn
một
cổng
rào
cuối
cùng
mới
xong
việc.
Có
sách
thiền
gọi
đó
là
"mạt
hạ
lao
quan".
Tại
sao
vậy?
Bởi
vì
tới
đây,
hành
giả
chưa
quên
được
công
phu
tu
tập
của
mình.
Nghĩa
là
con
trâu
đã
biến
mất,
nhưng
người
chăn
vẫn
còn.
Hành
giả
đã
mặc
được
áo
nhẫn
nhục
của
Như
Lai,
hành
giả
đã
vào
được
nhà
từ
bi
của
Như
Lai,
nhưng
chưa
hoàn
toàn
an
vị
trên
tòa
pháp
không
của
Như
Lai,
như
Ðức
Phật
đã
dạy
trong
Kinh
Diệu
Pháp
Liên
Hoa.
Trong
truyện
Tây
Du
Ký,
tác
giả
diễn
tả
giai
đoạn
này
bằng
hình
ảnh
của
Ngài
Pháp
Sư
Tam
Tạng
có
thể
bỏ
hết
của
cải
vật
chất,
địa
vị
trên
thế
gian,
cái
gì
cũng
bỏ
hết,
để
ra
đi
tìm
đạo.
Nhưng
khi
đến
được
đất
Phật
rồi,
Ngài
vẫn
không
chịu
đưa
cho
vị
giữ
tàng
kinh
các,
cái
áo
cà
sa
và
bình
bát
bằng
vàng,
do
nhà
vua
ban
thưởng,
tượng
trưng
cho
công
phu
tu
tập
từ
trước
đến
nay,
cho
nên
cũng
chẳng
thỉnh
được
kinh
sách
giá
trị,
chưa
đọc
được
kinh
vô
tự,
ví
như
vẫn
chưa
được
quả
vị
Phật.
Trong
thiền
tông,
giai
đoạn
này
được
ví
như
con
trâu
trắng
đã
chui
lọt
qua
lỗ
kim,
nhưng
vẫn
còn
kẹt
lại
sợi
lông
đuôi,
chính
là
nghĩa
đó
vậy.
Hành
giả
đạt
được
cảnh
giới
này,
tâm
không
vướng
bụi
trần,
an
nhiên
tự
tại
trước
mọi
bát
phong,
bình
tĩnh
thản
nhiên
trước
sóng
gió
của
cuộc
đời,
dửng
dưng
trước
những
thăng
trầm
của
thế
sự.
Tâm
lượng
đại
từ,
đại
bi,
đại
hỷ,
đại
xả
đã
ba-la-mật.
Nếu
hành
giả
vượt
qua
được
đầu
sào
trăm
trượng,
hay
vượt
qua
được
vũng
nước
chết,
trong
sách
thiền
gọi
đó
là
vùng
tử
thủy,
khi
ấy
mới
được
gọi
là
VIÊN
GIÁC,
tức
là
giác
ngộ
một
cách
viên
mãn,
một
cách
hoàn
toàn,
một
cách
trọn
vẹn
đó
vậy.
Ðến
lúc
này,
trâu
đã
mất
từ
lâu
và
bây
giờ
người
chăn
cũng
không
còn.
Cảnh
giới
vô
ngã
này
được
diễn
tả
bằng
một
vòng
tròn
trống
rỗng,
không
thêm
một
chữ,
không
nói
một
lời.
Trong
kinh
sách
có
câu:
"Ðạo
bổn
vô
ngôn
thuyết",
hoặc
có
câu:
"Ngữ
ngôn
đạo
đoạn".
Nghĩa
là
nguồn
gốc
của
đạo
vốn
không
có
lời
nào
có
thể
diễn
đạt
được,
tâm
được
thanh
tịnh
tức
khắc
khai
ngộ,
mở
lời
nói
năng
thì
không
còn
thấy
đạo
nữa
rồi,
tất
cả
chỉ
là
phương
tiện,
hoặc
là
hý
luận
mà
thôi!
Lý
đạo
đạt
được
chỗ
ngã
pháp
đều
không,
hoàn
toàn
thanh
tịnh,
hoàn
toàn
không
tịch,
hoàn
toàn
sáng
suốt.
