TỔNG TẬP
VĂN
HỌC PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Lê Mạnh
Thát
---o0o---
Tập I
=================
PHỤ LỤC 1
MÂU TỬ VÀ NHỮNG
ĐOẠN PHIẾN DẬT VĂN
Trong tình hình tư liệu hiện nay,
người đầu tiên được biết đã trích Mâu Tử là Lưu Hiếu Tiêu, Tiêu viết chú
thích cho Thế thuyết tân ngữ của Lưu Nghĩa Khánh. Trong phần hạ của quyển
thượng 2 thiên về văn học, Tiêu đã dẫn điều 21 của Mâu Tử để chứng tỏ thời
Hán Minh đế đã có kinh Tứ thập nhị chương . Tiếp theo Tiêu, Dữu Trọng Dung
viết Tử sao gần 30 quyển trích dẫn 107 tác giả của Trung Quốc. Ngày nay,
Tử sao đã thất lạc. Nhưng cứ vào bản mục lục của nó do Cao Tợ Tôn chép lại
trong cuốn cuối của Tử lược, ta thấy Dung có dẫn “Mâu Tử luận 1 quyển”, Và
điều này được chứng thực qua một trích dẫn của Cụ Bình thân vương trong
Hoằng quyết ngoại điển sao 3. Đến đời Tùy, Đỗ Đài Khanh viết Ngọc chúc bảo
điển 4 đã hai lần trích Mâu Tử. Sang đời Đường, Lý Thiện viết Văn tuyển
chú lại dẫn điều 21, khi chú thích Đầu đà tự bi. Rồi Trạm Nhiên viết Chỉ
quán phụ hành truyền hoằng quyết, Đạo Tuyên viết Tập cổ kim Phật đạo luận
hành. Thần Thanh viết Bắc sơn lục và một tác giả chưa biết tên viết Lịch
đại pháp bảo ký mới tìm lại được ở Đôn hoàng đầu thế kỷ này, đã liên tục
dẫn Mâu Tử trong đó Trạm Nhiên có một số lượng trích dẫn lớn nhất. Qua đời
Tống, Lý Phưởng (926-966) cùng các đồng sư soạn Thái bình ngự lãm Trần
Bành Niên năm 1008 viết Quảng vận và Đức Khuê viết Bắc sơn lục tùy hàm đều
có dẫn Mâu Tử. Tới đời Nguyên, thay vì trích dẫn, như những người tiền bối
của mình đã làm, Tử Thành dựa hẳn vào Mâu Tử, điều chỉnh lại cho phù hợp
với bối cảnh học thuật hơn 1000 năm về sau, để viết Chiết nghi luận.
Như thế, qua hơn một ngàn năm từ
lúc xuất hiện, Mâu Tử đã là một tác giả có một ảnh hưởng và vị trí nhất
định trong học giới Trung Quốc. Trừ Chiết nghi luận mà Tử Thành đã dựa hẳn
vào Mâu Tử để viết ra, có những đoạn văn hầu như đồng nhất với Lý hoặc
luận nhưng không gọi đích danh tên Mâu Tử như những tác phẩm khác, khi
dẫn, đều ghi tên Mâu Tử. Song vì văn cứ có những xuất nhập, khi so với bản
Lý hoặc luận của Hoằng Minh tập hiện nay. Chúng tôi đề nghị tập hợp chúng
lại đây cho tiện bề tham khảo,
quán. Công tác tập hợp này, trước đây Chu Thúc Ca
và Dư Gia Tích
đã từng tiến hành. Chu Thúc Ca chỉ tập hợp
các trích dẫn trong chú thích Văn tuyển thể thuyết tân ngữ và Thái bình
ngự lãm, trong khi Dư Gia Tích thì từ các sách Ngọc chúc bảo điển, Chỉ
quán phụ hành truyền hoằng quyết, Hoằng quyết ngoại điển sao, Bắc sơn lục,
Bắc sơn lục tùy hàm và Quảng vận. Tiếp thu những thành quả của Chu Thúc Ca
và Dư Gia Tích đã đạt được, đồng thời bổ sung thêm những phát hiện vừa mới
có trong thời gian qua, chúng tôi cho công bố toàn bộ dật văn của Mâu Tử
đã trích dẫn trong các thư tịch, để làm cơ sở cho những nghiên cứu trong
tương lai cùng với bản Mâu Tử của Hoằng Minh tập làm tiêu bản so sánh.
