Cư
Trần
Lạc
Ðạo
(Trọn
bộ 3 tập)
Toronto, Canada
1999 - PL 2543
---
o0o
---
Tập
3
[7]
Giá
trị
của
con
người
Từ
ngàn
xưa
cho
đến
ngày
nay,
từ
phương
đông
sang
đến
phương
tây,
từ
Á
châu
sang
đến
Âu
châu,
Mỹ
châu,
Phi
châu
và
Úc
châu,
khi
bàn
về
vấn
đề
giá
trị
của
con
người,
người
ta
có
vô
số
cách
nhận
định,
có
vô
số
căn
cứ,
có
vô
số
cơ
sở,
có
vô
số
thước
đo,
có
vô
số
tiêu
chuẩn,
có
vô
số
khía
cạnh
và
có
vô
số
căn
bản,
để
bàn
bạc,
để
thảo
luận,
để
tranh
cãi,
để
thẩm
định
giá
trị
của
con
người.
Không
ai
đồng
ý
với
ai.
Không
thời
điểm
nào
giống
thời
điểm
nào.
Không
địa
phương
nào
hợp
với
địa
phương
nào.
Không
sắc
tộc
nào
đồng
quan
điểm
với
sắc
tộc
nào.
Không
tôn
giáo
nào
đồng
ý
với
tôn
giáo
nào.
Trong
phạm
vi
xã
hội,
phải
chăng
con
người
có
nhiều
tài
sản,
tiền
bạc,
của
cải
thì
có
giá
trị
hơn?
Phải
chăng
con
người
có
nhiều
quyền
thế,
lắm
chức
tước,
địa
vị
cao
thì
có
giá
trị
hơn?
Phải
chăng
con
người
có
kiến
thức
rộng,
hiểu
biết
sâu
thì
có
giá
trị
hơn?
Phải
chăng
con
người
có
nghề
nghiệp
chuyên
môn,
bằng
cấp
cao
thì
có
giá
trị
hơn?
Phải
chăng
con
người
có
nhiều
danh
vọng,
nhiều
tiếng
tăm
thì
có
giá
trị
hơn?
Phải
chăng
con
người
có
sắc
đẹp
mỹ
miều,
duyên
dáng
thì
có
giá
trị
hơn?
Phải
chăng
con
người
có
nhiều
tài
năng,
khéo
léo
thì
có
giá
trị
hơn?
Trong
phạm
vi
tín
ngưỡng
hay
tôn
giáo,
phải
chăng
người
tu
sĩ
có
giá
trị
hơn
quảng
đại
quần
chúng
tín
đồ?
Phải
chăng
vị
tu
sĩ
nào
tu
nhiều
năm,
hay
có
phẩm
trật
cao
thì
có
giá
trị
hơn?
Phải
chăng
tín
đồ
nào
đi
cúng
kiến,
lễ
bái,
xem
lễ,
cầu
nguyện
nhiều
thì
có
giá
trị
hơn?
Phải
chăng
người
nào
biết
làm
việc
phước
thiện,
biết
làm
công
quả,
biết
làm
đồng
công,
biết
giúp
đỡ
nhiều
người,
biết
bố
thí
kẻ
nghèo,
biết
cúng
dường
các
bậc
tôn
túc,
biết
phân
biệt
phải
trái,
trắng
đen
thì
có
giá
trị
hơn?
Trong
muôn
ngàn
câu
hỏi
đó,
trong
muôn
ngàn
ý
kiến
của
muôn
triệu
người,
tự
cổ
chí
kim,
từ
đông
sang
tây,
từ
Á
sang
Âu,
vấn
đề
cần
suy
tư
hiện
nay
của
chúng
ta
là
gì?
Đó
chính
là
hai
câu
hỏi:
Đâu
là
giá
trị
chân
thật
của
con
người?
Tìm
hiểu
giá
trị
chân
thật
của
con
người
được
ích
lợi
gì?
*
*
*
trong
khi
bàn
về
vấn
đề
giá
trị
của
con
người,
thông
thường
người
ta
có
thể
xem
xét
về
hai
phương
diện:
vật
chất
và
tinh
thần.
Về
phương
diện
vật
chất,
người
đời
thường
đánh
giá
cao
những
con
người
ăn
mặc
lịch
sự,
sang
trọng,
đúng
thời
trang,
những
con
người
sống
trong
những
ngôi
nhà
cao,
cửa
rộng,
những
tòa
biệt
thự
đồ
sộ,
nguy
nga,
tráng
lệ,
những
con
người
đi
trên
những
chiếc
xe
hơi
lộng
lẫy,
đắt
tiền,
đầy
đủ
tiện
nghi,
những
con
người
rộng
rãi,
hào
phóng,
xài
tiền
như
nước.
Bên
cạnh
đó,
người
đời
cũng
thường
đánh
giá
cao
những
con
người
có
sắc
đẹp
quyến
rủ,
những
con
người
dung
mạo
tuyệt
trần,
những
con
người
có
thân
hình
lực
lưỡng,
cân
đối,
những
con
người
khỏe
mạnh,
tráng
kiện,
những
con
người
có
uy
quyền,
có
thế
lực,
có
danh
vọng,
những
con
người
có
địa
vị
trong
xã
hội,
những
con
người
có
tài
sản
kếch
sù,
những
con
người
có
nhiều
cơ
sở
làm
ăn,
buôn
bán,
kinh
doanh
khắp
nơi,
những
con
người
hét
ra
lửa
mửa
ra
khói,
những
con
người
tiền
hô
hậu
ủng,
những
con
người
có
kẻ
ăn
người
ở,
có
kẻ
hầu
người
hạ,
phục
dịch
trong
ngoài,
những
con
người
có
sức
mạnh
vô
địch,
những
con
người
có
võ
công
tuyệt
luân.
Những
con
người
như
vậy
sở
dĩ
được
đánh
giá
cao,
bởi
vì
đó
là
mục
tiêu
nhắm
đến,
là
niềm
mơ
ước
đạt
được
của
hầu
hết
mọi
người
nam
nữ,
già
trẻ,
lớn
bé,
trên
thế
gian
này.
Bằng
đủ
mọi
cách,
mọi
thứ,
mọi
phương
pháp,
mọi
phương
tiện,
mọi
mưu
mô,
mọi
kế
sách,
mọi
thủ
đoạn,
mọi
chiến
thuật,
mọi
chiến
lược,
mọi
sách
lược,
con
người
trên
thế
gian
này
đều
chỉ
mong
đạt
được,
đoạt
được
những
điều
mơ
ước
đó,
dù
có
phải
chà
đạp
lên
sanh
mạng
hay
nhân
phẩm
của
người
khác
hay
nhiều
người
khác.
Lắm
khi
con
người
bất
chấp
sanh
mạng
và
tiền
đồ
của
cả
một
dân
tộc,
hay
của
cả
nhân
loại
trên
quả
địa
cầu
này,
chỉ
vì
những
tiêu
chuẩn
giá
trị
trên
đây.
Thật
thảm
thương
thay!
Về
phương
diện
tinh
thần,
người
đời
thường
đánh
giá
cao
những
con
người
có
nhiều
bằng
cấp
chuyên
môn,
những
con
người
có
kiến
thức
rộng
rãi,
thông
thuộc
lịch
sử
đông
tây
kim
cổ,
những
con
người
có
sự
hiểu
biết
bao
quát
mọi
vấn
đề
trong
cuộc
sống,
những
con
người
có
nhiều
năng
khiếu
đặc
biệt,
những
con
người
đạt
được
nhiều
thành
tích
trong
mọi
lãnh
vực,
những
con
người
có
hình
tướng
trang
nghiêm,
đạo
mạo,
đàng
hoàng,
bề
ngoài
đứng
đắn,
từ
tốn,
chậm
rãi,
những
con
người
thực
hiện
được
những
chuyện
cao
cả,
những
chuyện
dị
thường,
những
chuyện
huyền
bí,
những
chuyện
kinh
dị,
những
chuyện
kinh
thiên
động
địa,
những
chuyện
không
ai
làm
nổi,
những
chuyện
không
ai
tưởng
tượng
nổi.
Tất
cả
những
con
người
kể
trên
được
đánh
giá
là
những
con
người
có
giá
trị
trong
xã
hội.
Nói
cách
khác,
giá
trị
của
con
người
trong
thế
gian
hiện
nay
được
xem
xét
không
ngoài
hai
phương
diện:
vật
chất
và
tinh
thần.
