Cư
Trần
Lạc
Ðạo
(Trọn
bộ 3 tập)
Toronto, Canada
1999 - PL 2543
---
o0o
---
Tập
3
[11]
Phước
tuệ
song
Tu
Trong
đời
sống
này,
chúng
ta
thường
nghe,
nói
đến
chữ
"TU".
Chẳng
hạn
như
là:
tu
bổ
tu
sửa,
tu
chính
tu
chỉnh,
tu
tỉnh
tu
thân,
tu
nhân
tích
đức,
tu
tâm
dưỡng
tánh.
Những
từ
ngữ
đó,
có
nghĩa
chung
là:
sửa
chữa
sửa
đổi,
rèn
luyện
trau
giồi,
cho
được
mới
hơn,
cho
tốt
đẹp
hơn,
cho
đúng
đắn
hơn,
cho
chính
xác
hơn,
cả
hai
phương
diện,
vật
chất
tinh
thần.
Còn
như
nói
về,
phương
diện
tín
ngưỡng,
từ
ngữ
đi
tu,
thường
có
nghĩa
là:
rời
bỏ
đời
sống,
tại
nơi
thế
gian,
sống
đời
tu
sĩ,
trong
các
tự
viện,
hay
là
tu
viện,
thanh
tịnh
trang
nghiêm,
hoặc
đến
những
nơi,
núi
rừng
vắng
vẻ.
Phạm
vi
bài
này,
chỉ
đề
cập
đến,
công
phu
tu
tập,
có
thể
áp
dụng,
giáo
lý
đạo
Phật,
cho
người
tại
gia,
để
tạo
an
lạc,
hạnh
phúc
hiện
tiền,
ngay
trên
đời
này.
Ở
trong
đạo
Phật,
chúng
ta
thường
bàn,
đến
các
vấn
đề:
"tu
phước
tu
tuệ".
Tu
phước
là
gì?
Tu
tuệ
là
gì?
Giá
trị
tu
phước,
giá
trị
tu
tuệ,
khác
như
thế
nào?
Làm
sao
có
thể,
áp
dụng
vào
trong,
đời
sống
hằng
ngày,
của
người
tại
gia,
phát
tâm
tu
tập,
tu
tâm
dưỡng
tánh?
*
*
*
Trước
hết
là
việc,
chúng
ta
cần
biết,
đạo
Phật
xưa
nay,
có
những
nghi
lễ,
hình
thức
cúng
kiến,
của
một
tôn
giáo,
dành
cho
đại
chúng,
đa
số
tín
đồ,
những
người
chưa
thấu,
giáo
lý
thâm
sâu,
của
Đức
Thế
Tôn.
Chẳng
hạn
như
là:
cúng
kiến
lễ
lạy,
chuông
trống
khánh
mõ,
cầu
an
cầu
siêu,
cầu
phước
lộc
thọ,
cầu
nguyện
hòa
bình,
cầu
cho
chúng
sanh,
vạn
dân
bá
tánh,
an
lạc
hạnh
phúc.
Những
hình
thức
này,
rất
là
cần
thiết,
có
thể
giúp
cho,
những
người
sơ
cơ,
tin
theo
đạo
Phật,
bởi
do
ông
bà,
cha
mẹ
tin
Phật,
thỉnh
thoảng
đến
chùa,
vào
các
dịp
lễ,
lớn
nhỏ
hằng
năm,
hái
lộc
đầu
xuân,
dịp
tết
nguyên
đán,
hoặc
vào
các
dịp,
quan
hôn
tang
tế,
nhưng
không
hiểu
gì,
giáo
lý
đạo
Phật.
Hoặc
gặp
những
lúc,
phong
ba
bão
tố,
dồn
dập
trong
đời,
tâm
thần
điên
đảo,
đời
sống
chao
động,
con
người
cần
có,
cảnh
chùa
thanh
tịnh,
để
được
tĩnh
tâm,
cần
có
buổi
lễ,
cầu
an
cầu
phước,
để
tạm
an
tâm,
cần
có
những
người,
thiện
hữu
tri
thức,
hết
lòng
an
ủi,
giảng
giải
nghĩa
lý,
đem
lại
chánh
kiến,
giúp
đỡ
người
đó,
thoát
khỏi
những
cảnh,
khổ
đau
như
vậy.
Từ
các
dịp
đó,
con
người
đến
chùa,
sinh
hoạt
thường
xuyên,
và
hiểu
được
rằng:
bởi
vì
kém
phước,
thiếu
phước
ít
phước,
hết
phước
không
phước,
thường
gọi
"vô
phước",
cho
nên
cuộc
đời,
chịu
nhiều
thăng
trầm,
cuộc
sống
gặp
nhiều,
khó
khăn
bất
trắc,
khốn
khổ
đau
thương,
hoạn
nạn
điêu
đứng,
người
thương
không
có,
kẻ
ghét
thì
đông.
Do
đó
con
người,
phát
tâm
"tu
phước",
tạo
thêm
phước
báu,
để
cho
cuộc
đời,
vơi
bớt
phiền
não,
giảm
thiểu
khổ
đau.
Phước
báu
là
do,
chính
chúng
ta
tạo,
chứ
không
phải
do,
thượng
đế
ban
cho,
hay
do
cầu
nguyện.
Người
nào
tích
phước,
từ
trước
đến
nay,
không
cần
cầu
nguyện,
cuộc
đời
cũng
an,
ít
gặp
sóng
gió,
ít
có
trắc
trở,
đở
bớt
phiền
muộn,
tai
qua
nạn
khỏi,
chuyện
lớn
hóa
nhỏ,
chuyện
nhỏ
hóa
không,
chuyện
khó
hóa
dễ.
Trong
Kinh
A
Hàm,
Đức
Phật
có
dạy,
thí
dụ
như
sau:
Nếu
người
phải
bị,
nuốt
một
nắm
muối,
thì
sẽ
đau
khổ,
biết
là
dường
nào.
Nhưng
nếu
đem
bỏ,
nắm
muối
đó
vào,
một
tô
nước
nhỏ,
rồi
mới
phải
uống,
thì
sẽ
dễ
chịu,
hơn
một
chút
xíu.
Nếu
bỏ
nắm
muối,
vào
một
lu
nước,
rồi
mới
phải
uống,
thì
sẽ
dễ
chịu,
nhiều
hơn
chút
nữa.
Nếu
bỏ
nắm
muối,
vào
hồ
nước
lớn,
rồi
mới
uống
vào,
thì
chuyện
sẽ
không,
thành
vấn
đề
nữa.
Nắm
muối
tượng
trưng,
cho
các
nghiệp
nhân,
bất
thiện
chẳng
lành,
con
người
đã
tạo,
từ
trước
đến
nay,
bây
giờ
phải
lãnh,
nghiệp
quả
nghiệp
báo,
nói
chung
đó
là:
quả
báo
khổ
đau,
không
sao
tránh
khỏi.
Chỉ
có
phước
báo,
ít
hay
là
nhiều,
tượng
trưng
tô
nước,
lu
nước
hồ
nước,
có
thể
giúp
đỡ,
con
người
vượt
qua,
khổ
đau
mà
thôi.
Đó
mới
thực
là:
chí
công
vô
tư.
Mình
làm
mình
hưởng.
Mình
làm
mình
chịu.
Cầu
nguyện
van
xin,
dù
tin
hay
không,
thực
sự
chẳng
giúp,
chẳng
ích
gì
đâu.
Tại
sao
như
vậy?
Bởi
vì
thực
ra,
chính
vị
giáo
chủ,
giáo
phẩm
chức
sắc,
giáo
quyền
cao
cấp,
cũng
phải
trả
nghiệp,
đã
tạo
trước
kia,
nhiều
đời
nhiều
kiếp,
ngay
trong
kiếp
này,
cũng
bị
nguyền
rủa,
vu
khống
cáo
gian,
xử
án
khổ
nạn,
ám
sát
giết
hại,
một
cách
thê
thảm,
không
ai
thay
được!
Trong
khi
xảy
ra,
tai
nạn
xe
hơi,
xe
lửa
tàu
thủy,
hay
là
phi
cơ,
có
người
nằm
mơ,
cầu
nguyện
đức
Mẹ,
hằng
đi
cứu
giúp,
có
người
cầu
nguyện,
đức
Quán
Thế
Âm,
cứu
khổ
cứu
nạn.
Nếu
như
hai
người,
cùng
thoát
tai
nạn,
thực
sự
vị
nào,
đã
cứu
giúp
họ?
Còn
nếu
hai
người,
cùng
bị
thảm
tử,
thì
cả
hai
vị,
đều
bỏ
rơi
họ?
Có
phải
vậy
chăng?
Thực
ra
không
phải!
Không
có
vị
nào,
cứu
họ
giúp
họ,
theo
lời
cầu
nguyện.
Chỉ
có
phước
báo,
của
chính
cá
nhân,
đã
cứu
chính
họ!
Người
có
phước
báo,
nhiều
hơn
một
chút,
thì
được
thoát
nạn,
một
cách
an
ổn.
Người
có
phước
báo,
ít
hơn
một
chút,
thì
được
thoát
nạn,
một
chút
xây
xát.
Những
người
vô
phước,
không
còn
phước
báo,
thường
gọi
tới
số,
thì
đã
mạng
vong.
Chí
công
vô
tư,
là
luật
nhân
quả.
Trong
Kinh
A
Hàm,
Đức
Phật
có
dạy:
Chỉ
có
phước
báo,
mới
có
thể
làm,
giảm
thiểu
nghiệp
báo.
Nếu
như
chúng
ta,
phát
tâm
tu
phước,
tạo
thêm
phước
báu,
chúng
ta
thường
làm,
tất
cả
việc
thiện,
cứu
người
giúp
đời,
thường
được
gọi
là:
những
việc
"phước
thiện".
Chẳng
hạn
như
là:
bố
thí
cúng
dường,
hùn
phước
cất
chùa,
tạo
tượng
đúc
chuông,
ấn
tống
kinh
sách,
đi
chùa
lễ
Phật,
vào
chùa
công
quả,
tham
gia
hoạt
động,
từ
thiện
xã
hội,
cứu
trợ
nạn
nhân,
thiên
tai
bão
lụt,
giúp
đỡ
người
nghèo,
bần
cùng
khốn
khổ.
Tuy
nhiên
cũng
có,
những
người
tu
phước,
thường
hay
mong
cầu,
phước
báu
trở
lại,
với
bản
thân
mình,
với
gia
đình
mình,
qua
các
dạng
như:
thới
hên
may
mắn,
tai
qua
nạn
khỏi,
giàu
sang
hạnh
phúc,
ăn
nên
làm
ra,
cửa
nhà
êm
ấm,
con
cái
thành
tài,
buôn
may
bán
đắt.
Như
vậy
nghĩa
là:
mặc
dù
tu
phước,
người
rất
hiền
lương,
ăn
hiền
ở
lành,
việc
ác
không
làm,
chỉ
làm
việc
thiện,
nhưng
mà
tâm
niệm,
của
người
tu
phước,
chưa
được
quảng
đại,
còn
hay
vị
kỷ,
hơn
là
vị
tha,
chưa
được
thanh
tịnh.
Do
đó
cho
nên,
phước
báu
có
được,
rất
là
hạn
chế,
theo
như
tâm
lượng,
hạn
hẹp
của
mình.
Khi
không
như
ý,
những
người
tu
phước,
thường
hay
nổi
giận,
bực
bội
bất
an,
tâm
trạng
hoang
mang,
làm
cho
nhiều
người,
mất
dần
tín
tâm,
bỏ
theo
ngoại
đạo.
