- KINH
BẤT ĐOẠN
- (Anupadasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi
(Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà-lâm), tinh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Độc).
Ở đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo : "Này các Tỷ-kheo" – "Thưa
vâng, bạch Thế Tôn". Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế
Tôn nói như sau :
– Này các Tỷ-kheo, Sariputta là bậc
Hiền trí; này các Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Đại tuệ; này các Tỷ-kheo,
Sariputta là bậc Quảng tuệ; này các Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Hỷ tuệ
(Hasupanna); này các Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Tiệp tuệ (javanapanna); này
các Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Lợi tuệ (tikkhapanna); này các Tỷ-kheo,
Sariputta là bậc Quyết trạch tuệ (nibbedhikapanna). Này các Tỷ-kheo, cho đến
nửa tháng, Sariputta quán bất đoạn pháp quán. Này các Tỷ-kheo, đây là do
bất đoạn pháp quán của Sariputta.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Sariputta
ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú sơ Thiền, một trạng thái
hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Và những pháp thuộc về Thiền
thứ nhất như tầm, tứ, hỷ, lạc, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm,
dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý; các pháp ấy được an trú
bất đoạn. Các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng khởi lên,
được Sariputta biết đến khi an trú, được Sariputta biết đến khi đoạn
diệt. Sariputta biết rõ như sau : "Như vậy các pháp ấy trước không
có nơi ta, nay có hiện hữu, sau khi hiện hữu, chúng đoạn diệt".
Sariputta đối với những pháp ấy, cảm thấy không luyến ái, không chống
đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với
tâm không có hạn chế. Sariputta biết : "Còn có sự giải thoát hơn thế
nữa. Đối với Sariputta, còn có nhiều việc phải làm hơn nữa".
Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Sariputta diệt tầm và tứ, chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng
thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhứt tâm. Và
những pháp thuộc về Thiền thứ hai như nội tỉnh, hỷ, lạc, nhứt tâm,
và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả,
tác ý, những pháp ấy được an trú bất đoạn. Các pháp ấy được
Sariputta biết đến khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng
an trú, được Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt. Sariputta biết rõ
như sau : "Như vậy các pháp ấy trước không có nơi ta, nay có hiện hữu,
sau khi hiện hữu, chúng đoạn diệt". Sariputta đối với những pháp
ấy, không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải
thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế. Sariputta biết :
"Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Đối với Sariputta, còn có nhiều
việc phải làm hơn thế nữa".
Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Sariputta ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà
các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba.
Và những pháp thuộc về Thiền thứ ba, như xả, lạc, niệm, tỉnh giác,
nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, xả,
tác ý; những pháp ấy được Sariputta an trú bất đoạn, các pháp ấy được
Sariputta biết đến khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng
an trú, được Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt. Sariputta đối với
những pháp ấy, không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói
buộc, giải thoát không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế.
Sariputta biết : "Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Đối với
Sariputta, còn có nhiều việc phải làm hơn thế nữa".
Lại nữa này các Tỷ-kheo, Sariputta
xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền
thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm, thanh tịnh. Và những pháp thuộc
về Thiền thứ tư, như xả, bất khổ bất lạc thọ, thọ (passivedana ?), vô
quán niệm tâm (Cetaso anabhogo), thanh tịnh nhờ niệm, nhứt tâm, và xúc, thọ,
tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý; những
pháp ấy được Sariputta an trú bất đoạn, các pháp ấy được Sariputta biết
đến khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng an trú, được
Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt. Sariputta đối với những pháp
ấy, không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải
thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế. Sariputta biết :
"Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Đối với Sariputta, còn có nhiều
việc phải làm hơn thế nữa".
Lại nữa này các Tỷ-kheo, Sariputta
vượt lên hoàn toàn sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, không
tác ý đối với dị tưởng, nghĩ rằng : "Hư không là vô biên",
chứng và trú Không vô biên xứ. Và những pháp thuộc về Không vô biên xứ
như hư không, vô biên xứ tưởng, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm,
dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý; những pháp ấy được
Sariputta an trú bất đoạn, các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng
khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng an trú, được Sariputta biết
đến khi chúng đoạn diệt. Sariputta đối với những pháp ấy, không luyến
ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ
lụy, an trú với tâm không có hạn chế. Sariputta biết : "Còn có sự
giải thoát hơn thế nữa. Đối với Sariputta, còn có nhiều việc phải
làm hơn thế nữa".
