Cư
Trần
Lạc
Ðạo
(Trọn
bộ 3 tập)
Toronto, Canada
1999 - PL 2543
---
o0o
---
Tập
3
[2]
Ái
ngữ
Lời
nói
chẳng
mất
tiền
mua
Lựa
lời
mà
nói
cho
vừa
lòng
nhau.
Tâm
buồn
chẳng
nói
lời
nào,
Tâm
vui
lời
nói
ngọt
ngào
dễ
thương.
Khi
yêu
thương,
nói
sao
cũng
được,
Hết
thương
rồi,
nói
ngược
nói
xuôi.
Trong
cuộc
sống
hằng
ngày,
để
hiểu
nhau
biết
nhau,
trao
đổi
tin
tức,
phổ
biến
văn
hóa,
con
người
thường
dùng
ngôn
ngữ,
tức
là:
chữ
viết
và
tiếng
nói.
Đôi
khi,
không
cùng
chữ
viết,
cũng
không
cùng
tiếng
nói,
nhưng
con
người
cũng
có
thể
hiểu
biết
nhau
qua
dáng
điệu,
cử
chỉ,
nét
mặt,
thái
độ,
hay
giọng
nói.
Một
vấn
đề
lớn
đối
với
các
gia
đình
người
Việt
sống
ở
hải
ngoại
đó
chính
là
:
Vấn
Đề
Ngôn
Ngữ.
Đối
với
thế
hệ
trước,
tiếng
Việt
là
tiếng
mẹ
đẻ,
cho
nê
n
rành
rẽ
rõ
ràng,
còn
tiếng
địa
phương
thì
không
thông
thạo.
Đối
với
thế
hệ
sau,
tiếng
địa
phưong
thì
thông
thạo,
tuy
tiếng
Việt
là
tiếng
mẹ
đẻ,
nhưng
nói
thì
vấp
váp,
gượng
gạo,
ngọng
nghịu.
Tại
sao
vậy?
Bởi
vì
thế
hệ
sau
hấp
thụ
văn
hóa
tây
phương,
tiếp
xúc
với
xã
hội
bên
ngoài
nhiều
hơn,
còn
trong
gia
đình,
thế
hệ
trước
muốn
tập
nói
tiếng
địa
phương
với
thế
hệ
sau,
cho
nên
thế
hệ
trước
quên
lửng
chuyện
dạy
dỗ
tiếng
Việt
cho
thế
hệ
sau,
dù
người
mẹ
đẻ
là
người
Việt.
Hai
thế
hệ
nói
hai
thứ
tiếng
khác
nhau,
tiếng
Việt
và
tiếng
địa
phương,
cho
nên
không
thể
thông
cảm
nhau
dễ
dàng.
Chuyện
không
cảm
thông
nhau
thường
đưa
tới
việc
đổ
vỡ
hạnh
phúc
gia
đình,
tức
nhiên
cuộc
sống
phiền
não
khổ
đau,
không
sao
tránh
khỏi
được.
Hai
người
nói
hai
thứ
tiếng
khác
nhau,
thực
khó
cảm
thông
nhau
như
vậy.
Còn
hai
người
cùng
nói
một
thứ
tiếng
thì
sao,
có
dễ
cảm
thông
nhau
chăng,
hoặc
là
ngược
lại,
có
dễ
đụng
chạm
nhau
chăng?
Tại
sao
vậy?
Bởi
vì,
tuy
cùng
nói
một
thứ
tiếng,
nhưng
tùy
theo
lời
nói,
tùy
theo
giọng
nói,
hay
tùy
theo
cách
nói,
hai
người
có
thể
cảm
thông
nhau,
hoặc
là
đụng
chạm
nhau.
Lời
nói
có
ảnh
hưởng
rất
nhiều
đến
sinh
hoạt
đời
sống
của
mọi
người
trên
thế
gian
này.
Dù
quen
biết
trước,
hay
chưa
quen
biết,
khi
gặp
mặt
nhau,
con
người
thường
hay:
chào
hỏi
với
nhau.
Một
lời
chào
hỏi,
khéo
léo
lịch
thiệp,
vui
vẻ
cởi
mở,
có
thể
khởi
đầu,
một
mối
quan
hệ,
tốt
đẹp
lâu
dài.
Có
người
mở
miệng
nói,
dù
chỉ
một
lời,
người
nào
cũng
ưa,
cũng
thương
cũng
mến,
cũng
có
cảm
tình,
cũng
tin
tưởng
được,
cũng
đều
nghe
theo.
Cũng
có
người
mở
miệng
nói,
dù
có
nói
nhiều,
cũng
không
ai
tin,
cũng
không
ai
nghe,
cũng
không
ai
ưa,
cũng
không
ai
thích.
Có
những
lời
nói
đem
lại
sự
mát
dịu
trong
tâm
hồn
người
nghe.
Người
nghe
có
cảm
giác
như
vừa
uống
được
một
ngụm
nước
cam
lồ
tươi
mát.
Cũng
có
những
lời
nói
khiến
người
nghe
phải
đi
xức
dầu
cù
là,
hoặc
là,
phải
uống
thuốc
nhức
đầu,
có
khi
ngất
xỉu,
hay
là,
nghỉ
thở
luôn!
*
*
*
Trong
phạm
vi
bài
này,
chúng
ta
chỉ
xét
vấn
đề
lời
nói,
qua
giáo
pháp
của
nhà
Phật
mà
thôi.