Nếu
không
giàu
sang
thì
cũng
phải
tài
giỏi.
Nếu
không
quyền
thế
thì
cũng
dòng
dõi
quý
phái,
danh
gia,
vọng
tộc.
Nếu
không
có
chức
thì
cũng
phải
có
bằng.
Nếu
không
tốt
tướng,
khỏe
mạnh,
đẹp
đẽ,
mặn
mà
thì
cũng
phải
nết
na,
duyên
dáng,
thùy
mị,
đạo
đức.
Chính
vì
những
tiêu
chuẩn
qui
định
giá
trị
của
con
người
như
trên,
cho
nên
cuộc
đời
trên
thế
gian
này
đầy
dẫy
những
bất
công,
gian
trá,
phiền
não
và
khổ
đau.
Nếu
tiêu
chuẩn
qui
định
giá
trị
của
con
người
là
tiền
tài,
của
cải,
giàu
sang
thì
tức
nhiên
những
con
người
thuộc
giới
bình
dân
sẽ
bị
khinh
khi,
chà
đạp.
Như
vậy,
nhân
phẩm
không
còn
được
tôn
trọng,
nhân
quyền
không
còn
được
bình
đẳng.
Những
con
người
không
có
nhiều
tiền
tài,
của
cải,
giàu
sang
thường
mang
mặc
cảm
tự
ti,
thấp
kém,
dễ
tự
ái,
cho
nên
lúc
nào
cũng
sẵn
sàng
phản
ứng,
đối
phó,
đôi
co,
cãi
cọ,
bực
bội,
khi
"thấy"
người
khác
khinh
dể
mình,
khi
"nghe"
người
khác
khinh
dể
mình,
khi
"nghi"
người
khác
khinh
dể
mình.
Đôi
khi
chưa
thấy
ai
khinh
dể
mình,
chỉ
nghe
thoang
thoáng,
nghe
đồn
đại,
nghe
phong
thanh
người
khác
khinh
dể
mình,
hoặc
nghi
người
khác
khinh
dể
mình,
thì
mình
đã
nỗi
trận
lôi
đình,
nỗi
giận
đùng
đùng,
ầm
ầm,
tam
bành
lục
tặc
nỗi
lên
cuồn
cuộn.
Bởi
vậy
mới
biết
trong
lòng
mỗi
người
chúng
ta,
ai
ai
cũng
đều
có
một
ngọn
hỏa
diệm
sơn
cả.
Tâm
trạng
của
những
người
không
có
nhiều
tiền
tài,
của
cải,
giàu
sang
thường
bất
an,
xáo
trộn.
Chỉ
cần
một
lời
nói,
một
cử
chỉ
hay
một
ý
nghĩ
"vô
ý"
nào
đó
cũng
có
thể
làm
bùng
nổ
những
cuộc
tranh
luận,
những
cuộc
tranh
chấp,
những
cuộc
tranh
biện,
những
cuộc
tranh
đấu,
những
cuộc
cãi
vã
giữa
hai
người,
giữa
hai
nhóm
người,
giữa
hai
đoàn
thể.
Và
như
vậy
thường
dẫn
đến
chuyện
ấu
đả
nhau,
tìm
cách
chơi
nhau
cho
đến
chết,
cho
tán
gia
bại
sản,
cho
sạt
nghiệp
luôn,
cho
dẹp
tiệm
luôn,
cho
đóng
cửa
báo
luôn,
cho
tơi
bời
hoa
lá
nhà
người,
cho
chúng
khỏi
ngóc
đầu
lên
nổi.
Hoặc
con
người
tìm
cách
kiện
tụng
nhau,
lôi
nhau
ra
trước
ba
tòa
quan
nhớn
quan
nhỏ,
tóc
quăn
mũi
lõ,
nhờ
phân
xử
những
bạn
bè
cũ
người
đồng
hương,
nếu
như
lời
nói,
cử
chỉ
hay
ý
nghĩ
đó
là
"cố
ý"
miệt
thị
người
khác
nghèo
hơn
mình,
ít
tiền
tài
hơn
mình,
miệt
thị
nhóm
người
khác
ít
của
cải,
ít
vốn
liếng,
ít
tiền
bạc
hơn
mình,
miệt
thị
đoàn
thể
khác
ít
uy
tín
hơn
đoàn
thể
mình.
Trái
lại,
những
con
người
nhiều
tiền
lắm
bạc
thường
kiêu
căng,
ngạo
mạn,
phách
lối,
coi
trời
bằng
nắp
vung,
dễ
gây
ác
cảm,
thù
hận
đối
với
mọi
người.
Những
con
người
thừa
tiền
lắm
của
thường
có
thái
độ
mục
hạ
vô
nhân,
họ
nhìn
đời
bằng
nửa
con
mắt,
họ
nhìn
đời
bằng
cặp
kiếng
đen;
dù
rằng
tiền
bạc
và
của
cải,
họ
đang
sở
hữu,
không
có
xuất
xứ
trong
sạch,
không
có
xuất
xứ
rõ
ràng,
minh
bạch
và
thực
là
không
đáng
hãnh
diện,
không
đáng
khoe
khoang,
không
đáng
tự
hào
chút
nào
cả!
Chính
vì
tiêu
chuẩn
qui
định
giá
trị
của
con
người
là
tiền
tài,
của
cải,
giàu
sang,
gây
nên
hậu
quả
an
ninh
của
xã
hội
cũng
bấp
bênh,
đạo
đức
suy
đồi,
tranh
chấp
triền
miên.
Cuộc
đời
đầy
dẫy
những
phiền
não
và
khổ
đau,
cho
cả
hai
hạng
người
"có
hay
không
có"
tiền
tài,
của
cải,
giàu
sang.
Nếu
tiêu
chuẩn
qui
định
giá
trị
của
con
người
là
quyền
thế,
địa
vị,
chức
tước,
phẩm
hàm,
danh
giá,
kiến
thức,
bằng
cấp,
tài
năng,
thì
tức
nhiên
những
con
người
thuộc
giới
bình
dân
sẽ
bị
khinh
khi,
chà
đạp.
Như
vậy,
nhân
phẩm
không
còn
được
tôn
trọng,
nhân
quyền
không
còn
được
bình
đẳng.
Những
con
người
không
có
quyền
thế,
địa
vị,
chức
tước,
phẩm
hàm,
danh
giá,
kiến
thức,
bằng
cấp,
tài
năng,
thường
mang
mặc
cảm
tự
ti,
thấp
kém,
dễ
tự
ái,
cho
nên
lúc
nào
cũng
sẵn
sàng
phản
ứng,
đối
phó,
đôi
co,
cãi
cọ,
bực
bội,
khi
"thấy"
người
khác
khinh
dể
mình,
khi
"nghe"
người
khác
khinh
dể
mình,
khi
"nghi"
người
khác
khinh
dể
mình.
Tâm
trạng
của
những
người
không
có
quyền
thế,
địa
vị,
chức
tước,
phẩm
hàm,
danh
giá,
kiến
thức,
bằng
cấp,
tài
năng,
thường
bất
an,
xáo
trộn.
Chỉ
cần
một
lời
nói,
một
cử
chỉ
hay
một
ý
nghĩ
"vô
ý"
nào
đó
cũng
có
thể
làm
bùng
nổ
những
cuộc
tranh
luận,
những
cuộc
tranh
chấp,
những
cuộc
tranh
biện,
những
cuộc
tranh
đấu,
những
cuộc
cãi
vã
giữa
hai
người,
hai
nhóm
người,
hai
phe
phái.
Và
như
vậy
thường
dẫn
đến
chuyện
ấu
đả
nhau,
tìm
cách
chơi
nhau
cho
đến
chết,
cho
tán
gia
bại
sản,
cho
sạt
nghiệp
luôn,
cho
dẹp
tiệm
luôn,
cho
đóng
cửa
báo
luôn,
cho
tơi
bời
hoa
lá
nhà
người,
cho
chúng
khỏi
ngóc
đầu
lên
nổi.
Hoặc
con
người
tìm
cách
kiện
tụng
nhau,
lôi
nhau
ra
trước
ba
tòa
quan
nhớn
quan
nhỏ,
tóc
quăn
mũi
lõ,
nhờ
phân
xử
những
bạn
bè
cũ
người
đồng
hương,
nếu
như
lời
nói,
cử
chỉ
hay
ý
nghĩ
đó
là
"cố
ý"
miệt
thị
người
khác
ngu
hơn
mình,
miệt
thị
người
khác
bằng
cấp
thấp
hơn
mình,
miệt
thị
người
khác
ít
tài
năng
hơn
mình,
miệt
thị
nhóm
người
khác
ít
danh
giá
hơn
mình,
miệt
thị
phe
phái
khác
ít
quyền
thế
hơn
mình.
