Cư
Trần
Lạc
Ðạo
(Trọn
bộ 3 tập)
Toronto, Canada
1999 - PL 2543
---
o0o
---
Tập
3
[9]
Luật
Nhân
quả
Và
các
vấn
đề
tái
sinh,
số
mệnh,
cầu
an,
cầu
siêu
Trong
đời
sống
hằng
ngày,
chúng
ta
có
rất
nhiều
thắc
mắc,
có
nhiều
vấn
đề
cần
phải
giải
quyết,
chẳng
hạn
như
là:
1)
Luật
nhân
quả
là
một
lý
thuyết
của
Phật
giáo
mà
tất
cả
vạn
vật
trong
vũ
trụ
đều
hoạt
động,
vận
hành
theo
quy
luật
đó.
Vậy,
luật
nhân
quả
là
gì?
Luật
nhân
quả
có
phải
do
Đức
Phật
chế
ra,
như
một
số
quốc
gia
đặt
ra
luật
đi
đường
chăng?
2)
Nếu
có
luân
hồi
thì
khi
chết
rồi
một
người
chỉ
tái
sanh
một
người
thôi,
tại
sao
thế
giới
này
ngày
xưa
thì
ít
mà
nhân
loại
mỗi
ngày
thêm
đông?
3)
Người
và
thú
hoàn
toàn
khác
nhau,
làm
sao
sau
khi
chết
người
có
thể
tái
sanh
thành
thú
và
thú
có
thể
thành
người?
4)
Theo
luật
nhân
quả
thì
ai
làm
nấy
chịu.
Tại
sao
có
những
việc
cha
làm
con
bị
ảnh
hưởng,
hoặc
con
làm
mà
cha
bị
liên
can?
5)
Nếu
"nhân
nào
quả
nấy",
tại
sao
có
người
cả
đời
hiền
từ
mà
lại
gặp
lắm
tai
nạn
khổ
sở,
trái
lại
người
hung
ác
sao
vẫn
được
an
lành
và
nhiều
may
mắn?
6)
Nếu
"nhân
nào
quả
nấy"
thì
chùa
làm
lễ
cầu
an,
cầu
siêu
có
đúng
với
luật
nhân
quả
không?
7)
Luật
nhân
quả
và
thuyết
định
mệnh
giống
nhau
hay
có
gì
khác
biệt?
*
*
*
Câu
hỏi
1:
Luật
nhân
quả
là
một
lý
thuyết
của
Phật
giáo
mà
tất
cả
vạn
vật
trong
vũ
trụ
đều
hoạt
động,
vận
hành
theo
quy
luật
đó.
Vậy,
luật
nhân
quả
là
gì?
Luật
nhân
quả
có
phải
do
Đức
Phật
chế
ra,
như
một
số
quốc
gia
đặt
ra
luật
đi
đường
chăng?
1)
Luật
nhân
quả
thực
ra
có
trước
đạo
Phật.
Tuy
nhiên,
khi
Đức
Phật
thành
đạo
dưới
cội
bồ
đề,
ngài
chứng
được
tam
minh,
lục
thông,
thấy
được
do
nguyên
nhân
nào
con
người
luân
hồi
trong
sáu
nẽo,
thấy
được
vô
lượng
kiếp
quá
khứ,
như
người
đứng
trên
lầu
cao,
nhìn
xuống
ngã
ba,
ngã
tư,
có
đông
người
qua
lại.
Do
đó,
luật
nhân
quả
được
giáo
lý
của
đạo
Phật
hoàn
chỉnh
và
luôn
luôn
được
đề
cập
trong
tam
tạng
kinh
điển,
cho
nên
luật
nhân
quả
trở
thành
lý
thuyết
căn
bản,
là
chánh
kiến
quan
trọng
trong
Phật
giáo.
Luật
nhân
quả
là
một
chân
lý
hiển
nhiên,
luôn
luôn
đúng
trong
ba
thời:
quá
khứ,
hiện
tại,
vị
lai,
không
lệ
thuộc
thời
gian
và
không
gian,
áp
dụng
cho
tất
cả
mọi
sự
sự
vật
vật.
