Bấy giờ, Bồ tát Tịnh Chư Nghiệp Chướng trước
đại chúng đứng dậy đảnh lễ Phật và chấp tay thưa:
Bạch đấng Đại bi Thế Tôn! Như Lai Thế Tôn vì chúng
con chỉ dạy rõ về Nhơn Địa tu hành của chư Phật trong hằng sa kiếp,
khiến cho đại chúng trong hải hội này được điều chưa từng có,
chúng con hết sức thâm cảm vui mừng.
1. Kính bạch Thế Tôn! Tâm Viên Giác vốn thanh tịnh, vậy do duyên cớ
gì lại có nhiễm ô, khiến cho chúng sanh mê mờ không được ngộ
nhập. Cúi mong Thế Tôn khai ngộ cho hậu thế chúng sanh mối nghi lầm
ấy ngõ hầu có được đạo nhãn tương lai?
Phật dạy: Tịnh Chư Nghiệp Chướng! Ông hãy thận
trọng lưu tâm, nghe cho kỹ điều hệ trọng này. Như Lai sẽ vì ông mà
chỉ dạy!
2. Này Tịnh Chư Nghiệp Chướng! Tất cả chúng sanh từ vô thỉ kiếp
vì vọng tưởng, khởi chấp nặng sâu về bốn tướng: ngã, nhơn,
chúng sanh và thọ mệnh. Bốn tướng đó, vốn không có cái ngã
thể chơn thật. Thế mà chúng sanh điên đảo vọng chấp không rời.
Từ vọng chấp sanh ra ý niệm ghét thương. Từ ghét thương chồng
thêm vọng chấp khác. Vọng lại sanh vọng cứ thế mà nhân lên đến
đỉnh cao cứu cánh, vọng thành tham, sân, si, mạn, các nghiệp hữu
lậu. Từ đó vọng thấy có luân hồi sanh tử. Người khởi tâm
nhàm chán sanh tử lại vọng thấy Niết bàn. Do vậy, chúng sanh không
vào được cảnh giới Viên Giác thanh tịnh. Không vào được, không
phải cảnh giới Viên Giác ngăn cản không cho mà tại chúng sanh
đánh mất tiêu chuẩn, cho nên không đủ điều kiện để vào. Vào
hay không do người, Viên Giác thanh tịnh không có tướng vào ra. Nên
biết, chúng sanh khởi niệm hay ngưng niệm đều thuộc phạm trù mê
muội! Bởi vì tất cả chúng sanh không có tuệ nhãn để cho vô minh sanh khởi từ vô thỉ làm chủ tề đời mình, cho nên thân tâm
trở thành công cụ biểu hiện của vô minh, khó mà trừ diệt, ví
như con người, không ai nở tự giết chế mệnh sống của mình. Vì
vậy, nên biết! Có yêu bản ngã thì người ta nuông chìu theo bản
ngã. Nếu ai không thuận chìu bèn sanh lòng oán ghét. Lòng yêu ghét
lại nuôi lớn vô minh thêm, cho nên tu hành cầu đạo thì nhiều mà
ít người thành Phật.
Ngã tướng là thế nào? Ngã tướng là cái tướng mà chúng sanh
cho rằng do công tu hành của mình mà mình được CHỨNG. Ví như
người thân thể khỏe mạnh, chợt quên lửng mình, chẳng màng để
ý mình là ai. Một hôm trái gió trở trời, long y đến châm cứu,
người bệnh có cảm nhận "ta" đau. Cho rằng mình được
CHỨNG là lúc hành giả tỏ lộ "bản ngã" chấp mắc của
mình.
3. Này, Tịnh Chư Nghiệp Chướng! Khởi tâm cho rằng
được CHỨNG là một "ngã tướng". Dù cho "chứng
đắc" Vô thượng Bồ đề, Vô thượng Niết bàn cũng đều là
một hình thức "ngã tướng" mà thôi.
