Cư
Trần
Lạc
Ðạo
(Trọn
bộ 3 tập)
Toronto, Canada
1999 - PL 2543
---
o0o
---
Tập
3
[12]
Thủ
ấn
của
Phật
thích
ca
Trong
đời
sống
hằng
ngày,
chúng
ta
có
rất
nhiều
thắc
mắc,
có
nhiều
vấn
đề
cần
phải
giải
quyết,
chẳng
hạn
như
là:
Hình
Đức
Phật
Thích
Ca
của
trang
nhà
ĐPNN
có
hình
thủ
ấn
bàn
tay
trái
nằm
trên
bàn
tay
phải.
Theo
chỗ
chúng
tôi
thấy
thì
phần
lớn
các
hình
Phật
có
thủ
ấn
ngược
lại.
Xin
giải
thích
lý
do.
*
*
*
Thực
đúng
như
vậy,
phần
lớn
các
hình
Phật
Thích
Ca
có
thủ
ấn
bàn
tay
phải
nằm
trên
bàn
tay
trái,
ngược
lại
với
hình
Đức
Phật
của
trang
nhà
ĐPNN.
Các
tranh
vẽ
trong
Phật
giáo
thường
do
các
họa
sĩ
vẽ
ra
theo
trí
tưởng
tượng,
dựa
vào
những
chi
tiết
trong
kinh
sách,
thường
có
ý
nghĩa
tượng
trưng,
không
đúng
sự
thực
như
trong
hình
vẽ
diễn
tả.
Chẳng
hạn
như
là:
hình
Đức
Phật
A
Di
Đà
đứng
trên
đóa
hoa
sen,
một
tay
cầm
hoa
sen,
một
tay
giơ
ra,
như
đang
chờ
đón
rước
chúng
sanh
về
với
chư
Phật
ở
cõi
cực
lạc,
theo
kinh
A
Di
Đà.
Hoa
sen
tượng
trưng
cho
"bản
tâm
thanh
tịnh"
của
chư
Phật
và
của
mỗi
người.
Người
nào
tu
tâm
dưỡng
tánh
đạt
được
"nhất
tâm
bất
loạn",
tức
là
sống
được
với
bản
tâm
thanh
tịnh,
người
đó
sẽ
vãng
sanh
tây
phương
cực
lạc.
Chứ
không
phải
chỉ
tu
tập
sơ
sơ,
được
chút
ít
công
đức
phước
đức,
rồi
tưởng
tượng
sẽ
được
về
cực
lạc
sau
khi
mãn
phần,
một
cách
dễ
dàng.
Trong
kinh
A
Di
Đà,
Đức
Phật
có
dạy:
"Bất
khả
dĩ
thiểu
thiện
căn
phước
đức
nhân
duyên
đắc
sanh
bỉ
quốc".
Nghĩa
là:
Không
thể
lấy
chút
ít
phước
đức
làm
nhân
duyên
để
được
sanh
qua
nước
kia
(tức
là
cõi
cực
lạc).
Chẳng
hạn
như
là:
hình
Đức
Phật
Thích
Ca
ngồi
dưới
cội
bồ
đề,
trên
đóa
hoa
sen,
cũng
có
ý
nghĩa:
người
nào
giác
ngộ
và
sống
được
với
bản
tâm
thanh
tịnh
thì
đó
chính
là
một
vị
Phật.
Thực
sự
lúc
thành
Phật
dưới
cội
bồ
đề,
Đức
Thích
Ca
chỉ
tọa
thiền
trên
tấm
thảm
cỏ
(tức
là
bồ
đoàn).
Lúc
đó,
Đức
Phật
để
bàn
tay
mặt
trên
bàn
tay
trái,
hay
ngược
lại,
không
có
kinh
sách
nào
nói
rõ.
Tuy
nhiên,
việc
đó
không
quan
trọng.
Tại
sao
như
vậy?
Bởi
vì,
đó
chỉ
là
hình
tướng
bên
ngoài
mà
thôi.
Không
phải
các
thủ
ấn
có
thể
giúp
mình
hàng
phục
ma
quân
bên
ngoài
gì
đâu?
Cốt
tủy
của
đạo
Phật
là
giúp
đỡ
con
người
hàng
phục
"tâm
ma"
trong
lòng
chính
mình,
lúc
đó
tâm
được
an
thì
"tâm
Phật"
hiển
lộ.
Khi
nào
tất
cả
mọi
chúng
sanh
trong
lòng
chúng
ta
được
độ
hết,
tức
là
chúng
ta
hàng
phục
được
tâm
của
chính
mình,
chúng
ta
sẽ
thành
một
vị
Phật,
chứ
không
phải
lo
đi
độ
hết
mọi
người
bên
ngoài
xong
rồi,
mới
được
thành
Phật.
Tại
sao
như
vậy?
Bởi
vì,
đã
có
biết
bao
nhiêu
vị
Phật
đã
thành,
mà
chúng
sanh
vẫn
còn
vô
số
trên
thế
gian!
*
*
*
Tóm
lại,
cốt
tủy
của
đạo
Phật
có
thể
tóm
gọn
vào
một
chữ,
đó
là
chữ
TÂM.
Tâm
được
an
tịnh
là
điều
hạnh
phúc
quí
báu
nhứt
trên
trần
đời.
Tất
cả
những
gì
thuộc
hình
thức,
hình
tướng
bên
ngoài,
chỉ
là
phần
phụ
thuộc
mà
thôi.
TỨ
NHIẾP
PHÁP
Trong
vô
lượng
pháp
môn
tu
theo
đạo
Phật,
không
pháp
môn
nào
không
nhằm
"mục
đích
lợi
sanh".
Hạnh
lợi
sanh
luôn
luôn
là
hạnh
chủ
yếu
của
mười
phương
chư
Phật,
chư
vị
Bồ
Tát
thị
hiện
ra
đời,
thực
hành,
để
đem
lại
ích
lợi,
đem
lại
lợi
lạc,
cho
tất
cả
chúng
sanh.
Cho
nên,
trong
tất
cả
phương
tiện
giáo
hóa,
khuyến
tu,
chúng
ta
cần
tìm
hiểu
một
cách
tường
tận
pháp
môn
gọi
là
"Tứ
Nhiếp
Pháp".
Đó
là
pháp
môn
thực
hành
để
dẫn
dắt
chúng
sanh
tồi
tà
phụ
chánh,
tức
là
bỏ
việc
gian
tà
sai
trái,
theo
đường
ngay
lẽ
phải,
đi
vào
chánh
đạo.
Tứ
nhiếp
pháp
là
pháp
môn
nhiếp
hóa
chúng
sanh,
căn
cứ
vào
lòng
từ
bi
để
khuyến
hóa
chúng
sanh
bỏ
tà
theo
chánh,
có
công
năng
nhiếp
phục
và
giác
ngộ
chúng
sanh.
*
*
*
Tứ
nhiếp
pháp
gồm
bốn
điều
là:
bố
thí,
ái
ngữ,
lợi
hành,
đồng
sự.
Pháp
môn
này
không
những
dành
cho
Phật
Tử
xuất
gia
là
các
bậc
tu
sĩ,
hay
dành
cho
các
Phật
Tử
tại
gia
cư
sĩ,
mà
bất
cứ
ai
cũng
có
thể
áp
dụng,
tu
tập,
thực
hành,
để
có
cuộc
sống
an
lạc
và
hạnh
phúc
hiện
đời,
để
được
giác
ngộ
và
giải
thoát.
Tứ
nhiếp
pháp
có
giá
trị
cao
đẹp,
biểu
lộ
ý
chí
cao
thượng
của
chư
Phật,
chư
Bồ
Tát.
I.-
trước
hết
là
bố
thí.
Bố
thí
có
nghĩa
là
cho
một
cách
rộng
rãi.