Trước
kia,
khi
phát
tâm
bồ
đề,
muốn
tu
tâm
dưỡng
tánh,
hành
giả
đọc
tụng
và
phát
nguyện: "Chúng
sanh
vô
biên
thệ
nguyện
độ".
Ðến
đây,
sau
một
thời
gian
dài
tu
tâm
dưỡng
tánh,
hành
giả
đạt
được
cảnh
giới: "Chúng
sanh
vô
biên
đều
độ
xong".
Nghĩa
là
trong
tâm
thức
không
còn
chứa
chấp
bất
cứ
một
chúng
sanh
nào,
tức
là
không
còn
khởi
lên
bất
cứ
một
niệm
nào
nữa
cả,
mỗi
niệm
có
bóng
dáng
của
chúng
sanh.
Trong
lịch
sử
Ðức
Phật
Thích
Ca,
ngay
đêm
trước
khi
Ngài
chứng
đạo,
tất
cả
những
niệm
từ
kho
tàng
tâm
thức
của
Ngài
hiện
lên
đầy
đủ,
từ
công
chúa
Gia
Du
Ðà
La
cho
đến
thiên
ma
ba
tuần,
quỉ
vương
ba
cõi,
tất
cả
đều
được
Ngài
độ
hết,
độ
xong
Ngài
thành
đạo
vô
thượng
chánh
đẳng
chánh
giác.
* * *
Pháp
môn
chăn
trâu
thường
được
minh
họa
thành
nhiều
bộ
tranh
khác
nhau,
tùy
theo
tông
phái,
mỗi
bộ
gồm
10
bức,
nên
được
gọi
là
"Thập
Mục
Ngưu
Ðồ",
tức
là
10
bức
tranh
chăn
trâu.
Cũng
giống
như
chuyện,
người
xưa
khuyên
bảo,
nên
làm
mỗi
đêm,
trước
khi
đi
ngủ:
kiểm
điểm
việc
làm,
lời
nói
ý
nghĩ,
của
mình
trong
ngày,
bằng
cách
dùng
cái
hủ,
bỏ
vào
một
hột
đậu
trắng,
tượng
trưng
cho
một
hành
động
tốt,
một
lời
nói
khéo,
hay
một
ý
nghĩ
thiện,
và
bỏ
vào
một
hột
đậu
đen,
tượng
trưng
cho
một
hành
động
xấu,
một
lời
nói
thô,
hay
một
ý
nghĩ
bất
thiện.
Thoạt
đầu,
thường
ai
cũng
thấy
trong
cái
hủ
của
mình,
có
nhiều
đậu
đen
hơn
đậu
trắng.
Nếu
chịu
khởi
công
tu
sửa,
phát
nguyện
tu
tâm
dưỡng
tánh,
một
thời
gian
sau,
trong
hủ
có
nhiều
đậu
trắng
hơn
đậu
đen.
Cho
đến
lúc
không
còn
có
đậu
đen
trong
hủ,
cũng
là
lúc
khỏi
cần
đậu
đen
hay
đậu
trắng
nữa.
Chính
đó
là
lúc: "Tâm
Cảnh
Nhất
Như",
con
người
trở
nên
toàn
chân
toàn
thiện
toàn
mỹ,
nghĩa
là
người
trâu
đều
mất,
ngã
pháp
đều
không,
cả
hai
dứt
hết.
Tu
đến
chỗ
rốt
ráo,
các
bức
tranh
chăn
trâu
cũng
không
cần.
Ví
như
sau
khi
đã
qua
sông,
lên
được
bến
bờ
bên
kia,
tức
là
bờ
giác
ngộ,
trong
kinh
sách
gọi
là:
đáo
bỉ
ngạn,
hành
giả
buông
lái
bỏ
thuyền.
Không
ai
lên
bờ
rồi,
còn
vác
theo
chiếc
thuyền
hay
chiếc
bè
trên
vai
làm
chi
cho
nhọc
nhằn.
Ví
như
hết
bệnh
thì
ngưng
thuốc,
thuốc
chỉ
cần
khi
chữa
bệnh
mà
thôi.