Trái
lại,
những
con
người
quyền
thế,
địa
vị,
chức
tước,
phẩm
hàm,
danh
giá,
kiến
thức,
bằng
cấp,
tài
năng,
thường
kiêu
căng,
ngạo
mạn,
phách
lối,
dễ
gây
ác
cảm,
thù
hận
đối
với
mọi
người.
Những
con
người
quyền
cao
chức
trọng,
những
con
người
ăn
trên
ngồi
trước,
những
con
người
bằng
này
cấp
kia,
những
con
người
có
chức
có
tước,
thường
có
thái
độ
mục
hạ
vô
nhân,
họ
nhìn
đời
bằng
nửa
con
mắt,
họ
nhìn
đời
bằng
cặp
kiếng
đen;
dù
rằng
quyền
thế,
địa
vị,
chức
tước,
phẩm
hàm,
danh
giá,
kiến
thức,
bằng
cấp,
tài
năng
của
họ
chỉ
là
dõm,
là
hư,
là
giả
tạm,
là
hão
huyền,
và
thực
là
không
đáng
hãnh
diện,
không
đáng
khoe
khoang,
không
đáng
tự
hào
chút
nào
cả!
Chính
vì
tiêu
chuẩn
qui
định
giá
trị
của
con
người
là
quyền
thế,
địa
vị,
chức
tước,
phẩm
hàm,
danh
giá,
kiến
thức,
bằng
cấp,
tài
năng,
gây
nên
hậu
quả
an
ninh
của
xã
hội
cũng
bấp
bênh,
đạo
đức
suy
đồi,
tranh
chấp
triền
miên.
Cuộc
đời
đầy
dẫy
những
phiền
não
và
khổ
đau,
cho
cả
hai
hạng
người
"có
hay
không
có"
quyền
thế,
địa
vị,
chức
tước,
phẩm
hàm,
danh
giá,
kiến
thức,
bằng
cấp,
tài
năng.
Nếu
tiêu
chuẩn
qui
định
giá
trị
của
con
người
là
bề
ngoài
sang
trọng,
đẹp
đẽ,
quí
phái,
hình
tướng
trang
nghiêm,
đạo
mạo,
uy
nghi,
thì
tức
nhiên
những
con
người
thuộc
giới
bình
dân
sẽ
bị
khinh
khi,
chà
đạp.
Như
vậy,
nhân
phẩm
không
còn
được
tôn
trọng,
nhân
quyền
không
còn
được
bình
đẳng.
Những
con
người
không
có
bề
ngoài
sang
trọng,
đẹp
đẽ,
quí
phái,
hình
tướng
trang
nghiêm,
đạo
mạo,
uy
nghi,
thường
mang
mặc
cảm
tự
ti,
thấp
kém,
dễ
tự
ái,
cho
nên
lúc
nào
cũng
sẵn
sàng
phản
ứng,
đối
phó,
đôi
co,
cãi
cọ,
bực
bội,
khi
"thấy"
người
khác
khinh
dể
mình,
khi
"nghe"
người
khác
khinh
dể
mình,
khi
"nghi"
người
khác
khinh
dể
mình.
Tâm
trạng
của
những
người
không
có
bề
ngoài
sang
trọng,
đẹp
đẽ,
quí
phái,
hình
tướng
trang
nghiêm,
đạo
mạo,
uy
nghi,
thường
bất
an,
xáo
trộn.
Chỉ
cần
một
lời
nói,
một
cử
chỉ
hay
một
ý
nghĩ
"vô
ý"
nào
đó
cũng
có
thể
làm
bùng
nổ
những
cuộc
tranh
luận,
cãi
vã
giữa
hai
người,
hai
nhóm
người,
hai
tông
phái.
Và
như
vậy
thường
dẫn
đến
chuyện
ấu
đả
nhau,
tìm
cách
chơi
nhau
cho
đến
chết,
cho
tán
gia
bại
sản,
cho
sạt
nghiệp
luôn,
cho
dẹp
tiệm
luôn,
cho
đóng
cửa
báo
luôn,
cho
tơi
bời
hoa
lá
nhà
người,
cho
chúng
khỏi
ngóc
đầu
lên
nổi.
Hoặc
con
người
tìm
cách
kiện
tụng
nhau,
lôi
nhau
ra
trước
ba
tòa
quan
nhớn
quan
nhỏ,
tóc
quăn
mũi
lõ,
nhờ
phân
xử
những
bạn
bè
cũ
người
đồng
hương,
nếu
như
lời
nói,
cử
chỉ
hay
ý
nghĩ
đó
là
"cố
ý"
miệt
thị
người
khác
xấu
xí
hơn
mình,
không
sang
trọng
bằng
mình,
không
oai
phong
bằng
mình,
không
nỗi
tiếng
bằng
mình,
miệt
thị
nhóm
người
khác
không
quí
phái
bằng
nhóm
mình,
miệt
thị
tông
phái
khác
không
được
chính
tông,
chính
phái,
chân
truyền
như
mình,
không
trang
nghiêm,
đạo
mạo,
uy
nghi,
đĩnh
đạc
như
mình.
Trái
lại,
những
con
người
có
bề
ngoài
sang
trọng,
đẹp
đẽ,
quí
phái,
hình
tướng
trang
nghiêm,
đạo
mạo,
uy
nghi,
thường
kiêu
căng,
ngạo
mạn,
phách
lối,
dễ
gây
ác
cảm,
thù
hận
đối
với
mọi
người.
Những
con
người
bộ
vó
trang
nghiêm,
những
con
người
ra
vẻ
quí
phái,
những
con
người
có
tướng
oai
phong,
những
con
người
có
tiếng
có
tăm,
thường
có
thái
độ
mục
hạ
vô
nhân,
họ
nhìn
đời
bằng
nửa
con
mắt,
họ
nhìn
đời
bằng
cặp
kiếng
đen,
dù
rằng
bề
ngoài
sang
trọng,
đẹp
đẽ,
quí
phái,
hình
tướng
trang
nghiêm,
đạo
mạo,
uy
nghi
của
họ
chỉ
là
cái
võ
không
ruột
và
thực
là
không
đáng
hãnh
diện,
không
đáng
khoe
khoang,
không
đáng
tự
hào
chút
nào
cả!
Chính
vì
tiêu
chuẩn
qui
định
giá
trị
của
con
người
là
bề
ngoài
sang
trọng,
đẹp
đẽ,
quí
phái,
hình
tướng
trang
nghiêm,
đạo
mạo,
uy
nghi,
gây
nên
hậu
quả
an
ninh
của
xã
hội
cũng
bấp
bênh,
đạo
đức
suy
đồi,
tranh
chấp
triền
miên.
Cuộc
đời
đầy
dẫy
những
phiền
não
và
khổ
đau,
cho
cả
hai
hạng
người
"có
hay
không
có"
bề
ngoài
sang
trọng,
đẹp
đẽ,
quí
phái,
hình
tướng
trang
nghiêm,
đạo
mạo,
uy
nghi.
Như
vậy,
chúng
ta
phải
công
nhận
rằng
các
yếu
tố,
các
căn
cứ,
các
tiêu
chuẩn
qui
định
giá
trị
của
con
người
trên
đây
thường
dẫn
đến
những
vụ
xáo
trộn,
những
vụ
tranh
cãi,
những
vụ
tranh
chấp,
những
vụ
tranh
đấu,
những
vụ
tranh
biện,
những
vụ
tranh
luận,
những
vụ
tranh
đua,
những
vụ
kiện
tụng,
những
vụ
con
kiến
đi
kiện
củ
khoai,
những
vụ
vạch
áo
cho
người
xem
lưng,
những
vụ
vạch
lá
tìm
sâu,
những
vụ
đào
xới
tam
đại
tổ
tiên
người
khác
để
sỉ
vả,
nhục
mạ,
mắng
nhiếc,
chửi
bới,
bêu
riếu,
những
trận
bút
chiến,
những
sự
chia
rẽ,
những
hiện
tượng
phân
hóa,
những
bất
công
trong
xã
hội.