Cho
một
cách
rộng
rãi
có
hai
nghĩa:
một
là,
cho
tất
cả
mọi
thứ
đến
tất
cả
mọi
người
và
hai
là,
cho
với
tất
cả
tấm
lòng
rộng
rãi,
bất
tùy
phân
biệt.
Tại
sao
chúng
ta
phải
tu
hạnh
bố
thí?
Tu
hạnh
bố
thí
là
để
kiến
tạo
một
kho
tàng
phước
báu,
là
tu
tập
nghiệp
lành.
Phước
báu
có
công
năng
tiêu
trừ
đau
khổ,
làm
cho
tâm
trí
được
an
vui,
thảnh
thơi,
hạnh
phúc.
Tu
hạnh
bố
thí
được
người
đời
thương
mến,
dễ
thu
phục
lòng
người,
phát
triển
lòng
từ
bi.
Bố
thí
là
gốc
rễ
của
tất
cả
các
thiện
pháp.
Bố
thí
là
pháp
tu
mà
những
người
kém
phước
đức
và
trí
huệ
cần
noi
theo.
Chư
vị
hiền
thánh
nhơn
kim
cổ
đều
trải
qua
các
hạnh
tu
bố
thí.
Chúng
ta
sống
trên
thế
gian
này
gặp
nhiều
phiền
não
và
khổ
đau
từ
nhiều
nguyên
do,
trong
đó
lòng
tham
lam
là
yếu
tố
hàng
đầu.
Do
lòng
tham
lam,
con
người
không
bao
giờ
thấy
đủ.
Có
được
chín
đồng
thì
con
người
cố
kiếm
cho
đủ
mười
đồng,
nói
rằng
để
dành
khi
hữu
sự
cần
dùng,
hay
để
dưỡng
lão
mai
sau.
Đến
khi
có
được
chín
trăm
ngàn
thì
con
người
vẫn
cố
làm
việc,
cố
dành
dụm,
cố
đấu
tranh,
cố
giành
giựt,
bất
chấp
thủ
đoạn,
để
có
nhiều
thêm
nữa,
dù
rằng
lúc
đó
tuổi
tác
đã
già
nua,
gần
đất
xa
trời.
Đó
là
lòng
tham
tiền
tài,
lợi
lộc.
Lòng
tham
danh,
háo
danh
cũng
thúc
đẩy,
sai
khiến
nhiều
ông
bà
già
tiếp
tục
bon
chen
trên
đường
đời,
tiếp
tục
giở
những
thủ
đoạn
bất
chánh,
những
tuyệt
chiêu
điêu
luyện,
những
kinh
nghiệm
hại
người,
để
đoạt
cho
kỳ
được,
giữ
cho
thực
lâu
các
chức
vụ
hay
danh
vị
nào
đó
trong
các
tổ
chức
bất
vụ
lợi
trá
hình,
đôi
khi
đó
chỉ
là
các
chức
dõm,
danh
hàm,
danh
hão
mà
thôi,
chẳng
có
chút
giá
trị
nào
cả.
Lòng
tham
lam
luôn
luôn
thúc
đẩy
con
người
đấu
tranh,
giành
giựt,
bất
chấp
thủ
đoạn,
thì
làm
sao
cuộc
sống
thực
sự
được
an
lạc
và
hạnh
phúc?
Người
biết
tri
túc,
biết
an
phận
với
những
gì
đang
có,
biết
cần
kiệm,
biết
sống
một
cuộc
sống
đơn
giản,
an
nhàn,
trong
sạch
là
người
được
an
lạc
và
hạnh
phúc
lớn
nhất.
Nếu
chúng
ta
không
có
những
gì
mình
thích
thì
chúng
ta
hãy
thích
những
gì
mình
đang
có.
Được
như
vậy
thì
cuộc
đời
đâu
còn
gì
gọi
là
khổ
đau.
Trong
Kinh
Di
Giáo,
Đức
Phật
có
dạy:
Tri
túc
chi
nhơn
tuy
ngọa
địa
thượng
du
vi
an
lạc.
Bất
tri
túc
giả
thân
xử
thiên
đường
diệc
bất
xứng
ý.
Nghĩa
là:
Người
biết
thế
nào
là
đủ,
tuy
nằm
trên
đất
cũng
thấy
an
vui,
lạc
thú.
Người
không
biết
thế
nào
là
đủ,
tuy
thân
ở
trên
cảnh
giới
thiên
đường,
tâm
ý
vẫn
không
thỏa
mãn!
Sách
cũng
có
câu:
Tri
túc
tiện
túc
đãi
túc
hà
thời
túc.
Tri
nhàn
tiện
nhàn
đãi
nhàn
hà
thời
nhàn.
Nghĩa
là:
Người
biết
thế
nào
là
đủ
thì
tức
thời
thấy
đủ,
biết
thế
nào
là
nhàn
thì
tức
thời
thấy
nhàn.
Như
vậy
"cái
đủ,
cái
nhàn"
thực
ra
rất
cần
thiết,
rất
quan
trọng
cho
cuộc
đời,
nhưng
chúng
ta
không
bao
giờ
đạt
được
"cái
đủ,
cái
nhàn",
nếu
không
có
"biết
đủ,
biết
nhàn".
Bởi
vậy,
cho
nên
Đức
Phật
dạy
pháp
bố
thí,
để
dẹp
bớt
lòng
tham
lam,
đòi
hỏi,
bỏn
sẻn,
keo
kiệt,
bần
tiện
của
con
người.
Pháp
bố
thí
gồm
có
ba
thứ:
"tài
thí,
pháp
thí,
vô
úy
thí".
1)
Về
tài
thí
có
hai
phần:
ngoại
tài
thí
và
nội
tài
thí.
Chúng
ta
có
thể
cho
những
gì
bên
ngoài
thân
thể,
như
là
tiền
bạc,
của
cải,
cơm
gạo,
quần
áo,
thuốc
men,
vật
chất
nói
chung,
gọi
là
"ngoại
tài
thí".
Khi
thực
hành
ngoại
tài
thí,
chúng
ta
cần
chú
ý
các
yếu
tố
đúng
người,
đúng
thời
và
đúng
lượng.
Chẳng
hạn
như
người
nào
cần
tiền
bạc,
chúng
ta
giúp
tiền
bạc;
người
nào
cần
thuốc
men,
chúng
ta
giúp
thuốc
men
và
chỉ
giúp
lúc
cần
thiết
với
số
lượng
hợp
tình,
hợp
lý
mà
thôi.
Nhiều
khi
giúp
đỡ
tiền
bạc
quá
nhiều,
có
thể
làm
cho
người
nhận
sanh
tâm
ỷ
lại,
sanh
lòng
lười
biếng,
không
thích
làm
việc,
không
thích
chịu
cực,
không
kham
nỗi
những
khó
khăn
trong
cuộc
sống.
Nhiều
khi
giúp
đỡ
tiền
bạc
đưa
đến
chuyện
hại
người
nếu
chúng
ta
không
biết
người
nhận
xử
dụng
số
tiền
đó
với
mục
đích
sai
lạc,
mục
đích
xấu.
Chúng
ta
có
thể
đem
cho
những
gì
thuộc
về
thân
thể,
thân
mạng
của
mình,
hoặc
các
bộ
phận
trên
cơ
thể
như
là
mắt,
tim,
gan,
phèo,
phổi,
gọi
là
"nội
tài
thí".
Điều
này,
khi
còn
sống
thì
khó
thực
hiện
được,
nhưng
chúng
ta
có
thể
làm
được
khi
vừa
mới
tắt
thở.
Có
rất
nhiều
người
không
theo
đạo
Phật,
không
hiểu
giáo
lý
đạo
Phật,
nhưng
họ
đã
ký
sẵn
giấy
cam
đoan
cho
các
bộ
phận
trên
cơ
thể
của
họ
hoặc
cho
luôn
thân
xác
của
họ,
cho
bất
cứ
ai
cần
đến,
hoặc
cho
các
viện
y
khoa,
để
giải
phẩu
nghiên
cứu,
học
hỏi,
tìm
hiểu,
ngay
khi
họ
vừa
mới
tắt
thở.