Trong
giáo
lý
của
đạo
Phật,
vấn
đề
lời
nói
được
đề
cập
đến
trong
Tứ
Nhiếp
Pháp,
đó
là
"Ái
Ngữ".
Tứ
Nhiếp
Pháp
là
pháp
môn
có
công
năng
nhiếp
phục
nhân
tâm,
gồm
có
bốn
điều:
bố
thí,
ái
ngữ,
lợi
hành
và
đồng
sự.
Chúng
ta
hãy
xét
qua:
Thế
nào
là
ái
ngữ?
Ái
ngữ
chính
là:
lời
nói
dịu
dàng,
êm
ái
ngọt
ngào,
dễ
nghe
dễ
thương,
phát
xuất
từ
lòng
từ
bi
hỷ
xả,
phát
xuất
từ
tâm
thanh
tịnh,
phát
xuất
từ
tấm
lòng
thương
người
như
thể
thương
thân.
Ái
ngữ
không
phải
là
lời
nói
đầu
môi
chót
lưỡi,
không
phải
là
lời
nói
hoa
mỹ,
không
phải
là
lời
nói
tâng
bốc
khách
sáo,
cốt
sao
cho
đẹp
lòng
người
nghe,
một
cách
không
thực,
đôi
khi
hàm
chứa
dụng
ý
bên
trong.
Ái
ngữ
có
tác
dụng
đem
lại
an
vui,
bình
yên
thanh
thản
cho
người
nghe.
Ái
ngữ
có
tác
dụng
an
ủi
vỗ
về
những
tâm
hồn
nhiệt
não,
âu
lo
sợ
sệt.
Bởi
vậy,
chúng
ta
biết
lời
nói,
cũng
như
tiếng
cười,
có
khi
gây
được
c
?m
tình
tốt
đẹp,
cũng
có
khi
gây
nên
ác
cảm,
oán
thù
giữa
con
người
với
nhau.
Chỉ
cần
lỡ
một
lời
nói,
có
khi
hư
hỏng
việc
lớn.
Chỉ
cần
lỡ
một
lời
nói,
có
khi
bị
vạ
lây,
bị
thưa
kiện,
thậm
chí,
bị
tù
tội,
chỉ
vì
người
nghe
không
vừa
tai,
cho
nên
đặt
điều
đi
cáo
gian!
Điều
này
cũng
tùy
người,
tùy
lúc,
tùy
tâm
trạng,
hay
tùy
cảm
giác
của
người
nghe
nữa.
Trong
sách
có
câu:
"Bệnh
tòng
khẩu
nhập.
Họa
tòng
khẩu
xuất".
Nghĩa
là
các
bệnh,
thường
từ
cửa
miệng,
nhập
vào
cơ
thể,
gây
nên
tác
hại.
Tai
họa
xảy
đến,
thường
do
lời
nói,
từ
cửa
miệng
ra,
gây
nên
tác
hại.
Chúng
ta
biết
rằng,
ngoài
danh
và
lợi,
trên
thế
gian
này,
con
người
thường
hay,
tranh
chấp
với
nhau,
chỉ
vì
lời
nói.
Hai
người
nói
chuyện,
với
nhau
một
lúc,
không
nhường
nhịn
nhau,
không
nhượng
bộ
nhau,
chắc
chắn
đưa
tới,
tranh
chấp
cãi
vã.
Người
có
trí
tuệ
là
người
thực
hiện
được
điều
sau
đây:
Lời
nói
chẳng
động
tâm
ta.
Dù
lời
nói
ngọt
hay
là
đắng
cay.
Người
có
trí
tuệ
là
người
không
bị
lầm
lẫn,
không
bị
mê
hoặc,
vì
những
lời
nói
ngọt
ngào,
đầu
môi
chót
lưỡi,
không
bị
bực
bội
vì
những
lời
nói
trực
ngôn
thẳng
thắn.
Những
lời
nói
đường
mật
ngọt
ngào,
chót
lưỡi
đầu
môi,
đôi
khi
dẫn
dắt
chúng
ta
đến
cạm
bẩy
không
ngờ,
đến
chỗ
tan
nát
hạnh
phúc
gia
đình,
đến
chỗ
thân
tàn
ma
dại,
đến
chỗ
thân
bại
danh
liệt,
đến
chỗ
tán
gia
bại
sản,
đến
chỗ
tiêu
tan
sự
nghiệp,
có
khi
chết
chẳng
kịp
ngáp,
chẳng
kịp
hiểu
tại
sao!
Những
lời
nói
trực
ngôn
ngay
thẳng,
tuy
không
khéo
léo,
nhưng
thường
giúp
đỡ
chúng
ta
tỉnh
ngộ,
thoát
khỏi
những
cơn
mê
lầm,
không
còn
vướng
vòng
tà
đạo!
Khi
tâm
bình
tĩnh
thản
nhiên
trước
mọi
hoàn
cảnh,
chúng
ta
mới
có
thể
làm
chủ
được
lời
nói,
kiểm
soát
được
hành
động
và
chế
ngự
được
tư
tưởng
của
mình.
Còn
khi
tâm
loạn
động,
chúng
ta
càng
nói
càng
tức
giận
thêm,
càng
làm
càng
sai
trái
thêm,
càng
suy
nghĩ
càng
rối
trí
thêm.