Đồng
thời,
các
tiêu
chuẩn
qui
định
giá
trị
của
con
người
trên
đây
cũng
dẫn
đến
những
phiền
não
và
khổ
đau
trong
tâm
tư
của
tuyệt
đại
đa
số
con
người
trên
thế
gian
này
trong
mọi
hoàn
cảnh.
Thí
dụ
như
chỉ
cần
nghe
người
nào
đó
chê
mình
nghèo,
chê
mình
bất
tài,
chê
mình
ngu,
chê
mình
dốt,
dù
là
chê
trước
mặt
hay
chê
sau
lưng,
thì
chúng
ta
cũng
khó
mà
nhịn
được.
Đôi
khi,
chưa
nghe
trực
tiếp
người
nào
nói,
chỉ
cần
nghe
đồn,
nghe
nói,
hay
tưởng
tượng
người
nào
đó
nói
xấu
mình
điều
gì
đó,
mình
chẳng
bao
giờ
bận
tâm
dành
một
phút
để
suy
xét
xem
mình
có
thực
xấu
như
người
ta
nói
đó
hay
không,
nhiều
khi
chưa
kịp
suy
nghĩ
phải
trái
gì
hết,
thì
ngọn
hỏa
diệm
sơn
trong
lòng
chúng
ta
đã
bùng
lên
dữ
dội,
khó
mà
ngăn
nổi.
Cho
dù
có
nhịn
được
bề
ngoài,
làm
tỉnh
ngoài
mặt,
chúng
ta
cũng
khó
lòng
dẹp
được
những
niệm
sân,
khởi
lên
trong
tâm
trí.
Cho
dù
có
dẹp
được
những
niệm
sân
đó
trong
tâm
trí
hôm
nay,
nhưng
sau
này,
mỗi
khi
chúng
ta
nhớ
lại
cảm
giác
bị
khinh
chê
đó,
tâm
trí
cũng
khởi
những
niệm
sân,
như
thể
câu
chuyện
mới
vừa
xảy
ra
vậy.
Thí
dụ
như
chỉ
cần
đọc
báo,
xem
phim
thấy
tác
giả
hay
đạo
diễn
nào
đó
viết
lách,
kể
chuyện,
dựng
phim,
ngụ
ý
châm
biếm,
khôi
hài,
chế
giểu,
đùa
cợt,
chê
bai,
khích
bác,
công
kích
những
thói
hư
tật
xấu
của
một
nhân
vật
nào
đó
trong
truyện
hay
trong
phim,
giống
y
chang
như
mình,
hay
na
ná
giống
như
mình,
thì
chúng
ta
khó
mà
nhịn
được,
khó
mà
dằn
được
cơn
tức
giận
trào
lên
như
sóng
cồn
ngoài
biển
cả,
khó
mà
nín
được,
không
thể
không
phản
ứng,
không
thể
không
viết
bài
đáp
lại,
nhẹ
thì
đính
chánh,
thanh
minh
thanh
nga,
nặng
thì
mạt
sát,
hèn
nhát
thì
sáng
tác
thư
rơi,
ném
đá
dấu
tay,
tuyên
truyền
rỉ
tai,
bươi
móc
đời
tư,
tam
đại
nhà
người
ta
cho
hả
hê
cái
lòng
dạ
hỏa
diệm
sơn
lâu
đời
của
mình,
cho
đả
cơn
tức
giận
vô
cùng
vô
tận
trong
lòng
mình,
còn
chưa
chịu
thôi,
nữa
là
phải
nhịn
hay
sao?
Nếu
không
làm
vậy,
chúng
cho
là
mình
ngu,
không
biết
gì
cả.
Chúng
nó
ngu
chứ
mình
đâu
có
ngu
dại
gì!
Nhất
định
phải
làm
tới,
phải
làm
cho
ra
nhẽ
mới
thôi.
Dại
gì
mà
nhịn
chứ!
Tại
sao
lại
phải
nhịn?
Nhịn
thì
nhục!
Cự
thì
đục!
Có
khi
người
ta
thực
sự
không
có
ý
ám
chỉ
mình,
nhưng
mình
cứ
la
toáng
hoáng
lên
và
nhận
bừa
rằng
họ
ám
chỉ
mình,
để
rồi
tự
mình
chuốc
lấy
phiền
não
và
khổ
đau,
ngày
ăn
không
ngon,
đêm
ngủ
chẳng
được!
Lúc
nào
mình
cũng
nghi,
lúc
nào
mình
cũng
nghĩ,
lúc
nào
mình
cũng
tưởng
tượng
và
cho
rằng
người
ta
luôn
luôn
chực
chờ
để
"chơi"
mình,
người
ta
luôn
luôn
muốn
đè
mình
xuống
để
nâng
họ
lên,
người
ta
luôn
luôn
muốn
tìm
dịp
để
hại
mình,
người
ta
luôn
luôn
rình
rập,
người
ta
luôn
luôn
soi
mói,
người
ta
luôn
luôn
muốn
vạch
lá
tìm
sâu,
người
ta
luôn
luôn
muốn
bới
lông
tìm
vết,
người
ta
luôn
luôn
muốn
vạch
áo
mình
cho
bàng
dân
thiên
hạ,
bá
tánh
trăm
họ
xem
lưng
mình
cho
biết
chơi!
Trong
Kinh
Pháp
Cú,
Đức
Phật
có
dạy
rằng:
Không
nên
tìm
lỗi
của
kẻ
khác,
không
nên
xét
những
việc
kẻ
khác
có
làm
hay
không
làm.
Hãy
tìm
lỗi
của
chính
mình,
hãy
xét
những
điều
đã
làm
hay
không
làm
trong
hành
động
của
chính
mình.
Thực
ra,
dù
người
ta
nói
mình
ngu,
mình
không
ngu
thì
thôi,
hơi
đâu
phí
sức
tức
giận
cho
mệt.
Người
ta
nói
mình
ngu,
mình
tức
giận
lên,
thì
đúng
là
mình
ngu
quá
rồi,
còn
gì
nói
nữa!
Người
ta
nói
mình
làm
bậy,
mình
không
có
làm
bậy
thì
thôi,
hơi
đâu
phí
sức
tức
giận
cho
mệt.
Người
ta
nói
mình
dính
lọ
trên
mặt,
mình
không
có
dính
lọ
trên
mặt
thì
thôi,
hơi
đâu
phí
sức
tức
giận
cho
mệt.
Người
ta
nói
mình
bị
mất
uy
tín,
mình
đâu
có
uy
tín
để
mất
thì
thôi,
hơi
đâu
phí
sức
tức
giận
cho
mệt.
Người
ta
nói
mình
nghèo
đến
mức
không
có
khố
để
che
thân,
mình
không
có
nghèo
đến
mức
đó
thì
thôi,
hơi
đâu
phí
sức
tức
giận
cho
mệt.
Người
ta
nói
mình
ngu
đến
mức
không
có
chữ
nghĩa
để
đem
bán
độ
nhựt,
mình
không
có
ngu,
không
có
dốt
đến
mức
đó
thì
thôi,
hơi
đâu
phí
sức
tức
giận
cho
mệt.
Trong
Pháp
Tứ
Y,
Đức
Phật
có
dạy:
"Y
nghĩa
bất
y
ngữ
".
Nghĩa
là
muốn
có
được
cuộc
sống
an
lạc
và
hạnh
phúc,
chúng
ta
đừng
cố
chấp,
đừng
quan
tâm
đến
những
"lời
nói
vô
nghĩa"
như
trên.
Chúng
ta
chỉ
có
hai
bàn
tay,
làm
sao
có
thể
bụm
miệng
thế
gian
cho
xuể?
Thôi
thì
kệ
họ
đi.
Được
như
vậy
thì
khỏe
quá
chừng
chừng!
Khỏe
re!
Còn
cố
chấp
thì
nặng
như
bò
kéo
xe!
Trong
thời
Đức
Phật
còn
tại
thế,
khi
Ngài
đi
khất
thực,
có
người
đi
theo
sau
quấy
rầy,
dùng
đủ
mọi
lời
thô
tháo,
mắng
nhiếc,
nhục
mạ.
Ngài
vẫn
thản
nhiên
bước
đi
trong
chánh
định,
như
không
có
chuyện
gì
xảy
ra
cả.
Người
đó
thấy
Đức
Phật
tiếp
tục
lặng
thinh,
nên
tức
giận
quá,
chặn
đường
và
hỏi:
Này
ông
Cồ
Đàm,
có
nghe
ta
nói
gì
không,
có
chịu
thua
chưa?