Trong
khi
các
quốc
gia
đặt
ra
luật
đi
đường
chỉ
để
áp
dụng
trong
phạm
vi
quốc
gia
của
mình,
trong
thời
hiện
tại
mà
thôi.
Về
sau,
luật
đi
đường
đó
có
thể
sửa
đổi,
tu
chính
cho
thích
hợp
với
sự
tiến
hóa
của
xã
hội.
Quốc
gia
khác
có
thể
không
áp
dụng
cùng
luật
đi
đường
như
vậy,
đôi
khi
còn
ngược
hẳn
lại.
*
*
Câu
hỏi
2:
Nếu
có
luân
hồi
thì
khi
chết
rồi
một
người
chỉ
tái
sanh
một
người
thôi,
tại
sao
thế
giới
này
ngày
xưa
thì
ít
mà
nhân
loại
mỗi
ngày
thêm
đông?
2)
Thuyết
luân
hồi
tái
sanh
ảnh
hưởng
cho
tất
cả
mọi
loài
chúng
sanh
trong
sáu
cõi:
thiên,
nhơn,
a
tu
la,
địa
ngục,
ngạ
quỉ,
súc
sanh,
và
trong
tam
thiên
đại
thiên
thế
giới,
chứ
không
phải
chỉ
áp
dụng
cho
loài
người
ở
trên
quả
địa
cầu
này
mà
thôi.
Do
đó,
chúng
sanh
ở
cõi
này,
thế
giới
này
có
thể
tái
sanh
sang
cõi
khác
và
thế
giới
khác,
cho
nên
số
chúng
sanh
lên
xuống,
hay
thay
đổi
ở
các
cõi
là
vì
vậy.
*
*
Câu
hỏi
3:
Người
và
thú
hoàn
toàn
khác
nhau,
làm
sao
sau
khi
chết
người
có
thể
tái
sanh
thành
thú
và
thú
có
thể
thành
người?
3)
Người
và
thú
hoàn
toàn
khác
nhau
về
hình
tướng,
về
nghiệp
thức,
qua
cái
nhìn
của
thế
gian,
nhưng
qua
con
mắt
trí
tuệ
của
đạo
Phật,
người
hay
thú
cũng
đều
có
thân
tứ
đại
bao
gồm
đất,
nước,
gió,
lửa
như
nhau,
và
nhất
là
đều
có
Phật
Tánh,
có
tâm
thức.
Sau
khi
hưởng
hết
phước
báo,
lại
tạo
tội
tạo
nghiệp,
tức
là
tạo
nghiệp
nhân
chẳng
lành,
con
người
lãnh
nghiệp
quả
chẳng
lành
tương
ứng,
bị
đọa
vào
ba
đường
khổ:
địa
ngục,
ngạ
quỉ,
súc
sanh.
Hoặc
sau
khi
đền
trả
hết
nghiệp
báo
ba
đường
khổ,
con
người
được
trở
về
các
cảnh
giới
thiên,
nhơn,
a
tu
la.
Sự
tái
sanh
theo
luật
nhân
quả
qua
lại
trong
sáu
cõi
luân
hồi
như
vậy,
trong
kinh
sách
gọi
là:
trầm
luân
sanh
tử.
Tu
tập
theo
đạo
Phật
có
mục
đích
cứu
kính
là
giải
thoát
khỏi
vòng
sanh
tử
luân
hồi
nói
trên.
*
*
Câu
hỏi
4:
Theo
luật
nhân
quả
thì
ai
làm
nấy
chịu.
Tại
sao
có
những
việc
cha
làm
con
bị
ảnh
hưởng,
hoặc
con
làm
mà
cha
bị
liên
can?
4)
Đúng
là
theo
luật
nhân
quả,
ai
làm
nấy
hưởng,
ai
làm
nấy
chịu.
Đó
chính
là
sự
công
bằng
tuyệt
đối,
gọi
là
biệt
nghiệp,
tức
là
nghiệp
riêng
của
từng
người.