Điều
này
giúp
chúng
ta
hiểu
rằng,
trong
tận
cùng
thâm
tâm
của
mỗi
con
người,"thiện
tâm"
đều
giống
nhau,
ai
ai
cũng
có,
không
phân
biệt
con
người
theo
bất
cứ
tôn
giáo
nào
trên
thế
gian
này.
Ngày
nay
chúng
ta
ít
người
thực
hành
nổi
hạnh
bố
thí
thân
mạng
như
người
xưa.
Tuy
nhiên,
chúng
ta
có
thể
dùng
thân
mạng
để
làm
những
việc
ích
lợi
cho
người,
như
công
quả
trong
chùa,
góp
công
sức
trong
các
cuộc
lạc
quyên
cứu
giúp
người
gặp
nạn
bão
lụt,
gặp
hỏa
hoạn.
Thực
ra,
từ
xưa
đến
nay,
có
biết
bao
nhiêu
người
xả
thân
cứu
người,
nhiều
khi
gặp
hiểm
nguy
đến
tánh
mạng.
Đó
cũng
gọi
là
"nội
tài
thí".
2)
Về
pháp
thí
có
hai
nghĩa:
một
là,
đem
cho
tất
cả
mọi
việc,
đem
cho
tất
cả
các
pháp
trên
thế
gian
này
và
hai
là,
cho
giáo
pháp
của
Phật,
còn
gọi
là
Phật
Pháp.
Chúng
ta
có
thể
cho
tất
cả
những
gì
khác,
không
thuộc
phần
nội
tài
thí
và
ngoại
tài
thí
nói
trên.
Chẳng
hạn
như
chúng
ta
có
sở
học,
có
tài
năng,
có
kiến
thức,
có
sự
hiểu
biết
về
một
vấn
đề
nào
đó,
về
một
phương
diện
nào
đó,
về
một
ngành
nghề
nào
đó,
chúng
ta
có
thể
đem
ra
chỉ
bảo,
hướng
dẫn,
truyền
dạy,
giúp
đỡ
cho
người,
một
cách
bất
vụ
lợi,
không
mong
cầu
báo
đáp,
không
kể
lể
ơn
nghĩa.
Việc
này
bất
cứ
ai
cũng
có
thể
làm
được,
không
tốn
đồng
xu
cắc
bạc,
chỉ
cần
tấm
lòng
vị
tha,
chỉ
cần
tấm
lòng
"vì
người
quên
mình"
mà
thôi.
Đối
với
hàng
tu
sĩ
xuất
gia
hay
cư
sĩ
tại
gia
có
học
hiểu
giáo
pháp
của
Phật,
đem
ra
giảng
giải
cho
mọi
người
được
biết
để
áp
dụng,
để
xây
dựng
cuộc
sống
an
lạc
và
hạnh
phúc
hiện
đời.
Theo
nghĩa
này,
pháp
thí
là
điều
quan
trọng
hơn
cả.
Tại
sao
vậy?
Bởi
vì
khi
chúng
ta
giúp
người
về
vật
chất,
như
tiền
bạc,
cơm
gạo,
có
thể
làm
cho
người
được
qua
cơn
khó
khăn
trong
ngắn
hạn,
trong
một
thời
gian
nào
đó
mà
thôi.
Khi
chúng
ta
giúp
người
về
tinh
thần,
như
dạy
chữ,
chỉ
dạy
nghề,
hướng
dẫn
cách
sống
đúng
phép
vệ
sinh
chẳng
hạn,
có
thể
làm
cho
người
được
qua
cơn
khó
khăn
trong
một
thời
gian
nào
đó,
thậm
chí
có
thể
giúp
họ
sống
còn,
sống
khỏe
một
đời
này
mà
thôi.
Còn
nếu
chúng
ta
có
học
hiểu
giáo
pháp
của
Đức
Phật,
còn
gọi
là
Phật
Pháp,
đem
ra
giảng
giải
cho
mọi
người
được
biết,
để
áp
dụng
trong
cuộc
sống,
thì
có
thể
giúp
con
người
được
an
lạc
và
hạnh
phúc
ngay
hiện
đời,
ngay
kiếp
này,
cao
hơn
nữa
là
giúp
con
người
được
giác
ngộ
và
giải
thoát
khỏi
vòng
sanh
tử
luân
hồi
khổ
đau
vĩnh
viễn
muôn
kiếp.
Bởi
vậy,
cho
nên
Đức
Phật
dạy
hàng
Phật
Tử
tại
gia
"pháp
cúng
dường"
chư
Tăng
Ni,
để
các
vị
xuất
gia
yên
tâm
tu
hành,
không
phải
lo
chuyện
sinh
sống,
chuyên
tâm
nghiên
cứu
kinh
điển,
rồi
đem
ra
giảng
giải
cho
mọi
người
biết,
để
tu
hành
theo
đúng
Chánh
Pháp.
Pháp
cúng
dường
như
vậy
là
thanh
tịnh
nhất,
dành
cho
các
bậc
chơn
tu
thực
học,
thanh
tịnh
trang
nghiêm.
Đó
là
một
dạng
khác
của
sự
bố
thí.
Tuy
nhiên,
không
phải
giáo
pháp
luôn
luôn
cần
hơn
cơm
gạo,
hoặc
ngược
lại.
Việc
này
chúng
ta
gọi
là
"tùy
duyên".
Trong
một
buổi
Đức
Phật
thuyết
pháp,
có
một
người
nghèo
khó
đến
dự.
Đức
Phật
liền
bảo
dọn
cơm
cho
người
đó
ăn
trước,
rồi
mới
giảng
pháp
cho
nghe
sau.
Khi
nghe
xong
thời
pháp
đó,
người
nghèo
khó
ngộ
đạo,
chứng
ngay
quả
dự
lưu
tu
đà
hoàn.
Do
đó,
ngày
nay
chúng
ta
có
câu:
"Có
thực
mới
vực
được
đạo".
Nghĩa
là
phải
được
tạm
no
lòng
thì
mới
hy
vọng
hiểu
được
đạo
lý
cao
siêu.
Chúng
ta
không
thể
đem
giáo
pháp
cao
siêu
ra
giảng
dạy
cho
những
người
đang
đói
khổ,
đang
cần
cơm
gạo
trước
hết.
Cũng
như
không
thể
đem
giáo
pháp
cao
siêu
dạy
ngay
cho
người
sơ
cơ,
mới
học
đạo.
Nhu
cầu
tại
thế
gian
của
con
người
đi
từ
vật
chất
đến
tinh
thần,
rồi
sau
đó
mới
bàn
đến
chuyện
tâm
linh
xuất
thế
gian.
3)
Về
vô
úy
thí
thì
có
nhiều
nghĩa
rộng
rãi,
cao
siêu
hơn.
Vô
là
không,
úy
là
sợ,
thí
là
cho.
Vô
úy
thí
là
đem
cho
sự
không
sợ
hãi.
Hay
nói
cách
khác,
vô
úy
thí
là
làm
sao
giúp
đỡ
cho
con
người
bớt
sự
lo
lắng,
sợ
sệt,
sợ
hãi,
hay
phiền
muộn.
Vô
úy
thí
có
nghĩa
là
giúp
người
qua
cơn
sợ
hãi
mọi
thứ,
bớt
sự
lo
lắng
mọi
điều
trong
tâm
trí
trong
các
biến
cố,
trước
các
điều
hiểm
nguy,
và
còn
có
nghĩa
là
chúng
ta
không
nên
gây
não
phiền,
không
nên
gây
bực
dọc
cho
bất
cứ
ai,
khiến
họ
được
an
vui,
yên
ổn.