Lúc
đó,
Đức
Phật
từ
tốn
nói
bài
kệ
như
sau:
Người
hơn
thì
thêm
oán.
Kẻ
thua
ngủ
chẳng
yên.
Hơn
thua
đều
xả
hết.
Giấc
ngủ
được
an
lành.
Như
vậy,
nếu
chúng
ta
không
quan
tâm
đến
chuyện
hơn
thua,
không
chấp
những
lời
nói
vô
nghĩa,
những
câu
văn,
ngôn
ngữ,
bài
viết
xuất
phát
từ
lòng
hận
thù,
ganh
tị,
đố
kỵ,
ghen
ghét,
ai
muốn
nói
gì
cũng
chẳng
sao,
ai
muốn
nghĩ
gì
cũng
được,
thì
chắc
chắn
chúng
ta
sẽ
không
phiền
não
và
khổ
đau,
ngày
ăn
cơm
ngon
lành,
tối
đến
ngủ
thẳng
giấc.
Chẳng
hạn
như
khi
chúng
ta
đi
ăn
tiệc,
mãn
tiệc
ra
về,
chủ
nhà
gói
quà
biếu
tặng,
nhưng
chúng
ta
không
nhận,
thì
chủ
nhà
đương
nhiên
phải
giữ
món
quà
đó
lại.
Cũng
vậy,
người
đời
thường
"tặng"
chúng
ta
những
lời
khen,
tiếng
chê
đầu
môi
chót
lưỡi,
chúng
ta
"không
nhận",
thì
chẳng
ảnh
hưởng
gì,
sẽ
được
an
giấc
ngủ.
Nếu
nhận
lời
khen,
dù
biết
là
không
đúng,
thì
cũng
khoái
chí
quá
ngủ
chẳng
được.
Nhận
tiếng
chê,
tiếng
chì,
tiếng
bấc,
dù
biết
là
đúng,
thì
cũng
bực
dọc
quá,
bực
bội
quá,
bực
mình
quá,
bực
tức
quá,
tức
nhiên
ngủ
cũng
chẳng
được.
Như
vậy,
nếu
chẳng
những
nhận
vào
tâm
thức
những
lời
khen,
tiếng
chê,
còn
quyết
tâm
sống
để
dạ
chết
mang
theo,
thì
chúng
ta
ngu
hay
không
ngu?
Kệ
họ
nói
gì,
nghĩ
gì
thì
có
phải
là
khỏe
biết
mấy!
Người
ta
nói
lời
khen,
tiếng
chê
xong
rồi,
họ
về
nhà
quên
mất,
ngủ
thẳng
cẳng.
Còn
chúng
ta
cứ
nhớ
mãi,
nhớ
mãi,
còn
đem
san
sẻ
chia
sớt
cái
tâm
thần
bất
an
vì
những
lời
khen,
tiếng
chê
đó
cho
những
người
thân
trong
gia
đình,
vợ
chồng
con
cái,
để
mỗi
người
mất
ngủ
vài
đêm
giống
như
mình
vậy,
thử
hỏi
chúng
ta
ngu
hay
khôn?
Trong
Kinh
Pháp
Bảo
Đàn,
Lục
Tổ
Huệ
Năng
cũng
dạy:
Tắng
ái
bất
quan
tâm.
Trường
thân
lưỡng
cước
ngọa.
Nghĩa
là
nếu
những
chuyện
thương
thương
ghét
ghét
chẳng
bận
lòng,
chẳng
đem
vào
tâm
thức,
thì
chúng
ta
sẽ
nằm
thẳng
hai
chân
ra
mà
an
giấc
ngủ,
giấc
ngủ
được
an
lành,
khỏi
phải
trằn
trọc
suốt
canh
trường,
nằm
đếm
số
từ
một
đến
vài
trăm
ngàn!
Thiệt
là
khỏe
re!
Khỏe
ru
bà
rù!
Trong
tam
tạng
kinh
điển,
Đức
Phật
có
dạy
về
"pháp
nhẫn
ba
la
mật".
Nếu
thực
sự
chúng
ta
biết
được,
hiểu
được
và
thực
hành
được
như
vậy,
thì
chắc
chắn
chúng
ta
sẽ
thoát
khỏi
phiền
não
và
khổ
đau,
chúng
ta
sẽ
sống
cuộc
đời
an
lạc
và
hạnh
phúc
ngay
trên
thế
gian
đầy
tranh
chấp
này.
Thế
nào
là
"pháp
nhẫn
ba
la
mật"?
Đó
là
phương
pháp
nhẫn
nhịn,
kham
nhẫn,
chịu
đựng
mọi
chuyện
trên
đời,
mọi
cơn
sóng
gió
của
thế
gian.
Đó
là
phương
pháp
"nhẫn
nhịn
mà
không
thấy
nhục
nhã"
như
người
đời
thường
nghĩ.
Bởi
vì,
nếu
nhẫn
nhịn
mà
còn
thấy
là
nhục
nhã,
thì
chúng
ta
chỉ
có
thể
nén
giận
để
nhịn,
chắc
là
không
lâu,
không
quá
ba
lần.
Chúng
ta
nên
nhận
định
một
cách
sáng
suốt
rằng
những
lời
thị
phi
"không
có
nghĩa"
gì
cả,
cho
nên
chúng
ta
"không
cần
chấp"
làm
gì.
Chúng
ta
không
chấp
vào
những
lời
nói,
phê
bình,
chỉ
trích,
mạ
lị,
miệt
thị,
vu
khống,
vu
cáo,
thay
trắng
đổi
đen,
lộng
giả
thành
chơn,
thì
chắc
chắn
chúng
ta
sẽ
an
ổn,
bình
yên,
không
ai
xâm
phạm
được.
Thí
dụ
như
khi
người
ta
đưa
lửa
tới
đốt,
chúng
ta
đưa
bổi
ra
đón,
lửa
có
điều
kiện
cháy
lớn
hơn.
Nếu
chúng
ta
không
đón
ngọn
lửa
do
người
ta
đem
tới,
thì
ngọn
lửa
đó
chỉ
đốt
hư
không
mà
thôi,
hư
không
không
có
gì
để
đốt
cháy
được,
lúc
nào
đó
lửa
cũng
sẽ
tắt
queo,
không
gây
thiệt
hại
gì!
Cũng
vậy,
khi
bị
người
khác
công
kích,
chỉ
trích,
mạ
lị,
miệt
thị,
chúng
ta
không
chấp
vào
đó,
coi
chuyện
đó
là
những
chuyện
"đương
nhiên
phải
có"
ở
thế
gian
đầy
tranh
chấp,
ganh
tị,
đố
kỵ,
chúng
ta
sẽ
an
ổn,
bình
yên,
không
ai
xâm
phạm
được.
Trong
Kinh
Diệu
Pháp
Liên
Hoa,
gọi
tắt
là
Kinh
Pháp
Hoa,
Đức
Phật
dạy:
đó
là
"thập
như
thị",
tức
là
mười
thứ
như
thị,
gồm
có:
như
thị
tánh,
như
thị
tướng,
như
thị
thể,
như
thị
lực,
như
thị
tác,
như
thị
nhơn,
như
thị
duyên,
như
thị
quả,
như
thị
báo,
như
thị
bản
mạt
cứu
cánh.
Nghĩa
là:
do
tâm
tánh
của
con
người
như
vậy
cho
nên
hình
tướng
của
con
người
là
như
vậy;
do
bản
thể
của
con
người
như
vậy
cho
nên
nghiệp
lực
của
con
người
là
như
vậy;
do
tạo
tác
của
con
người
như
vậy
gây
ra
nghiệp
nhơn
như
vậy
cộng
thêm
nghiệp
duyên
như
vậy
cho
nên
nghiệp
quả
của
con
người
là
như
vậy;
vì
nghiệp
báo
của
con
người
như
vậy
cho
nên
từ
xưa
đến
giờ
cứu
cánh
của
con
người
cũng
là
như
vậy.
Hiểu
được
mười
điều
đương
nhiên
như
thị,
như
thế,
như
vậy,
tức
là
chúng
ta
đã
thấy
tột
chơn
tướng
của
mọi
pháp
trên
thế
gian
này.
Được
như
vậy,
được
như
thế,
được
như
thị,
chúng
ta
sẽ
sống
đời
an
lạc
và
hạnh
phúc,
bởi
vì
chúng
ta
đã
giác
ngộ
và
giải
thoát.