Nghiệp
có
ba
thứ:
thân
nghiệp,
khẩu
nghiệp
và
ý
nghiệp.
Thí
dụ
như:
nhảy
cao
thì
bị
gảy
cẳng,
nói
bậy
thì
bị
chúng
chửi,
nghĩ
bậy
thì
bị
nhức
đầu,
đó
gọi
là
biệt
nghiệp.
Thí
dụ
như:
ở
hiền
thì
gặp
lành,
nói
hiền
thì
người
thương,
nghĩ
tốt
thì
bình
yên.
Khi
người
cha
gặp
nạn,
thì
không
những
người
con
bị
ảnh
hưởng,
mà
cả
gia
đình
đều
chịu
khổ
sở
chung,
đó
gọi
là
cộng
nghiệp,
tức
là
nghiệp
chung
của
một
số
người
có
liên
hệ
với
nhau
về
huyết
thống,
về
sắc
tộc,
về
nghề
nghiệp,
về
địa
phương.
Còn
người
con
làm
mà
người
cha
bị
liên
can
cũng
chính
là
cộng
nghiệp,
hoặc
theo
luật
pháp,
người
cha
không
biết
dạy
dỗ
người
con
vị
thành
niên,
khi
người
con
làm
chuyện
phạm
pháp
thì
người
cha
phải
chịu
trách
nhiệm
liên
đới.
Đây
là
nói
về
đời
sống
hiện
tại.
Nếu
bàn
về
nhân
quả
nghiệp
báo
ba
đời
thì
người
này
có
thể
thiếu
nợ
người
kia,
người
kia
sanh
lên
làm
con
trong
đời
này,
tiêu
pha
hưởng
thụ
cho
đủ
số
nợ
rồi
đi,
có
khi
phá
tan
sản
nghiệp
của
cha
mẹ
nữa!
*
*
Câu
hỏi
5:
Nếu
"nhân
nào
quả
nấy",
tại
sao
có
người
cả
đời
hiền
từ
mà
lại
gặp
lắm
tai
nạn
khổ
sở,
trái
lại
người
hung
ác
sao
vẫn
được
an
lành
và
nhiều
may
mắn?
5)
Thường
thường,
chúng
ta
thấy
gieo
nhân
nào
thì
gặt
quả
nấy,
một
cách
nhãn
tiền.
Thí
dụ
như:
sinh
sự
thì
sự
sinh,
gieo
gió
thì
gặt
bão,
ở
hiền
thì
gặp
lành,
làm
thiện
thì
hưởng
phước.
Gieo
hột
cam
ngọt
thì
gặt
quả
cam
ngọt,
gieo
hột
chanh
chua
thì
gặt
quả
chanh
chua.
Tuy
nhiên,
cũng
có
nhiều
người
thắc
mắc:
Tại
sao
có
người
ăn
hiền
ở
lành,
tu
tâm
dưỡng
tánh,
thường
xuyên
đi
chùa,
hay
đi
nhà
thờ,
không
làm
việc
gì
bất
nhơn
thất
đức,
nhưng
cứ
bị
nạn,
bệnh
hoạnliên
miên,
họa
vô
đơn
chí,
xui
xẻo
dồn
dập?
Trái
lại,
có
rất
nhiều
người,
điêu
ngoa
hung
tợn,
lừa
thầy
phản
bạn,
làm
đủ
mọi
chuyện
tồi
tệ,
ném
đá
giấu
tay,
không
chừa
bất
cứ
thủ
đoạn,
phương
tiện
gian
manh
nào,
nhằm
đoạt
cho
bằng
được
mục
đích
vị
kỷ
của
họ,
tại
sao
họ
vẫn
cứ
nhởn
nhơ
phây
phây,
bình
yên
vô
sự,
ăn
nên
làm
ra,
gặp
nhiều
may
mắn,
tậu
nhà
sắm
xe?