Bởi
vậy
cho
nên,
trong
sách
có
câu:
Muốn
nói
bớt
bảy
còn
ba.
Bớt
hai
còn
một,
mới
là
an
vui.
Chư
Tổ
có
dạy:
"Nội
cần
khắc
niệm
chi
công.
Ngoại
hoằng
bất
tranh
chi
đức".
Nghĩa
là
bên
trong,
chúng
ta
luôn
luôn,
chế
ngự
khắc
phục,
thúc
liễm
tâm
niệm,
lăng
xăng
lộn
xộn.
Mỗi
khi
những
niệm,
lăng
xăng
lộn
xộn,
khởi
lên
trong
tâm,
chúng
ta
liền
biết,
bỏ
đi
không
theo.
Mọi
chuyện
sẽ
yên,
an
vui
lợi
lạc.
Lúc
đó
gọi
là:
"Bản
tâm
thanh
tịnh".
Còn
thế
nào
là:
Tâm
niệm
lăng
xăng?
Đó
là
tâm
niệm:
phân
biệt
kỳ
thị,
tranh
chấp
hơn
thua,
tự
cao
tự
đại,
tự
đắc
tự
ái,
tự
phong
tự
mãn.
Nói
chung,
những
niệm
do
tâm:
chấp
ngã
và
chấp
pháp,
đều
là
vọng
niệm,
lăng
xăng
lộn
xộn.
Hiểu
biết
như
vậy,
chính
là
công
phu,
tu
tập
thực
sự,
của
người
Phật
Tử,
tại
gia
xuất
gia.
Đối
với
bên
ngoài,
chúng
ta
luôn
luôn,
giữ
hạnh
nhẫn
nhịn,
luôn
luôn
thực
hành,
hạnh
nguyện
lắng
nghe,
không
lời
phê
phán,
không
hề
tranh
cãi,
dù
là
chuyện
lớn,
chuyện
nhỏ
cũng
vậy.
Hiểu
biết
như
vậy,
chính
là
đức
độ,
tu
tập
thực
sự,
của
người
Phật
Tử,
tại
gia
xuất
gia.
Người
nào
muốn
có,
công
đức
thực
sự,
phải
nên
triệt
để,
thực
hành
lời
dạy,
của
chư
Tổ
Sư,
chứ
không
phải
là:
đi
chùa
thiệt
nhiều,
cúng
kiến
thiệt
nhiều,
lễ
lạy
thiệt
nhiều,
làm
phước
thiệt
nhiều,
tưởng
rằng
như
vậy,
được
nhiều
công
đức,
phước
đức
hàng
đầu.
Thực
chẳng
phải
đâu!
Trong
sách
có
câu:
Lời
nói
đổi
trắng
thay
đen.
Thiên
đàng
địa
ngục
bon
chen
lối
nào?
Trực
ngôn
tâm
chẳng
lao
xao.
Giữ
tâm
thiền
định,
biết
bao
an
lành.
Người
đời
gọi
mình:
là
Ngài
là
Thầy,
Cụ
Ông
Cụ
Bà,
Cô
Bác
Cậu
Mợ,
Chú
Thím
Dì
Dượng,
là
gì
chăng
nữa,
thậm
chí
là
"Thằng",
thực
cũng
chẳng
sao,
người
có
lòng
nào,
tự
họ
biết
lấy,
mình
chẳng
bận
tâm,
an
nhiên
tự
tại,
dại
gì
lại
giận,
người
dửng
người
dưng,
không
thân
không
thích,
cũng
chẳng
mích
lòng,
lòng
vòng
thêm
mệt!
Người
đời
thường
nói:
"Cái
lưỡi
không
xương,
nhiều
đường
lắc
léo".
Nghĩa
là
cái
lưỡi
của
con
người
không
có
xương,
cho
nên
con
người
muốn
nói
kiểu
nào,
muốn
nói
cách
nào,
muốn
nói
thế
nào,
tùy
theo
trường
hợp,
tùy
theo
hoàn
cảnh,
tùy
theo
nhân
cách
của
mỗi
người.
Những
người
thường
hay,
nói
ngược
nói
xuôi,
không
giữ
uy
tín,
không
giữ
tư
cách,
không
giữ
lời
hứa,
người
ta
mỉa
mai:
đó
là
hạng
người,
trở
mặt
nuốt
lời,
như
người
đời
trở
bánh
tráng!
Trong
sách
có
câu:
"Một
người
nói
ngang,
ba
làng
không
cãi
lại".
Nghĩa
là:
khi
có
một
người,
nói
năng
ngang
tàng,
bất
kể
lẽ
phải,
bướng
bỉnh
cố
chấp,
đi
khắp
ba
làng,
chẳng
ai
đếm
xỉa,
chẳng
ai
thèm
cãi,
chẳng
ai
ngu
dại,
phí
công
phí
sức,
phí
cả
thời
gian,
hơn
thua
với
họ.
Chứ
không
phải:
ba
làng
cãi
không
lại!
Ngày
xưa
có
chuyện:
Một
người
vô
minh,
chưa
hiểu
Chánh
Pháp,
cho
nên
luôn
luôn,
buông
lời
chỉ
trích,
gièm
pha
mạ
lỵ,
phỉ
báng
đủ
điều.
Cho
đến
ngày
kia,
nhờ
đủ
nhân
duyên,
bỗng
dưng
hiểu
biết,
người
đó
ăn
năn,
hối
hận
vô
cùng.