1. THẾ THUYẾT TÂN
NGỮ (thượng/ hạ tờ 12b8-11)
Phiên âm:
Mâu Tử viết: Hán Minh đế dạ mộng
thần nhân, thân hữu nhật quang, minh nhật bác vấn quần thần. Thông nhân
Phó Nghị đối viết: Thần văn Thiên Trúc hữu đạo giả, hiệu viết Phật, khinh
cử năng phi, thân hữu nhật quang, đãi tương kỳ thần dã. U thị khiển vũ lâm
tướng quân Tần Cảnh, bác sỹ đệ tử Vương Tuân đẳng thập nhị nhân, chí Đại
nguyệt thị quốc tả thư Phật kinh tứ thập nhị bộ, tại Lan Đài thạch thất.
Dịch:
Mâu Tử nói: Hán Minh đế đêm mộng
người thần, minh có ánh sáng mặt trời. Hôm sau, rộng hỏi quần thần. Thông
nhân Phó Nghị đáp nói: Thần nghe Thiên Trúc có nhà đạo giả, hiệu gọi là
Phật, cất nhẹ có thể bay, mình có ánh sáng mặt trời, đó hẳn thần ấy. Do
thế, vua sai vũ lâm tướng quân Tần Cảnh, bác sỹ đệ tử Vương Tuân v.v… mười
hai người đến nước Đại nguyệt thị, chép lấy kinh Phật bốn mươi bộ, để ở
nhà đá Lan Đài.
2. TỬ SAO, dẫn
theo HOẰNG QUYẾT NGOẠI ĐIỂN SAO 3
Phiên âm:
Tử sao vân: Mâu Tử thiếu diệu tu
kinh truyện, mỵ hữu bất hảo. Linh đế băng hậu, thiên hạ nhiễu loạn, tương
mẫu tỵ thế tại Giao Chỉ, niên nhị thập lục, qui Thương Ngô, Hậu dĩ huyền
mặc vi thần, đạm bạc vi đức, quách nhiên tỉnh tư, vạn vật bất can kỳ chí.
Dịch:
Tử sao nói: Mâu Tử nhỏ, giỏi học
kinh truyện, không có (sách) gì là không thích. Sau khi Linh đế băng hà,
thiên hạ nhiễu loạn, đem mẹ tỵ nạn ở Giao Chỉ. Năm 26 tuổi trở về Thương
Ngô. Sau lấy huyền mặc làm thân, đạm bạc làm đức, rộng rãi lặng nghĩ. Vạn
vật không ngăn chí ông.
3. NGỌC CHÚC BẢO ĐIỂN 4
Phiên âm:
Mâu Tử viết: Hoặc vấn viết: Phật
tùng hà sinh? Ninh hữu tiên tổ cập quốc ấp phủ, giai hà thi, trạng hà loại
hồ? Tử viết: Lâm đắc Phật thời sinh ư Thiên Trúc, giả hình vương gia, Phụ
viết Bạch Tịnh, phu nhân viết Diệu, tứ nguyệt bát nhật, tùng mẫu hữu hiếp
sinh, thú lân quốc chi nữ, lục niên sinh nam, tự viết La Vân. Phụ vương
trân trọng thái tử, thậm ư nhật nguyệt. Đáo niên thập cữu, tứ nguyệt bát
nhật dạ bán, thích nhược bất lạc, toại phi nhi khởi, đốn ư vương điền, hưu
ư thọ hạ. Thái tử nhập xuất (?), sơn nhập lục niên, tư đạo bất thực, bì
cốt tương liên, tứ nguyệt bát nhật, tọa thành Phật yên Nhân nhị nguyệt
thập ngũ nhật quá thế, nê hoàn nhi khứ.