Luật
nhân
quả
giải
thích
được
các
việc
đó
trong
ba
thời:
quá
khứ,
hiện
tại
và
vị
lai.
Có
những
nguyên
nhân
được
tạo
ra
trong
quá
khứ,
kết
quả
hay
hậu
quả
nhận
được
trong
hiện
tại.
Có
những
nguyên
nhân
được
tạo
ra
trong
hiện
tại,
kết
quả
hay
hậu
quả
nhận
được
trong
vị
lai.
Người
hiền
lành
đang
gieo
nhân
lành
trong
hiện
tại,
kết
quả
tốt
chưa
kịp
đến
thì
hiện
nay
phải
đền
trả
quả
báo
xấu
do
nghiệp
nhân
xấu
đã
gây
tạo
trong
quá
khứ.
Khi
quả
báo
xấu
hết
rồi,
vận
xui
qua
rồi,
con
người
bắt
đầu
gặp
may
mắn,
gặp
vận
hên,
gặp
số
đỏ,
gặp
quới
nhơn,
ăn
nên
làm
ra,
tiền
vô
như
nước,
vạn
sự
hanh
thông.
Do
đó,
sách
có
câu:
"Hết
cơn
bỉ
cực
tới
hồi
thới
lai",
chính
nghĩa
như
vậy.
Những
người
hiện
đời
đang
gieo
nhân
ác,
tạo
tội
tạo
nghiệp,
hậu
quả
xấu
chưa
kịp
trổ,
nhưng
hiện
tại
đang
thụ
hưởng
phước
báo
lành
do
nghiệp
nhân
tốt
đã
gieo
trong
quá
khứ.
Khi
hưởng
hết
phước
báo
rồi,
con
người
bắt
đầu
đền
trả
nghiệp
báo,
tai
nạn
triền
miên,
tán
gia
bại
sản,
lâm
bệnh
ngặt
nghèo,
hay
chết
thê
thảm.
Các
vị
quốc
vương,
hay
tổng
thống
bị
đảo
chánh
và
ám
sát,
các
tay
tài
phiệt
bị
phá
sản
phải
tự
tử,
các
hoàng
gia,
công
nương,
công
tử
bị
bất
đắc
kỳ
tử
trên
xa
lộ,
dưới
biển
sâu,
hay
trên
núi
tuyết,
cho
thấy
rằng
luật
nhân
quả
không
chừa
bất
cứ
ai,
không
có
ngoại
lệ,
không
hề
sai
chạy!
Trong
Kinh
A
Hàm,
Đức
Phật
có
dạy:
Dục
tri
tiền
thế
nhân,
đương
kim
thọ
giả
thị.
Yếu
tri
lai
thế
quả,
kim
sanh
tác
giả
thị.
Nghĩa
là:
Muốn
biết
kiếp
trước
mình
đã
gieo
nhân
gì,
hãy
nhìn
việc
mình
thọ
nhận
hiện
tại.
Muốn
biết
kiếp
sau
mình
sẽ
nhận
quả
nào,
hãy
nhìn
việc
mình
đang
làm
hiện
tại.
Nếu
hôm
nay
mình
dốt
nát
nghèo
nàn
khốn
khổ,
gặp
tai
nạn
liên
miên,
thậm
chí
chết
người,
thì
đó
là
quả
của
cái
nhân
tạo
ác
nghiệp
và
không
biết
làm
việc
phước
thiện
trước
đây.
Nếu
hôm
nay
mình
thông
minh,
đủ
ăn
đủ
mặc,
thì
đó
là
quả
của
cái
nhân
tu
tâm
dưỡng
tánh,
tích
phước
tích
đức
trước
đây,
nhiều
đời
và
đời
này.
Hôm
nay
mình
được
bình
an
là
quả
của
cái
nhân
mình
không
tạo
sự
bất
an
cho
kẻ
khác,
dù
đó
là
kẻ
thù.
Hôm
nay
mình
được
hạnh
phúc
là
quả
của
cái
nhân
mình
không
phá
hoại
hạnh
phúc
kẻ
khác,
dù
đó
là
kẻ
thù.