Nhơn tướng là thế nào? Nhơn tướng là cái tâm NGỘ, cái tâm
nhận thức rằng "ngã tướng" là cái không có thật, không
nên chấp mắc "ngã tướng". Tâm tỏ ngộ đó chính là
"nhơn tướng". Tâm tỏ ngộ đó, dù ngộ Niết bàn viên mãn
cũng là bản chất từ ngã tướng, cho nên gọi đó là "nhơn
tướng".
Chúng sanh tướng là thế nào? Chúng sanh tướng là cái vượt
sâu hơn tướng "chứng" và "ngộ" trên. Nhận thức
và phán đoán hai tướng "chứng" và "ngộ" đều
phát xuất từ bản chất "ngã tướng" chưa đúng chân lý
"ưng vô sở trụ". Chúng sanh tướng ở đây, tức là
tướng LIỄU, vì tánh chất LIỄU TRI sâu sắc của nó, đối với quá
trình CHỨNG, NGỘ.
Thọ mạng tướng là thế nào? Thọ mạng tướng là cái tâm thanh
tịnh sáng soi tĩnh GIÁC. Tâm tĩnh GIÁC nầy sâu thẳm, có khả năng
nhận thức cả tánh chất "LIỄU TRI" vi tế thuộc phạm trù
"chúng sanh tướng" ở trên. Khả năng nhận thức thẳm sâu
đó gọi là GIÁC. Vì vậy, thọ mạng tướng tức là tướng GIÁC vi
tế thẳm sâu, ví như mạng căn trong một con người.
Tâm "tĩnh giác" sáng soi dù vi tế cũng vẫn
chưa rời trần cấu. Bởi lẻ còn "giác" thì còn có
"năng giác" "sở giác" hiển nhiên. Phải học cách tư
duy chân lý, như người nhìn cảnh tượng băng tan trong vạc nước
sôi. Băng tan hết rồi, không còn gì lưu lại. Nếu còn sót lại ý
niệm biết băng tan, ý niệm đó còn lệch lạc chưa viên dung vào
thực tướng. Tánh GIÁC để nhận biết CHỨNG, NGỘ, LIỄU là chưa
phải chân lý, nhưng tánh Giác đó vẫn chưa hòa tan cùng chân lý.
Vì vậy GIÁC là thọ mạng tướng trong tứ tướng. Nó vẫn là pháp
chướng ngại khiến cho con người cần khổ tu hành nhiều kiếp mà
không được thành Thánh quả. Vì nhận "ngã" là Niết bàn,
vì cho rằng có CHỨNG có NGỘ, ví như người nhận giặc làm con, của
cải trong nhà sẽ bị mất hết. Bởi vì có ái "ngã" thì cũng
ái "Niết bàn", bởi vì Niết bàn do trừ diệt gốc
"ái" mà hiển hiện. Ghét "ngã" thì cũng ghét sanh
tử. Ghét sanh tử cũng không gọi là giải thoát. Chúng sanh không
biết nguồn gốc sanh tử chính là "ái". Vì vậy, trong quá
trình tu tập được thanh tịnh chút ít cho là "chứng đắc".
Điều đó nói lên cái chất "ngã tướng" chưa được dứt
trừ. Vì thế, cho nên nếu có ai khen thì vui mừng phấn khởi, nếu bị
bài báng thì giận dữ hận thù. Dựa trên tâm lý và hành động
ấy mà biết rằng "ngã tướng" của người nầy còn tiềm
phục trong tàng thức, du hí qua các căn không lúc nào gián đoạn.
Nầy, Tịnh Chư Nghiệp Chướng! Người hành đạo mà không dứt
trừ "ngã tướng"
thì không thể vào được biển Viên
Giác tịch diệt Như Lai. Nếu người tỏ ngộ "ngã" vốn không
thì sẽ không còn thấy người huỷ báng mạ nhục mình. Bằng ngược
lại, thấy rằng ta là bậc tôn sư, là người thuyết pháp tế độ
chúng sanh thì biết người đó chưa đoạn trừ "ngã tướng, nhơn
tướng, chúng sanh tướng và thọ giả tướng".