*
*
*
Trong
Kinh
Kim
Cang,
Đức
Phật
có
dạy:
"Nhược
Bồ
Tát
ư
pháp,
ưng
vô
sở
trụ,
hành
ư
bố
thí.
Sở
vị
bất
trụ
sắc
bố
thí,
bất
trụ
thinh,
hương,
vị,
xúc,
pháp
bố
thí.
Bồ
Tát
ưng
như
thị
bố
thí,
bất
trụ
ư
tướng.
Nhược
Bồ
Tát
bất
trụ
tướng
bố
thí,
kỳ
phước
đức
bất
khả
tư
lượng"
.
Nghĩa
là:
nếu
như
chúng
ta,
không
chấp
bốn
tướng:
ngã,
nhơn,
chúng
sanh,
thọ
giả,
và
không
chấp
sáu
trần:
sắc,
thinh,
hương,
vị,
xúc,
pháp,
mà
thực
hành
hạnh
bố
thí,
thì
phước
đức
không
thể
nghĩ,
không
thể
lường
được.
Nếu
người
tu
phước,
làm
việc
phước
thiện,
mà
không
vụ
lợi,
không
tâm
phân
biệt,
kỳ
thị
thân
sơ,
xuất
xứ
sang
hèn,
nam
nữ
sắc
tộc,
không
mong
cầu
lộc,
hay
được
báo
đáp,
không
hề
trông
chờ,
đền
ơn
đáp
nghĩa,
không
hề
thấy
mình,
là
người
làm
phước,
không
thấy
người
khác,
thọ
nhận
ơn
phước,
nếu
làm
như
vậy,
tạo
được
phước
báu,
vô
lượng
vô
biên,
không
thể
nghĩ
bàn.
Tại
sao
như
vậy?
Bởi
vì
tâm
lượng,
của
người
tu
phước,
ngay
lúc
bấy
giờ,
trở
nên
quảng
đại,
vô
cùng
vô
tận,
cho
nên
phước
báu,
trở
nên
to
lớn,
vô
lượng
vô
biên,
tương
ứng
rõ
ràng.
Trong
lúc
thực
hiện,
hành
động
tạo
phước,
lời
nói
tạo
phước,
ý
nghĩ
tạo
phước,
không
hề
nghĩ
rằng:
mình
đang
làm
phước.
Giúp
đỡ
người
khác,
chỉ
vì
tình
thương,
từ
bi
bác
ái,
lòng
tốt
tự
nhiên,
tâm
bất
vụ
lợi,
vì
người
quên
mình,
đó
chính
thực
là:
hành
động
tạo
phước,
cao
thượng
hạng
nhứt,
đem
lại
"phước
báu",
vô
lượng
vô
biên,
không
thể
nghĩ
bàn.
Chúng
ta
nên
biết:
chúng
ta
có
phước,
nếu
như
chúng
ta,
đầy
đủ
sức
khỏe,
lục
căn
hoàn
bị,
tay
chân
lành
lặn,
đi
đứng
tự
nhiên,
mắt
mũi
tinh
tường,
trí
óc
minh
mẫn,
sống
trong
hạnh
phúc,
gia
đạo
bình
an,
trên
thuận
dưới
hòa,
thuận
vợ
thuận
chồng,
con
cháu
ngoan
ngoãn,
hiền
lành
dễ
dạy,
cuộc
sống
bình
yên,
ít
gặp
sóng
gió,
ít
có
trắc
trở,
tai
qua
nạn
khỏi,
mọi
việc
suôn
sẻ,
mọi
sự
hanh
thông,
gặp
được
thầy
lành,
gặp
được
bạn
tốt.
Phước
báu
hơn
nữa,
nếu
như
chúng
ta,
gặp
được
chánh
pháp,
ngộ
được
chánh
đạo,
giác
ngộ
giải
thoát,
không
còn
trầm
luân,
sanh
tử
luân
hồi.
Người
trí
thực
hành,
hạnh
nguyện
bố
thí,
chẳng
cầu
báo
ân,
chẳng
cầu
lợi
mình,
chẳng
vì
giúp
đỡ,
cho
kẻ
bỏn
sẻn,
chẳng
vì
quả
báo,
sanh
cõi
nhơn
thiên,
giàu
sang
sung
sướng,
hưởng
thụ
dục
lạc,
chẳng
vì
danh
tiếng,
đồn
đãi
khắp
nơi,
chẳng
vì
có
của,
dư
dùng
không
xài,
chẳng
vì
bắt
chước,
làm
theo
người
khác.
Người
trí
thực
hành,
hạnh
nguyện
bố
thí,
chỉ
vì
từ
tâm,
giúp
người
cần
đến,
khiến
người
an
vui,
qua
cơn
khốn
khó,
bớt
cơn
phiền
não,
khiến
cho
người
khác,
sanh
tâm
bố
thí,
nhứt
tâm
hồi
hướng,
công
đức
phước
đức,
cho
khắp
muôn
loài,
pháp
giới
chúng
sanh.
Làm
được
như
vậy,
trí
tuệ
khai
mở,
tâm
niệm
hòa
bình,
chúng
sanh
an
lạc,
mọi
người
hạnh
phúc.
Người
thích
bố
thí,
chẳng
thích
tu
tuệ,
sanh
ra
giàu
có,
nhưng
tâm
trí
kém.
Người
thích
tu
tuệ,
chẳng
thích
bố
thí,
sanh
ra
thông
thái,
nhưng
nghèo
xác
xơ.
Tuy
nhiên
rõ
ràng,
trong
khi
tu
phước,
nếu
chúng
ta
làm,
với
tâm
chính
trực,
bất
tùy
phân
biệt,
kết
quả
đồng
thời,
cũng
có
nghĩa
là:
chúng
ta
tu
tuệ.
Chẳng
hạn
như
là:
chúng
ta
thực
hành,
hạnh
nguyện
bố
thí,
với
tâm
đại
từ,
tâm
bất
vụ
lợi,
chúng
ta
được
phước,
đồng
thời
kết
quả,
tâm
tham
bỏn
sẻn,
dần
dần
giảm
bớt,
thiểu
dục
tri
túc,
biết
đủ
bớt
tham,
không
còn
phạm
giới,
không
còn
tạo
nghiệp,
tâm
trí
ổn
định,
dần
dần
thanh
tịnh,
trí
tuệ
phát
sanh.
Như
vậy
nghĩa
là:
thực
tâm
tu
tập,
tu
phước
tu
tuệ,
đồng
thời
kết
quả.
Nếu
như
chúng
ta,
tu
tập
tinh
tấn,
sẽ
nhận
thấy
rằng:
trong
phước
có
tuệ,
trong
tuệ
có
phước.
Phước
báu
giúp
ta,
bớt
gặp
chướng
ngại,
trên
đường
tu
tập.
Trí
tuệ
giúp
ta,
tu
tiến
nhanh
thêm,
chóng
đến
bến
bờ,
giác
ngộ
giải
thoát,
lai
đáo
bỉ
ngạn.
Tu
tập
nghĩa
là:
áp
dụng
giáo
lý,
ngay
trong
cuộc
sống,
luôn
luôn
nhớ
nghĩ,
sửa
đổi
tâm
tánh,
của
chính
bản
thân,
ngày
một
an
hơn,
ngày
một
vui
hơn,
cho
đến
một
ngày,
giác
ngộ
giải
thoát.
Trong
Kinh
Pháp
Cú,
Đức
Phật
có
dạy:
Hãy
tự
thắp
đuốc,
tự
mình
bước
đi.
Thắp
sáng
trí
tuệ,
ngọn
đuốc
chánh
pháp.
Trí
tuệ
bát
nhã,
giúp
đỡ
chúng
ta,
thoát
khỏi
phiền
não,
giảm
thiểu
khổ
đau,
không
ngoài
giáo
pháp,
của
Đức
Thế
Tôn.
Do
đó
chúng
ta,
phát
tâm
tu
tập,
nên
học
giáo
lý,
mở
mang
trí
tuệ,
mới
tỏ
chánh
đạo,
mới
có
chánh
kiến,
mới
đặng
chánh
tín,
tâm
được
thanh
tịnh,
tránh
được
tà
đạo,
tránh
cảnh
tu
mù,
lọt
hầm
sụp
hố,
từ
bỏ
tâm
ma,
đạt
được
giác
ngộ,
thấu
rõ
chân
lý,
giải
thoát
khổ
đau,
sống
trong
cảnh
giới,
niết
bàn
hiện
tại,
ngay
trong
cuộc
sống,
hằng
ngày
của
mình.
Đó
mới
chính
là:
tu
tuệ
thực
sự.
*
*
Ở
trong
cuộc
sống,
thế
gian
hằng
ngày,
có
nhiều
cơ
hội,
có
rất
nhiều
cách,
có
nhiều
phương
pháp,
để
cho
con
người,
làm
phước
tạo
phước,
kiếm
phước
tích
phước.
Dù
đó
là
phước:
hữu
lậu
vô
lậu,
đều
có
công
năng,
giúp
cho
con
người,
có
được
cuộc
sống,
bình
yên
an
ổn,
ít
đau
khổ
hơn,
bớt
đi
phiền
não,
để
tiến
tới
chỗ,
giải
thoát
khỏi
vòng,
sanh
tử
luân
hồi.
Phước
báu
hữu
lậu,
do
những
việc
làm,
tạo
sự
an
vui,
thoải
mái
yên
bình,
ích
lợi
cho
người,
gặp
lúc
khó
khăn,
về
mặt
vật
chất,
hay
về
tinh
thần.
Phước
báu
hữu
lậu,
còn
có
công
năng,
đem
lại
may
mắn,
tai
qua
nạn
khỏi,
chuyện
lớn
hóa
nhỏ,
chuyện
nhỏ
hóa
không,
chuyện
khó
hóa
dễ,
hễ
chịu
làm
phước,
oan
trái
bớt
đi,
nghiệp
báo
giảm
thiểu.
Người
nào
làm
phước,
với
lòng
ước
mong,
hưởng
phước
về
sau,
đó
được
gọi
là:
phước
báu
hữu
lậu,
vẫn
còn
trong
vòng,
sanh
tử
luân
hồi.
Phước
báu
vô
lậu,
do
những
việc
làm,
lời
nói
ý
nghĩ,
ích
lợi
cho
người,
nhưng
đồng
thời
cũng,
giúp
chuyển
hóa
được,
con
người
chính
mình,
thí
dụ
như
là:
bố
thí
cúng
dường,
tụng
kinh
niệm
Phật,
tư
duy
thiền
quán,
nghiên
tầm
kinh
điển,
tu
tâm
dưỡng
tánh.
Người
nào
làm
phước,
với
bốn
tâm
lớn:
từ
bi
hỷ
xả,
tứ
vô
lượng
tâm,
lòng
không
cầu
mong,
hưởng
phước
về
sau,
chỉ
chuyên
cố
gắng,
tu
tập
tinh
tấn,
tiến
dần
đến
chỗ:
giác
ngộ
giải
thoát,
là
phước
vô
lậu,
vượt
thoát
khỏi
vòng,
sanh
tử
luân
hồi.
Phước
báu
hữu
lậu,
như
tiền
tiết
kiệm,
có
khả
năng
giúp,
con
người
giàu
sang,
sung
sướng
tấm
thân,
bình
yên
may
mắn.
Hưởng
phước
báo
này,
có
ngày
cũng
cạn,
cũng
dứt
cũng
hết.
Khi
đó
là
lúc,
con
người
sẽ
phải,
đền
trả
nghiệp
báo,
đã
tạo
trước
kia,
trong
lúc
giàu
sang,
quyền
uy
thế
lực,
tạo
nhiều
nghiệp
ác,
quên
mất
việc
thiện,
tu
nhơn
tích
đức.