Người
đó
nghĩ
rằng:
chỉ
còn
có
cách,
cắt
đứt
vứt
đi,
cái
lưỡi
của
mình,
mới
mong
có
thể,
chuộc
lại
lỗi
lầm,
quá
sức
to
lớn,
đã
làm
trước
đây.
May
mắn
lắm
thay,
khi
sắp
thực
hiện,
ý
định
cắt
lưỡi,
người
đó
gặp
lại,
anh
ruột
của
mình,
vốn
là
một
vị,
thiền
sư
đắc
đạo.
Người
anh
khuyên
rằng:
Ngày
này
trước
kia,
vì
không
hiểu
biết,
đã
dùng
cái
lưỡi,
phỉ
báng
Chánh
Pháp,
tạo
tội
tạo
nghiệp.
Giờ
đây
hiểu
được,
mọi
sự
mọi
việc,
hãy
dùng
cái
lưỡi,
xiển
dương
Chánh
Pháp,
đem
lại
ích
lợi,
cho
thực
nhiều
người.
Cũng
một
cái
lưỡi,
giúp
người
hại
người,
tùy
theo
tâm
tánh,
của
mỗi
cá
nhân.
Con
người
thực
ra,
sống
với
tâm
ma,
hay
là
tâm
Phật?
Bởi
vì
lời
nói
của
mình
khó
nghe,
người
đời
thường
gọi
là
nói
đâm
hơi,
nói
móc
họng,
cho
nên
không
có
ai
muốn
kết
bạn
với
mình,
không
có
ai
dám
làm
thân
với
mình,
không
có
ai
dám
tâm
sự
với
mình.
Tại
sao
vậy?
Bởi
vì,
sống
ở
trên
đời,
đâu
có
ai
thích,
bị
người
khác
chơi,
bới
móc
đời
tư,
bươi
móc
dòng
họ,
tổ
tiên
của
mình,
khai
ra
lý
lịch,
đưa
lên
mặt
báo,
bàng
dân
thiên
hạ,
mọi
người
đều
biết.
Cũng
vậy,
nếu
mình
kênh
kiệu
điêu
ngoa,
đốp
chát
thẳng
thừng,
chẳng
ngừng
chửi
bới,
lên
mặt
thầy
đời,
khuyên
người
lương
thiện,
hiền
lành
dễ
thương,
còn
mình
thì
không,
chơi
người
chẳng
ngừng,
tưng
bừng
đăng
báo,
làm
thơ
lếu
láo,
nhắn
gửi
chửi
người,
chắc
chắn
có
ngày,
người
ta
chơi
lại,
chết
chẳng
kịp
ngáp,
chẳng
kịp
niệm
thầm:
Mô
Phật,
cứu
con!
Lời
nói
đôi
khi
có
những
tác
dụng
không
thể
lường
trước
được.
Có
những
lời
nói
có
thể
đem
lại
an
vui,
hạnh
phúc
cho
người.
Có
những
lời
nói
có
thể
đem
lại
sự
ly
tán,
tan
nát
hạnh
phúc
của
người
khác,
đôi
khi
đổ
vỡ
hạnh
phúc
của
chính
người
nói
nữa.
Có
những
lời
nói,
là
m
cho
người
nghe,
mỉm
cười
tươi
tắn,
vui
vẻ
khỏe
khoắn.
Có
những
lời
nói,
khiến
cho
người
nghe,
nhăn
mặt
nhíu
mày,
đau
đầu
nhức
óc,
lộn
gan
lộn
ruột,
nhói
tim
mất
ngủ!
Có
những
lời
nói
có
thể
cứu
người,
cũng
có
những
lời
nói
có
thể
hại
người,
một
cách
dễ
dàng.
Thí
dụ
như
là:
Lời
nói
của
vị,
luật
sư
lương
tâm,
khó
kiếm
khó
tầm,
chức
nghiệp
cao
quí,
có
thể
cứu
người,
thoát
khỏi
tội
oan,
còn
như
mưu
toan,
của
một
nhân
chứng,
khai
gian
nói
dối,
làm
cho
người
khác,
phải
bị
tù
tội.
Một
vị
bác
sĩ,
khéo
lựa
lời
nói,
khuyến
khích
khuyên
lơn,
an
ủi
động
viên,
làm
dịu
tinh
thần,
giúp
được
bệnh
nhân,
yên
tâm
dưỡng
bệnh,
chóng
qua
hiểm
nghèo,
sớm
được
bình
phục.
Bằng
như
ngược
lại,
lời
nói
vô
ý,
có
thể
làm
cho,
bệnh
nhân
kích
động,
bệnh
tình
trầm
trọng,
tắt
thở
tức
thì.
Cũng
như
lời
nói,
của
nhà
ngoại
giao,
hay
các
sứ
thần,
hoặc
các
sứ
giả,
có
thể
đem
lại,
hòa
bình
hai
nước,
hoặc
gây
chiến
tranh,
binh
lửa
lan
tràn,
khắp
cả
mọi
nơi.
Nhiều
khi
lời
nói,
của
một
con
người,
sức
mạnh
lớn
hơn,
cả
một
đoàn
quân.
Có
người
thường
nói
năng
ngọt
ngào
với
người
dưng
bên
ngoài,
nhưng
đối
với
những
người
thân
thích,
bên
trong
gia
đình,
không
bao
giờ
lời
nói
được
ngọt
ngào
như
vậy.