Tịnh Chư Nghiệp Chướng! Những người tu hành hậu
thế thuyết bệnh mà cho là thuyết pháp. Cho nên Phật gọi là những
kẻ đáng thương. Dù siêng năng tu hành khó nhọc, nhưng chỉ làm
tăng thêm bệnh không thể vào được biển Giác thanh tịnh Như Lai.
Người tu hành không hiểu rõ tứ tướng, lấy kiến
giải và pháp tu hành của Như Lai làm của mình, cho nên tu mãi mà
chẳng được gì! Hoặc có hạng người chưa được nói được,
chưa chứng nói chứng, thấy ai tu hành thắng tấn sanh tâm ganh ghét
tị hiềm. Hạng người nầy cùng trong số chưa đoạn trừ "ngã
ái" không thể vào nhà Viên Giác thanh tịnh.
Nầy, Tịnh Chư Nghiệp Chướng! Chúng sanh đời sau mong
cầu chứng đắc mà không mong cầu tỏ ngộ chân lý, tu hành như thế
chỉ tăng trưởng ngã mạn chồng chất cao thêm "ngã kiến".
Riêng hạng người siêng năng hàng phục phiền não, khởi tâm đại
dũng mãnh, chưa chứng khiến chứng, chưa đắc khiến đắc, chưa đoạn
khiến đoạn, tham, sân, si, mạn
đối cảnh tâm không sanh ta,
người, ân, oán tất cả đều vắng lặng, Phật nói người đó lần
lần sẽ được thành tựu Bồ đề Niết bàn vô thượng.
Nầy, Tịnh Chư Nghiệp Chướng! Thiện tri thức là một
trợ duyên trong đường tu tập. Tìm thiện tri thức phải tránh xa
người tà kiến. Trong việc tìm cầu mà có xen tâm yêu ghét thì
không thể vào được biển Viên Giác thanh tịnh.
Bấy giờ, Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên bằng một
bài kệ:
Tịnh Nghiệp! ông nên biết.
Tất cả các chúng sanh.
Đều do chấp ngã ái.
Vô thỉ vọng luân hồi.
Vì chưa trừ tứ tướng.
Không được thành Bồ đề.
Tâm thương ghét còn sanh.
Niệm lọc lừa chưa dứt.
Thì còn nhiều mê muội.
Khó vào đến Giác thành.
Muốn quay về bản giác.
Trước bỏ tham sân si.
Tâm ái pháp không còn.
Lần lần bèn thành tựu.
Thân ta còn không có.
Thương ghét chỗ nào sanh
Thiện hữu với người nầy.
Sẽ không rơi tà kiến.
Tâm nếu còn thương ghét.
Quả giải thoát xa vời.
1. "Tâm Viên Giác vốn thanh tịnh, duyên cớ gì lại có nhiễm
ô"?
Bồ tát Tịnh Chư Nghiệp Chướng nêu câu hỏi giá trị
vô cùng. Một câu hỏi đem lại lợi ích lớn lao cho chúng sanh hậu
thế. Là đệ tử Phật, muốn đi con đường giải thoát giác ngộ,
theo vết chân Phật phải hết sức quan tâm, để một lần nữa xác
định rằng: Tâm Viên Giác của tất cả chúng sanh cũng như tâm Viên
Giác của chư Phật xưa nay vốn thanh tịnh. Vấn đề quan tâm ở đây
là vấn đề "nhiễm ô" và duyên cớ "nhiễm ô".
Tư duy câu hỏi, ta thấy Bồ tát Tịnh Chư Nghiệp
Chướng dụng ý vạch ra hai con đường cho người tu hành hậu thế:
Hoặc các vị sẽ thắng, hoặc các vị bị thua, sau khi nghe Phật giải
đáp. Ngoài ra không còn con đường nào khác. Khắc phục triệt tiêu
được "duyên cớ" sẽ thắng. Không khắc phục triệt tiêu
được "duyên cớ" sẽ bị thua, thì dù có cần khổ tu hành
mà vẫn không thành Phật đạo.