Tùy
theo
"cái
nhân"
là
hạt
giống
loại
nào,
sau
khi
được
gieo
xuống
đất,
phải
chờ
đủ
"thời
tiết
nhân
duyên",
mới
gặt
hái
"cái
quả"
của
nó,
có
khi
sớm,
cũng
có
khi
muộn.
Cũng
có
khi
gặt
phải
quả
chanh
chua,
nhưng
có
thể
đem
bán
đi,
mua
quả
cam
ngọt.
Đó
là
trường
hợp
chúng
ta
đã
"lỡ"
gieo
nhân
xấu,
nhưng
nhờ
thiện
hữu
tri
thức
nhắc
nhở,
chúng
ta
biết
phục
thiện,
quay
trở
về
chánh
đạo,
chuyển
ba
nghiệp
xấu
ác
thành
ba
nghiệp
thiện
lành,
làm
nhiều
việc
phước
đức,
tu
tâm
dưỡng
tánh,
chúng
ta
có
thể
gặt
"quả
tốt",
hay
ít
ra
cũng
giảm
bớt
được
"quả
xấu".
Tức
là
chuyện
khó
hóa
dễ,
chuyện
lớn
hóa
nhỏ,
chuyện
nhỏ
hóa
không.
Cũng
ví
như
gieo
nhân
biết
tiết
kiệm,
con
người
có
thể
gặt
quả
giàu
có,
hay
giảm
bớt
được
nợ
xưa
đó
vậy.
*
*
Câu
hỏi
6:
Nếu
"nhân
nào
quả
nấy"
thì
chùa
làm
lễ
cầu
an,
cầu
siêu
có
đúng
với
luật
nhân
quả
không?
6)
Ngoài
các
tính
chất
triết
học,
tín
ngưỡng,
đạo
đức,
luân
lý,
tâm
lý,
duy
thức,
Phật
giáo
cũng
là
một
tôn
giáo.
Cho
nên
Phật
giáo
cũng
có
những
nghi
thức,
nghi
lễ
để
truyền
bá
chánh
pháp
một
cách
rộng
rãi
trong
mọi
tầng
lớp
dân
gian.
Dân
chúng
đông
đảo
có
nhiều
căn
cơ
trình
độ
khác
nhau.
Chư
Tổ
sư
nhận
biết
điều
đó,
nên
đặt
ra
rất
nhiều
nghi
thức,
nghi
lễ,
như
là:
cầu
an,
cầu
siêu,
sám
hối,
thích
hợp
với
từng
hoàn
cảnh,
từng
trường
hợp
của
mọi
người
trong
dân
chúng.
Chẳng
hạn
như
là:
trong
gia
đình
có
một
người
lâm
trọng
bệnh,
ngoài
việc
cố
gắng
chữa
trị
theo
y
học
đông
hay
tây,
thân
nhân
cần
có
thêm
niềm
tin
vững
mạnh,
để
giúp
đỡ
người
bệnh
lên
tinh
thần,
bệnh
tình
chóng
khỏi.
Thân
nhân
bèn
đến
chùa
mong
được
quí
sư
làm
lễ
cầu
nguyện
chư
Phật,
chư
Bồ
Tát
gia
hộ
cho
người
bệnh
chóng
bình
phục,
tai
qua
nạn
khỏi.
Do
đó
nhà
chùa
có
lễ
cầu
an
để
giúp
đỡ
dân
chúng
về
mặt
tín
ngưỡng,
trong
hoàn
cảnh
mọi
người
đang
bối
rối,
để
đuợc
an
tâm
phần
nào
trong
lúc
điều
trị
cơn
bệnh.
Nếu
chẳng
may,
trong
gia
quyến
có
người
qua
đời,
thân
nhân
xót
thương
đau
khổ,
tìm
đến
chùa
để
mong
được
quí
sư
làm
lễ
cầu
nguyện
chư
Phật,
chư
Bồ
Tát
gia
hộ
cho
người
mãn
phần
được
vãng
sanh
về
cõi
an
lành,
về
cõi
tịnh
độ.