Cũng
như
sau
khi
giặt
sạch
chiếc
áo
rồi,
phải
xả
bỏ
hết
xà
bông,
dính
trên
chiếc
áo
đó.
Không
ai
tiếc
rẻ
để
lại
xà
bông
trên
áo,
rồi
mặc
trở
vào.
Trong
Kinh
Kim
Cang,
Ðức
Phật
có
dạy: "Pháp
thượng
ưng
xả
hà
huống
phi
pháp".
Nghĩa
là:
"Pháp
cao
còn
buông
bỏ
huống
là
các
pháp
khác".
Khi
đã
đạt
được
bản
tâm
thanh
tịnh,
bản
tánh
sáng
suốt,
có
nghĩa
là
hành
giả
đạt
được
trạng
thái
vô
ngã,
tự
tại
niết
bàn,
đâu
còn
chấp
chặt
cái
công
phu
tu
tập
bản
ngã
làm
chi
nữa.
Trong
Kinh
Di
Giáo,
Ðức
Phật
có
dạy:
Sau
khi
Như
Lai
nhập
diệt,
người
nào
sống
chuyên
cần,
tinh
tấn,
tỉnh
giác,
chánh
niệm,
từ
khước
mọi
tham
ái
thế
gian,
luôn
luôn
phát
triển
thiền
định,
xem
chính
mình
như
hải
đảo
của
mình,
là
chỗ
nương
tựa
của
mình,
không
tìm
nơi
nương
tựa
ở
đâu
khác,
bên
ngoài
chính
mình,
người
ấy
sẽ
bước
ra
khỏi
con
đường
phiêu
bạt
vô
định
của
đời
sống
và
chấm
dứt
sự
phiền
não
khổ
đau.
Nghĩa
là
con
người
phải
luôn
luôn
giữ
gìn
tâm
niệm,
phát
triển
thiền
định,
tức
là
phải
chăn
trâu,
không
cho
xâm
phạm
lúa
mạ
của
người,
phải
tự
mình
cố
gắng
thoát
ra
khỏi
sanh
tử
luân
hồi,
bằng
công
phu
tu
tập
của
mình,
chứ
cầu
nguyện
van
xin,
hay
lệ
thuộc
vào
người
khác
tu
giùm
mình,
thì
không
có
hiệu
quả
gì
cả,
làm
sao
giác
ngộ
và
giải
thoát
được?
Tụng
kinh,
niệm
Phật,
ngồi
thiền,
chính
là
những
phương
tiện
giúp
chúng
ta
chăn
trâu
tốt
nhứt,
bởi
vì
khi
đó thân
thanh
tịnh
do
ngồi
ngay
ngắn
yên
một
chỗ, khẩu thanh tịnh
do
im
lặng
hoặc
nhờ
tụng
lời
Phật, ý
cũng
thanh
tịnh
do
tập
trung
vào
kinh
kệ,
nhớ
nghĩ
chư
Phật,
không
khởi
tạp
niệm.
Tuy
nhiên,
pháp
môn
chăn
trâu
không
cần
thời
khắc
biểu,
cũng
không
cần
tràng
hạt,
không
cần
chuông
mõ,
không
cần
tọa
cụ,
không
cần
tại
gia
hay
tại
chùa.
Bất
cứ
lúc
nào,
bất
cứ
nơi
nào,
bất
cứ
hoàn
cảnh
nào,
chúng
ta
đều
có
thể
áp
dụng
pháp
môn
chăn
trâu,
để
tự
tạo
dựng
cho
mình
và
cho
những
người
chung
quanh,
một
cuộc
sống
an
lạc
và
hạnh
phúc,
một
cách
tích
cực,
không
van
xin
cầu
khẩn.
Nếu
chúng
ta
không
biết
cách
chăn
trâu,
cứ
để
con
trâu
của
mình
đi
húc
càn,
báng
bừa
bải,
từ
làng
trên
đến
xóm
dưới,
sẽ
gây
tai
họa,
gây
thương
tích
cho
không
biết
bao
nhiêu
người
quen
biết
chung
quanh.