Mâu Tử vân: Lạc Dương Tây Ung môn
ngoại khỉ Bạch Mã tự, bích thượng vị triều đình thiên thừa vạn kỵ nhiễu
tháp. Hựu Nam cung Thanh Lương đài thượng, cập Khai dương môn sở tạo làng
danh Hiển tiết, tất ư thượng tọa tác Phật tượng.
Dịch:
Mâu Tử nói: Người lầm hỏi: “Phật
từ đâu sinh ra? có tổ tiên làng nước không, làm gì, hình dáng giống loại
gì?” Ông đáp:“Đến lúc thành Phật thì sinh ở Thiên Trúc, mượn hình vương
gia. Cha gọi Bạch Tịnh, mẹ gọi là Diệu. Ngày 8 tháng 4 sinh từ sườn phải
mẹ. Cưới con gái nước láng giềng, sáu năm sinh con trai, tên chữ La Vân,
Vua cha yêu quí thái tử hơn cả trời trăng. Đến năm 19 tuổi, nửa đêm mồng 8
tháng 4 xót xa không vui, bèn bay mà ra đi, dừng ở ruộng vua, nghỉ dưới
gốc cây, Hôm sau, vua và quan dân, không ai là không khóc lóc, ngàn xe
muôn ngựa ra thành đuổi theo. Trời mọc càng cao, ánh sáng chói chang, cây
đưa cành xuống, không khiến mình thái tử bị thiêu đốt. Thái tử vào núi
nhập (định) sáu năm, nghĩ đạo, không ăn, da bọc liền xương. Mồng 8 tháng 4
bèn thành Phật. Nhân ngày 15 tháng 2 qua đời, niết bàn mà đi”.
Mâu Tử nói: Ngoài cửa Tây Ung của
Lạc Dương dựng chùa Bạch Mã, trên vách đặt vẽ triều đình ngàn xe muôn ngựa
nhiễu tháp. Lại trên đài Thanh Lương Nam cung và cửa Khai Dương cùng lăng
do vua xây tên Hiển Tiết, đều trên ấy vẽ làm tượng Phật.
4. PHÁ TÀ LUẬN quyển thượng
(ĐTK 2109 tờ 478c7 ø 479a1-6)
Phiên âm:
Tử thơ Mâu Tử nhị quyển thạnh
luận Phật pháp (…).
Hậu Hán thư Hiếu Minh đế Vĩnh Bình
tam niên, thượng mộng kim nhân, hạng bội nhật nguyệt quang, phi hành điện
tiền, cố vấn quần thần. Thông nhân Phó Nghị đối viết: “Thần văn Tây Vức
hữu thần, kỳ danh viết Phật. Bệ hạ sở kiến đắc vô thị hồ”. Đế khiển lang
trung Thái Hâm, trung lang tướng Tần Cảnh, bác sỹ Vương Tuân đẳng sứ ư
Thiên Trúc nhi đồ kỳ hình tượng. Hâm nhưng dự sa môn Nhiếp Ma Đằng Trúc
Pháp Lan đông thiên Lạc Dương. Trung Quốc hữu sa môn tự thử thỉ dã.
Dịch:
Tử thơ Mâu Tử 2 quyển nói nhiều về
Phật pháp (...).
Hậu Hán thư: Hiếu Minh đế Vĩnh
Bình năm thứ 3 (59) vua mơ thấy người vàng, cổ mang ánh sáng mặt trời mặt
trăng, bay đi trước điện. Vua nhìn hỏi quần thần. Thông nhân Phó Nghị đáp:
“Thần nghe Tây Vức có Thần, tên gọi là Phật. Bệ hạ nhìn thấy, há không
phải đó sao?”. Vua sai lang trung Thái Hâm, trung lang tướng Tần Cảnh, bác
sỹ Vương Tuân v.v… đi sứ Thiên Trúc mà vẽ hình tượng. Hâm cùng với sa môn
Nhiếp Ma Đằng Trúc Pháp Lan, hướng đông đến Lạc Dương. Trung Quốc có sa
môn, bắt đầu từ đó.