Con
người
sống
trên
thế
gian
này
có
rất
nhiều
điều
lo
âu,
sợ
hãi
hay
phiền
muộn.
Nào
là
sợ
thiếu
tiền,
sợ
thiếu
ăn,
sợ
thiếu
mặc,
sợ
bệnh
hoạn,
sợ
thiên
tai,
sợ
mất
công
ăn
việc
làm,
sợ
mất
hạnh
phúc
gia
đình,
sợ
đủ
mọi
thứ
chuyện
trên
trần
đời.
Nhưng
nỗi
lo
sợ
lớn
nhất
của
con
người,
chính
là
sợ
chết!
Tự
cổ
chí
kim,
từ
người
nghèo
hèn
cho
đến
người
sang
trọng,
từ
người
bình
dân
cho
đến
người
học
thức,
từ
người
trẻ
cho
đến
cụ
già,
từ
người
thường
dân
cho
đến
vua
quan
hay
hàng
quí
tộc,
từ
giới
phàm
phu
tục
tử
cho
đến
các
bậc
hiền
triết
thánh
nhơn,
nào
có
ai
tránh
được
cái
chết
đâu,
mặc
dù
con
người
vốn
tham
sinh
úy
tử,
tức
là
ham
sống
sợ
chết!
Con
người
thường
hay
nghĩ
"đời
còn
dài",
cho
nên
chỉ
bận
tâm
đến
chuyện
mưu
sinh,
chuyện
tranh
danh
đoạt
lợi,
chuyện
đấu
tranh
tranh
đấu,
chuyện
hơn
thua,
thị
phi,
đúng
sai,
phải
quấy,
đủ
thứ
chuyện
linh
tinh
lang
tang.
Đến
khi
sắp
từ
giã
cuộc
đời
mới
giựt
mình
tỉnh
giấc
thì
đã
quá
muộn
màng.
Thực
ra,
con
người
có
thể
chết
bất
cứ
lúc
nào,
bất
cứ
cách
nào,
bất
cứ
nơi
nào.
Còn
đối
với
sự
sợ
chết,
chúng
ta
khuyến
hóa
mọi
người
tu
hành,
phát
tâm
tìm
hiểu
đạo
lý
và
cầu
đạo
giác
ngộ
giải
thoát.
Tại
sao
vậy?
Bởi
vì
chỉ
có
giáo
pháp
của
Đức
Phật
mới
có
thể
chỉ
bày
cho
con
người
hiểu
rõ
ràng,
tường
tận
"pháp
vô
sanh",
tức
là
chỉ
dạy
đường
lối
tu
hành
để
giác
ngộ
và
giải
thoát,
không
còn
sanh
phiền
não
và
khổ
đau,
không
còn
sanh
tử
luân
hồi
nữa,
chứ
đạo
Phật
không
phải
chỉ
có
các
hình
thức
cúng
kiến,
lễ
nghi,
cầu
nguyện
mà
thôi.
Thực
hành
hạnh
vô
úy
thí
còn
có
nghĩa
là
giúp
chúng
sanh
khắc
phục
tư
tưởng
sợ
hãi,
khiếp
nhược
yếu
hèn,
tự
ti
mặc
cảm,
giúp
chúng
sanh
hiểu
được
điều
Đức
Phật
giác
ngộ
dưới
cội
cây
bồ
đề
và
giảng
dạy
khắp
tam
tạng
kinh
điển.
Đó
chính
là:
"Tất
cả
chúng
sanh
ai
ai
cũng
đều
có
Phật
Tánh
như
nhau,
tất
cả
đều
bình
đẳng,
và
tất
cả
chúng
sanh
đều
sẽ
thành
Phật,
giải
thoát
mọi
khổ
đau
phiền
não,
nếu
biết
tu
tập,
thực
hành
đúng
Chánh
Pháp".
Trong
các
kinh
điển
Phật
giáo,
đó
là
bốn
bước:
khai,
thị,
ngộ,
nhập.
Nghĩa
là
Đức
Phật
khai
mở
cánh
cửa
giải
thoát;
chỉ
thị
cho
con
người
thấy
được,
hiểu
được
"pháp
vô
sanh",
đó
là
cái
"bất
sanh
diệt",
đó
là
"con
người
chân
thật"
của
tất
cả
chúng
ta,
chứ
không
phải
cái
xác
thân
giả
tạm
đang
có;
giúp
cho
con
người
làm
sao
giác
ngộ
được
"pháp
vô
sanh"
và
cuối
cùng
chỉ
dạy
đường
lối
tu
hành
làm
sao
chứng
nhập
được
"pháp
vô
sanh"
đó.
Con
người
sở
dĩ
sợ
chết,
bởi
vì
con
người
sợ
mất
cái
thân
tứ
đại
mấy
chục
ký
lô
giả
tạm
này,
mà
không
hề
biết
mình
có
cái
không
hề
chết,
không
hề
bị
tiêu
diệt
mất,
đó
chính
là
"con
người
chân
thật
bất
sanh
diệt"
của
tất
cả
chúng
ta
vậy.
Chúng
ta
biết
rằng
khi
thọ
hưởng
một
tài
sản
hay
của
cải,
vật
chất
nào,
không
nên
chỉ
dùng
cho
riêng
mình.
Chúng
ta
nên
bố
thí
ra,
chia
xẻ
với
mọi
người,
để
tạo
an
vui
lợi
ích
cho
những
người
chung
quanh
và
cũng
tạo
an
vui
ích
lợi
cho
chính
chúng
ta
nữa.
Cái
gì
chúng
ta
ăn,
chỉ
được
nhứt
thời.
Cái
gì
chúng
ta
tích
trữ,
dành
dụm,
chỉ
được
nhứt
đời
mà
thôi,
chắc
chắn
chúng
ta
sẽ
bỏ
lại
tất
cả
khi
ra
đi.
Nhưng
những
gì
chúng
ta
cho
ra,
những
gì
chúng
ta
bố
thí,
sẽ
trở
lại
với
chúng
ta,
dưới
dạng
quả
báo
lành,
sự
bình
an,
sự
may
mắn,
còn
gọi
là
phước
báo,
giúp
chúng
ta
được
tai
qua
nạn
khỏi.
Nói
cách
khác,
cái
gì
chúng
ta
đã
tiêu
xài,
bây
giờ
không
còn
nữa.
Cái
gì
chúng
ta
đã
mua
sắm,
bây
giờ
phải
để
lại
cho
người
khác,
một
khi
ra
đi.
Chỉ
có
cái
gì
chúng
ta
"đã
cho,
đã
bố
thí"
là
vẫn
còn
"thuộc
về
chúng
ta"
khi
từ
giã
cõi
đời.
Đó
chính
là
nghiệp
lành,
là
phước
báo,
là
quả
báo
tốt,
là
sự
may
mắn,
là
sự
bình
yên,
là
an
lạc
và
hạnh
phúc,
tất
cả
luôn
luôn
theo
cùng
với
chúng
ta
như
hình
với
bóng.
Danh
ngôn
Tây
Phương
cũng
có
câu:
"If
you
continually
give,
you
will
continually
have".
Trong
Kinh
Địa
Tạng,
phẩm
thứ
mười,
khi
Bồ
Tát
Địa
Tạng
từ
chỗ
ngồi
đứng
dậy,
chắp
tay
cung
kính
và
bạch
Phật
rằng:
"Bạch
Đức
Thế
Tôn,
con
xem
chúng
sanh
trong
nghiệp
đạo,
so
sánh
công
đức
bố
thí,
hiệu
quả
có
sự
nhiều
ít
khác
nhau,
có
người
được
hưởng
phước
một
đời,
có
người
được
hưởng
phước
mười
đời,
có
người
được
hưởng
phước
hàng
trăm,
ngàn
đời,
lợi
lạc
lớn
lao.