Chẳng
hạn
như
trong
một
buổi
họp
mặt,
người
nào
không
biết
cách
chăn
trâu,
sẽ
phê
phán
bình
phẩm,
chê
trách
chỉ
trích,
phỉ
báng
chế
nhạo,
ngạo
mạn
khinh
người,
cười
chê
tất
cả,
từ
người
thân
cho
đến
kẻ
thù,
từ
người
quen
biết
nhiều
cho
đến
kẻ
chưa
hề
quen
biết,
từ
vị
nguyên
thủ
chí
đến
thứ
dân,
từ
quan
quyền
trưởng
giả
cho
đến
bàn
dân
thiên
hạ!
Ôi
thôi,
một
con
trâu
đen
chạy
húc
lung
tung,
còn
đáng
sợ
thay,
nếu
cả
một
bầy
trâu
đen
điên
cuồng
tụ
tập,
rồi
xổng
chuồng,
thì
không
biết
hậu
quả
sẽ
như
thế
nào?
Chẳng
hạn
như
khi
rảnh
rỗi
ngồi
không,
chẳng
có
làm
việc
gì,
người
không
biết
cách
chăn
trâu,
sẽ
để
tâm
trí
nghĩ
ngợi
lung
tung
linh
tinh
lang
tang,
để
cho
trâu
mặc
tình
dạo
khắp
xóm
làng,
có
khi
chợt
nhớ
lại
chuyện
xưa
tự
thuở
nào,
đâm
ra
bực
tức
bất
an,
thực
là
tai
hại
vô
cùng.
Tai
hại
hơn
nữa
nếu
chúng
ta
cứ
tiếp
tục
theo
đuổi
dòng
tư
tưởng
đó,
tức
là
con
trâu
sẽ
dẫn
dắt
chúng
ta
đến
chỗ
tạo
tội
tạo
nghiệp.
Thử
nghĩ
với
tâm
ý
lăng
xăng
lộn
xộn
như
vậy,
với
vọng
tâm,
vọng
tưởng,
vọng
thức,
vọng
niệm,
tạp
nham
như
vậy,
chúng
ta
có
thể
sống
trong
cảnh
giới
niết
bàn,
cảnh
giới
cực
lạc,
với
các
bực
thượng
thiện
nhơn
được
chăng?
Chúng
ta
thường
có
tập
khí
nghĩ
xấu
về
người
khác,
chưa
bao
giờ
biết
đến
cảnh
giới
niết
bàn,
cho
nên
thường
nằm
mơ
thấy
toàn
ác
mộng.
Khi
không
có
duyên
trần,
thì
tâm
trí
bình
yên.
Khi
gặp
trần
duyên,
thì
tâm
trí
loạn
động.
Việc
huân
tu
như
vậy
chưa
gọi
là
thuần
thục.
Tâm
ý
con
người,
ví
như
tượng
Phật,
đúc
bằng
vàng
ròng,
vô
cùng
trong
sạch,
vô
cùng
tinh
khiết,
vô
cùng
quý
báu,
nhưng
vì
chôn
dấu,
mhiều
năm
nhiều
tháng,
nên
bị
bao
phủ,
bởi
quá
nhiều
lớp,
cát
bụi
dơ
bẩn,
dầu
hắc
cứng
ngắc.
Chúng
ta
chắc
phải,
ra
công
cạo
gọt,
mài
giũa
sửa
chữa,
tu
bổ
bồi
đắp,
tận
tâm
tận
tình,
tận
sức
tận
lực.
Cạo
được
phần
nào,
bụi
đất
vô
lượng,
tượng
Phật
hiển
lộ,
ánh
sáng
tương
ứng.
Cũng
như
dẹp
được,
phần
nào
phiền
não,
con
người
tìm
thấy,
an
lạc
tương
ứng,
cuộc
sống
hằng
ngày.
Một
thời
gian
sau,
cho
đến
một
ngày,
tượng
Phật
vàng
ròng,
trở
lại
nguyên
trạng,
sáng
chói
rực
rỡ,
một
cách
toàn
diện.