Chúng
ta
từng
thấy,
các
vị
quyền
uy,
ông
vua
bà
chúa,
hoàng
hậu
thái
phi,
hoàng
tử
công
nương,
tổng
thống
thủ
tướng,
bộ
trưởng
toàn
quyền,
các
nhà
giàu
có,
trưởng
giả
cao
sang,
danh
vang
tột
đỉnh,
thế
lực
quyền
quí,
lãnh
tụ
chính
trị,
lãnh
tụ
tôn
giáo,
khi
hưởng
hết
phần,
phước
báo
hữu
lậu,
họ
phải
chịu
nhiều,
tai
nạn
khổ
ách,
tán
gia
bại
sản,
thân
bại
danh
liệt,
thậm
chí
có
thể,
mất
mạng
thê
thảm,
không
ai
thay
được,
ở
nơi
hoàng
cung,
hay
trên
xa
lộ,
hoặc
dưới
biển
sâu,
hay
trên
núi
tuyết!
Trong
Kinh
A
Hàm,
Đức
Phật
có
dạy:
"Con
người
khi
nào,
đang
hưởng
phước
báo,
cũng
như
mũi
tên,
bắn
lên
không
trung.
Mũi
tên
bay
lên,
rất
nhanh
rất
mạnh,
cũng
như
con
người,
gặp
được
mọi
sự,
may
mắn
tốt
đẹp.
Đến
khi
phước
hết,
con
người
bắt
đầu,
đền
trả
nghiệp
báo,
ví
cũng
như
là,
mũi
tên
hết
trớn,
thì
rơi
xuống
đất,
cũng
nhanh
như
vậy".
Đó
chính
là
nghĩa:
phước
báu
hữu
lậu.
Bởi
vậy
cho
nên,
ở
trong
kinh
sách,
Đức
Phật
có
dạy:
chúng
ta
làm
phước,
đừng
có
mong
cầu,
hưởng
phước
về
sau,
mà
nên
phát
nguyện:
đời
đời
kiếp
kiếp,
đầy
đủ
phước
duyên,
gặp
được
chánh
pháp,
gặp
được
thầy
lành,
gặp
được
bạn
tốt,
giúp
đỡ
trợ
duyên,
tu
tâm
dưỡng
tánh,
cho
đến
cái
ngày:
giác
ngộ
giải
thoát.
Đó
chính
là
nghĩa:
phước
báu
vô
lậu.
*
*
*
Tóm
lại
nên
biết,
trong
khi
tu
phước,
đồng
thời
tu
tuệ,
mỗi
ngày
một
tiến,
nhứt
định
không
lùi,
con
người
cảm
nhận,
an
lạc
hạnh
phúc,
ở
trong
tầm
tay,
ngay
trong
hiện
đời,
đi
đứng
nằm
ngồi,
sinh
hoạt
hằng
ngày,
không
tìm
đâu
xa,
không
đợi
kiếp
sau,
vãng
sanh
cực
lạc,
hoặc
lên
thiên
đàng.
Tu
tập
nghĩa
là:
áp
dụng
giáo
lý,
vào
trong
cuộc
sống,
hằng
ngày
của
mình,
giữ
thân
khẩu
ý,
luôn
luôn
thanh
tịnh.
Ngay
trong
cuộc
sống,
nếu
như
chúng
ta,
sinh
hoạt
bình
thường,
đi
đứng
nằm
ngồi,
tất
cả
hành
động,
lời
nói
ý
nghĩ,
đều
thể
hiện
được,
tứ
vô
lượng
tâm:
từ
bi
hỷ
xả,
tâm
không
phiền
não,
an
nhiên
tự
tại,
an
vui
tu
tập,
sống
trong
chánh
niệm:
niệm
Phật
niệm
Pháp,
niệm
Tăng
chi
tâm,
tức
là
chúng
ta,
đạt
được
phước
báu,
trí
tuệ
viên
mãn.
Tu
đúng
như
vậy,
chúng
ta
đạt
tới,
niết
bàn
giải
thoát,
không
còn
trầm
luân,
sanh
tử
luân
hồi.
Tam
bảo
thường
trụ,
phước
tuệ
lưỡng
toàn.
Kinh
sách
có
câu:
"Phước
Tuệ
lưỡng
toàn,
thì
phương
tác
Phật".
Nghĩa
là
chúng
ta,
muốn
được
làm
Phật,
an
nhiên
tự
tại,
thì
phải
tu
phước,
tu
tuệ
song
song,
đều
đặn
như
nhau.
Ví
như
con
chim,
phải
đủ
hai
cánh,
mới
có
thể
bay.
Chư
Phật
là
bậc
"PHƯỚC
TRÍ
NHị
NGHIÊM",
phước
báu
trí
tuệ,
thảy
đều
trang
nghiêm,
chính
nghĩa
như
vậy.
Chư
Tăng
thường
được,
mọi
người
xưng
tán,
là
bậc
"TÔN
TÚC",
nghĩa
là
các
ngài,
là
bậc
tu
hành,
đáng
tôn
đáng
kính,
bởi
vì
đầy
đủ:
phước
báu
trí
tuệ,
PHƯỚC
tUệ
song
tu.
Tội
nghiệp
Trên
thế
gian
này,
chúng
ta
từng
chứng
kiến
các
cảnh
phiền
não
khổ
đau,
nhiều
hơn
là
bình
yên
vui
sướng.
Ngay
trong
cuộc
đời
của
chúng
ta,
những
sự
bất
trắc,
bất
như
ý,
bất
toại
nguyện,
cũng
nhiều
hơn
những
việc
vui
vẻ,
vừa
ý,
toại
nguyện.
Cho
nên,
nhận
định
cuộc
đời
"khổ
nhiều
vui
ít",
đó
là
sự
thực
rõ
ràng,
nhưng
trong
chúng
ta
ít
người
dám
mạnh
dạn
nhìn
nhận.
Con
người
vì
mãi
mê
đấu
tranh,
vật
lộn
với
cuộc
sống
hằng
ngày,
nên
không
có
thời
giờ
để
suy
tư,
tìm
hiểu.
Có
người
không
muốn
nhìn
nhận
sự
thực
đó,
tự
kỷ
ám
thị,
tự
lừa
dối
mình,
cho
rằng
cuộc
đời
là
vui
đẹp,
là
đáng
hưởng
thụ,
với
mục
đích
tạm
quên
đi
những
đau
khổ,
bất
hạnh
trong
cuộc
sống,
không
biết
ngày
mai
mình
sẽ
ra
sao,
không
biết
làm
sao
cho
đời
bớt
khổ,
cho
đời
hết
khổ.
Khi
gặp
hoàn
cảnh
khổ
đau,
khi
có
điều
bất
trắc,
bất
như
ý,
bất
toại
nguyện,
con
người
chỉ
biết
than
trời
trách
đất,
hoặc
trách
cứ
tổ
tiên,
trách
cứ
ông
bà
cha
mẹ,
ăn
ở
bất
nhơn
thất
đức,
cho
nên
cháu
con
mới
ra
nông
nổi
này!
Đôi
khi,
có
người
chỉ
biết
đặt
niềm
tin
nơi
đấng
thiêng
liêng
nào
đó,
để
cầu
nguyện,
van
xin,
khấn
vái
cho
được
tai
qua
nạn
khỏi,
cho
được
bình
an,
mà
không
chịu
tìm
hiểu
hư
thực,
không
chịu
tìm
hiểu
Chân
Lý,
không
chịu
học
hỏi
Chánh
Pháp,
cho
nên
những
người
biết
lợi
dụng
lòng
mê
tín
dị
đoan
dễ
gạt
gẫm,
dễ
lợi
dụng,
dễ
sai
khiến,
hậu
quả
khó
mà
lường
trước
được.
Thường
thường
khi
thấy
người
nào
gặp
hoàn
cảnh
không
may,
gặp
điều
bất
hạnh,
bất
như
ý,
đau
khổ
hoặc
ngộ
nạn,
có
người
xúc
động,
tỏ
lòng
thương
xót,
thốt
lên:
"Tội
nghiệp
quá!".
Điều
này
có
nghĩa
là
khi
ở
trong
trạng
thái
"tâm
bình
thường",
con
người
ai
cũng
có
sẵn
"tâm
từ
bi
bác
ái",
thấy
người
đau
khổ
thì
động
lòng
trắc
ẩn,
xót
thương.
Cũng
trong
trường
hợp
đó,
người
khác
lại
nói:
Đáng
đời
chưa!
Gieo
gió
thì
gặt
bảo!
Làm
tội
thì
phải
đền
tội!
Cũng
có
người
nói:
Nghiệp
của
họ
nặng
quá,
nên
họ
mới
khổ
nạn
như
vậy!
Hoặc
có
người
khác
nói:
Trời
phạt
họ
đó!
Những
sự
suy
nghĩ
như
vậy
do
tập
quán,
thói
quen
mà
thốt
nên
lời.
Vậy
chúng
ta
hãy
thử
tìm
hiểu:
"Tội"
là
gì,
"Nghiệp"
là
gì?
"Tội
báo,
Nghiệp
báo"
là
gì?
Làm
gì
mà
phải
"tội
nghiệp"?
Làm
sao
cho
hết
"tội
nghiệp"?
Làm
sao
"dừng
nghiệp
và
chuyển
nghiệp"?
*
*
*
Theo
luật
nhân
quả,
chúng
ta
biết
rằng:
"gieo
nhân
nào
thì
gặt
quả
nấy".
Thí
dụ
như
gieo
nhân
là
hạt
cam,
chúng
ta
sẽ
được
cây
cam
và
gặt
quả
cam.
Khoa
học
đã
thí
nghiệm
và
chứng
minh
điều
này
rõ
ràng,
không
có
gì
đáng
nghi
ngờ
cả.
Nghĩa
là
làm
thiện
gặp
thiện,
làm
ác
gặp
ác,
ở
hiền
gặp
lành,
gieo
gió
gặt
bão,
có
lửa
có
khói,
sinh
sự
sự
sinh.
Tuy
nhiên,
cũng
có
thắc
mắc:
Tại
sao
có
người
gieo
thật
nhiều
gió
mà
chẳng
thấy
họ
gặt
bão,
hay
nói
cách
khác,
những
người
đó
làm
nhiều
điều
bất
thiện,
gây
nhiều
tội
ác,
mà
tại
sao
họ
vẫn
bình
yên,
an
ổn,
ăn
nên
làm
ra,
sống
trong
cảnh
giàu
có
sung
sướng?
Trái
lại,
có
người
làm
thật
nhiều
việc
phước
thiện
phước
đức,
như
bố
thí
cúng
dường,
hùn
công
góp
của
ấn
tống
kinh
sách,
quyên
góp
cho
các
hội
từ
thiện,
xây
cất
chùa
chiền,
lập
nhà
thương
trường
học,
đắp
đường
xây
cầu,
mà
tại
sao
chẳng
thấy
phước
báo
đâu,
chỉ
thấy
quả
báo
xấu,
gặp
nhiều
nạn
tai,
gặp
nhiều
điều
bất
trắc,
bất
như
ý,
bất
toại
nguyện?
Chúng
ta
biết
rằng:
có
những
hạt
giống
gieo
trồng,
thì
gặt
được
quả
sớm,
nhưng
cũng
có
những
hạt
giống
gieo
trồng
xong,
phải
đợi
một
thời
gian
sau,
hay
một
thời
gian
lâu
sau,
mới
gặt
được
quả.
Cũng
vậy,
có
những
việc
chúng
ta
làm
đời
trước,
đời
này
mới
nhận
kết
quả
hay
hậu
quả.