Do
đó
nhà
chùa
có
lễ
cầu
siêu
để
giúp
đỡ
dân
chúng
về
mặt
tín
ngưỡng,
trong
hoàn
cảnh
mọi
người
đang
bối
rối,
để
được
an
tâm
phần
nào
trong
lúc
lo
lắng
hậu
sự
cho
thân
nhân
của
mình.
Nhân
các
cơ
hội
đó,
quí
sư
đem
chánh
pháp
giảng
giải
cho
dân
chúng
được
thấu
rõ
về
lý
nhân
quả,
về
sự
vô
thường
trên
thế
gian,
nâng
cao
trình
độ
hiểu
biết
chánh
pháp
cho
những
người
hữu
duyên.
Nhờ
nhân
lành
này,
dân
chúng
được
khai
ngộ,
có
được
chánh
kiến,
đó
là
cái
thấy
biết
như
thật,
trở
về
qui
y
Tam
Bảo,
phát
nguyện
tu
tâm
dưỡng
tánh,
hưởng
được
quả
lành
sau
đó,
được
an
lạc
và
hạnh
phúc,
được
giác
ngộ
và
giải
thoát,
nhờ
công
phu
tu
tập
của
chính
bản
thân.
Tuy
nhiên,
nhiều
khi
có
những
người
ngoại
đạo,
ngoại
đạo
nghĩa
là:
ngoài
tâm
cầu
đạo,
khoác
màu
áo
của
tu
sĩ
Phật
giáo,
nhưng
không
có
Phật
Pháp,
chuyên
làm
nghề
thợ
tụng,
lợi
dụng
kinh
kệ,
lợi
dụng
lòng
mê
tín,
lợi
dụng
sự
đau
khổ
trong
hoàn
cảnh
bối
rối
của
người
khác,
để
kiếm
lợi
dưỡng
mưu
sinh,
như
vậy
chẳng
ích
lợi
gì
cho
chánh
pháp,
chẳng
ích
lợi
gì
cho
dân
chúng.
Tệ
nạn
này
thực
đáng
nên
bài
trừ!
Tóm
lại,
các
buổi
lễ
cầu
an,
cầu
siêu
trong
chùa
hoàn
toàn
đúng
với
chánh
pháp,
áp
dụng
luật
nhân
quả
một
cách
khéo
léo,
đã
được
chư
vị
Tổ
sư
từ
bi
đặt
ra
để
hướng
dẫn
dân
chúng
bước
vào
ngưỡng
cửa
từ
bi
của
nhà
Phật,
trong
khi
và
sau
khi
gặp
hoàn
cảnh
khổ
đau
trong
đời
sống
hằng
ngày,
nhằm
truyền
bá
rộng
rãi
chánh
pháp
vào
trong
dân
gian,
đem
lại
sự
bình
an
trong
tâm
hồn
của
mọi
người
đang
sống
trên
thế
gian
đầy
dầy
sự
bất
trắc
này.
***
Câu
hỏi
7:
Luật
nhân
quả
và
thuyết
định
mệnh
giống
nhau
hay
có
gì
khác
biệt?
7)
Thuyết
định
mệnh
chủ
trương
con
người
có
một
linh
hồn
cố
định
và
một
số
mệnh,
hay
số
mạng,
đã
được
định
sẵn,
đã
được
an
bài,
đã
được
quyết
định,
đã
được
xếp
đặt,
do
một
đ?ng
tối
cao,
gọi
là
thượng
đế
hay
tạo
hóa
hay
bất
cứ
tên
gọi
gì
khác,
và
con
người
phải
chịu
chấp
nhận
cái
định
mạng,
định
mệnh
sắp
sẵn
này,
không
phương
né
tránh,
không
có
cách
gì
thay
đổi,
tất
cả
mọi
cố
gắng
hay
nỗ
lực
của
con
người
đều
vô
ích,
vô
dụng!