Tại
sao
như
thế,
cúi
xin
Đức
Thế
Tôn
từ
bi
giảng
trạch
cho
chúng
con
được
biết".
Đức
Phật
dạy
tóm
lược
như
sau:
"Bất
cứ
ai
gặp
những
người
già
yếu,
bần
cùng,
hèn
mạt,
tàn
tật,
câm
ngọng,
đui
mù,
ngây
điếc,
không
được
toàn
vẹn,
mà
tự
tay
đem
bố
thí
với
lòng
từ
bi,
thương
xót,
dùng
lời
mềm
mỏng
an
ủi
họ
tử
tế,
khiến
cho
họ
được
an
ổn,
vui
vẻ,
thì
được
hưởng
phước
báo
vô
lượng.
Tuy
nhiên,
nếu
làm
được
những
việc
thiện
như
thế
mà
đem
hồi
hướng
cho
khắp
pháp
giới
chúng
sanh
thì
những
người
làm
công
đức
ấy
được
hưởng
những
sự
vui
sướng
nhiệm
mầu
hàng
trăm
ngàn
đời,
nếu
đem
công
đức
ấy
hồi
hướng
cho
quyến
thuộc
nhà
mình,
hay
muốn
tự
mình
hưởng
những
lợi
ích,
thì
ba
đời
được
vui
vẻ,
làm
một
phần
thì
được
hưởng
vạn
phần".
Tại
sao
vậy?
Bởi
vì
những
người
làm
công
đức
đó
đã
phát
lòng
đại
từ,
đại
bi,
lại
phát
tâm
rộng
lớn,
đem
"hồi
hướng"
cho
khắp
pháp
giới
chúng
sanh,
không
cứ
công
đức
ít
nhiều,
không
dành
riêng
cho
mình
và
người
thân
của
mình,
đó
chính
là
những
người
đã
"diệt
được
lòng
tham",
cho
nên
được
sự
"giải
thoát
hoàn
toàn",
cho
nên
được
hưởng
quả
"phước
báo
lớn
lao"
như
vậy.
Còn
người
nào
chỉ
phát
tâm
hạn
hẹp,
đem
công
đức
ấy
hồi
hướng
cho
người
thân
hay
cho
chính
mình
mà
thôi,
thì
sẽ
được
hưởng
quả
phước
báo
hạn
chế
hơn,
tùy
theo
tâm
lượng
còn
nhỏ
hẹp
của
chính
mình.
Trong
Kinh
Kim
Cang,
Đức
Phật
cũng
có
dạy:
"Nhược
bồ
tát
ư
pháp,
ưng
vô
sở
trụ
hành
ư
bố
thí.
Sở
vị
bất
trụ
sắc
bố
thí,
bất
trụ
thanh,
hương,
vị,
xúc,
pháp,
bố
thí.
Bồ
tát
ưng
như
thị
bố
thí,
bất
trụ
ư
tướng.
Nhược
bồ
tát
bất
trụ
tướng
bố
thí,
kỳ
phước
đức
bất
khả
tư
lượng".
Nghĩa
là
nếu
chúng
ta
không
chấp
bốn
tướng:
ngã,
nhơn,
chúng
sanh,
thọ
giả,
và
không
chấp
sáu
trần:
sắc,
thanh,
hương,
vị,
xúc,
pháp,
mà
thực
hành
hạnh
bố
thí,
thì
phước
đức
không
thể
nghĩ,
không
thể
lường
được.
Không
chấp
bốn
tướng:
ngã,
nhơn,
chúng
sanh,
thọ
giả,
có
nghĩa
là:
khi
thực
hành
hạnh
bố
thí,
chúng
ta
không
nên
thấy
có
mình
là
người
cho,
để
cầu
mong
được
báo
đáp,
được
cám
ơn,
được
tán
thán;
chúng
ta
không
nên
thấy
có
người
nào
là
kẻ
nhận
sự
bố
thí
đó,
để
kể
lể
chuyện
ơn
nghĩa;
chúng
ta
không
nên
thấy
có
bao
nhiêu
người
đã
nhận
sự
bố
thí
đó,
để
khoe
khoang,
và
chúng
ta
cũng
không
nên
thấy
có
vật
gì,
điều
gì
đã
được
đem
cho,
để
khỏi
tiếc
nuối
về
sau,
có
khi
tiếc
của,
đi
đòi
lại!
Nếu
được
như
vậy,
sau
khi
thực
hành
hạnh
bố
thí,
chúng
ta
sẽ
an
trụ
được
tâm
của
chúng
ta.
Chúng
ta
sẽ
không
bực
dọc
khi
gặp
những
người
bội
bạc,
không
biết
ơn,
thậm
chí
còn
trở
mặt
với
chúng
ta
nữa.
Lòng
từ
bi
của
chúng
ta
sẽ
không
bị
hạn
chế,
nếu
không
còn
nhớ
là
đã
bố
thí
bao
nhiêu
tiền
của,
đã
bố
thí
cho
bao
nhiêu
người,
đã
dành
bao
nhiêu
thời
giờ
để
làm
hạnh
bố
thí
đó.
Muốn
hàng
phục
được
tâm
ý
của
chính
mình,
chúng
ta
phát
nguyện
độ
tất
cả
chúng
sanh,
mà
không
thấy
có
chúng
sanh
nào
được
độ.
Bố
thí
xong
rồi
thì
thôi,
đừng
nhớ
nghĩ
gì
nữa.
Khi
chúng
ta
xả
bỏ
được
hết
tất
cả
vọng
niệm,
các
tạp
niệm,
để
an
trụ
tâm,
để
thanh
tịnh
tâm,
tức
là
chúng
ta
đã
thực
hành
được
hạnh
bố
thí
ở
mức
độ
cao
nhất,
mà
ít
người
hiểu
được.
Hàng
phục
được
tâm
ý
của
chính
mình
thì
mau
tiến
đến
chỗ
giải
thoát.
Cho
nên
Đức
Phật
dạy:
thực
hành
được
hạnh
bố
thí,
thì
phước
đức
không
thể
nghĩ,
không
thể
lường
được,
chính
là
nghĩa
đó
vậy.
Không
chấp
sáu
trần:
sắc,
thanh,
hương,
vị,
xúc,
pháp,
có
nghĩa
là:
khi
thực
hành
hạnh
bố
thí,
chúng
ta
không
chấp
vào
sắc
tướng
là
tốt
đẹp
hay
không
tốt
đẹp,
không
chấp
vào
âm
thanh
dễ
nghe
hay
khó
nghe,
không
chấp
vào
mùi
hương
dễ
ngửi
hay
khó
ngửi,
không
chấp
vào
mùi
vị
dễ
nếm
hay
khó
nếm,
không
chấp
vào
xúc
chạm
dễ
chịu
hay
khó
chịu,
không
chấp
vào
sự
việc,
ý
tưởng
vừa
ý
hay
không
vừa
ý,
thích
hay
không
thích,
ưa
hay
ghét.
Sở
dĩ
tâm
ý
của
chúng
ta
thường
hay
bất
an,
hay
loạn
động,
bởi
vì
chúng
ta
thường
hay
dính
mắc
với
sáu
trần.
Hễ
mắt
thấy
bất
cứ
sắc
gì
thì
liền
khởi
vọng
niệm
phê
phán
đẹp
hay
xấu,
hễ
tai
nghe
bất
cứ
tiếng
gì
thì
liền
khởi
vọng
niệm
phê
phán
dễ
nghe
hay
khó
nghe,
hễ
mũi
ngửi
bất
cứ
mùi
gì
thì
liền
khởi
vọng
niệm
phê
phán
dễ
ngửi
hay
khó
ngửi,
hễ
lưỡi
nếm
bất
cứ
vị
gì
thì
liền
khởi
vọng
niệm
phê
phán
ngon
hay
dỡ,
hễ
thân
xúc
chạm
bất
cứ
vật
gì
thì
liền
khởi
vọng
niệm
phê
phán
dễ
chịu
hay
khó
chịu,
hễ
ý
nhớ
tưởng
bất
cứ
chuyện
gì
thì
liền
khởi
vọng
niệm
phê
phán
hài
lòng
hay
bực
bội.