Nhưng
làm
thế
nào
thực
hành
được
pháp
nhẫn
ba
la
mật?
Câu
trả
lời
đó
là:
"Người
muốn
thực
hành
được
pháp
nhẫn
ba
la
mật,
phải
đạt
được
trạng
thái
vô
ngã".
Trước
hết,
người
đạt
được
"trạng
thái
vô
ngã"
là
người
không
còn
chấp
"cái
ta"
tầm
thường,
như
mọi
người
trên
thế
gian
này
thường
chấp.
Người
đời
thường
chấp,
thường
cho
rằng,
tấm
thân
tứ
đại
mấy
chục
ký
lô
chính
là
"mình",
chính
là
"ta".
Khi
được
hỏi
mình
là
ai,
người
đời
thường
chỉ
ngay
ngực,
hay
chỉ
vào
tấm
thân
tứ
đại
nặng
nề
và
trả
lời:
Ta
đây
nè!
Cho
nên,
hể
ai
đụng
đến
"ta",
thì
phải
phản
ứng
ngay,
phải
đối
phó
ngay,
nhịn
không
nổi,
nín
không
được.
Trái
lại,
người
đạt
được
"trạng
thái
vô
ngã"
là
người
hiểu
rõ
ràng:
tấm
thân,
do
đất
nước
gió
lửa
hợp
thành
này,
không
phải
là
"ta"
thực
sự.
Đó
chỉ
là
cái
trạm
dừng
tạm
thời
của
kiếp
này,
trong
vô
số
kiếp,
của
"ta"
mà
thôi.
Đến
khi
mãn
kiếp
này
đời
này,
"ta"
sẽ
bỏ
lại
cái
tấm
thân
đó
mà
ra
đi,
tìm
cái
thân
xác
khác,
trong
sáu
nẻo
luân
hồi.
Nếu
không
khéo,
do
lòng
tham
lam
lâu
đời
dẫn
dắt,
"ta"
lại
chọn
nhằm
cái
thân
con
heo,
hoặc
do
lòng
sân
hận
lâu
đời
dẫn
dắt,
"ta"
lại
chọn
nhằm
cái
thân
con
rắn
mãng
xà,
hay
do
lòng
si
mê
lâu
đời
dẫn
dắt,
"ta"
lại
chọn
nhằm
cái
thân
con
bò,
thì
khốn
khổ
biết
là
bao
nhiêu.
Sở
dĩ
gọi
đó
là
"tấm
thân
tứ
đại",
do
"đất
nước
gió
lửa"
hợp
thành,
bởi
vì
nếu
không
có
những
chất
từ
đất
ra
như
thức
ăn,
những
chất
từ
nước
như
thức
uống,
những
chất
từ
gió
như
dưỡng
khí,
những
chất
từ
lửa
như
hơi
ấm,
bồi
bổ
liên
tục
mỗi
giây,
mỗi
phút,
mỗi
giờ,
mỗi
ngày,
thì
chúng
ta
đã
vong
mạng
từ
lâu
rồi
vậy.
Đó
chỉ
là
"tấm
thân
tứ
đại",
không
phải
thực
là
"ta"
vậy.
Thứ
đến,
người
đạt
được
"trạng
thái
vô
ngã"
là
người
hiểu
rõ
ràng:
tâm
trạng
của
mình
luôn
luôn
thay
đổi
trong
từng
sát
na,
trong
từng
giây
phút.
Những
tâm
niệm,
những
suy
tư,
nghĩ
tưởng
trong
giây
phút
trước
đây,
bây
giờ
đã
khác
đi
hay
không
còn
nữa.
Tâm
tánh
của
mình
có
khi
hiền
thiện
như
thánh
nhơn,
cũng
lắm
khi
độc
hại
còn
hơn
ác
quỉ.
Mình
chỉ
thấy
mọi
người
khác
gian
ác,
mọi
người
khác
nguy
hiểm,
mọi
người
khác
sai
lầm,
đáng
bị
trừng
phạt,
đáng
bị
bỏ
tù,
đáng
bị
xử
tử,
để
cho
xã
hội
này,
cho
thế
gian
này,
trong
đó
có
mình,
được
sống
bình
yên,
được
hưởng
sung
sướng!
Con
người
thường
thấy
là
mình
đúng,
khi
đòi
hỏi
phải
trừng
phạt
thật
nặng,
đòi
hỏi
phải
bỏ
tù
rục
xương,
đày
đọa
địa
ngục,
xô
xuống
hỏa
ngục,
những
người
khác
phạm
tội
ác.
Con
người
thường
suy
nghĩ,
sáng
chế,
yêu
cầu
thi
hành
những
hình
phạt
ghê
rợn
nhất
để
trừng
phạt,
trừng
trị
đích
đáng
những
phạm
nhân
đã
sát
hại
thân
nhân
mình
và
nghĩ
rằng
người
quá
cố
sẽ
vui
lòng
nơi
suối
vàng.
Thực
ra,
đó
là
tâm
trạng
của
chính
mình
muốn
như
vậy
mà
thôi.
Người
đã
chết
có
nói
gì
đâu,
có
yêu
cầu
gì
đâu,
có
đòi
hỏi
gì
đâu?
Bởi
vậy
có
câu:
"Suy
bụng
ta
ra
bụng
người...
chết!
".
Mấy
ai
nghĩ
được
rằng:
nếu
làm
như
vậy,
cả
hai
gia
đình
phạm
nhân
và
nạn
nhân
cũng
đều
thiệt
hại
một
nhân
mạng,
đều
cùng
đau
khổ
như
nhau.
Thỉnh
thoảng
báo
chí
cũng
có
đăng
các
tin
rất
cảm
động,
gia
đình
nạn
nhân
xin
giảm
tội,
xin
xử
nhẹ
tội,
hay
xin
tha
tội
cho
phạm
nhân.
Trong
Kinh
Pháp
Cú,
Đức
Phật
có
dạy:
Lấy
oán
báo
oán,
oán
nghiệp
chập
chùng.
Lấy
ân
báo
oán,
oán
nghiệp
tiêu
tan.
Con
người
thường
nhân
danh
công
lý,
nhân
danh
tôn
giáo,
nhân
danh
lẽ
phải,
nhân
danh
thượng
đế,
nhân
danh
đủ
các
thứ
có
thể
nhân
danh
được,
để
kết
án,
kết
tội,
trừng
trị
tất
cả
mọi
người
khác.
Còn
nếu
mình
phạm
tội
thì
đáng
được
tha
thứ,
phải
được
tha
thứ,
người
khác
thì
không
đáng
được!
Cái
chỗ
bất
công
này
là
nguyên
nhân
chính,
đưa
tới
xáo
trộn,
biến
loạn
trong
xã
hội
là
như
vậy.
Cuối
cùng,
người
đạt
được
"trạng
thái
vô
ngã"
chính
là
người
không
còn
chấp
"cái
ta"
tầm
thường
như
mọi
người
trên
thế
gian
này
thường
chấp.
Người
đạt
được"trạng
thái
vô
ngã"
là
người
hiểu
rõ
ràng
rằng:
"ta"
không
phải
là
cái
thân
tứ
đại
nặng
nề,
và
cũng
không
phải
là
cái
tâm
suy
nghĩ
lăng
xăng
lộn
xộn
thường
ngày,
bởi
vì
những
thứ
đó
bị
vô
thường
chi
phối,
nay
còn
mai
mất,
chợt
hiện
chợt
biến,
không
tồn
tại
vĩnh
viễn.
Như
vậy,
"cái
gì"
tồn
tại
vĩnh
viễn,
không
bị
vô
thường
chi
phối,
"cái
gì"
bất
cấu,
bất
tịnh,
bất
tăng,
bất
giảm,
theo
như
Đức
Phật
chỉ
dạy
trong
Bát
Nhã
Tâm
Kinh?
Đó
chính
là
"cái
ta
chơn
thật",
đó
chính
là
"con
người
chơn
thật"
của
tất
cả
chúng
ta.
Mục
đích
cứu
kính
rốt
ráo
tột
cùng
của
Đạo
Phật
chính
là
nhằm
khai
mở,
chỉ
bày
"con
người
chơn
thật"
đó
cho
mọi
người
biết
được,
hiểu
được,
ngộ
được,
nhập
được,
sống
được.
Người
nào
được
như
vậy
tức
là
được
giác
ngộ
và
giải
thoát,
được
an
lạc
và
hạnh
phúc
hiện
đời.