Nếu
thuyết
định
mệnh
là
đúng
sự
thực
thì
con
người
trở
thành
tiêu
cực,
thụ
động,
yếu
hèn,
yên
phận,
yếm
thế,
vô
trách
nhiệm,
việc
làm
nào,
thiện
cũng
như
bất
thiện,
cũng
cho
là
do
ý
muốn
của
thượng
đế,
và
lắm
khi
trở
nên
hung
dữ,
bạo
tàn,
bất
nhân,
để
chống
lại
định
mệnh
đen
tối,
bất
công,
do
tạo
hóa
áp
đặt,
an
bài,
định
sẵn,
do
đó
con
người
tạo
tội
tạo
nghiệp,
và
làm
cho
bản
thân
và
xã
hội
thêm
đau
khổ.
Đạo
Phật
dạy
rằng:
chúng
sanh
chỉ
có
"tâm
thức"
luôn
luôn
thay
đổi,
mang
theo
"nghiệp
báo"
từ
nhiều
kiếp
trước.
Do
dòng
nghiệp
lực
chi
phối,
dẫn
dắt,
trói
buộc,
lôi
cuốn,
tâm
thức
luân
hồi
sanh
ra
trên
nhân
gian
này
làm
con
người.
Nhưng
do
nghiệp
báo
khác
nhau,
cho
nên
hình
tướng
mỗi
người
khác
nhau:
đẹp
xấu,
mạnh
yếu,
nam
nữ,
khôn
ngu,
lớn
nhỏ,
giàu
nghèo,
sang
hèn,
thậm
chí
anh
chị
em
trong
gia
đình
cũng
khác
nhau.
Nếu
có
ý
chí
mạnh
mẽ,
thấu
rõ
luật
nhân
quả,
thấu
hiểu
được
chân
lý,
con
người
có
thể
vượt
thoát
được
dòng
nghiệp
lực
này,
chuyển
hóa
được
nghiệp
báo
này.
Trong
kinh
sách
gọi
đó
là:
giác
ngộ
và
giải
thoát.
Chẳng
hạn
như
là:
con
người
thường
bị
tam
nghiệp
thân
khẩu
ý
sai
khiến,
lôi
cuốn
cho
nên
gây
ra
không
biết
bao
nhiêu
là
sự
đau
khổ
trên
thế
gian
này
cho
chính
mình
và
cho
những
người
chung
quanh.
Con
người
do
lòng
tham
lam
đi
cướp
của
giết
người,
sang
đoạt
tài
sản,
giựt
hụi
quịt
nợ,
lập
mưu
toan
tính
kế
gian,
thưa
gửi
kiện
tụng
người
khác
để
đòi
tiền
bồi
thường
bạc
triệu.
Con
người
do
lòng
sân
hận
đi
trả
thù
kẻ
hãm
hại
mình
bằng
các
thủ
đoạn
tàn
nhẫn
hơn,
chửi
mắng
rủa
xả
người
khác
bằng
những
lời
nói
cay
độc
hơn.
Con
người
do
lòng
si
mê
đi
tạo
tội
tạo
nghiệp,
gây
thù
chuốc
oán,
tạo
ra
biết
bao
điều
đau
khổ
cho
người
khác.
Nếu
con
người
hiểu
rõ,
tin
sâu
luật
nhân
quả,
cộng
thêm
ý
chí
giác
ngộ
mạnh
mẽ,
con
người
có
thể
dừng
nghiệp
và
chuyển
nghiệp,
tức
là
con
người
có
thể
chấm
dứt
dòng
nghiệp
lực,
chuyển
đổi
số
mệnh,
chuyển
hóa
cuộc
đời
khổ
đau
của
mình,
tu
tập
các
nghiệp
lành,
tức
nhiên
sẽ
gặt
các
quả
báo
lành.
Do
nghiệp
lực
quá
khứ,
con
người
sanh
ra
trên
cõi
đời
này
là
không
thay
đổi
được,
gọi
là
định
nghiệp,
chỉ
có
điểm
này
giống
với
thuyết
định
mệnh
mà
thôi.