Cứ
như
thế,
tâm
ý
của
chúng
ta
luôn
luôn
bất
an,
loạn
động.
Chúng
ta
thực
hành
hạnh
bố
thí
với
tất
cả
tấm
lòng
rộng
rãi,
với
tất
cả
tấm
lòng
vì
người
quên
mình,
với
tất
cả
tấm
lòng
từ
bi,
cung
kính,
không
cầu
danh,
không
cầu
báo
đáp,
không
vì
hơn
thua,
không
vì
mê
hoặc
lòng
người,
không
chọn
lựa
món
xấu
đem
cho,
món
tốt
giữ
lại,
tức
là
không
trụ
sắc;
cho
rồi
không
cần
nghe
lời
khen,
tiếng
cám
ơn,
tức
là
không
trụ
thanh,
v.v..
và
của
đem
bố
thí
phải
thanh
tịnh,
chơn
chánh;
người
nhận
bố
thí
phải
được
tôn
trọng,
bình
đẳng.
Đó
chính
là
sự
bố
thí
thanh
tịnh,
trong
sáng,
bất
tùy
phân
biệt
nam
phụ
lão
ấu,
tu
sĩ
hay
người
đời,
đẳng
thí
vô
sai
biệt,
phổ
đồng
cúng
dường,
chư
Phật
chư
hiền
thánh,
hạ
cập
lục
đạo
phẩm,
như
vậy
sẽ
đem
lại
phước
báo
vô
lượng,
vô
biên,
cho
nên
được
gọi
là
"bố
thí
ba
la
mật".
**
II.-
Sau
bố
thí
là
ái
ngữ.
Ái
ngữ
là
lời
nói
dịu
dàng,
êm
ái,
ngọt
ngào,
dễ
nghe,
phát
xuất
từ
lòng
từ
bi,
thương
người
như
thể
thương
thân,
chứ
không
phải
là
lời
nói
đầu
môi
chót
lưỡi,
lời
nói
hoa
mỹ,
khách
sáo,
cốt
sao
cho
đẹp
lòng
người
nghe.
Ái
ngữ
có
tác
dụng
đem
lại
an
vui,
bình
yên,
thanh
thản
cho
người
nghe,
có
tác
dụng
an
ủi
vỗ
về
những
người
đang
bị
nhiệt
não,
âu
lo,
sợ
sệt.
Sách
có
câu:
Lời
nói
không
mất
tiền
mua.
Lựa
lời
mà
nói
cho
vừa
lòng
nhau.
Trong
cuộc
sống
trên
thế
gian
này,
nếu
mọi
người
đều
nhớ
nằm
lòng
câu
trên
đây,
thì
cuộc
đời
hạnh
phúc
biết
là
bao
nhiêu,
dầu
cù
là
và
thuốc
nhức
đầu
chắc
là
không
bán
chạy!
Trong
gia
đình,
vợ
chồng
con
cái,
trên
thuận
dưới
hoà,
không
có
tranh
cãi,
không
có
xào
xáo.
Trong
xã
hội,
không
có
chuyện
mất
trật
tự,
an
ninh
vì
những
cuộc
cãi
vã,
đưa
đến
ấu
đả
và
án
mạng
có
thể
xảy
ra.
Trong
quốc
gia,
hòa
bình
chắc
chắn
được
bền
vững,
lâu
dài.
Chúng
ta
cũng
biết
rằng,
ngoài
danh
và
lợi,
trên
thế
gian
này
con
người
thường
hay
tranh
chấp
vì
lời
nói.
Hai
người
nói
chuyện
với
nhau
một
lát
mà
không
biết
nhường
nhịn
nhau,
tương
nhượng
nhau,
thì
hay
đưa
tới
tranh
cãi.
Bởi
vậy
cho
nên,
chư
Tổ
có
dạy:
Nội
cần
khắc
niệm
chi
công.
Ngoại
hoằng
bất
tranh
chi
đức.
Nghĩa
là:
Bên
trong
chúng
ta
cần
luôn
luôn
khắc
chế,
khắc
phục
tâm
niệm
lăng
xăng,
lộn
xộn,
đó
chính
là
công
phu
tu
tập
của
người
Phật
Tử.
Bên
ngoài,
chúng
ta
luôn
luôn
giữ
hạnh
nhẫn
nhịn,
không
tranh
cãi,
dù
chuyện
lớn
chuyện
nhỏ
cũng
vậy,
đó
chính
là
đức
độ
của
của
người
Phật
Tử
chúng
ta
vậy.
Lời
nói
đôi
khi
có
những
tác
dụng
không
thể
lường
trước
được.
Có
những
lời
nói
có
thể
đem
lại
an
vui,
hạnh
phúc
cho
người.
Có
những
lời
nói
có
thể
đem
lại
ly
tán,
đổ
vỡ
hạnh
phúc
của
người
khác,
đôi
khi
tan
nát
hạnh
phúc
của
chính
người
nói
nữa.
Có
những
lời
nói
làm
cho
người
nghe
mĩm
một
nụ
cười
tươi
tắn,
vui
vẻ,
khỏe
khoắn.
Có
những
lời
nói
làm
cho
người
nghe
ngất
xĩu,
hay
đau
đầu,
nhức
óc,
nhói
tim,
mất
ngủ,
hay
ít
ra
cũng
phải
đi
xức
dầu
cù
là!
Có
những
lời
nói
có
thể
cứu
người,
cũng
có
những
lời
nói
có
thể
hại
người
một
cách
dễ
dàng.
Thí
dụ
như
lời
nói
của
một
luật
sư
có
lương
tâm
có
thể
cứu
một
bị
cáo
thoát
khỏi
tội
oan,
hoặc
lời
nói
của
một
nhân
chứng
trước
tòa,
ngay
hoặc
gian,
có
thể
làm
cho
người
khác
phải
bị
tù
tội.
Một
vị
bác
sĩ
khéo
lựa
lời
nói,
khuyến
khích,
khuyên
lơn,
an
ủi,
động
viên
tinh
thần,
có
thể
giúp
bệnh
nhân
yên
tâm
dưỡng
bệnh,
chóng
qua
cơn
hiểm
nghèo,
sớm
được
bình
phục;
bằng
như
ngược
lại,
lời
nói
của
vị
bác
sĩ
có
thể
làm
cho
bệnh
nhân
tắt
thở
ngay
tức
thì.
Cũng
như
lời
nói
của
các
nhà
ngoại
giao,
của
các
sứ
thần,
của
các
sứ
giả
có
thể
đem
lại
hòa
bình
giữa
hai
nước,
hoặc
làm
cho
chiến
tranh
lan
tràn
khắp
mọi
nơi.
Nhiều
khi
lời
nói
của
một
người
có
sức
mạnh
hơn
cả
một
sư
đoàn
quân
đội.
Con
người
có
thể
thương
yêu
súc
vật
như
chó,
mèo,
chim
chóc
chẳng
hạn,
nhưng
lắm
khi
không
thể
chịu
đựng
được,
nhịn
được
người
chung
quanh,
chỉ
vì
lời
nói
của
người
đó.
Tại
sao
vậy?
Bởi
vì
súc
vật
không
biết
nói
tiếng
người,
cho
nên
không
bị
mích
lòng!
Người
đời
thường
nói:
hai
con
gà
ghét
nhau
vì
tiếng
gáy,
hai
con
chó
ghét
nhau
vì
tiếng
sủa.
Hai
cô
ca
sĩ
có
bao
giờ
thương
nhau!