Trong
kinh
sách,
Đức
Phật
có
dạy:
"Thiên
thượng
thiên
hạ
duy
ngã
độc
tôn".
Nghĩa
là
trên
trời
dưới
đất
chỉ
có
"cái
ta
chơn
thật"
là
điều
độc
nhứt
đáng
tôn
trọng,
đáng
trân
quí
mà
thôi.
Cũng
trong
Bát
Nhã
Tâm
Kinh,
Đức
Phật
có
dạy:
Tâm
vô
quái
ngại,
vô
quái
ngại
cố,
vô
hữu
khủng
bố,
viễn
ly
điên
đảo
mộng
tưởng,
cứu
cánh
niết
bàn.
Nghĩa
là:
Nếu
chúng
ta
ngộ
được,
nhập
được,
sống
được
bằng
"con
người
chơn
thật"
không
tướng
mạo,
nên
không
dơ,
không
sạch,
không
tăng,
không
giảm,
không
kẹt
nhị
biên,
thể
nhập
bất
nhị
pháp
môn,
thì
tâm
chúng
ta
không
bị
bất
cứ
cái
gì
có
thể
khủng
bố,
nên
không
còn
sợ
hãi,
do
không
còn
sợ
hãi
nên
không
có
gì
có
thể
khiến
cho
mình
kinh
khiếp
hoảng
sợ,
chúng
ta
xa
lìa
được
tất
cả
các
chuyện
điên
đảo
đảo
điên,
các
chuyện
mộng
mơ
mơ
tưởng,
các
chuyện
không
thực
ở
thế
gian,
cuối
cùng
đạt
được
cảnh
giới
niết
bàn
vô
sanh,
không
còn
phiền
não
khổ
đau,
không
còn
sinh
tử
luân
hồi.
Đó
mới
chính
thực
là
mục
đích
cứu
kính
của
người
theo
đạo
Phật
bằng
trí
tuệ
bát
nhã.
Trong
Kinh
Pháp
Cú,
Đức
Phật
dạy
rằng:
Người
nào
ôm
ấp
tâm
niệm
nó
mắng
tôi,
nó
chửi
tôi,
thì
không
phải
là
người
trí,
chỉ
chuốc
khổ
vào
thân
thôi.
Người
nào
không
ôm
ấp
những
tâm
niệm
như
vậy,
thì
người
đó
dẹp
được
lòng
sân
hận.
Nghĩa
là
chúng
ta
đã
thấy
rõ
như
trên,
bất
cứ
ai
dù
bị
mắng
chửi,
bị
mạ
lỵ
hay
không
bị
mắng
chửi,
không
bị
mạ
lỵ,
mà
cứ
ôm
ấp
tâm
niệm
đó
trong
lòng,
thì
chỉ
chuốc
lấy
phiền
não
và
khổ
đau
cho
chính
mình,
có
khi
còn
đem
lại
bất
an
cho
gia
đình,
cho
những
người
chung
quanh
nữa
mà
thôi.
Trong
suốt
những
năm
dài
thuyết
pháp
độ
sanh,
Đức
Phật
luôn
luôn
khuyến
khích
mọi
người
nên
thực
hành
hạnh
nhẫn
nại,
nhẫn
nhịn
đến
mức
rốt
ráo,
cao
tột,
trong
kinh
điển
gọi
là
"pháp
nhẫn
ba
la
mật".
Đức
Phật
luôn
luôn
hành
pháp
nhẫn
nại,
dù
lắm
khi
Ngài
cũng
bị
chỉ
trích,
bị
chửi
mắng,
thậm
chí
bị
tấn
công.
Nhẫn
nại
không
bao
giờ
là
dấu
hiệu
của
sự
yếu
đuối,
ươn
hèn,
kém
cỏi,
chủ
bại,
đầu
hàng,
nhục
nhã.
Trái
lại,
nhẫn
nại
là
sức
mạnh
bất
khuất,
sức
mạnh
vạn
năng,
sức
mạnh
vô
song
của
người
tự
chủ,
của
người
đã
ngộ
được
và
sống
được
với
"cái
ta
chơn
thật",
cho
nên
không
còn
sợ
bị
chúng
khinh
khi,
không
còn
sợ
chúng
"được
đằng
chân
lân
đằng
đầu",
không
còn
sợ
chúng
"được
nước
làm
tới".
Tại
sao
vậy?
Bởi
vì
"cái
ta
chơn
thật"
không
phải
là
tấm
thân
tứ
đại,
không
có
tướng
mạo,
cho
nên
không
ai
có
thể
xâm
phạm
được.
Điều
nên
sợ,
đáng
sợ
chính
là
mình
không
thể
kham
nhẫn
được,
không
thể
chịu
đựng
nỗi,
không
thể
tự
thắng
mình,
không
thể
tự
chủ
được
bản
thân
và
bản
tâm
mình
trước
những
thử
thách,
trước
những
sóng
gió
của
cuộc
đời
mà
thôi.
Trong
Kinh
Pháp
Cú,
Đức
Phật
có
dạy:
Chiến
thắng
trăm
ngàn
quân
không
bằng
tự
thắng
mình.
Tự
thắng
tâm
mình
là
điều
cao
quý
nhứt.
Nghĩa
là
chúng
ta
kham
nhẫn
được,
thực
hành
được
"pháp
nhẫn
ba
la
mật"
là
chúng
ta
đã
"tự
thắng
tâm
mình"
rồi
vậy.
Trong
Kinh
Pháp
Bảo
Đàn,
Lục
Tổ
Huệ
Năng
có
dạy:
Hãy
dứt
trừ
hết
các
tâm
xấu
của
chính
mình:
tâm
ghen
ghét,
tâm
tà
vạy,
tâm
vị
ngã,
tâm
giả
dối,
tâm
ngạo
mạn,
tâm
khinh
người,
tâm
tà
kiến,
cùng
tất
cả
những
hạnh
bất
thiện
trong
mọi
thời
mọi
lúc,
hãy
luôn
luôn
thấy
lỗi
mình,
không
nói
chuyện
tốt
xấu
của
người.
Thấu
hiểu
được
và
thực
hành
được
lời
dạy
trên
đây
của
Lục
Tổ
thì
không
cần
phải
hỏi
làm
sao
để
cuộc
sống
được
an
lạc
và
hạnh
phúc.
Đó
chính
là
an
lạc
và
hạnh
phúc
vậy.
Trong
vô
lượng
pháp
môn
tu
theo
đạo
Phật,
chỉ
cần
tu
hạnh
"nhẫn
nhục
ba
la
mật",
nghĩa
là
"nhẫn
mà
không
thấy
nhục",
thì
cũng
đạt
đến
chỗ
cứu
kính
gọi
là
"vô
sanh
pháp
nhẫn".
Vô
sanh
pháp
nhẫn
là
công
phu
tu
chứng
do
sức
kham
nhẫn,
sức
chịu
đựng
được
muôn
pháp
trên
thế
gian
xảy
đến,
mà
chúng
ta
không
sanh
khởi
một
niệm
nào
cả
trong
tâm
trí.
Tâm
trí
luôn
luôn
thanh
tịnh,
an
ổn,
tự
tại,
không
xáo
trộn,
không
lay
động.
Muôn
pháp
trên
thế
gian
này
không
ngoài
tám
thứ,
chia
làm
bốn
cặp,
đó
là:
"lợi
và
suy,
hủy
và
dự,
xưng
và
cơ,
khổ
và
lạc".
Tám
thứ
đó
còn
gọi
là
"Bát
Phong",
hay
tám
ngọn
gió
của
thế
gian,
không
bao
giờ
ngừng
thổi,
hết
cơn
gió
này
lại
đến
cơn
gió
khác.
Khi
gió
thổi
hiu
hiu,
nhè
nhẹ,
chúng
ta
có
thể
kham
nhẫn
nổi
một
cách
dễ
dàng.
Thí
dụ
như
những
lúc
tai
họa
xảy
tới
chút
đỉnh,
gặp
vài
chuyện
xui
xẻo
nho
nhỏ,
bị
các
chuyện
thị
phi
không
đáng
kể,
nhưng
nhờ
có
những
phước
báo
đã
làm
từ
nhiều
đời
trước
và
ngay
cả
đời
này,
cho
nên
chúng
ta
có
thể
lướt
qua
dễ
dàng.