Nhưng
sau
khi
sanh
ra
trên
cõi
đời
này,
mọi
sự
việc
xảy
ra
đều
tương
ứng
với
nhân
duyên
từ
trước,
đó
là
nghiệp
báo,
chứ
không
phải
là
số
mệnh
định
sẵn
hay
định
mệnh.
Luật
nhân
quả,
nhân
duyên,
hay
thuyết
nghiệp
báo,
thúc
đẩy
con
người
luôn
luôn
sống
trong
đạo
đức,
nâng
cao
giá
trị,
nhân
phẩm
của
con
người,
tránh
mọi
điều
ác,
làm
mọi
điều
lành,
giữ
tâm
ý
trong
sạch,
nếu
được
hiểu
sâu
rộng,
tường
tận
và
đem
thực
hành,
áp
dụng
vào
đời
sống
hằng
ngày,
chắc
chắn
sẽ
đem
lại
bao
nhiêu
điều
tốt
đẹp
cho
bản
thân,
cho
gia
đình
và
xã
hội.
Trong
sách
có
câu:
"Đức
năng
thắng
số",
nghĩa
là:
công
đức
và
phước
đức
do
nghiệp
nhân
lành,
có
khả
năng
thắng,
có
khả
năng
chuyển
đổi
số
phận
hay
vận
mệnh
của
con
người,
tức
là
chuyển
đổi
nghiệp
báo
vậy.
Vận
mệnh
của
con
người
bao
gồm
bốn
yếu
tố:
thiên
mệnh,
thời
mệnh,
địa
mệnh
và
nhân
mệnh.
Trong
kinh
sách,
có
ghi
trường
hợp
của
Angulimala,
vốn
là
một
tên
cướp
tàn
bạo
ở
vương
quốc
Kosala,
nhưng
sau
khi
gặp
Phật,
được
nghe
thuyết
pháp
và
thành
tâm
ăn
năn
hối
lỗi,
cải
tà
qui
chánh,
tu
hành
không
bao
lâu
chứng
được
thánh
quả.
Nhiều
người
sanh
ra
với
nghiệp
báo
thân
thể
yếu
đuối,
trí
tuệ
kém
cỏi,
nhưng
với
ý
chí
mạnh
mẽ,
rèn
luyện
thân
thể
và
chăm
chú
học
hành
cũng
có
cơ
hội
trở
thành
lực
sĩ,
trở
nên
các
nhà
bác
học,
các
bậc
triết
gia.
Quá
khứ
đã
qua
rồi,
không
thể
thay
đổi
được,
tương
lai
thì
chưa
đến,
không
nên
quá
lo
lắng,
con
người
hãy
sống
trong
hiện
tại
tỉnh
giác,
nhận
chân
thiện
ác,
giữ
gìn
chánh
niệm,
hành
động
lành,
lời
nói
lành,
ý
nghĩ
lành,
đó
chính
là
nghiệp
nhân
lành,
nhất
định
nghiệp
quả
lành
chắc
chắn
sẽ
đến
với
con
người
ngay
trong
đời
này
và
luôn
cả
đời
sau.
Trong
kinh
sách,
Đức
Phật
dạy:
"Mỗi
người
tùy
theo
nghiệp
của
mình
tạo
ra,
mà
có
được
thân
phận
hạnh
phúc
hay
bất
hạnh".
---
o0o
---
Mục Lục
Tập
1:
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10
|
11|
12
Tập
2:
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10|
11|
Tập
3:
1|
2
|
3
|
4|
5|
6
|
7
|
8
|
9
|
10|
11|
12|
13|
14
|15|
16
---
o0o
---
| Thư
Mục
Tác
Giả
|
--- o0o ---
Chân
thành
cám
ơn
Cư
sĩ
Chính
Trực
đã
gửi
tặng
phiên
bản
điện
tử
bộ
sách
này
(Trang
nhà
Quảng
Đức,
05-2002)
Trình
bày
:
Nhị
Tường
Cập
nhật
ngày:
01-05-2002