5. BIỆN CHÍNH LUẬN 6 (ĐTK 2110 tờ 534a11 -13) và QUẢNG HOẰNG MINH TẬP
13
(ĐTK 2103 tờ 185a25-6)
Phiên âm:
Mâu Tử luận vân: Nghiêu Thuấn Châu
Khổng Lão thị chi hóa, tỉ chi ư Phật, do bạch lộc chi dự kỳ lân, nhi tử
bất năng ngộ.
Dịch:
Mâu Tử luận nói: Nghiêu Thuấn Châu
Khổng họ Lão giáo hóa so với Phật, như hươu trắng đối với kỳ lân, mà không
thể hiểu.
6a. TẬP CỔ KIM PHẬT ĐẠO LUẬN HÀNH QUYỂN GIÁP (ĐTK 2104 tờ 363c10-364a9)
Phiên âm:
Hán pháp bản nội truyện vân: Minh
đế Vĩnh Bình tam niên, thượng mộng thần nhân, kim thân trượng lục, hạng
hữu nhật quang, phi tại điện tiền, hân nhiên duyệt chi, minh nhật vấn quân
thần: “Thử hà vi thần?” Hữu thông nhân Phó Nghị viết: “Thần văn Thiên Trúc
hữu đắc đạo giả, hiệu viết Phật dã, phi hành hư không, thân hữu nhật
quang, đãi tương kỳ thần hồ!”. Ư thị thượng ngộ, khiển lang trung Thái
Hâm, lang tướng Tần Cảnh, bác sỹ đệ tử Vương Tuân đẳng nhất thập bát nhân,
ư Đại nguyệt chi Trung Thiên Trúc quốc, tả Phật kinh Tứ thập nhị chương ,
tạng tại Lan Đài thạch thất đệ thập tứ gian. Hựu ư Lạc Dương thành Tây Ung
môn ngoại vi khởi Phật tự, ư kỳ bích họa thiên thừa vạn kỵ, nhiễu tháp tam
tráp, hựu tương họa Thích ca lập tượng, nãi ư Nam cung Thanh Lương đài cập
Khai dương thành môn thượng, đồ Phật nghi tượng. Thời tạo thọ làng, danh
viết Hiển tiết, diệc ư kỳ thượng, tác Phật đồ tượng, Quảng như Mâu Tử sở
hiển.
Dịch:
Hán pháp bản nội truyện nói: Minh
đế Vĩnh Bình năm thứ 3 (59) vua mơ thấy người thần, mình vàng trượng sáu,
cổ có ánh sáng mặt trời, bay tại trước điện, hớn hở lòng vui. Hôm sau hỏi
quần thần: “Đó là thần nào?”. Có thông nhân Phó Nghị nói: “Thần nghe Thiên
Trúc có người đắc đạo, hiệu gọi là Phật, bay đi trên trời, mình có ánh
sáng mặt trời, há đó thần ấy ư?” Do thế, vua hiểu, sai lang trung Thái
Hâm, lang tướng Tần Cảnh, bác sỹ đệ tử Vương Tuân v.v… 18 người ở Đại
nguyệt chi nước Trung Thiên Trúc, chép kinh Phật 42 chương chứa ở nhà đá
gian 14 của Lan Đài. Lại ngoài cửa Tây Ung thành Lạc Dương dựng chùa Phật,
trên tường vẽ ngàn muôn xe ngựa nhiễu tháp ba vòng, lại sắp vẽ tượng đứng
đức Thích Ca. Lại ở đài Thanh Lương của Nam cung và trên cửa thành Khai
Dương, vẽ nghi tượng Phật. Bấy giờ tạo thọ lăng gọi là Hiển Tiết, cũng ở
trên lăng, làm vẽ tượng Phật. Rộng như Mâu Tử nói rõ.