Con
người
thường
thường,
không
ưa
thích
nhau,
làm
mích
lòng
nhau,
chỉ
vì
lời
nói,
ngay
cả
bạn
thân,
hay
giữa
vợ
chồng,
cha
mẹ
con
cái.
Tuy
nhiên
đến
khi,
một
người
bất
hạnh,
chẳng
may
qua
đời,
người
khác
kể
lể,
dài
dòng
văn
tự,
khóc
lóc
thảm
thiết,
nói
lời
tha
thiết,
nhớ
nhung
da
diết,
dù
có
hối
hận,
cũng
quá
muộn
màng!
Có
chuyện
lạ
đời,
trê
n
thế
gian
này,
chuyện
đó
chính
là:
con
người
thường
chỉ,
có
thể
nói
chuyện,
ngọt
ngào
dễ
thương,
với
người
nằm
xuống,
chỉ
còn
nằm
yên,
bất
động
để
nghe,
không
còn
đối
đáp,
cãi
cọ
được
nữa,
hoặc
là
nói
chuyện,
hằng
ngày
hằng
giờ,
với
tấm
mộ
bia,
ở
ngoài
nghĩa
địa.
Nhưng
khi
người
đó,
còn
sống
hiện
tiền,
con
người
chẳng
thể,
mở
miệng
nói
ra,
nói
được
lời
nào,
cho
thiệt
dễ
nghe,
cho
thiệt
dễ
thương!
Tại
sao
như
vậy?
Có
lẽ
bởi
vì,
con
người
thường
không,
sợ
người
còn
sống,
nhưng
hay
sợ
người,
đã
chết
trở
về,
bóp
cổ
mình
chăng?
Con
người
có
thể,
thương
yêu
súc
vật,
chó
mèo
chim
chuột,
cho
đến
côn
trùng,
nhưng
thường
lắm
khi,
không
thể
chịu
đựng,
không
thể
nhịn
được,
những
người
chung
quanh,
cha
mẹ
anh
em,
vợ
chồng
con
cái,
bạn
bè
gần
xa,
hàng
xóm
láng
giềng,
chỉ
vì
một
điều:
lời
nói
của
họ,
sao
quá
khó
nghe!
Tại
sao
như
vậy?
Bởi
vì
súc
vật,
không
hề
biết
nghe,
không
nói
tiếng
người,
cho
nên
không
bị,
con
người
mích
lòng!
Người
đời
thường
nói:
Hai
gà
ghét
nhau,
chỉ
vì
tiếng
gáy.
Hai
chó
ghét
nhau,
chỉ
vì
tiếng
sủa.
Hai
cô
ca
sĩ,
bao
giờ
thương
nhau?
Có
câu
chuyện
của
hai
con
chim
như
sau:
Một
hôm,
con
chim
cú
vọ,
sửa
soạn
dọn
tổ,
dời
sang
nơi
khác.
Con
chim
bồ
câu,
thấy
vậy
hỏi
thăm:
Chẳng
hay
chị
định,
dọn
tổ
đi
đâu?
Cú
vọ
đáp
rằng:
Con
người
ở
đây,
ác
ôn
quá
xá,
cứ
hễ
thấy
tôi,
đậu
ở
nơi
đâu,
họ
liền
ném
đá,
hoặc
lấy
cây
đập.
Tôi
không
chịu
nổi,
định
dọn
tổ
đi,
qua
ở
phương
tây,
hy
vọng
bên
đó,
dân
chúng
hiền
lành,
không
như
ở
đây.
Bồ
câu
bèn
nói:
Ở
chỗ
hàng
xóm,
thân
tình
lâu
nay,
nói
thiệt
chị
nghe,
đừng
giận
tôi
nhé.
Nếu
chị
không
sửa,
tiếng
kêu
ghê
rợn,
đinh
tai
nhức
óc,
thực
là
khó
nghe,
dù
chị
đến
đâu,
cũng
bị
bạc
đãi!
?
những
xứ
có
nhiều
sắc
dân
khác
nhau
cùng
chung
sống,
người
ta
có
thể
không
hiểu
người
khác
nói
gì,
vì
bất
đồng
ngôn
ngữ,
nhưng
người
ta
có
thể
đoán
được
người
khác
muốn
nói
gì,
qua
sắc
mặt,
cách
nói
và
giọng
nói.
Cho
nên
sắc
mặt,
cách
nói
và
giọng
nói
của
chúng
ta
cũng
đóng
một
vai
trò
quan
trọng,
trong
các
cuộc
giao
thiệp,
hay
tiếp
xúc
hằng
ngày.
Giọng
nói
êm
ái,
lễ
độ
tế
nhị,
ngọt
ngào
từ
tốn,
sắc
mặt
hiền
hòa,
dễ
thương
dễ
mến,
nhiếp
phục
lòng
người,
hơn
là
giọng
nói,
ồm
ồm
rào
rào,
ồn
ồn
ào
ào,
chanh
chua
khế
chát,
the
thé
khó
nghe,
mặt
mày
đỏ
ké,
khoa
tay
múa
chân.
Lời
nói
hiền
từ,
hòa
nhã
thanh
tao,
thân
thiết
thành
thật,
ngay
thẳng
rõ
ràng,
sáng
suốt
khôn
khéo,
cởi
mở
vui
vẻ,
rất
là
dễ
dàng,
cảm
hóa
lòng
người,
có
thể
hướng
dẫn,
người
vào
chánh
đạo.