Vấn đề nhiễm ô có thiên hình vạn trạng. Có thứ
nhiễm ô hạ thấp con người khiến cho rơi vào địa ngục, ngạ quỷ,
súc sanh. Có thứ nhiễm ô khiến cho con người không còn phẩm
chấtt, tư cách, đạo đức giá trị của con người, làm mất hết lẽ
sống hạnh phúc của con người. Có thứ nhiễm ô "chướng
đạo" làm cho con người dù có ý chí cao thượng muốn vượt
rasanh tử tầm thường, gắng công cần khổ tu hành mà không thành
tựu như mong muốn.
2. Tất cả nhiễm ô, có nhiều, có ít, có nặng, có nhẹ khác nhau,
theo lời Phật dayt thì nó phát xuất từ căn bản ở một chữ
"CHẤP". Tất cả chúng sanh từ vô thỉ kiếp, vì vọng tưởng
mà khởi CHẤP nặng sâu về bốn thứ. Đó là NGÃ TƯỚNG, NHƠN
TƯỚNG, CHÚNG SANH TƯỚNG và THỌ MỆNH TƯỚNG.
Chấp có hai cách:
Một, chấp cụ thể. Lối chấp nầy biểu hiện qua các
thứ nghi lễ, các tập quán lâu đời, xưa bày nay làm, dù nghi lễ
tập quán đó phản tiến hóa đối với nhơn loại và phi chân lý.
Hai, chấp trừu tượng. Đây là lối chấp phát khởi
từ tâm lý, từ khái niệm: Tin tưởng ở thần thánh vu vơ, tin có
đấng thiêng liêng có quyền uy ban phước cho người nầy, giáng họa
cho kẻ nọ. Chấp có QUẢ BỔ ĐỀ TA SẼ CHỨNG. Có CẢNH NIẾT BÀN TA
SẼ NHẬP
Tất cả kiến chấp như vậy đều phát sanh từ vọng
tưởng sai lầm mà căn nguyên là "NGÃ TƯỚNG".
Từ cái TÔI, khởi niệm VÌ TÔI, CHO TÔI CỦA TÔI
đó là biểu hiện NGÃ TƯỚNG lộ diện xuất đầu. Ý ngiệm về TÔI
đã khởi thì ngay nơi đó đã vướng mắc đủ cả bốn tướng:
NGÃ, NHƠN, CHÚNG SANH và THỌ MỆNH. Bởi vì bố tướng đó không
thể tách rời ra.
Khởi niệm CHỨNG ĐẮC là vướng mắc vào NGÃ
TƯỚNG rồi.
NGỘ, LIỄU, GIÁC ba tầng lý trí nhận xét phê phán
và phủ định ý niệm CHỨNG ĐẮC ban đầu. Dù vậy, chúng vẫn chưa
ly ngã tướng, cho nên chúng trở thành đối tượng của ngã
tướng mà thôi.
Lục Tổ Huệ Năng bảo: Khởi niệm THƯƠNG là đã mắc
vào "ngã tướng"
Mống khởi ý niệm THIÊN vẫn mắc
vào "ngã tướng".
3. Văn nhi tư, tư nhi tu, phải học đạo rồi mới hành đạo. Không học
đạo mà hành đạo, ví như lái phi cơ mà không có la bàn định
hướng, có thể bay xa bay nhiều giờ mà không đến đích. Phải
"ngộ" đạo rồi mới có ngày thành tựu đạo. Chúng sanh mong
cầu "chứng đạo" mà không cầu tỏ "ngộ" chân lý
là một sai lầm trầm trọng, cho nên tu thì nhiều mà ít có người
thành Phật.
Diệt trừ bốn tướng chấp. Đối cảnh không động
tâm. Phật nói người như thế không lâu sẽ đạt đến Bồ đề
Niết bàn Vô thượng.