Có
những
việc
chúng
ta
làm
đời
này,
đời
sau
mới
có
kết
quả
hay
hậu
quả.
Do
làm
ác
đời
trước,
nên
con
người
gặp
khổ
đau
đời
này,
chớ
có
oán
hận,
than
trời
trách
đất,
bởi
lẽ
"mình
làm
mình
chịu",
không
có
ông
trời
nào,
thượng
đế
nào
trừng
phạt
mình,
một
cách
tùy
tiện,
một
cách
vô
căn
cứ
cả.
Chúng
ta
thường
có
tánh
đổ
thừa
kẻ
khác,
kể
cả
ông
bà
cha
mẹ,
đã
tạo
nghiệp,
rồi
cháu
con
phải
lãnh
hậu
quả,
chứ
không
bao
giờ
chịu
nhìn
nhận
"chính
mình
đã
làm",
đã
gây
ra
những
lỗi
lầm
trong
kiếp
trước,
cho
nên
kiếp
này
"chính
mình
gánh
chịu".
Còn
những
việc
phước
thiện,
phước
đức
mình
làm
trong
đời
này,
vì
quá
ít
quá
nhỏ,
chưa
kịp
có
kết
quả.
Hoặc
đôi
khi
việc
phước
thiện,
phước
đức
đã
có
kết
quả,
đã
làm
cho
nhẹ
bớt
đi
những
nạn
tai,
mà
mình
phải
gánh
chịu,
chỉ
tại
mình
không
biết
đó
thôi.
Nếu
không
biết
làm
những
việc
thiện
tạo
phước
báu
như
thế,
để
bù
đắp
những
tội
lỗi
đã
gây
ra
trước
kia,
con
người
có
thể
đã
gặp
nhiều
phiền
não
khổ
đau
hơn,
nhiều
tai
nạn
nặng
nề
hơn.
Nếu
việc
phước
thiện
đã
làm
nhiều
hơn
tội
lỗi
đã
tạo,
chắc
chắn
con
người
được
hưởng
sự
sung
sướng,
sự
may
mắn.
Nghĩa
là
sự
sung
sướng,
sự
may
mắn
do
phước
báo
chính
mình
đã
tạo
ra,
từ
nhiều
kiếp
trước
hay
kiếp
này,
chứ
không
do
ông
trời,
hay
thượng
đế
nào
thương
mình,
mà
ban
cho
cả.
Như
vậy,
chúng
ta
phải
hiểu
luật
nhân
quả
được
áp
dụng
trong
ba
thời:
quá
khứ,
hiện
tại
và
vị
lai.
Cũng
có
những
quả
báo
nhãn
tiền,
tức
là
kết
quả
hay
hậu
quả
có
ngay
trước
mắt,
gieo
nhân
đời
này,
gặt
quả
cũng
trong
đời
này.
Thí
dụ
như
ăn
trộm
thì
bị
bắt,
ở
dơ
thì
sanh
bệnh,
làm
biếng
thì
nghèo
khó,
đánh
người
thì
người
đánh,
hại
người
thì
người
hại,
kiện
thưa
thì
tốn
tiền,
tiết
kiệm
thì
có
dư,
chăm
học
thì
đỗ
đạt,
siêng
năng,
chăm
chỉ,
cần
cù,
nhẫn
nại,
nếu
không
thành
công
thì
cũng
thành
nhân.
*
*
Chúng
ta
thữ
nghĩ
xem:
Tội
là
gì?
Tội
lỗi
là
những
điều
bất
thiện,
những
việc
ác
do
chính
mình
nói,
chính
mình
làm,
chính
mình
suy
nghĩ,
chính
mình
gây
ra,
chính
mình
tạo
tác,
do
thân
khẩu
ý
của
chính
mình.
Tội
lỗi
cũng
do
sự
sai
khiến,
xúi
giục,
chỉ
dẫn,
bày
cách
cho
người
khác
làm,
thi
hành,
thực
hiện
những
điều
bất
thiện,
những
việc
ác.
Tội
lỗi
cũng
do
sự
vui
mừng,
tán
đồng,
khen
ngợi,
khi
thấy
kẻ
khác
làm
những
điều
bất
thiện,
những
việc
ác.
Nghĩa
là:
"Nhược
tự
tác,
nhược
giáo
tha
tác,
kiến
tác
tùy
hỷ",
đều
tội
lỗi
như
nhau.
Tại
sao
vậy?
Bởi
vì
chính
mình
làm,
chỉ
bảo
người
khác
làm,
hay
thấy
người
khác
làm
mà
vui
theo,
những
điều
bất
thiện,
những
việc
ác,
thì
tâm
của
chúng
ta
đều
bị
náo
động,
đều
bị
hoen
ố,
đều
ghi
nhận
chủng
tử
sanh
tử
luân
hồi
như
nhau.
Đạo
Phật
luôn
luôn
chú
trọng
đến
"tâm",
chính
là
cái
"thực
tướng"
bất
sanh,
bất
diệt,
bất
cấu,
bất
tịnh,
bất
tăng,
bất
giảm
của
con
người,
chứ
không
quan
trọng
đến
cái
giả
tướng
khác
biệt
bên
ngoài
của
mỗi
người.
Cái
giả
tướng
khác
biệt
đó
chỉ
là
cái
thân
tứ
đại
sanh
diệt,
nay
còn
mai
mất,
chúng
ta
đang
mượn
tạm,
trong
kiếp
sống
này
mà
thôi.
Bởi
vậy
cho
nên,
đọc
kinh
điển
của
đạo
Phật,
muốn
hiểu
được
pháp
vô
lượng
nghĩa,
pháp
vô
thượng
thậm
thâm
vi
diệu,
chúng
ta
hãy
tìm
hiểu
qua
lăng
kính
của
một
chữ,
đó
là
chữ:
"TÂM".
Chư
Tổ
có
dạy:
"Tâm
tức
Phật,
Phật
tức
Tâm",
chính
là
nghĩa
đó
vậy.
Đức
Phật
là
bậc
vô
thượng
y
vương,
vô
thượng
dược
vương
chuyên
trị
"tâm
bệnh"
của
tất
cả
chúng
sanh,
chứ
không
phải
"thân
bệnh".
Đức
Phật
hiểu
rõ
tâm
bệnh
của
tất
cả
chúng
sanh,
vì
sao
con
người
trôi
lăn
trong
sanh
tử
luân
hồi,
cho
nên
Đức
Phật
chỉ
dẫn
con
đường
thoát
ly
sanh
tử
luân
hồi.
Đó
mới
chính
là
trọng
tâm
cốt
yếu
của
đạo
Phật.
Sách
có
câu:
"Tướng
tự
tâm
sanh,
tướng
tùng
tâm
diệt".
Bất
cứ
ai
giải
quyết
được
tâm
bệnh,
thì
thân
bệnh
có
còn
gì
đáng
nói
nữa
đâu.
Cái
thân
tứ
đại
giả
tạm
này
chỉ
có
tuổi
thọ
một
trăm
năm
hay
hơn
chút
đỉnh
là
nhiều.
Còn
cái
tâm
bất
sanh
diệt
của
tất
cả
mỗi
chúng
ta
có
tuổi
thọ
vô
lượng
mà
Đức
Phật
đã
chỉ
bày
trong
các
kinh
điển
thì
ít
người
hiểu
thấu!
Người
nào
chỉ
hiểu
kinh
điển
nhà
Phật
qua
nghĩa
đen:
cầu
bình
an,
cầu
siêu
sanh,
là
những
người
chỉ
đứng
bên
ngoài
cổng
rào,
chứ
chưa
vào
được
đến
trong
sân
chùa,
nói
chi
đến
ngưỡng
cửa
nhà
Phật.
Người
nào
chỉ
hiểu
đạo
Phật
qua
các
hình
thức
cúng
kiến,
lễ
nghi
thường
thấy,
là
người
chưa
hiểu
đạo
Phật
là
gì
cả!
Thậm
chí,
có
người
đến
với
đạo
Phật,
vì
muốn
cầu
gì
được
nấy,
muốn
vạn
sự
như
ý,
muốn
tùy
tâm
mãn
nguyện,
muốn
buôn
may
bán
đắc,
muốn
nhất
bổn
vạn
lợi,
muốn
thi
đâu
đậu
đó,
muốn
sở
cầu
như
nguyện,
muốn
tình
duyên
may
mắn,
muốn
đủ
thứ
chuyện
trên
trần
đời,
thì
than
ôi,
đạo
Phật
còn
gì
là
Phật
đạo
nữa!
Thật
đáng
thương
xót!
Thật
đáng
"tội
nghiệp"
lắm
thay!
Trong
Kinh
Hoa
Nghiêm,
Đức
Phật
có
dạy:
"Nhất
thiết
duy
tâm
tạo".
Nghĩa
là
chúng
ta
nên
biết
tội
lỗi
nặng
hay
nhẹ
tùy
theo
tâm
trạng,
tâm
tánh
của
con
người
khi
tạo
tác.
Thí
dụ
như
một
người
nghèo
khó
đi
câu
con
cá,
để
ăn
qua
ngày,
tội
nhẹ
hơn
người
no
đủ,
đi
câu
con
cá
vì
thú
vui.
Con
người
vì
si
mê
nên
cảm
thấy
vui
thích
trên
sinh
mạng
của
chúng
sanh!
Khi
xưa,
những
người
có
quyền
thế,
xem
việc
giết
người,
giết
dân
chúng
hay
giết
tù
nhân,
như
thú
vui
tiêu
khiển.
Ngày
nay,
ở
các
nước
gọi
là
văn
minh,
con
người
xem
việc
săn
bắn
thú
vật
như
là
môn
thể
thao,
coi
cảnh
đấu
bò
giết
bò
như
là
trò
giải
trí!
Thật
đáng
"tội
nghiệp"
lắm
thay!
Con
người
đang
hưởng
phước
ở
các
xứ
văn
minh,
lại
tìm
cách
tạo
tội
tạo
nghiệp
vì
vô
minh.
Một
người
giết
một
con
thú
dữ
để
tự
vệ
trong
hoàn
cảnh
sợ
hãi,
tội
nhẹ
hơn
một
đứa
bé
tay
cầm
cây
cầm
roi,
thi
đua
với
các
đứa
bé
khác,
đánh
đập
một
con
gà,
rụng
lông
tơi
tả,
máu
đổ
dầm
dề,
cho
đến
chết,
một
cách
nhanh
nhứt,
để
được
khen
thưởng,
để
được
lãnh
giải,
trong
cuộc
thi
do
người
lớn
tổ
chức!
Dĩ
nhiên,
kẻ
chủ
tâm
cố
ý
giết
người
vì
tư
thù,
vì
quyền
lợi,
tội
nặng
hơn
kẻ
sát
nhân
trong
cơn
điên
loạn,
hãi
hùng
hay
vô
ý
thức.
Kẻ
giết
con
vật
lớn
như
trâu
bò,
tội
nặng
hơn
kẻ
giết
côn
trùng,
con
gián,
con
kiến.
Giết
người,
giết
con
vật
lớn,
con
vật
có
nhiều
linh
tánh
hơn,
tức
nhiên,
kẻ
giết
phải
có
chủ
ý,
dụng
tâm,
dụng
công,
dụng
sức
nhiều
hơn,
nên
tội
nặng
hơn.
Giết
côn
trùng,
con
gián,
con
kiến
không
do
cố
ý,
không
do
thích
thú,
bởi
vì
con
người
không
thể
sống
chung
với
những
sinh
vật
này
được,
theo
phép
vệ
sinh
chung
của
xã
hội,
nên
nhẹ
tội
hơn.