Người
nào
không
chịu,
ra
công
dọn
dẹp,
phiền
não
khổ
đau,
mà
nguyện
cho
mau,
về
cõi
tây
phương,
cực
lạc
niết
bàn,
đó
chỉ
là
việc:
không
ngủ
mà
mơ,
đem
cát
đi
nấu,
mà
muốn
được
cơm!
Trong
Kinh
Thủ
Lăng
Nghiêm,
Ðức
Phật
có
dạy: "Sanh
diệt
ký
diệt,
tịch
diệt
hiện
tiền".
Nghĩa
là
khi
phiền
não
hoàn
toàn
dứt
sạch,
các
pháp
sanh
diệt
lặng
hết,
thì
Phật
Tánh
tịch
diệt
hiển
lộ
toàn
vẹn.
Ðó
là
lúc
con
người
đạt
được
mục
đích
cứu
kính
của
đạo
Phật,
sống
trong
an
lạc
và
hạnh
phúc,
bởi
vì
đã
giác
ngộ
và
giải
thoát.
* * *
Tóm
lại,
pháp
môn
chăn
trâu
giúp
người
tu
tâm
dưỡng
tánh
tiến
từ
thấp
lên
cao,
thấy
rõ
khả
năng
và
bước
tiến
của
mình,
không
bị
lầm
lạc.
Và
biết
rõ
ràng
rằng:
"tu
tập
là
trước
khổ
sau
vui,
nếu
còn
ham
vui
không
chịu
tu
tập
là
trước
vui
sau
khổ",
cho
nên
nỗ
lực
khắc
phục
những
khó
khăn
bước
đầu,
để
tiến
đến
chỗ
thành
tựu
viên
mãn.
Chúng
ta
hãy
cùng
nhau
hát
lên:
"Ai
bảo
chăn
trâu
là
khổ?
Chăn
trâu
sướng
lắm
chứ!
".
Chúng
ta
đã
hiểu
biết
pháp
môn
chăn
trâu
và
quyết
tâm
chăn
dắt
con
trâu
của
mình
trong
từng
giây
phút
hằng
ngày,
không
lơ
là,
không
giải
đãi,
không
lười
biếng,
không
tự
ti,
không
tự
tôn,
không
sợ
sệt,
không
ngã
mạn.
Trong
Kinh
Di
Giáo,
Ðức
Phật
có
dạy:
"Tu
hành
ví
như
chăn
trâu,
cầm
roi
canh
chừng,
luôn
luôn
kiểm
soát,
không
cho
nó
xâm
phạm
lúa
mạ
của
người".
Chúng
ta
là
những
người
Phật
Tử,
hay
không
phải
là
Phật
Tử,
đều
muốn
có
một
cuộc
sống
an
lạc
và
hạnh
phúc,
ngay
trên
thế
gian
này,
cho
nên
phải
biết
áp
dụng
pháp
môn
chăn
trâu.
Bất
cứ
ai
cũng
có
thể
áp
dụng
pháp
môn
chăn
trâu
một
cách
tích
cực,
trong
mọi
hoàn
cảnh,
trong
mọi
tình
huống,
trong
cuộc
sống
hằng
ngày.
Chẳng
hạn
như
khi
đang
làm
việc,
đang
học
hành,
hay
đang
ăn
uống,
chúng
ta
chỉ
nên
biết
tập
trung
tư
tưởng
vào
việc
làm,
vào
việc
học,
hay
ăn
uống,
không
nghĩ
ngợi
mông
lung,
không
nhớ
nghĩ
lung
tung,
không
lăng
xăng
lộn
xộn.
Ngoài
ra,
bất
cứ
khi
nào,
tư
tưởng
bắt
đầu
nghĩ
quanh
nghĩ
quẩn,
chúng
ta
biết
ngay
là
con
trâu
đang
xổng
chạy,
bèn
chăn
giữ
ngay,
không
chạy
theo
nó,
bị
nó
lôi
kéo,
dẫn
mình
đi
rong,
có
khi
đến
chỗ,
tạo
tội
tạo
nghiệp.