Có
câu
chuyện
của
hai
con
chim
như
sau:
Một
hôm
con
chim
cú
vọ
sửa
soạn
dọn
tổ
sang
nơi
khác.
Con
chim
bồ
câu
thấy
vậy
bèn
hỏi
thăm:
Chẳng
hay
chị
dọn
tổ
đi
đâu
vậy?
Con
chim
cú
vọ
trả
lời
rằng:
Con
người
nơi
đây
ác
ôn
quá
đi,
cứ
hễ
thấy
tôi
nơi
đâu,
họ
liền
lấy
đá
ném,
lấy
cây
đánh.
Tôi
không
chịu
nổi,
định
dọn
qua
phương
tây,
hy
vọng
bên
đó
dân
chúng
hiền
lành
hơn.
Con
chim
bồ
câu
bèn
nói:
Ở
chỗ
hàng
xóm
thân
tình,
tôi
nói
thiệt
chị
nghe,
chị
đừng
giận
tôi
nhé.
Nếu
chị
không
chịu
sửa
tiếng
kêu
ghê
rợn
khó
nghe
của
chị,
thì
dù
dọn
đi
đến
đâu,
chị
cũng
bị
bạc
đãi
mà
thôi.
Bởi
vậy
chúng
ta
mới
biết
giọng
nói,
tiếng
cười
có
khi
gây
được
cảm
tình
tốt
đẹp,
cũng
có
khi
gây
nên
ác
cảm,
oán
thù
giữa
con
người
với
nhau.
Chỉ
cần
lỡ
một
lời
nói
có
khi
hư
hỏng
việc
lớn.
Chỉ
cần
lỡ
một
lời
có
khi
bị
vạ
lây,
thậm
chí
bị
tù
tội,
chỉ
vì
người
nghe
không
vừa
tai,
cho
nên
đi
tố
cáo!
Điều
này
cũng
tùy
người,
tùy
lúc
và
tùy
cảm
giác
của
người
nghe
nữa.
Sách
có
câu:
"Hãy
uốn
lưỡi
bảy
lần
trước
khi
nói",
chính
là
nghĩa
đó
vậy.
Trong
Kinh
Pháp
Cú,
Đức
Phật
có
dạy:
Dù
nói
hàng
ngàn
lời
vô
ích,
không
bằng
chỉ
nói
một
lời
đúng
Chánh
Pháp,
có
ích
lợi
làm
cho
người
nghe
được
an
tịnh.
Ở
những
xứ
có
nhiều
sắc
dân
khác
nhau
cùng
chung
sống.
Người
ta
có
thể
không
hiểu
người
khác
nói
gì,
vì
bất
đồng
ngôn
ngữ,
nhưng
người
ta
có
thể
đoán
được
người
khác
muốn
nói
gì
qua
sắc
mặt
và
giọng
nói.
Cho
nên
sắc
mặt
và
giọng
nói
của
chúng
ta
cũng
đóng
một
vai
trò
quan
trọng
qua
ngôn
ngữ,
trong
các
cuộc
giao
thiệp,
tiếp
xúc
hằng
ngày.
Một
giọng
nói
êm
ả,
lễ
độ,
ngọt
ngào,
từ
tốn,
dễ
thu
phục
lòng
người,
hơn
là
giọng
nói
ồm
ồm,
chanh
chua
khế
chát,
the
thé
khó
nghe.
Lời
nói
từ
hòa,
thân
mật,
thành
thật,
ngay
thẳng,
rõ
ràng,
sáng
suốt,
rất
dễ
cảm
hóa
lòng
người,
có
thể
hướng
dẫn
người
vào
chánh
đạo.
Sách
có
câu:
"Nhất
ngôn
ký
xuất,
tứ
mã
nan
truy".
Nghĩa
là
một
lời
nói
ra,
bốn
ngựa
không
thể
đuổi
theo
kịp.
Có
những
lời
nói
nhẹ
tựa
lông
hồng,
có
những
lời
nói
nặng
tựa
núi
non.
Có
những
người
nói
ra
thì
tất
cả
mọi
người
đều
tin
tưởng,
nghe
theo.
Có
những
người
nói
ra
thì
không
một
ai
tin
tưởng,
nghe
theo
cả.
Trong
Kinh
Hoa
Nghiêm,
Đức
Phật
có
dạy:
Không
nên
nói
lời
vô
nghĩa.
Phải
giữ
gìn
lời
nói.
Lời
nói
phải
chân
thật,
đúng
lúc,
hợp
Chánh
Pháp,
ích
lợi
cho
mình
cho
người.
Sửa
đổi
được
lời
nói,
sửa
đổi
được
giọng
nói,
sửa
đổi
được
cách
nói,
tức
là
chúng
ta
đã
đổi
được
tâm
tánh,
giảm
bớt
khẩu
nghiệp,
rất
nhiều
rồi
vậy.
Thực
hành
được
"ái
ngữ"
là
chúng
ta
tăng
trưởng
tâm
từ
bi
của
chính
mình.
Thực
hành
được
"ái
ngữ"
là
chúng
ta
dẹp
được
tâm
sân
hận,
tâm
ganh
ghét,
tâm
đố
kỵ,
tâm
ganh
tị,
tâm
hiềm
khích,
tâm
tật
đố,
tâm
hơn
thua.
Thực
hành
được
"ái
ngữ"
là
chúng
ta
tu
tập
theo
hạnh
nguyện
đại
từ
đại
bi
của
Đức
Quán
Thế
Âm
Bồ
Tát,
tầm
thinh
cứu
khổ
chúng
sanh.
Chúng
sanh
đau
khổ
vì
những
lời
nói
của
nhau.
Thực
hành
được
"ái
ngữ"
là
đem
lại
an
lạc
và
hạnh
phúc
cho
mọi
người
chung
quanh,
đem
nước
cam
lồ
trong
bình
thanh
tịnh
của
Đức
Quán
Thế
Âm
Bồ
Tát,
rưới
vào
những
tâm
hồn
đang
nhiệt
não,
rót
vào
tai
những
người
đang
đang
phiền
muộn
những
âm
thanh
dịu
dàng,
êm
ái,
có
công
năng
chuyển
hóa
tâm
hồn
những
con
người
đang
khỗ
não,
thành
tâm
hồn
an
vui,
tự
tại.
Nói
cách
khác,
người
không
có
lòng
từ
bi
bác
ái,
không
thể
nào
có
"ái
ngữ"
được.
Thực
hành
được
"ái
ngữ"
như
vậy
tức
là
chúng
ta
đang
tiến
trên
đường
giải
thoát.
*
*
III.-
Sau
ái
ngữ
là
lợi
hành.
Lợi
hành
là
hành
động
có
ích
lợi
cho
người.
Nếu
con
người
có
lời
nói
dễ
nghe
ngọt
ngào,
có
vẻ
từ
bi
bác
ái,
nhưng
hành
động
không
tốt,
lợi-
mình-hại-người,
thì
những
lời
nói
trên
chỉ
là
thứ
"miệng
thì
nói
tiếng
nam
mô,
bụng
thì
chứa
cả
một
bồ
dao
găm",
hoặc
là
"năng
thuyết
bất
năng
hành",
tức
là
nói
được
mà
chẳng
làm
được,
mà
thôi,
không
hơn
không
kém.
Cổ
nhơn
có
dạy:
Những
gì
mình
không
muốn
người
khác
làm
cho
mình,
thì
mình
đừng
làm
cho
người
khác.
Nghĩa
là
mình
muốn
người
khác
hành
động
như
thế
nào
có
ích
lợi
cho
mình,
thì
mình
phải
nên
hành
động
có
ích
lợi
cho
người
như
vậy.
Thế
nào
là
hành
động
có
ích
lợi
cho
người?
Đó
là
hành
động
theo
đúng
lời
Đức
Phật
dạy
trong
các
kinh
điển.