Tuy
nhiên,
tìm
giết
vô
cớ
con
gián,
con
kiến
ngoài
đồng,
ngoài
đường
lại
là
chuyện
khác.
Việc
trộm
cắp
cũng
vậy.
Người
trộm
cắp
vì
nghèo
túng,
phải
giúp
gia
đình
qua
cơn
đói
khổ,
vì
tạm
thời,
không
còn
phương
cách
nào
khác,
tội
nhẹ
hơn
một
kẻ
cố
ý
chủ
tâm
dùng
thủ
đoạn,
dùng
luật
pháp,
để
chiếm
đoạt
tài
sản,
sang
đoạt
bản
quyền
của
người
khác,
thưa
kiện
người
khác
với
mục
đích
kiếm
tiền,
muốn
mình
sung
sướng,
làm
giàu
nhanh
chóng,
người
khác
thì
đau
khổ
vì
sạt
nghiệp!
Việc
nói
dối
để
an
ủi,
giúp
đỡ
tinh
thần
người
đang
bị
bệnh,
người
đang
khổ
đau,
khủng
hoảng,
sợ
hãi,
không
thể
đem
so
sánh
với
việc
nói
dối
để
gạt
gẫm
người
khác
vì
ích
kỷ,
vì
tư
lợi,
vì
thù
oán
hại
người,
vì
muốn
kết
bè
kết
đảng.
Càng
tệ
hại
hơn
nữa
vì
tự
ái,
vì
tự
lợi,
vì
danh
dự
hão,
vì
chính
nghĩa
cuội,
vì
công
lý
một
chiều,
vì
lẽ
phải
phiến
diện,
vì
mê
tín
dị
đoan,
vì
quá
khích,
có
người
đặt
điều
vu
cáo
vu
khống,
phỉ
báng
mạ
lỵ
người
khác,
lộng
giả
thành
chơn,
nước
lã
khuấy
nên
hồ,
để
ám
hại
người
khác,
viết
bài
đả
kích,
khen
mình
khinh
người,
lôi
kéo
phe
phái,
thì
những
người
đó
làm
sao
tránh
khỏi
luật
nhân
quả,
làm
sao
thoát
khỏi
"lưới
trời"
lồng
lộng,
tuy
thưa
mà
không
lọt,
tuy
không
thấy
mà
chẳng
sai
chạy!
Trong
nhà
Phật,
"lưới
trời"
đó
chính
là
"quả
báo"
con
người
phải
lãnh,
vì
các
việc
đã
làm,
đã
nói,
đã
nghĩ,
trước
đây.
*
*
Chúng
ta
thường
nghe
nói
đến
chữ
"nghiệp"
trong
cuộc
sống
hằng
ngày,
cũng
như
trong
đạo
Phật,
như
là:
nghề
nghiệp,
tội
nghiệp,
nghiệp
báo,
nghiệp
chướng,
nghiệp
nhân,
nghiệp
quả.
Vậy
chúng
ta
thử
tìm
hiểu:
"Nghiệp"
là
gì?
Nghiệp
là
thói
quen
hành
động,
nói
năng
hay
suy
nghĩ
hằng
ngày
của
chúng
ta
trong
cuộc
sống,
trong
khi
làm
việc,
trong
khi
giao
tiếp,
ở
tại
nhà,
ở
tại
sở
làm
hay
bất
cứ
nơi
đâu.
Nghĩa
là
nghiệp
do
thân
hành
động,
khẩu
nói
năng
và
ý
suy
nghĩ,
nên
thường
được
gọi
là
tam
nghiệp:
thân
nghiệp,
khẩu
nghiệp
và
ý
nghiệp.
Theo
nguyên
tắc,
có
hai
loại
nghiệp:
thiện
và
bất
thiện.
Tuy
nhiên,
khi
nói
đến
chữ
"nghiệp",
người
ta
thường
nghĩ
đến
những
nghiệp
ác
hay
nghiệp
bất
thiện.
1)
"Thân
nghiệp"
là
những
thói
quen
hành
động,
do
thân
tạo
tác
hằng
ngày.
Có
người
luôn
luôn
thích
giúp
đỡ
kẻ
khác,
làm
việc
phước
thiện,
làm
việc
xã
hội.
Có
người
luôn
luôn
thích
đi
chùa,
lễ
Phật,
tụng
kinh,
đi
nhà
thờ
xem
lễ,
cầu
nguyện.
Cũng
có
người
luôn
luôn
thích
đánh
nhau,
đánh
đập
súc
vật,
giết
hại
sinh
mạng
chúng
sanh,
chơi
đấu
bò,
đi
câu
cá,
đi
săn
bắn,
như
thú
vui
tiêu
khiển.
Có
người
luôn
luôn
thích
hút
thuốc,
uống
rượu,
bài
bạc.
Có
người
luôn
luôn
thích
việc
trộm
vặt
dù
họ
không
túng
thiếu.
Có
người
luôn
luôn
thích
kiện
tụng,
thích
xúi
người
khác
thưa
kiện
để
thủ
lợi.
Có
người
luôn
luôn
thích
hăm
dọa
người
khác,
theo
thói
chưa
đậu
ông
nghè
đã
đe
làng
tổng,
họ
gửi
bài
đăng
báo,
tòa
báo
không
đăng
nguyên
văn,
sửa
bản
thảo,
họ
bảo
xin
lỗi,
viết
thư
dọa
làm
con
kiến
đi
kiện
củ
khoai!
2)
"Khẩu
nghiệp"
là
những
điều
mình
thường
nói
ra
hằng
ngày,
có
khi
ngọt
ngào
dễ
nghe,
có
khi
chanh
chua
chát
khế,
kinh
khủng
khiếp
luôn!
Cổ
nhơn
có
dạy:
"Lời
nói
chẳng
mất
tiền
mua.
Lựa
lời
mà
nói
cho
vừa
lòng
nhau".
Có
người
luôn
luôn
thích
nói
chuyện
đạo
lý,
chuyện
ích
lợi
cho
người.
Có
người
luôn
luôn
thích
thuyết
pháp,
tụng
kinh,
niệm
Phật.
Có
người
luôn
luôn
thích
an
ủi,
khuyên
lơn,
đem
sự
an
ổn
tâm
thần
đến
cho
người
khác.
Có
người
luôn
luôn
nói
lời
hòa
nhã,
êm
ái,
dịu
dàng,
ai
ai
cũng
thích
nghe,
thích
gặp
mặt,
thích
trò
chuyện.
Đó
là
những
người
lựa
lời
mà
nói
cho
người
an
vui,
và
đang
tu
theo
hạnh
Đức
Quán
Thế
Âm
Bồ
Tát,
hay
tu
theo
hạnh
Nhứt
Thiết
Chúng
Sanh
Hỷ
Kiến
Bồ
Tát.
Cũng
có
người
luôn
luôn
thích
nói
suốt
ngày,
không
biết
mệt,
không
ngừng
nghỉ.
Có
người
luôn
luôn
thích
nói
chuyện
thị
phi,
chuyện
thiên
hạ,
chuyện
phải
quấy,
chuyện
hơn
thua,
chuyện
tranh
chấp,
chuyện
kiện
tụng,
chuyện
thưa
gửi,
chuyện
phiền
não,
chuyện
khổ
đau.
Có
người
luôn
luôn
thích
văng
tục,
chửi
thề,
bới
móc
người
khác,
kê
tủ
đứng
vào
miệng
người
khác,
móc
họng
cho
người
ói
ra,
mỗi
khi
khai
khẩu,
mỗi
khi
mở
miệng.
Có
người
thốt
xong
một
lời,
người
nghe
phải
đi
xức
dầu
cù
là,
hoặc
uống
thuốc
nhức
đầu,
thậm
chí
ngất
xỉu,
hay
giã
từ
luôn
cõi
đời.
Có
người
thốt
xong
một
lời,
người
khác
phải
đi
tù,
gia
đình
xào
xáo,
vợ
chồng
chia
ly,
lục
đục,
cãi
vã,
nghi
ngờ
lẫn
nhau,
tiêu
tan
hạnh
phúc.
Bởi
vậy,
chúng
ta
mới
biết
khẩu
nghiệp
nặng
nề
biết
bao,
lời
nói
độc
hại
đến
chừng
nào,
lời
nói
có
khả
năng
hại
người
còn
hơn
vũ
khí.
Đó
là
lời
nói
của
những
kẻ
"lựa
lời
mà
nói
cho
người
giết
nhau",
hoặc
là
những
kẻ
"lựa
lời
mà
nói
cho
người
tiêu
luôn"!
Những
người
biết
tu
tâm
dưỡng
tánh
rất
dè
dặt
với
khẩu
nghiệp,
không
dám
phát
ngôn
bừa
bãi,
luôn
luôn
nhớ
lời
cổ
nhơn
dạy:
"Lời
nói
là
bạc,
im
lặng
là
vàng".
Có
người
bèn
áp
dụng
tu
pháp
môn
"tịnh
khẩu",
suốt
ngày
không
muốn
nói
bất
cứ
chuyện
gì,
với
bất
cứ
ai.
Tuy
nhiên,
bên
ngoài
phẳng
lặng,
mà
trong
lòng
dậy
sóng,
thì
cũng
như
không!
Có
khi
nói
năng
để
truyền
bá
Chánh
Pháp,
lời
nói
đầy
pháp
vị,
nói
lời
chuyên
chở
đạo
lý.
Có
khi
sự
im
lặng
cũng
đúng
Chánh
Pháp,
cũng
đượm
nhuần
đạo
lý.
Cổ
nhơn
có
dạy:
"Ngữ
ngôn
đạo
đoạn".
Nghĩa
là
còn
phải
dùng
lời
nói,
thì
không
thể
diễn
tả
được
đạo
lý
một
cách
tột
cùng,
khi
lên
tiếng
thì
đạo
mất
rồi.
Người
hiểu
đạo
là
người
có
tâm
cảm
thông
sâu
sắc,
không
cần
dùng
lời
nói,
có
thể
thấu
hiểu
mọi
sự
mọi
việc
một
cách
dễ
dàng,
không
có
gì
ngăn
ngại.
Trong
kinh
sách
có
câu:
"Đạo
cảm
ứng
giao
nan
tư
nghì"
chính
là
nghĩa
đó
vậy.
Cũng
có
câu:
"Đạo
bổn
vô
ngôn".
Nghĩa
là
gốc
của
đạo
không
thể
dùng
lời
lẽ
của
thế
gian
mà
diễn
tả
được.
Đạo
là
chỗ
cứu
kính
tuyệt
đối
bất
khả
tư
nghì,
đạo
cảm
thông
không
thể
nghĩ
bàn
được.
Đó
chính
là
chỗ
im
lặng
của
Cư
sĩ
Duy
Ma
Cật
thời
Đức
Phật
còn
tại
thế,
đó
chính
là
sự
lặng
thinh
của
Nhị
Tổ
Huệ
Khả,
khi
trình
kiến
giải
lên
Sơ
Tổ
Bồ
Đề
Đạt
Ma
vậy.
3)
Tuy
nhiên,
quan
trọng
hơn
cả
chính
là
"ý
nghiệp".
Chính
ý
nghiệp
chủ
động
điều
khiển
thân
nghiệp
và
khẩu
nghiệp.
Tại
sao
vậy?
Bởi
vì
nếu
như
tư
tưởng
luôn
luôn
có
ý
nghĩ
thế
nào
thì
hành
động
và
lời
nói
sẽ
y
theo
đó
mà
ra,
không
sai
khác
chút
nào.
Chính
tư
tưởng
phát
xuất
ra
hành
động
và
lời
nói.