Trong
sách
có
câu:
Chim
khôn
hót
tiếng
thanh
nhàn.
Người
khôn
nói
tiếng
dịu
dàng
dễ
nghe.
Khi
thực
hành
hạnh
bố
thí,
đồng
thời,
chúng
ta
nên
thực
hành
ái
ngữ.
Nghĩa
là:
khi
cho
vật
gì,
giúp
đỡ
việc
gì,
chúng
ta
nên
làm,
với
cả
tấm
lòng,
từ
bi
bình
đẳng,
và
dùng
lời
nói,
êm
ái
dịu
dàng,
khuyên
nhủ
an
ủi,
khuyến
khích
động
viên.
Chúng
ta
hiểu
rằng:
người
cho
nên
cám
ơn
người
nhận,
chứ
không
mong
cầu
người
nhận
nhớ
ơn.
Tại
sao
vậy?
Bởi
vì,
nhờ
có
người
nhận,
người
cho
mới
có
cơ
hội
làm
phước.
Hiểu
được
như
vậy,
chúng
ta
đã
thực
hành
hạnh
bố
thí
một
cách
thanh
tịnh,
bất
cần
vụ
lợi,
bất
cầu
báo
đáp,
bất
kể
ơn
nghĩa,
trong
kinh
sách
gọi
là
"Bố
Thí
Ba
La
Mật".
Trong
sách
có
câu:
Miếng
khi
đói
gói
khi
no.
Của
tuy
tơ
tóc
nghĩa
so
ngàn
trùng.
On
nghĩa
ngàn
trùng
đó,
chẳng
qua
do
lời
nói
ái
ngữ,
khi
đem
cho
một
miếng
vậy.
Nói
một
cách
khác,
ơn
nghĩa
tạo
được
từ
cách
đem
cho,
và,
lời
nói
khi
cho,
chứ
không
phải
hoàn
toàn
do
của
đem
cho.
Sách
cũng
có
câu:
"Cách
cho
hơn
là
của
cho",
chính
là
nghĩa
đó
vậy.
Bằng
như
ngược
lại,
người
nào
bố
thí,
với
tâm
mong
cầu,
những
sự
đền
đáp,
trông
đợi
báo
ơn,
hoặc
luôn
miệng
kể,
ơn
nghĩa
đã
làm,
với
nhiều
người
khác,
người
đó
chắc
chắn,
nhận
sự
phủ
phàng,
từ
kẻ
thọ
ơn.
Và
việc
làm
phước
như
vậy
mất
đi
ý
nghĩa
cao
đẹp.
Phước
báo
nếu
có,
cũng
rất
hạn
hẹp,
như
tâm
nhỏ
hẹp,
của
người
làm
ơn.
Người
đời
mỉa
mai,
như
vậy
gọi
là:
bố
thí
ba
la
làng,
hay:
bố
thí
la
ba
làng.
Nghĩa
là
người
đó
bố
thí
tiền
bạc,
hay
đem
của
cải
cho
người
khác,
rồi
la
to
lên
cho
cả
ba
làng,
làng
trên
hay
xóm
dưới,
xóm
giữa,
đều
biết.
Nhiều
khi
không
khéo
dùng
lời
nói,
trong
khi
bố
thí,
thay
vì
được
nhớ
ơn,
trái
lại,
người
cho
bị
thù
oán,
mà
chẳng
hề
hay
biết!
Trong
nhiều
trường
hợp,
việc
đó
xảy
ra,
ngay
trong
gia
đình,
giữa
những
người
thân,
ngay
cả
vợ
chồng,
cha
mẹ
con
cái,
hay
anh
chị
em!
Trong
các
gia
đì
nh,
nếu
không
cảm
thông,
vợ
chồng
xung
khắc,
chỉ
vì
lời
nói,
không
ai
nhịn
ai,
nên
kiếm
người
ngoài,
mời
về
đãi
tiệc,
tiệc
lớn
tiệc
nhỏ,
có
dịp
chuyện
trò,
nhỏ
to
đủ
chuyện,
trên
trời
dưới
biển,
thực
phí
thời
gian,
đáng
lẽ
dành
cho,
tu
tâm
dưỡng
tánh.
Có
những
lời
nói,
trong
các
bửa
tiệc,
trà
dư
tửu
hậu,
tác
hại
vô
cùng,
nguy
hại
khôn
lường!
Trong
sách
có
câu:
"Nhất
ngôn
ký
xuất,
tứ
mã
nan
truy".
Nghĩa
là
một
lời
nói
ra,
bốn
ngựa
khó
đuổi
theo
kịp.
Có
những
lời
nói
nhẹ
tựa
lông
hồng,
có
những
lời
nói
nặng
tựa
núi
non.
Có
những
lời
nói
như
vậy,
nhưng
thực
không
phải
vậy.
Sửa
đổi
được
lời
nói,
sửa
đổi
được
giọng
nói,
sửa
đổi
được
cách
nói,
tức
là
chúng
ta
đã
sửa
đổi
được
tâm
tánh,
giảm
bớt
được
khẩu
nghiệp.
Thực
hành
được
ái
ngữ
tức
là
tăng
trưởng
tâm
Phật,
tâm
từ
bi
hỷ
xả.