Tức
là
chúng
ta
tích
cực
chăn
trâu
trong
mọi
hoàn
cảnh,
nhứt
là
trong
những
lúc
rảnh
rỗi
nghỉ
ngơi,
không
có
lúc
nào
lơ
là,
hơ
hỏng,
lơi
lỏng,
không
có
lúc
nào
phí
phạm
thời
gian.
Do
đó
cuộc
sống
có
ý
nghĩa
hơn,
tận
dụng
mọi
thì
giờ
để
chăn
trâu,
không
còn
phải
tìm
cách
giết
thì
giờ
trống
trải
dư
thừa,
bằng
những
cuộc
vui
giả
tạm
của
thế
gian.
Tập
trung
được
tư
tưởng,
không
lo
ra,
không
nghĩ
bậy,
tức
nhiên
năng
suất
làm
việc
cao
hơn,
kết
quả
tốt
hơn.
Chẳng
hạn
như
khi
đang
ngồi
nghỉ
ngơi,
nhưng
không
nghĩ
ngợi,
hay
đang
nằm
an
thần
dưỡng
sức,
trước
khi
làm
việc,
hãy
để
tâm
trí
bình
yên,
trống
rỗng,
lặng
lẽ,
tịch
tịnh,
không
vọng
tâm,
vọng
tưởng,
vọng
thức,
vọng
niệm.
Chỉ
cần
thiền
định
như
vậy
trong
vài
mươi
phút,
chúng
ta
sẽ
thấy
thân
và
tâm
đều
được
thoải
mái,
khinh
an,
nhẹ
nhàng,
khỏe
khoắn,
tức
nhiên
năng
suất
làm
việc
chắc
chắn
sẽ
cao
hơn,
kết
quả
sẽ
tốt
hơn.
Chẳng
hạn
như
khi
bị
kẹt
xe
trên
đường
phố,
hay
đang
ngồi
chờ
đợi
ai,
chờ
đợi
việc
gì,
đừng
phí
thì
giờ
một
cách
vô
ích,
chúng
ta
cũng
có
thể
áp
dụng
pháp
môn
chăn
trâu,
để
giữ
tâm
trí
được
bình
tĩnh
thản
nhiên,
an
vui
tự
tại,
không
bồn
chồn
lo
lắng,
không
nóng
nảy
giận
hờn,
không
thấp
thỏm
phập
phồng,
không
lo
âu
sợ
sệt,
không
ưu
tư
lo
nghĩ,
không
hơn
thua
phải
quấy,
không
nhơn
ngã
thị
phi.
Thời
gian
chờ
đợi
qua
mau,
một
cách
hữu
ích.
Lúc
đi
ngoài
đường,
trong
tâm
trí
có
khởi
niệm
bất
thiện
hay
niệm
ác
nào,
lập
tức
chận
ngay,
đừng
dẫn
con
trâu
điên
đó
về
đến
nhà
mình.
Ðược
như
vậy,
gia
đạo
chúng
ta
bình
yên,
không
ai
trong
gia
đình
bị
trâu
điên,
từ
bên
ngoài
vào,
húc
càn
bừa
bãi.
Chúng
ta
nên
biết,
sở
dĩ
Ðức
Phật
luôn
luôn
giữ
trên
khuôn
mặt
nụ
cười
siêu
thoát,
bởi
vì
thân
tâm
của
Ngài
đều
thực
sự
giải
thoát.
Do
đó,
những
người
dù
có
tâm
địa
ác
độc,
đến
với
Ðức
Phật,
cũng
trở
thành
hiền
thiện.
Trong
Kinh
A
Di
Ðà,
Ðức
Phật
có
dạy:
"Người
nào
lúc
sanh
thời
đạt
được
nhứt
tâm
bất
loạn,
khi
lâm
chung
tâm
không
điên
đảo,
tức
thời
được
chư
Phật
cùng
chư
thánh
chúng
rước
về
tây
phương
cực
lạc
quốc".
Nhứt
tâm
bất
loạn,
hay
tâm
không
điên
đảo,
có
nghĩa
là:
tâm
trí
không
còn
lăng
xăng
lộn
xộn,
bản
tánh
hoàn
toàn
không
tịch.
Vọng
tâm,
vọng
tưởng,
vọng
thức,
vọng
niệm
không
còn
nữa.