Thí
dụ
nếu
trong
tâm
ý
chúng
ta
nghi
ngờ
người
nào
ăn
cắp
đồ,
thì
từ
hành
động
cho
đến
lời
nói
của
người
đó
đều
có
vẻ
khả
nghi,
đáng
ngờ,
và
hành
động
cũng
như
lời
nói
của
chúng
ta
đều
không
bình
thường
đối
với
người
đó.
Thí
dụ
nếu
chúng
ta
luôn
luôn
có
tư
tưởng,
có
ý
nghĩ
là
kẻ
nào
ác
thì
phải
bị
tiêu
diệt,
phải
bị
đọa
địa
ngục,
phải
bị
trừng
phạt
nặng
nề,
cho
nên
khi
có
cơ
hội,
có
phương
tiện,
có
quyền
hành,
có
thế
lực,
chúng
ta
sẽ
dễ
dàng
mắng
chửi,
mạt
sát,
giết
hại,
trừ
khử,
thanh
toán
kẻ
đó
không
chút
xót
thương,
không
chút
bận
tâm!
Nghĩ
như
vậy,
nói
như
vậy,
làm
như
vậy,
tâm
của
chúng
ta
không
từ
bi,
không
bác
ái
chút
nào,
và
như
vậy
chúng
ta
có
khác
gì
kẻ
ác
kia
đâu?
Giết
người
phải
đền
mạng,
có
luôn
luôn
hẳn
là
lẽ
công
bằng
tuyệt
đối
chăng,
có
giúp
nạn
nhân
sống
lại
chăng,
có
giúp
xã
hội
an
ninh,
trật
tự
chăng,
có
giúp
tình
người
thêm
tốt
đẹp
chăng?
Con
người
thường
nhân
danh
cái
thiện,
nhân
danh
thế
thiên
hành
đạo,
để
thi
hành,
thực
hiện
việc
ác,
việc
trả
thù
ngay
sau
đó.
Chính
vì
vậy
mà
oan
oan
tương
tục
không
biết
đến
bao
giờ
mới
dứt
được.
Thiệt
là
"tội
nghiệp"
thay!
Trên
thế
gian
này,
sân
hận
không
bao
giờ
dập
tắt
sân
hận.
Duy
có
tình
thương,
tâm
từ
bi
mới
diệt
được
tâm
sân
hận.
Đó
là
định
luật
trường
cửu.
Cho
nên,
trong
Kinh
Pháp
Cú,
Đức
Phật
có
dạy:
Lấy
oán
báo
oán,
oán
nghiệp
chập
chùng.
Lấy
ân
báo
oán,
oán
nghiệp
tiêu
tan.
Đây
là
cách
dừng
nghiệp
và
chuyển
nghiệp
hữu
hiệu
nhất.
Thí
dụ
vì
nghiệp
duyên
đời
trước,
có
người
nào
đó
khi
gặp
chúng
ta,
liền
không
có
cảm
tình,
không
ưa
thích,
có
thái
độ
thù
nghịch,
chống
đối.
Nếu
như
chúng
ta
không
hiểu
luật
nhân
quả,
bèn
có
thái
độ
tương
ứng
đáp
lại,
thì
càng
ngày
quan
hệ
giữa
chúng
ta
và
người
đó
càng
tệ
hại
thêm
mà
thôi.
Còn
nếu
như
khi
họ
gặp
hoàn
cảnh
không
may
nào
đó
mà
mình
có
thể
giúp
được
và
thực
tâm
giúp
đỡ
họ,
thì
có
phải
"oán
nghiệp"
trước
đây
tiêu
tan
hay
không?
Thí
dụ
trong
gia
đình,
nếu
người
cha
hay
người
mẹ,
vì
tức
giận
người
con
đối
xử
tệ
bạc
với
mình,
không
như
mình
mong
ước,
nên
cũng
đối
xử
lạnh
lùng,
hằn
học,
bực
dọc
đáp
lại,
thì
thử
hỏi
câu
chuyện
sẽ
đi
đến
đâu,
sẽ
kết
thúc
ra
sao?
Nếu
cha
mẹ
có
lòng
từ
bi,
không
chấp
chặt
những
điều
đó,
vẫn
thương
yêu,
chăm
sóc
người
con,
như
lúc
con
còn
nhỏ
dại,
thì
ít
ra
còn
hy
vọng
người
con
chuyển
đổi
tâm
ý,
gia
đình
hòa
vui
trở
lại.
Chuyện
này
"nói
ra
thì
dễ,
làm
được
mới
khó".
Nhưng
thử
hỏi
chuyện
gì
trên
đời
này
mới
là
chuyện
dễ
làm
đây
?
*
*
Bây
giờ,
nói
về
vấn
đề:
"dừng
nghiệp
và
chuyển
nghiệp".
Chúng
ta
đã
biết
rằng
chính
ba
nghiệp
thân
khẩu
ý
là
động
cơ
dẫn
dắt
chúng
sanh
vào
vòng
trầm
luân
sanh
tử
luân
hồi
nhiều
đời
nhiều
kiếp.
Cho
nên,
muốn
thoát
ly
sanh
tử
luân
hồi,
con
người
phải
biết
dừng
nghiệp
và
chuyển
nghiệp.
Nghĩa
là
chúng
ta
phải
dừng
tất
cả
những
nghiệp
ác,
nghiệp
bất
thiện,
từ
thân
khẩu
ý
của
mình,
chuyển
ba
nghiệp
thân
khẩu
ý
bất
thiện,
thành
ba
nghiệp
thiện
lành.
Đó
chính
là
trọng
tâm
tu
hành
của
đạo
Phật,
chứ
không
phải
những
hình
tướng
bên
ngoài,
những
nghi
lễ
rườm
rà,
những
van
xin
cầu
khẩn.
Người
có
nghiệp
cờ
bạc
thì
luôn
luôn
tìm
tới
các
sòng
bài
bạc
để
vui
chơi
trong
chốc
lát,
rồi
sau
đó
đau
khổ
dài
dài.
Người
có
nghiệp
hút
thuốc
thì
đi
đâu
cũng
luôn
luôn
để
ý
đến
chỗ
nào
bán
thuốc
lá
và
giá
cả
ra
sao.
Người
mang
nghiệp
nào
thì
sẽ
bị
dẫn
theo
con
đường
ấy,
cũng
như
kim
loại
bị
nam
châm
hút
vậy.
Con
người
khi
chết
đi,
thân
xác,
danh
vọng,
của
cải,
thân
bằng
quyến
thuộc,
tất
cả
mọi
thứ
đều
phải
bỏ
lại
thế
gian,
chỉ
mang
theo
cái
"nghiệp
báo"
tái
sanh
kiếp
sau.
Chính
cái
nghiệp
báo
này
là
nguyên
nhân
làm
cho
chúng
ta
sung
sướng
hay
đau
khổ
vậy.
Khi
biết
được
điều
đó,
liễu
tri
được
điều
đó,
giác
ngộ
được
điều
đó,
chúng
ta
cần
phải
tìm
cách
dừng
nghiệp,
tìm
cách
chuyển
ba
nghiệp
bất
thiện
thành
ba
nghiệp
thiện.
Trong
kinh
sách,
Đức
Phật
dạy
pháp
môn
để
dừng
nghiệp
và
chuyển
nghiệp,
chính
là
"Pháp
Sám
Hối".
Người
biết
ăn
năn
sám
hối
mới
thực
là
người
biết
tu
chân
chính,
không
cần
phải
có
hình
tướng
như
thế
nào,
chỉ
cần
chúng
ta
kiên
trì,
cố
gắng
tu
tâm
dưỡng
tánh,
đúng
theo
Chánh
Pháp,
thì
đạt
được
kết
quả
mỹ
mãn.
Kết
quả
đó
là
cảnh
giới
an
lạc
và
hạnh
phúc
hiện
đời,
kết
quả
đó
là
cảnh
giới
tây
phương
cực
lạc
hay
thiên
đàng
sau
này.
Chánh
Pháp
không
dành
riêng
cho
những
người
theo
đạo
Phật
hay
bất
cứ
ai.
Chánh
Pháp
là
chân
lý
cứu
kính
mà
bất
cứ
ai
có
"tâm
bình
thường"
cũng
có
thể
tìm
hiểu
được
và
thực
hành
được,
một
cách
bất
tùy
phân
biệt.
Nếu
không
có
"pháp
sám
hối
chơn
thực"
thì
không
có
thánh
nhơn
trên
đời,
không
có
thiên
đàng,
hay
cảnh
giới
tây
phương
cực
lạc.
Biết
bao
nhiêu
bậc
thánh
hiền
xưa
nay
có
quá
khứ
bất
thiện,
xấu
ác,
gian
tà,
nhưng
nhờ
các
ngài
giựt
mình
tỉnh
thức,
qua
được
cơn
mê,
quày
đầu
hướng
thiện,
cho
nên
trở
thành
đại
đức
thánh
nhơn.
Bởi
vậy,
chúng
ta
noi
gương
các
ngài,
chỉ
nên
quán
xét
chính
mình,
không
cần
thiết
phải
bận
tâm
biết
quá
khứ
của
người
khác
ra
sao.
Người
ta
trước
đây
tạo
nghiệp
xấu
thiệt,
nhưng
nay
đã
biết
sám
hối,
đã
biết
dừng
nghiệp
và
chuyển
nghiệp,
còn
mình
thì
sao,
vẫn
đi
soi
mói
việc
riêng
của
người
khác
để
làm
gì?
Trong
kinh
sách,
Đức
Phật
có
dạy:
Tội
tùng
tâm
khởi
tương
tâm
sám.
Tâm
nhược
diệt
thời
tội
diệc
vong.
Tội
vong
tâm
diệt
lưỡng
câu
không.
Thị
tắc
danh
vi
chơn
sám
hối.
Nghĩa
là
muốn
tội
lỗi
thực
sự
không
còn
nữa,
thì
chúng
ta
phải
tiêu
diệt
cái
nguyên
nhân
chính
gây
ra
tội
lỗi,
xúi
giục
mình
làm
bậy
nói
bậy
nghĩ
bậy,
đó
là
vọng
tâm
lăng
xăng,
lộn
xộn,
loạn
động,
suy
nghĩ,
tính
toán,
suy
lường,
hằng
ngày
của
chúng
ta.
Một
khi
đã
thực
tâm
sám
hối
thì
không
còn
tâm
muốn
làm,
muốn
nói,
muốn
nghĩ
những
chuyện
bậy
đó
nữa.
Mỗi
khi
vọng
tâm
khởi
lên,
xui
khiến
mình
làm
chuyện
bậy,
bất
cứ
chuyện
gì
lợi
mình
hại
người,
bảo
mình
nói
lời
bậy,
bất
cứ
lời
nào
gây
phiền
não
cho
người
khác,
giục
mình
nghĩ
ý
bậy,
bất
cứ
ý
nghĩ
nào
khen
mình
khinh
người,
thì
chúng
ta
phải
nhận
biết
ngay,
dừng
lại,
không
theo.
Lâu
dần,
vọng
tâm
đó
lặng
đi
rồi,
thì
tội
lỗi
cũng
không
còn
gây
ra
nữa.
Cũng
giống
như
mỗi
lần
trong
đầu
nhớ
tới
bản
nhạc
nào
quen
thuộc,
nếu
chúng
ta
ư
ử
hát
theo
thì
sẽ
nhớ
hoài
nhớ
lâu,
còn
nếu
chúng
ta
không
hát
theo,
thì
ít
lâu
sau,
sẽ
quên
bẳng
đi,
không
còn
nhớ
nữa.
Đó
mới
thực
là
"chơn
sám
hối",
tức
là
sám
hối
chơn
chính,
chơn
thực,
thực
lòng
vậy.