Thực
hành
được
ái
ngữ
tức
là
dẹp
được
tâm
ma,
như
là:
tâm
tham
lam,
tâm
sân
hận,
tâm
si
mê,
tâm
ganh
ghét,
tâm
đố
kỵ,
tâm
ganh
tị,
tâm
hiềm
khích,
tâm
tật
đố,
tâm
hơn
thua,
tâm
ngã
mạn,
tâm
khinh
người,
tâm
khen
mình,
tâm
chê
người.
Thực
hành
được
ái
ngữ
tức
là
tu
tập
theo
hạnh
nguyện
đại
từ
đại
bi
của
đức
Quán
Thế
Âm
Bồ
Tát,
tầm
thinh
cứu
khổ
chúng
sanh.
Chúng
sanh
thường
đau
khổ
vì
những
lời
nói
của
nhau.
Cho
nên
thực
hành
được
ái
ngữ
tức
là
đem
lại
an
lạc
và
hạnh
phúc
cho
mọi
người
chung
quanh,
đem
nước
cam
lồ
trong
bình
thanh
tịnh
của
đức
Quán
Thế
Âm
Bồ
Tát,
rưới
vào
tâm
hồn
đang
nhiệt
não,
rót
vào
tai
âm
thanh
êm
ái
dịu
dàng,
có
công
năng
chuyển
hóa
con
người
đang
phiền
muộn,
tâm
hồn
đang
phiền
não
khổ
đau,
thành
con
người
vui
tươi,
tâm
hồn
an
lạc
hạnh
phúc.
Tất
cả
hạnh
phúc
trên
đời
đều
bắt
đầu
từ
lời
nói
của
chúng
ta.
Chúng
ta
khởi
đầu
tất
cả
mọi
sự
mọi
việc.
Chúng
ta
sinh
sự
thì
sự
sẽ
sinh.
Chúng
ta
hòa
bình
thì
bình
yên
tự
tại.
Đừng
mong
người
khác
nói
lời
dễ
nghe,
trong
khi
chính
mình
chưa
làm
được
như
vậy.
Tây
phương
có
câu:
"Nothing
will
change
if
we
do
not
change
anything".
Các
bậc
cha
mẹ,
thường
dùng
ái
ngữ,
tử
tế
dịu
dàng,
ngọt
ngào
dễ
thương,
để
dễ
cảm
thông,
cùng
với
con
cái.
Nhưng
cũng
đôi
khi,
cha
mẹ
phải
dùng,
những
lời
cứng
rắn,
nghiêm
cấm
khắt
khe,
không
có
bao
che,
để
mà
khuyên
dạy,
cho
con
nên
người.
Như
vậy
đó
cũng
là
một
dạng
khác
của
ái
ngữ,
thực
hiện
với
tâm
từ
bi
của
bậc
bồ
tát.
Nói
một
cách
khác,
người
không
có
lòng
từ
bi
bác
ái,
không
thể
nào
có
ái
ngữ
được.
Thực
hành
được
ái
ngữ
tức
là
dùng
lời
nói
để
an
ủi,
trấn
an
những
tâm
hồn
âu
lo
sợ
sệt.
Đó
là
hạnh
vô
úy
thí
của
đức
Quán
Thế
Âm
Bồ
Tát.
Muốn
được
cứu
khổ,
trước
tiên
chúng
ta
phải
thực
hiện
theo
hạnh
nguyện
của
Ngài.
Chứ
không
phải
chỉ
van
xin
cầu
khẩn
mà
được
toại
nguyện
đâu!
Chúng
ta
thích
nghe,
lời
nói
thế
nào,
thì
hãy
nói
ra,
lời
nói
thế
ấy,
cho
người
khác
nghe.
*
*
*
Tóm
lại,
ái
ngữ
là
pháp
môn
rất
thiết
yếu,
rất
thực
tế,
rất
thông
dụng,
rất
hữu
hiệu,
cho
bất
cứ
ai,
không
riêng
Phật
Tử,
trên
thế
gian
này,
muốn
xây
dựng
được,
cuộc
sống
ý
nghĩa,
an
lạc
hạnh
phúc.
Ái
ngữ
giúp
con
người
cải
thiện
tự
thân.
Con
người
do
mê
mờ
nên
hành
vi
bất
chánh,
ngôn
ngữ
đảo
điên,
ý
niệm
tà
vạy,
chạy
theo
dục
vọng,
sống
theo
tà
đạo,
làm
chuyện
bất
lương.
Trái
lại,
nếu
con
người
biết
thực
hành
ái
ngữ
sẽ
hóa
giải
được
phiền
não
khổ
đau,
kiến
tạo
được
đời
sống
chân
chánh
ích
lợi.
Cổ
nhơn
có
dạy:
"Điều
ác
thiên
hạ
nói
về
ta,
đối
với
tâm
hồn
ta,
cũng
như
lưỡi
cày
đối
với
mặt
đất.
Lời
nói
ác
cày
xới
tâm
hồn
ta,
nhưng
làm
cho
tâm
hồn
ta
thêm
phì
nhiêu".
Chúng
ta
nên
nhớ:
các
bậc
thánh
hiền,
kim
cổ
đông
tây,
thường
bị
lời
nói,
phê
phán
thị
phi,
thậm
chí
kết
án,
gièm
pha
phỉ
báng,
tuy
nhiên
các
ngài,
nhân
cách
cao
quý,
bình
tĩnh
thản
nhiên,
cho
nên
giữ
được,
bản
tâm
thanh
tịnh.