Lúc
ấy
tâm
thể
người
đó
rỗng
lặng
đồng
với
tâm
thể
chư
Phật
mười
phương,
nên
kinh
sách
gọi
là:
được
vãng
sanh
tây
phương
cực
lạc
quốc
đó
vậy.
Trong
kinh
sách
có
câu:
"Năng
lễ
sở
lễ
tánh
không
tịch",
tức
là: "Phật
và
chúng
sanh
tánh
thường
rỗng
lặng".
Chúng
ta
thử
tìm
hiểu
câu
chuyện
sau
đây:
Có
người
đến
hỏi
Thiền
sư
Tùng
Thẩm
Triệu
Châu:
Con
chó
có
Phật
Tánh
không?
Ngài
đáp:
- Không!
Người
đó
hỏi
lại:
Bạch
Ngài,
Ðức
Phật
dạy
trong
kinh
sách,
mọi
chúng
sanh
đều
có
Phật
Tánh,
tại
sao
con
chó
lại
không
có?
Ngài
đáp:
-
Bởi
vì
"Nghiệp
Thức
Che
Ðậy!".
Tức
là:
có
cũng
như
không!
Có
người
khác
đến
hỏi:
Con
chó
có
Phật
tánh
không?
Lần
này
Ngài
đáp:
- Có!
Người
đó
hỏi
lại:
Bạch
Ngài,
Phật
Tánh
là
tánh
giác
sáng
suốt,
tại
sao
không
chọn
nơi
sung
sướng
tốt
đẹp
đầu
thai,
lại
chọn
cái
đãy
da
lông
lá
lù
xù,
chui
vào
đó
để
làm
con
chó?
Ngài
đáp:
-
Bởi
vì "Biết
Mà
Cố
Phạm!".
Trong
Kinh
Tịnh
Danh,
Ðức
Phật
có
dạy:
*
"Mặt
trời
mặt
trăng
vẫn
thường
sáng
tỏ,
tại
sao
người
mù
lại
chẳng
thấy?
Cũng
vậy,
chúng
sanh
vì
nghiệp
thức
che
đậy,
chúng
sanh
thường
biết
mà
cố
phạm,
cho
nên
chẳng
thấy
thế
giới
Như
Lai
thanh
tịnh
trang
nghiêm,
chẳng
nhận
ra
bản
tâm
thanh
tịnh
thường
hằng!", chính
là
nghĩa
đó
vậy.
Vậy
từ
bây
giờ
trở
đi,
chúng
ta
xin
phát
nguyện,
mỗi
khi
nhận
thấy
con
trâu
của
mình,
bắt
đầu
chạy
lung
tung,
dẫn
dắt
mình
tạo
tội
tạo
nghiệp,
hãy
tự
nhắc
nhở:
"Thôi,
chăn
trâu
đi!".
Và
nên
nhớ
đừng
bao
giờ
hỏi
người
khác:
"Chăn
trâu
đến
đâu
rồi?".
Tại
sao
vậy?
Bởi
vì
khi
đó,
biết
đâu
con
trâu
của
người
đã
trắng
trẻo
mịn
màng,
hoặc
đã
biến
mất
từ
lâu
lắm
rồi,
chỉ
còn
con
trâu
của
mình
sắp
sửa
húc
người
khác
rồi
đó
vậy!"Thôi!
Chăn
trâu
đi!
Nhiều
chuyện
mà
chi!"./.
---
o0o
---
Mục Lục
Tập
1:
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10
|
11|
12
Tập
2:
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10|
11|
Tập
3:
1|
2
|
3
|
4|
5|
6
|
7
|
8
|
9
|
10|
11|
12|
13|
14
|15|
16
---
o0o
---
| Thư
Mục
Tác
Giả
|
--- o0o ---
Chân
thành
cám
ơn
Cư
sĩ
Chính
Trực
đã
gửi
tặng
phiên
bản
điện
tử
bộ
sách
này
(Trang
nhà
Quảng
Đức,
05-2002)
Trình
bày
:
Nhị
Tường
Cập
nhật
ngày:
01-05-2002