*
*
Pháp
sám
hối
chơn
chính
có
hai
phần:
Lý
Sám
Hối
và
Sự
Sám
Hối.
Trước
hết,
chúng
ta
nói
về
"Sự
Sám
Hối".
Khi
tâm
của
chúng
ta
còn
mê
mờ,
chưa
được
giác
ngộ
Chân
Lý,
chưa
hiểu
biết
Chánh
Pháp,
chúng
ta
phải
hành
theo
sự
sám
hối.
Nghĩa
là
đối
trước
tôn
tượng
chư
Phật,
chư
Bồ
Tát,
chúng
ta
phải
hành
lễ
bái,
tỏ
bày
sám
hối,
mong
diệt
nghiệp
chướng,
tội
chướng,
siêng
năng
tinh
tấn,
mỗi
tháng
hai
lần.
Mỗi
lần
như
vậy,
chúng
ta
đọc
bài
kệ
như
sau:
Ngã
tích
sở
tạo
chư
ác
nghiệp.
Giai
do
vô
thủy
tham
sân
si.
Tùng
thân
khẩu
ý
chi
sở
sanh.
Nhứt
thiết
ngã
kim
giai
sám
hối.
Nghĩa
là
chúng
ta
đã
tạo
không
biết
bao
nhiêu
ác
nghiệp
từ
xưa
đến
giờ,
đều
do
ba
điều
độc
hại:
tham
lam,
sân
hận
và
si
mê,
thể
hiện
qua
ba
hình
thức:
thân
hành
động,
khẩu
nói
năng,
ý
suy
nghĩ.
Tất
cả
những
tội
lỗi
đó,
những
nghiệp
bất
thiện,
những
nghiệp
ác
đó,
chúng
ta
đều
thành
tâm
thực
lòng,
ăn
năn
sám
hối,
quyết
tâm
chừa
bỏ,
không
dám
tái
phạm,
cố
gắng
gìn
giữ
tam
nghiệp
thân
khẩu
ý
cho
được
thanh
tịnh.
Trong
kinh
sách
có
câu:
"Ngã
thân
ảnh
hiện
chư
Phật
tiền",
tức
là:
"Trước
bảo
tọa
thân
con
ảnh
hiện".
Nghĩa
là
đối
trước
tôn
tượng
chư
Phật,
chúng
ta
hiện
nguyên
hình
con
người
thực
của
mình,
phản
ảnh
đúng
nội
tâm
của
mình,
để
thành
tâm
phát
lồ
sám
hối,
không
che
dấu
bất
cứ
điều
gì
cả.
Chúng
ta
có
thể
che
dấu
tội
lỗi,
che
dấu
tật
xấu,
đối
với
người
đời,
chứ
đối
với
chư
Phật,
đúng
ra
đối
với
Phật
Tâm
của
chúng
ta,
chúng
ta
chẳng
thể
giấu
giếm
bất
cứ
điều
gì.
Ngày
xưa,
để
cho
mọi
người
dễ
hiểu,
cổ
nhơn
giải
thích
đó
chính
là
lúc
chúng
ta
đứng
trước
gương
chiếu
yêu,
trước
diêm
vương
cảnh
đài,
bất
cứ
việc
gì
chúng
ta
đã
làm,
đã
nói,
đã
nghĩ,
trong
suốt
cuộc
đời
đều
hiện
ra
hết
tất
cả.
*
*
Nay
nói
về
"Lý
Sám
Hối".
Trong
Kinh
Hoa
Nghiêm,
Đức
Phật
có
dạy:
"Nhất
thiết
duy
tâm
tạo".
Nghĩa
là
muôn
việc
trên
thế
gian
này
đều
do
tâm
của
chúng
ta
tạo
ra
tất
cả.
Tâm
của
chúng
ta
tạo
ra
thiên
đàng.
Tâm
của
chúng
ta
tạo
ra
địa
ngục.
Thí
dụ
chúng
ta
phát
triển
các
tâm
lượng
rộng
lớn,
tốt
đẹp
như
từ
bi
hỷ
xả,
tức
là
chúng
ta
phát
triển
cảnh
giới
thiên
đàng,
cực
lạc
và
sống
an
lạc
trong
cảnh
giới
đó.
Nếu
chúng
ta
chấp
chặt
những
thành
kiến,
định
kiến,
thiên
kiến,
biên
kiến,
tà
kiến,
ác
kiến,
thường
kiến,
đoạn
kiến,
phát
triển
những
tâm
lượng
hẹp
hòi,
ích
kỷ,
đố
kỵ,
ganh
tị,
tham
lam,
sân
hận,
si
mê,
khen
mình
khinh
người,
lợi
mình
hại
người,
tức
là
chúng
ta
phát
triển
cảnh
giới
địa
ngục
và
sống
bất
an
trong
cảnh
giới
đó
vậy.
Sự
sám
hối
ví
như
chiếc
xe
đạp.
Nghĩa
là
người
chỉ
biết
sự
sám
hối
thôi,
không
hiểu
rõ
lý
lẽ,
thì
đường
tu
tiến
chậm.
Đi
chùa
lạy
Phật,
tụng
kinh
bái
sám,
từ
lâu
lắm
rồi,
mà
sao
vẫn
còn
bực
mình
nhiều
chuyện
quá,
phiền
não
vẫn
còn
y
nguyên,
có
khi
còn
nhiều
hơn
lúc
trước
nữa.
Lý
sám
hối
ví
như
động
cơ.
Nghĩa
là
người
chỉ
biết
lý
sám
hối
thôi,
không
chịu
hành
sự,
thì
đường
tu
cũng
không
tiến.
Hiểu
rõ
lý
sám
hối
và
năng
hành
sự
sám
hối,
nghĩa
là
"lý
sự
viên
dung",
lý
sự
đầy
đủ
vẹn
toàn,
thì
đường
tu
tiến
được
rất
nhanh,
cũng
như
đi
xe
có
gắn
máy
thì
chạy
nhanh
hơn
xe
đạp
vậy.
Tu
tiến
có
nghĩa
là:
giảm
bớt
phiền
não
và
khổ
đau,
sống
được
cảnh
giới
an
lạc
và
hạnh
phúc
ngay
hiện
đời.
Dù
theo
bất
cứ
tôn
giáo
nào
chăng
nữa,
thực
ra
vị
giáo
chủ
cũng
không
thể
ban
phước
cho
chúng
ta
được
bình
an,
sung
sướng
hay
an
lạc
và
hạnh
phúc.
Các
ngài
chỉ
cho
chúng
ta
bản
đồ,
chỉ
cho
chúng
ta
phương
pháp,
để
chúng
ta
tự
thực
hành,
tự
đi
đến
cảnh
giới
an
lạc
và
hạnh
phúc
mà
thôi.
Như
vậy
mới
thực
là
chí
công
vô
tư
vậy.
Vì
thế
cho
nên,
những
người
có
trí
tuệ
bát
nhã,
luôn
luôn
giữ
gìn
tam
nghiệp
cho
thanh
tịnh,
tinh
tấn
tu
tâm
dưỡng
tánh,
phát
tâm
bồ
đề,
tiến
tu
đạo
nghiệp,
chứ
không
phải
chỉ
biết
cầu
nguyện,
van
xin,
cầu
khẩn,
khấn
vái.
Tại
sao
vậy?
Bởi
lẽ
chẳng
được
lợi
ích
gì,
chỉ
thêm
phiền
não,
vì
cầu
nguyện
hoài
mà
không
được
đáp
ứng
gì
cả!
Cầu
không
được,
khổ
là
cái
chắc.
Cầu
bất
đắc,
tức
khổ
không
sai.
Có
nhiều
cách
tu,
nhiều
phương
pháp,
nhiều
pháp
môn
để
giúp
chúng
ta
dừng
nghiệp
và
chuyển
nghiệp,
cho
nên
Phật
giáo
có
nhiều
tông
phái.
Tịnh
độ
tông
dùng
câu
niệm
Phật,
dùng
cách
quán
tưởng,
dùng
thời
khóa
tụng
kinh,
để
dừng
tất
cả
các
nghiệp.
Mật
tông
dùng
câu
thần
chú
đà-la-ni
để
dừng
tất
cả
các
nghiệp.
Thiền
tông
dùng
pháp
khán
thoại
đầu,
dùng
công
án
nhà
thiền,
hay
dùng
"pháp
đối
cảnh
vô
tâm",
hay
"pháp
tri
vọng",
để
dừng
tất
cả
các
nghiệp.
Dừng
được
một
phần
của
"ba
nghiệp",
chúng
ta
bớt
được
một
phần
"chướng
nạn"
của
cuộc
đời.
Dẹp
được
một
phần
"nghiệp
chướng"
của
bản
thân,
chúng
ta
hưởng
được
một
phần
cuộc
sống
an
lạc
và
hạnh
phúc
ngay
hiện
đời.
Thí
dụ
như
bớt
được
chút
lòng
tham
lam,
chúng
ta
bớt
được
chút
khổ
nạn,
bởi
vì
tham
thì
thâm.
Thí
dụ
như
bớt
chút
lòng
sân
hận,
chúng
ta
bớt
được
chút
phiền
não
nhức
đầu,
bởi
vì
sân
thì
sinh
sự.
Thí
dụ
như
bớt
chút
lòng
si
mê,
chúng
ta
bớt
được
chút
khổ
đau,
bởi
vì
mê
thì
mất
tiền,
mất
của,
mất
tất
cả!
*
*
Đến
đây,
chúng
ta
cần
hiểu
rõ,
phân
biệt
rõ:
thế
nào
là
"tội
và
nghiệp",
và
thế
nào
là
"tội
báo
và
nghiệp
báo".
Sau
một
thời
gian
tu
hành
nào
đó,
khi
tâm
được
thanh
tịnh,
ba
nghiệp
không
còn,
thân
khẩu
ý
hoàn
toàn
thanh
tịnh,
"tội
và
nghiệp"
không
còn
nữa,
bởi
vì
chúng
ta
không
còn
tạo
nghiệp,
không
còn
tạo
tội.
Do
thành
tâm
sám
hối,
"tội
và
nghiệp
mới"
không
còn
tạo
ra
nữa,
nhưng
tội
báo
và
nghiệp
báo,
nói
chung
là
quả
báo,
từ
"tội
và
nghiệp
cũ"
vẫn
còn.
Chúng
ta
đã
tạo
"nghiệp
nhân"
thì
nhứt
định
phải
nhận
"nghiệp
quả",
không
thể
chạy
đâu
cho
khỏi.
Người
đời
thường
gọi
đó
là
"số
trời
đã
định",
hay
"định
mệnh
đã
an
bài",
hoặc
"chạy
trời
không
khỏi
nắng",
chính
là
nghĩa
đó
vậy.
Trong
Kinh
Pháp
Cú,
Đức
Phật
có
dạy:
Dù
cho
lên
non,
xuống
biển
vào
hang,
nghiệp
báo
đã
mang,
vẫn
theo
con
người,
như
hình
với
bóng,
không
ai
có
thể,
tránh
được
thoát
được.
Các
bậc
thánh
thiện
là
những
người
đã
thanh
tịnh
được
tam
nghiệp
nên
có
cuộc
sống
an
nhàn,
tự
tại
trong
nội
tâm,
trong
tâm
thức.
Tuy
nhiên,
trên
hình
thức
bên
ngoài,
chúng
ta
thấy
cuộc
sống
của
các
vị
giáo
chủ,
của
các
bậc
thánh
nhơn
không
phải
là
không
có
sóng
gió,
không
phải
là
không
có
chuyện
bất
trắc
xảy
ra.