Trong
kinh
sách
có
câu:
"Nam
Mô
Nhất
Thiết
Chúng
Sanh
Hoan
Hỷ
Kiến
Bồ
Tát".
Nghĩa
là
người
nào
muốn
cuộc
đời
an
lạc,
không
phiền
não,
chẳng
khổ
đau,
như
các
bậc
bồ
tát,
hãy
thực
hành
ái
ngữ
trong
đời
sống
hằng
ngày,
tất
nhiên
sẽ
được
mọi
người
hoan
hỷ
khi
gặp
mặt.
Trong
nhà
Phật,
mỗi
câu
niệm
hồng
danh
chư
Phật,
hoặc
chư
Bồ
Tát,
như
câu
nói
trên,
đều
có
ý
nghĩa
dạy
chúng
ta
một
hạnh
tu,
một
pháp
môn
tu,
một
công
phu
tu
tập,
chứ
không
phải
chỉ
để
chúng
ta
đọc
tụng
rầm
rầm,
mà
chẳng
hiểu
gì
hết,
cho
nên
chẳng
thực
hành
được
trong
đời
sống
hằng
ngày,
để
đem
lại
an
lạc
và
hạnh
phúc.
Ngày
xưa,
một
nhà
hiền
triết
có
bà
vợ,
thường
ngày
nói
nhiều.
Một
hôm,
bà
vợ
bị
bệnh,
không
nói
chuyện
được,
nhà
hiền
triết
than,
hôm
đó
ông
mất,
cơ
hội
thực
hành,
hạnh
tu
nhẫn
nhịn,
và
hạnh
lắng
nghe.
Chư
Tổ
có
dạy:
"Tu
mà
không
học,
đúng
là
tu
mù".
"Học
mà
không
tu,
đúng
là
tủ
sách".
Nghĩa
là:
Người
phát
tâm
thực
hành
việc
tu
tập,
sửa
đổi
tâm
tánh
của
mình,
nhưng
không
chịu
học
hỏi
giáo
lý,
không
chịu
tìm
hiểu
Chánh
Pháp,
ai
nói
gì
cũng
nghe,
ai
bảo
gì
cũng
tin,
người
đó
dễ
bị
dụ
vào
ngoại
đạo,
dễ
bị
lạc
vào
tà
đạo,
đúng
là
mù
quáng.
Còn
người
nào
chỉ
biết
lo
nghiên
cứu
tìm
tòi,
học
rộng
hiểu
nhiều,
không
lo
tu
tâm
dưỡng
tánh,
không
chịu
quán
sát
tự
tâm,
chỉ
lo
phê
bình
chỉ
trích
người
khác,
chỉ
thấy
lỗi
người,
không
thấy
lỗi
mình,
đúng
là
cái
tủ,
cái
đãy,
hay
cái
bị
đựng
sách
mà
thôi,
chẳng
ích
lợi
gì
cho
ai
cả.
Thí
dụ
như
có
người
suốt
ngày
đếm
tiền
ở
nhà
băng
của
chủ,
có
người
suốt
ngày
chăn
trâu
ngoài
đồng
cho
chủ,
chiều
về
đến
nhà,
tiền
không
có,
trâu
cũng
không!
Chẳng
hạn
như
người,
phát
tâm
tu
hành,
nhận
thấy
nói
nhiều,
chỉ
gây
phiền
não,
gặp
nhiều
khổ
đau,
không
ích
lợi
gì,
bèn
thực
hành
theo,
pháp
tu
tịnh
khẩu,
nhưng
không
chịu
học,
kinh
sách
giáo
lý,
nhắm
mắt
nín
thinh,
bất
cứ
ai
hỏi,
bất
cứ
điều
gì,
đều
không
trả
lời,
nhứt
định
ngậm
miệng,
không
hề
hé
môi,
dù
nửa
lời
thôi,
cũng
không
chịu
nói.
Bên
ngoài
trông
qua,
có
vẻ
khá
lắm,
bên
trong
rối
rắm,
nội
tâm
xáo
trộn,
bão
táp
tơi
bời,
tức
giận
cành
hông.
Tại
sao
nông
nổi?
Bởi
vì
người
đó,
vẫn
nghe
biết
hết,
nhưng
không
nói
được,
lại
không
chịu
xả,
chất
chứa
lâu
ngày,
kho
tàng
tâm
thức,
đầy
tràn
ắp
lẫm,
những
chuyện
thị
phi,
những
chuyện
chánh
tà,
những
chuyện
lớn
nhỏ,
đủ
moi
mọi
thứ,
có
ngày
ứ
hự,
không
thể
nhịn
được,
không
thèm
tu
nữa!
Hành
mà
không
học,
đáng
sợ
như
là:
nọc
độc
chết
người!
---
o0o
---
Mục Lục
Tập
1:
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10
|
11|
12
Tập
2:
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10|
11|
Tập
3:
1|
2
|
3
|
4|
5|
6
|
7
|
8
|
9
|
10|
11|
12|
13|
14
|15|
16
---
o0o
---
| Thư
Mục
Tác
Giả
|
--- o0o ---
Chân
thành
cám
ơn
Cư
sĩ
Chính
Trực
đã
gửi
tặng
phiên
bản
điện
tử
bộ
sách
này
(Trang
nhà
Quảng
Đức,
05-2002)
Trình
bày
:
Nhị
Tường
Cập
nhật
ngày:
01-05-2002