6b. QUẢNG HOẰNG MINH TẬP 1
(ĐTK 2103 tờ 98c11-18)
Phiên âm:
Hán Hiển tôn Khai Phật hóa pháp
bản nội truyện
Truyện vân: Minh đế Vĩnh Bình tam
niên, thượng mộng thần nhân, kim thân trượng lục, hạng hữu nhật quang, ngộ
dĩ vấn chư thần hạ, Phó Nghị đối chiếu: Hữu Phật xuất ư Thiên Trúc. Nãi
khiến sứ vãng cầu, bị hoạch kinh tượng cập tăng nhị nhân. Đế nãi vi lập
Phật tự họa bích, thiên thừa vạn kỵ, nhiễu pháp tam tráp. Hưu ư Nam cung
Thanh Lương đài cập Cao dương môn thượng Hiển tiết lăng, sở đồ Phật lập
tượng tinh Tứ thập nhị chươngkinh, giam ư Lan Đài thạch thất. Quãng như
tiền tập Mâu Tử sở hiển.
Dịch:
Truyện nói: Minh đế Vĩnh Bình năm
thứ ba, vua mộng người thần, mình vàng trượng sáu, cổ có ánh sáng mặt
trời, thức dậy đem hỏi các thần hạ. Phó Nghị đáp chiếu nói: Có Phật ra đời
ở Thiên Trúc. Bèn sai sứ tìm đến, có đủ kinh tượng và hai nhà sư. Vua do
thế dựng chùa Phật, vách vẽ ngàn xe muôn ngựa, nhiễu tháp ba vòng. Lại ở
đài Thanh Lương Nam cung và trên cửa Cao dương (cùng) lăng Hiển Tiết vẽ
tượng Phật đứng với kinh Bốn mươi hai chương để ở nhà đá Lan Đài. Rộng như
Mâu Tử của tập trước nói rõ.
7. VĂN TUYỂN LÝ THIỆN CHÚ
(59 tờ 4b9).
Phiên âm:
Mâu Tử viết: Hán Minh đế mộng kiến
thần nhân, thân hữu nhật quang, phi tại điện tiền, dĩ vấn quần thần. Phó
Nghị đối viết: Thiên Trúc hữu Phật, tương kỳ thần dả. Hậu đắc kỳ hình
tượng.
Dịch:
Mâu Tử nói: Hán Minh đế mơ thấy
người thần, mình có ánh sáng mặt trời, bay ở trước điện, đem hỏi quần
thần. Phó Nghị đáp rằng: “Thiên Trúc có Phật, hay vị thần ấy”. Sau được
hình tượng Phật.
8. CHỈ
QUÁN PHỤ HÀNH TRUYỀN HOẰNG QUYẾT 5/1 và 5/6
Phiên âm:
Đệ nhị thập nhất cứu sa môn đàm
thị phi trung lập. Vấn vân: Lão Tử viết; Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất
tri. Hựu vân: Đại biện nhược nột. Hựu viết: Quân tử sỹ ngôn quá hành.
Thiết sa môn tri chí đạo, hà bất tọa nhi hành chi, không đàm thị phi, hư
luận khúc trực, khởi phi đức hạnh chi tặc gia? Đáp: Lão diệc hữu ngôn, như
kỳ bất ngôn, ngô hà thuật yên. Tri nhi bất ngôn, bất khả giã, bất tri bất
ngôn, ngu nhân giã. Năng ngôn bất năng hành, quốc chi sư giã. Năng hành
bất năng ngôn, quốc chi dụng giã. Năng hành năng ngôn, quốc chi bảo giã.
Tam phẩm chi nội, duy bất năng ngôn, bất năng hành, vi quốc chi tặc (5/1
279a16-b2).
Mâu Tử hựu vân: Hoài kim bất hiện
nhân, thùy tri kỳ nội hữu vỹ bảo. Phi tú bất xuất hộ, thụ tri kỳ nội hữu
văn thái. Mã phục lịch nhi bất thực, tắc nô dự lương đồng quần. Sỹ hàm âm
nhi bất đàm, tắc ngu dự trí bất phân. Kim chi tục sỹ, trí vô hào tuấn, nhi
dục bất ngôn từ, bất thuyết nhất phu, nhi tự nhược đại biện. Nhược tu chi
đồ, tọa nhi đắc đạo giả, như vô mục dục thị, vô nhĩ dục thính, khởi bất
nan hồ?