Thí
dụ
như
chúng
ta
khuyên
người
làm
lành
lánh
dữ,
tụng
kinh
niệm
Phật
và
chúng
ta
cũng
hành
động
đúng
y
như
lời
nói
của
chúng
ta
vậy.
Khi
nào
lời
nói
và
hành
động
của
con
người
nhất
như,
tương
ưng,
không
khác,
thì
người
đó
đã
có
công
phu
tu
tập
khá
rồi,
trong
kinh
điển
gọi
là
"ngôn
hạnh
tương
ưng".
Sách
có
câu:
Đừng
nghe
những
gì
người
ta
nói.
Hãy
nhìn
những
gì
người
ta
làm.
Chỉ
khi
nào
lời
nói
của
chúng
ta
đi
đôi
với
hành
động
có
ích
lợi
cho
người
về
mọi
phương
diện
thế
gian
và
xuất
thế
gian
như
trên,
thì
chúng
ta
mới
nhiếp
phục
được
lòng
người
mà
thôi,
chứ
nói
lý
thuyết
suông,
chẳng
đem
ích
lợi
thiết
thực
gì
cả.
Thiện
hữu
tri
thức
là
người
bạn
hiền,
có
học
hiểu
giáo
pháp,
và
biết
khuyên
bạn
mình
hành
động
đúng
như
lời
Đức
Phật
dạy,
chứ
không
phải
hành
động
theo
những
lời
nói
sai
trái,
xằng
bậy,
phi
pháp.
Lợi
hành
trong
công
việc
hằng
ngày
là
hành
động
trực
tiếp
đem
lại
ích
lợi
cho
chúng
sanh
về
vật
chất
và
tinh
thần.
Nhưng
lợi
hành
trong
việc
tu
hành
là
hành
động
giúp
người
tiến
tu,
trên
đường
học
hiểu
giáo
pháp,
để
áp
dụng
trong
cuộc
sống
hằng
ngày,
cho
đến
khi
đạt
được
giác
ngộ
và
giải
thoát.
Nói
cách
khác,
lợi
hành
có
nghĩa
là
chúng
ta
có
thể
hành
động
ích
lợi
cho
chúng
sanh,
ngay
trong
hiện
tại,
về
vật
chất
cũng
như
tinh
thần,
và
hành
động
ích
lợi
cho
chúng
sanh,
trong
tương
lai
gần,
trong
kiếp
này,
và
tương
lai
xa,
nhiều
kiếp
về
sau,
qua
hành
động
khuyến
tu
giải
thoát.
*
*
IV.-
cuối
cùng
là
đồng
sự.
Đồng
sự
có
nghĩa
là
cùng
làm
chung
việc
với
người,
để
giúp
đỡ
người
và
cảm
hóa
người
theo
lẽ
phải,
theo
chánh
đạo.
Thí
dụ
như
muốn
dạy
người
biết
bơi,
chúng
ta
phải
xuống
nước
cùng
với
họ,
mới
có
thể
chỉ
dạy
một
cách
dễ
dàng,
nhanh
chóng
và
hữu
hiệu
được.
Chúng
ta
không
thể
đứng
trên
bờ
quơ
tay,
quơ
chân,
la
hét,
gào
thét
mà
có
kết
quả
như
ý
được
đâu.
Cũng
như
những
vị
chỉ
huy
xuất
thân
từ
hàng
binh
sĩ,
những
chủ
nhân,
cai
thợ
xuất
thân
từ
giới
công
nhân,
thường
thấu
hiểu
tâm
tư,
tình
cảm,
nguyện
vọng,
cảm
nghĩ,
tâm
lý,
yêu
cầu,
đòi
hỏi
của
cấp
dưới,
cho
nên
dễ
dàng
thành
công
trong
nghệ
thuật
lãnh
đạo
hơn,
kết
quả
thường
là
khả
quan
hơn,
tốt
đẹp
hơn.
Chư
Tổ
ngày
xưa
vì
muốn
độ
hạng
người
bần
cùng
trong
xã
hội,
các
Ngài
cũng
phải
hòa
mình
sống
chung
cuộc
sống
cực
khổ
với
họ,
mới
có
thể
giáo
hóa
họ
được.
Cho
nên,
những
vị
tu
sĩ
xuất
gia
từ
lúc
còn
tấm
bé,
hay
khi
còn
là
đồng
nam,
đồng
nữ,
thì
rất
đáng
trân
quí
và
có
công
phu
tu
tập
dài
lâu
hơn,
nhiều
năm
tháng
hơn,
nhưng
các
vị
xuất
gia
sau
khi
trải
qua
nửa
đời
người
với
cuộc
sống
tại
gia,
thì
có
thể
hiểu
được
tâm
lý
của
người
Phật
Tử
tại
gia
hơn,
cho
nên
dễ
cảm
thông
hơn,
có
thể
dễ
dàng
hành
đạo
hơn,
dễ
dàng
hoằng
pháp
lợi
sanh
hơn.
Nhưng
điều
này
chỉ
là
tương
đối,
còn
tùy
người,
tùy
hoàn
cảnh,
tùy
sở
học
và
hiểu
giáo
pháp,
tùy
căn
cơ,
tùy
khả
năng
giảng
dạy
và
tiếp
thu
giáo
pháp,
tóm
lại
là
"tùy
duyên"
mà
thôi,
"không
có
gì
cố
định
cả".
Trong
kinh
điển,
Đức
Phật
dạy
"quán
các
pháp
vô
ngã",
chính
là
nghĩa
đó
vậy.
*
*
*
Tóm
lại,
tứ
nhiếp
pháp
là
một
pháp
môn
rất
cụ
thể,
rất
thực
tế,
rất
cần
thiết,
rất
dễ
áp
dụng,
đúng
với
mọi
hoàn
cảnh,
đúng
với
mọi
nơi,
mọi
thời,
mọi
lứa
tuổi,
mọi
trình
độ,
hoàn
toàn
vì
mục
đích
hoằng
pháp
lợi
sanh.
Đó
là
nền
tảng
của
các
nghiệp
lành,
nghiệp
thiện,
giúp
con
người
sống
trong
chánh
đạo,
dẹp
bỏ
được
tam
độc:
tham
lam,
sân
hận,
si
mê.
Những
người
muốn
có
cuộc
sống
thực
sự
an
lạc
và
hạnh
phúc
hiện
đời
phải
luôn
luôn
quán
tứ
nhiếp
pháp
một
các
tường
tận,
sâu
sắc
và
luôn
luôn
áp
dụng
tứ
nhiếp
pháp
trong
cuộc
sống
hằng
ngày,
chắc
chắn
cuộc
đời
này
sẽ
giảm
bớt
nhiều
khổ
đau
và
phiền
não.
Pháp
môn
này,
nói
chung,
mọi
người
ai
ai
cũng
có
thể
thực
hành
được,
nhưng
muốn
thực
hành
cho
đến
mức
độ
cao
thâm
rốt
ráo,
trong
kinh
sách
gọi
là
ba
la
mật,
thì
chúng
ta
phải
phát
tâm
bồ
đề
kiên
cố,
dũng
mãnh,
bất
thoái
chuyển,
tức
là
phát
tâm
lượng
của
các
bậc
Bồ
Tát
và
Đại
Bồ
Tát
vậy.
---
o0o
---
Mục Lục
Tập
1:
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10
|
11|
12
Tập
2:
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10|
11|
Tập
3:
1|
2
|
3
|
4|
5|
6
|
7
|
8
|
9
|
10|
11|
12|
13|
14
|15|
16
---
o0o
---
| Thư
Mục
Tác
Giả
|
--- o0o ---
Chân
thành
cám
ơn
Cư
sĩ
Chính
Trực
đã
gửi
tặng
phiên
bản
điện
tử
bộ
sách
này
(Trang
nhà
Quảng
Đức,
05-2002)
Trình
bày
:
Nhị
Tường
Cập
nhật
ngày:
01-05-2002