Lại nữa này các Tỷ-kheo, Sariputta
vượt lên hoàn toàn Không vô biên xứ, nghĩ rằng : "Thức là vô
biên", chứng và trú Thức vô biên xứ. Và những pháp thuộc về Thức
vô biên xứ như Thức vô biên xứ tưởng, nhất tâm, và xúc, thọ, tưởng,
tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý; những pháp ấy
được Sariputta an trú bất đoạn; các pháp ấy được Sariputta biết đến
khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt.
Sariputta đối với những pháp ấy không luyến ái, không chống đối, độc
lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không
có hạn chế. Sariputta biết : "Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Đối
với Sariputta, còn có nhiều việc phải làm hơn thế nữa".
Lại nữa này các Tỷ-kheo, Sariputta
vượt lên hoàn toàn Thức vô biên xứ, nghĩ rằng : "Không có vật
gì", chứng và trú Vô sở hữu xứ. Và những pháp thuộc về Vô sở hữu
xứ, như Vô sở hữu xứ tưởng, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm,
dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý; những pháp ấy được
Sariputta an trú bất đoạn; các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng
khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng an trú, được Sariputta biết
đến khi chúng đoạn diệt. Sariputta đối với những pháp ấy không luyến
ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ
lụy, an trú với tâm không có hạn chế. Sariputta biết : "Còn có sự
giải thoát hơn thế nữa. Đối với Sariputta, còn có nhiều việc phải
làm hơn thế nữa".
Lại nữa này các Tỷ-kheo, Sariputta
vượt lên hoàn toàn Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng
xứ. Với chánh niệm, Sariputta xuất khỏi định ấy. Sau khi với chánh niệm
xuất khỏi định ấy, Sariputta thấy các pháp ấy thuộc về quá khứ, bị
đoạn diệt, bị biến hoại: "Như vậy các pháp ấy trước không có nơi
ta, nay có hiện hữu, sau khi hiện hữu chúng đoạn diệt". Sariputta đối
với những pháp ấy cảm thấy không luyến ái, không chống đối, độc lập,
không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không hạn chế.
Sariputta biết : "Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Đối với
Sariputta, còn có nhiều việc phải làm hơn thế nữa".
Lại nữa này các Tỷ-kheo, Sariputta
vượt khỏi hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và an trú Diệt
thọ tưởng (định). Sau khi thấy với trí tuệ, các lậu hoặc được đoạn
tận. Với chánh niệm, Sariputta xuất khỏi định ấy. Sau khi với chánh niệm
xuất khỏi định ấy, Sariputta thấy các pháp ấy thuộc về quá khứ, bị
đoạn diệt, bị biến hoại : "Như vậy các pháp ấy, trước không có
nơi ta, sau có hiện hữu, sau khi hiện hữu, chúng đoạn diệt".
Sariputta đối với các pháp ấy cảm thấy không luyến ái, không chống đối,
độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm
không hạn chế. Sariputta biết : "Không có sự giải thoát nào vô thượng
hơn thế nữa. Đối với Sariputta, không có việc phải làm nhiều hơn thế
nữa".
Này các Tỷ-kheo, nếu nói một
cách chơn chánh, một người có thể nói về người ấy như sau : "Người
này được tự tại, được cứu cánh trong Thánh giới, được tự tại,
được cứu cánh trong Thánh định, được tự tại, được cứu cánh trong
Thánh tuệ, được tự tại, được cứu cánh trong Thánh giải thoát. Nói một
cách chơn chánh về Sariputta, người ấy có thể nói như sau : "Sariputta
được tự tại, được cứu cánh trong Thánh giới, được tự tại, được
cứu cánh trong Thánh định, được tự tại, được cứu cánh trong Thánh
tuệ, được tự tại, được cứu cánh trong Thánh giải thoát".
Này các Tỷ-kheo, nếu nói một
cách chơn chánh, một người có thể nói về người ấy như sau : "Người
này là con chánh tông của Thế Tôn, sanh ra từ miệng, sanh ra từ Pháp, do
Pháp hóa thành, thừa tự Chánh pháp, không thừa tự vật chất". Nói một
cách chơn chánh về Sariputta, người ấy có thể nói như sau:
"(Sariputta) là con chánh tông của Thế Tôn, sanh ra từ miệng, sanh ra từ
Pháp, do Pháp hóa thành, thừa tự Chánh pháp, không thừa tự vật chất".
Sariputta, này các Tỷ-kheo, chơn chánh
chuyển Pháp luân vô thượng đã được Như Lai chuyển vận.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các
vị Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.