Có
khi
các
ngài
vẫn
bị
vu
cáo,
nhục
mạ,
phỉ
báng,
xét
xử,
kết
án
và
thậm
chí,
bị
hành
hình
như
những
tội
phạm
hình
sự.
Tại
sao
vậy?
Bởi
vì,
các
ngài
tuy
đã
dứt
hết
các
"tội
và
nghiệp"
đời
này,
nhưng
tội
báo
và
nghiệp
báo,
nói
chung
là
"quả
báo",
từ
nhiều
đời
và
nhiều
kiếp
trước
vẫn
còn,
các
ngài
vẫn
phải
trả.
Các
ngài,
cũng
như
bất
cứ
ai,
không
thể
đứng
ngoài
luật
nhân
quả
được.
Chẳng
hạn
như:
Vào
cuối
thế
kỷ
thứ
ba,
vị
tổ
thứ
hai
mươi
bốn
là
Aryasimha
tuy
đã
đắc
đạo,
nhưng
vẫn
bị
vua
Kế
Tân
chém
đầu.
Vào
đầu
thế
kỷ
thứ
bảy,
vị
tổ
thứ
hai
mươi
chín,
là
Tổ
Sư
Huệ
Khả,
bị
vu
cáo
và
bị
giam
đến
chết
trong
ngục,
thọ
107
tuổi!
Tổ
Bá
Trượng
Hoài
Hải
trong
một
buổi
thuyết
giảng,
có
gặp
một
ông
lão,
nguyên
là
một
vị
Hòa
Thượng,
vì
hiểu
sai
và
giảng
sai
luật
nhân
quả,
cho
là
một
khi
con
người
đắc
đạo
rồi,
thì
không
phải
trả
quả
báo,
thoát
ngoài
luật
nhân
quả,
cho
nên
phải
bị
đọa
500
kiếp
chồn.
Chúng
ta
cũng
thường
hay
nghĩ
như
vậy,
cho
là
sám
hối
xong
thì
sạch
tội
và
sẽ
được
bình
an,
không
tai
nạn
gì
nữa
cả,
không
phải
trả
quả
báo!
Hiểu
như
vậy
là
sai!
Chúng
ta
thường
lầm
lẫn
"tội
nghiệp
mới"
với
"quả
báo
cũ".
Chúng
ta
cần
nên
biết
rằng
chúng
ta
không
thể
nhờ
bất
cứ
ai
tha
tội,
xóa
tội,
miễn
tội,
gánh
tội
thay
thế
cho
chúng
ta
được.
Tại
sao
vậy?
Bởi
vì
như
vậy
trái
với
luật
nhân
quả,
lẽ
công
bằng
và
không
hợp
tình,
hợp
lý
chút
nào.
Trong
tam
tạng
kinh
điển,
Đức
Phật
chỉ
dạy
rất
rõ
ràng
vấn
đề
"tội
và
báo"
này.
Khi
nào
chúng
ta
không
còn
tâm
si
mê
muốn
quịt
nợ,
chúng
ta
sẽ
nhận
biết
được
dễ
dàng
hơn,
thấu
đáo
hơn,
không
còn
bị
dối
gạt,
không
còn
lầm
lẫn
nữa.
Chúng
ta
thử
xét
thí
dụ
sau
đây,
để
hiểu
biết
thêm
về
"tội
báo,
nghiệp
báo,
quả
báo,
và
phước
báo".
Theo
luật
nhân
quả,
do
hậu
quả
của
tội
lỗi
đã
làm,
gọi
là
"nghiệp
nhân",
con
người
gặp
những
bệnh
tật,
những
tai
nạn,
những
bất
trắc
ở
đời,
gọi
là
"nghiệp
quả
hay
nghiệp
báo".
Con
người
phải
gánh
chịu
"quả
báo
hay
tội
báo"
như
vậy,
ví
như
phải
ăn
một
nắm
muối.
Phải
ăn
một
nắm
muối
thì
khổ
biết
là
bao
nhiêu.
Nếu
như
con
người
có
thể
bỏ
nắm
muối
vào
tô
nước
rồi
uống
thì
có
lẽ
dễ
chịu
hơn
chút
đỉnh.
Nếu
như
con
người
có
thể
bỏ
nắm
muối
vào
lu
nước
rồi
uống
thì
dễ
chịu
hơn
chút
nữa.
Nếu
như
con
người
có
thể
bỏ
nắm
muối
đó
vào
hồ
nước
lớn
rồi
uống
thì
chắc
là
câu
chuyện
không
thành
vấn
đề
nữa
rồi.
Nắm
muối
bị
bắt
buộc
phải
ăn
tượng
trưng
cho
"tội
báo,
nghiệp
báo,
hay
quả
báo",
do
những
tội
lỗi
chúng
ta
đã
làm
từ
nhiều
đời
trước
hay
đời
này.
Nước
trong
tô,
trong
lu,
trong
hồ
tượng
trưng
cho
"phước
báo"
ít
hay
nhiều,
chúng
ta
đã
tạo
được
từ
những
việc
làm
phước
thiện,
phước
đức,
trong
các
đời
trước
hay
đời
này.
Như
vậy,
nếu
con
người
phải
đền
trả
hoàn
toàn
đầy
đủ
những
tội
lỗi
do
chính
mình
gây
ra,
đời
trước
hay
đời
này,
thì
có
khi
phải
tán
gia
bại
sản,
bệnh
tật
ngặt
nghèo,
nguy
hại
tánh
mạng.
Nhưng
nhờ
đã
làm
các
việc
phước
thiện,
nên
có
"phước
báo"
để
bù
đắp,
cho
nên
hoàn
cảnh
khổ
đau,
tai
nạn
có
thể
được
giảm
bớt
hay
hóa
giải
đi.
Chuyện
lớn
hóa
nhỏ,
chuyện
nhỏ
hóa
không.
Ví
như
con
người
có
tiền
tiết
kiệm
để
dành,
có
thể
đem
trả,
trừ
bớt
nợ
hay
trừ
dứt
nợ
xưa
vậy.
Bởi
vậy,
làm
việc
phước
thiện,
tạo
phước
đức,
có
phước
báo,
để
tiêu
trừ
tội
nghiệp
là
thái
độ
tích
cực
và
hợp
đạo
lý,
đối
với
bất
cứ
ai
trên
thế
gian
này,
hơn
là
việc
cầu
nguyện
thượng
đế
để
xin
xá
tội,
để
chạy
tội,
hoặc
đổ
hết
tội
lỗi
của
mình
cho
thượng
đế
gánh
giùm!
Thật
là
thảm
thương
thay
cho
thượng
đế
do
con
người
đặt
ra,
tưởng
tượng
ra,
để
gánh
vác
hết
tội
lỗi
của
nhân
loại
trên
thế
gian
này!
Con
người
vốn
hay
muốn
quịt
nợ,
muốn
trốn
tránh
trách
nhiệm,
không
sợ
nhân
chỉ
sợ
quả,
không
bao
giờ
nhìn
nhận
những
việc
sơ
sót,
sai
trái,
tội
lỗi,
lỗi
lầm,
chính
mình
đã
làm,
chỉ
biết
trách
cứ
người
khác,
đổ
thừa
tại
người
này,
đổ
thừa
tại
việc
kia,
không
bao
giờ
dám
nhận
là
"tại
mình",
không
bao
giờ
chịu
nhận
là
"lỗi
tại
tôi
mọi
đàng".
Tại
sao
vậy?
Bởi
vì
con
người
không
hiểu
thấu
đáo,
không
biết
tin
sâu
luật
nhân
quả
vậy.
*
*
*
Tóm
lại,
trong
kinh
sách,
Đức
Phật
có
dạy:
Tam
nghiệp
hằng
thanh
tịnh.
Đồng
Phật
vãng
tây
phương.
Nghĩa
là
nếu
như
lúc
nào
ba
nghiệp
của
chúng
ta
đều
thanh
tịnh,
lặng
yên,
trong
sáng,
thân
không
sát
sanh,
trộm
cắp,
tà
dâm,
khẩu
không
nói
dối,
không
nói
lời
thị
phi,
không
đâm
bị
thóc
thọc
bị
gạo,
không
xuyên
tạc
phỉ
báng,
không
vu
khống
cáo
gian,
ý
không
còn
tham
lam,
sân
hận,
si
mê,
thì
chắc
chắn
chúng
ta
sẽ
được
an
lạc
và
hạnh
phúc
hiện
đời,
sẽ
cùng
chư
Phật
về
cõi
tây
phương
cực
lạc
sau
này.
Những
người
không
thấu
hiểu
lẽ
này,
nên
nghĩ
là
có
thể
"đới
nghiệp
vãng
sanh",
tức
là
còn
mang
nghiệp
mà
vẫn
có
thể
vãng
sanh
tây
phương,
nhờ
vào
câu
niệm
Phật
A
Di
Đà.
Đó
là
một
sự
suy
nghĩ
sai
lầm
lớn
lao
của
người
tu
đạo,
không
đúng
Chánh
Pháp.
Trong
Kinh
Hoa
Nghiêm,
Đức
Phật
có
dạy:
Tất
cả
nghiệp
chướng
đều
do
vọng
tưởng,
nếu
muốn
sám
hối,
hãy
ngồi
tĩnh
tâm
quán
sát
thực
tướng.
Nghĩa
là
khi
quán
sát
thực
tướng,
nếu
người
nào
biết
được
tánh
chúng
sanh
là
tánh
niết
bàn
thì
người
ấy
cùng
cực
giải
thoát.
Trong
kinh
sách
có
câu:
"Phật
và
chúng
sanh
tánh
thường
rỗng
lặng",
hay:
"Năng
lễ
sở
lễ
tánh
không
tịch".
chính
là
nghĩa
này
vậy.
Xét
cho
đến
ngọn
nguồn,
tội
nghiệp
đều
do
vọng
tưởng
điên
đảo
mà
sinh
ra.
Nhưng
tâm
vọng
tưởng
điên
đảo
ấy
cũng
như
luồng
gió
giữa
chốn
hư
không,
chẳng
có
chỗ
nào
trụ,
chẳng
có
chỗ
nào
dính
mắc.
Khi
chưa
thấu
hiểu
chân
lý,
mang
mang
mờ
mờ
mịt
mịt,
cho
nên
chúng
ta
mới
gây
tội
nghiệp,
nhưng
lại
chỉ
thấy
tội
nghiệp
của
người
khác.
Đến
khi
rõ
lý
lẽ,
tất
cả
tội
lỗi
trước
đây
thảy
đều
tiêu
diệt,
bởi
chúng
ta
đã
thấy
tội
nghiệp
của
chính
mình.
Lúc
ấy
mới
biết
một
cách
rốt
ráo,
tất
cả
đều
là
không:
không
có
tội
lỗi
gì
để
mà
tiêu
diệt,
không
có
tội
nghiệp
gì
để
mà
tạo
tác,
không
thấy
có
nghiệp
báo
gì
để
mà
gánh
chịu,
cũng
không
còn
sanh
tử
luân
hồi
nữa
vậy.
---
o0o
---
Mục Lục
Tập
1:
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10
|
11|
12
Tập
2:
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10|
11|
Tập
3:
1|
2
|
3
|
4|
5|
6
|
7
|
8
|
9
|
10|
11|
12|
13|
14
|15|
16
---
o0o
---
| Thư
Mục
Tác
Giả
|
--- o0o ---
Chân
thành
cám
ơn
Cư
sĩ
Chính
Trực
đã
gửi
tặng
phiên
bản
điện
tử
bộ
sách
này
(Trang
nhà
Quảng
Đức,
05-2002)
Trình
bày
:
Nhị
Tường
Cập
nhật
ngày:
01-05-2002