Hoặc
là
những
lúc
được
lợi
lộc
nho
nhỏ
tới,
được
những
lời
khen
tặng
tán
dương,
hay
những
chuyện
vui
nho
nhỏ
xảy
ra,
chúng
ta
cũng
bị
động
tâm,
khó
giữ
được
sự
thanh
thản
bình
yên.
Khi
gió
thổi
thành
những
trận
cuồng
phong,
gây
tổn
thất
không
thể
lường
được.
Đó
là
những
lúc
tai
họa
lớn
xảy
đến
dồn
dập,
họa
vô
đơn
chí,
nhẹ
thì
tan
nhà
nát
cửa,
nặng
thì
mất
mạng.
Chẳng
hạn
như
vừa
bị
bệnh
hoạn,
vừa
mất
công
ăn
việc
làm,
vừa
gặp
tai
nạn
xe
cộ,
vừa
gặp
hỏa
hoạn
thiêu
rụi
nhà
cửa,
vừa
bị
chúng
kiện
đòi
bồi
thường
bạc
triệu!
Hoặc
những
lúc
tán
gia
bại
sản,
làm
ăn
thua
lỗ,
những
lúc
bị
chúng
bêu
xấu,
làm
nhục
trước
công
chúng,
làm
mất
thanh
danh,
gây
tai
tiếng,
bị
chúng
phỉ
báng,
vu
khống,
vu
cáo,
vu
oan
giá
họa.
Trong
những
trường
hợp
như
vậy,
chắc
chắn
chúng
ta
thế
nào
cũng
bị
động
tâm,
loạn
tâm,
điên
cuồng,
chán
đời,
bi
quan,
yếm
thế,
không
thể
giữ
được
sự
thanh
thản,
bình
yên,
thanh
tịnh
được.
Người
đạt
được
"vô
sanh
pháp
nhẫn"
là
người
kham
nhẫn,
chịu
đựng
nổi
"bát
phong"
của
cuộc
đời,
còn
gọi
là
người
"bát
phong
xuy
bất
động".
Nghĩa
là
con
người
trải
qua
tám
gió
nói
trên
mà
vẫn
như
như
bất
động.
Đó
mới
chính
thực
là
con
người
có
giá
trị
chơn
thật,
bất
tùy
phân
biệt,
nam
nữ,
học
thức,
địa
vị,
tướng
mạo,
dung
nghi,
xuất
xứ,
tôn
giáo,
tuổi
tác,
sắc
tộc,
địa
phương,
thời
gian,
tu
sĩ,
cư
sĩ,
đồng
cư
trên
thế
giới
ta
bà
này.
*
*
*
tóm
lại,
con
người
tuy
có
tiền
của
nhiều,
tài
sản
to,
địa
vị
tốt,
bằng
cấp
cao,
kiến
thức
rộng,
danh
vọng
lớn,
tài
năng
giỏi,
đến
khi
bị
suy
sụp,
đến
khi
bị
hủy
báng,
đến
khi
bị
phê
phán,
đến
khi
bị
khỗ
nạn,
nhưng
không
giữ
được
tư
cách,
không
giữ
được
nhân
phẩm,
tâm
hồn
không
giữ
được
bình
thản,
thanh
tịnh,
thì
ắt
không
phải
là
con
người
có
giá
trị
rồi.
Hơn
nữa,
những
thứ
như
tiền
của,
tài
sản,
địa
vị,
bằng
cấp,
kiến
thức,
danh
vọng,
tài
năng,
sắc
đẹp,
hình
tướng,
phẩm
trật,
đều
là
những
thứ
giả
tạm,
vô
thường,
không
cố
định,
luôn
luôn
biến
dịch,
luôn
luôn
thay
đổi,
cho
nên
tất
cả
đều
không
thể
dùng
để
thẩm
định
giá
trị
của
con
người.
Theo
giáo
lý
của
Đạo
Phật,
con
người
ở
trên
thế
gian
này
không
được
đánh
giá
qua
các
cách
nhận
định,
các
thước
đo,
các
tiêu
chuẩn,
các
khía
cạnh
và
các
căn
bản
trên
đây
về
cả
hai
phương
diện
vật
chất
và
tinh
thần.
Con
người
có
giá
trị
là
con
người
biết
ngắm
nhìn
cuộc
đời,
biết
lắng
nghe
cuộc
đời,
biết
kham
nhẫn
và
can
đảm
nhìn
thẳng
những
phiền
và
khổ
đau,
biết
chuyển
hóa
tam
chướng
thành
tam
nghiệp
thanh
tịnh.
Con
người
có
giá
trị
là
con
người
biết
chấp
nhận
tất
cả
những
gì
xảy
đến
với
mình
từ
cuộc
đời,
từ
lúc
sống
cho
đến
lúc
chết,
không
mong
cầu,
không
van
xin,
không
sợ
hãi,
sẵn
sàng
đón
nhận
phiền
não
hay
khổ
đau,
an
lạc
hay
hạnh
phúc.
Con
người
có
giá
trị
là
con
người
biết
hàng
phục
tâm
mình
bằng
cách
độ
vô
biên
chúng
sanh
trong
tâm
thức
mình
vào
niết
bàn,
mà
không
thấy
có
chúng
sanh
nào
được
diệt
độ
và
biết
an
trụ
tâm
mình
bằng
cách
bố
thí,
xả
bỏ
không
chấp
bốn
tướng
ngã,
nhơn,
chúng
sanh,
thọ
giả,
không
dính
sáu
trần
sắc,
thinh,
hương,
vị,
xúc,
pháp,
như
lời
Đức
Phật
dạy
trong
Kinh
Kim
Cang.
Con
người
có
giá
trị
là
con
người
biết
chiến
đấu
và
chiến
thắng
nội
tâm
của
chính
mình,
biết
trưởng
dưỡng
tứ
vô
lượng
tâm
từ
bi
hỷ
xả,
biết
lấy
ân
đức
đáp
hận
thù,
như
lời
Đức
Phật
dạy
trong
Kinh
Pháp
Cú.
Con
người
có
giá
trị
là
con
người
biết
sống
với
"tâm
bình
thường".
Kinh
sách
có
câu:
"Bình
thường
tâm
thị
đạo".
Con
người
có
giá
trị
là
con
người
"đối
cảnh
vô
tâm",
tức
là
con
người
vẫn
sống
trong
cuộc
đời
như
bao
nhiêu
người
khác,
nhưng
không
có
tâm
tham
sân
si,
cho
nên
tâm
không
loạn
động.
Con
người
có
giá
trị
là
con
người
dám
bước
chân
lên
con
thuyền
không
đáy,
trôi
giạt
giữa
trời
nước
mênh
mông.
Con
thuyền
đó
chính
là
con
thuyền
bát
nhã,
trời
nước
mênh
mông
chính
là
cảnh
giới
trầm
luân,
khổ
hải
vạn
trùng
ba.
Con
người
có
giá
trị
theo
quan
niệm
của
nhà
Phật
là
con
người
giác
ngộ
được
bản
ngã
chân
thật,
bên
ngoài
không
chấp
trước,
dính
mắc
chuyện
trần
đời,
mắt
trông
thấy
sắc
rồi
thôi,
tai
nghe
thấy
tiếng
nghe
rồi
thì
không,
cho
nên
bên
trong
không
có
niệm
khởi
và
giải
thoát
được
những
phiền
não
và
khổ
đau.
Con
người
có
giá
trị
là
con
người
bát
phong
xuy
bất
động,
là
con
người
có
cuộc
sống
an
lạc
và
hạnh
phúc
hiện
đời.
Đó
chính
là
đại
sự
nhân
duyên
mười
phương
tam
thế
chư
Phật
thị
hiện
ở
đời,
để
khai
thị
cho
con
người
ngộ
nhập
vào
chân
lý
bất
biến
của
vũ
trụ
vậy.
---
o0o
---
Mục Lục
Tập
1:
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10
|
11|
12
Tập
2:
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10|
11|
Tập
3:
1|
2
|
3
|
4|
5|
6
|
7
|
8
|
9
|
10|
11|
12|
13|
14
|15|
16
---
o0o
---
| Thư
Mục
Tác
Giả
|
--- o0o ---
Chân
thành
cám
ơn
Cư
sĩ
Chính
Trực
đã
gửi
tặng
phiên
bản
điện
tử
bộ
sách
này
(Trang
nhà
Quảng
Đức,
05-2002)
Trình
bày
:
Nhị
Tường
Cập
nhật
ngày:
01-05-2002