Hựu Mâu Tử viết: Nghiêu sự Doãn
Thọ, Thuấn sự Vụ Thành, Khưu học Lão Đam, Đán sư Lữ Vọng. Tứ sư tuy thánh,
tỷ chi ư Phật, do bạch lộc chi tỷ kỳ lân; tỷ kỳ giáo giã, do ô thước chi
tỷ phụng hoàng, tỷ kỳ hình giã, do khưu điệt chi dự Hoa Hằng (5/6 tờ
324c15-26).
Tha hựu vấn viết: Cái chư đạo tòng
tàn, phàm cửu thập lục, đạm bạc vô vi, mạc thượng ư Phật. Thần tiên chi
thuật, bộc dĩ vi tôn, đãi Phật pháp chi bất như hồ? Mâu Tử viết: Chỉ nam
vi bắc, tự vị bất hoặc, dẫn đông vi tây, tự vị bất mê. Như nhử sở ngôn, tợ
dĩ đê niểu nhi tiếu phụng hoàng, chấp yến diên nhi trào qui long. Nhiên
thế nhân hữu bối nhật nguyệt nhi hướng đăng chúc, thâm câu độc nhi thiển
giang hà, khởi bất mậu hồ? Nhữ bối Phật pháp, nhi tôn thần tiên giả, thử
chi vị giã.
Dịch:
Thiên 21: Cứu sa môn đứng trong
việc bàn phải trái, Hỏi rằng: Lão Tử nói: Người biết không nói. Người nói
không biết. Lại nói: Giỏi nói như câm. Lại nói: Quân tử thẹn lời nói quá
việc làm. Nếu sa môn biết đạo lớn, sao không ngồi mà làm, lại suông bàn
phải trái, suông luận ngay cong. Há chẳng là giặc của đức hạnh? Đáp: Lão
(tử) cũng có nói: Nếu ông không nói, tôi thuật lại làm gì? Biết mà không
nói, còn không được. Không biết mà không nói, là người ngu. Nói được mà
làm không được là quốc sư. Làm được mà nói không được là quốc dụng. Làm
được nói được là quốc bảo. Trong ba loại đó, chỉ không nói được, không làm
được là giặc của nước.
Mâu Tử lại nói: Mang vàng không để
người thấy, ai biết trong người có ngọc vỹ. Mặc gấm không ra khỏi nhà, ai
biết áo có màu thêu. Ngựa cúi xuống máng mà không ăn thì cả nài lẫn chủ
họp lại. Kẻ sỹ ngậm lời mà không nói, thì đứa ngu người trí không phân.
Tục sỹ ngày nay, trí không chút giỏi, mà muốn không nói ra lời. Không bảo
được một người mà tự cho như nói hay. Những bọn như thế, ngồi mà đắc đạo,
thì như không mắt mà muốn thấy, không tai mà muốn nghe, há không khó ư?
Lại Mâu Tử nói: Nghiêu thờ Doãn
Thọ, Thuấn thờ Vụ Thành, Khưu học Lão Đam, Đán tôn Lữ Vọng. Bốn thầy tuy
là thánh, so với Phật, như hươu trắng sánh với kỳ lân, so về lời dạy thì
như quạ đen sánh với phụng hoàng; so về hình dáng thì như gò đồi sánh với
Hoa Hằng.
Người khác lại hỏi: Bởi các đạo um
tùm gồm 96 thứ, mà vô vi đạm bạc không đạo nào hơn Phật. Thuật thần tiên,
tôi cho là cao, đến Phật pháp cũng không bằng. Mâu Tử đáp: Chỉ nam làm
bắc, tự bảo không lầm. Dẫn đông làm tây, tự bảo không lạc, như chỗ ông nói
là đem cú vọ mà cười phụng hoàng, cầm ếch nhái mà bỡn rùa rồng. Nhưng
người đời có kẻ quay lưng với trời trăng, mà chạy theo đèn đóm, cho ngòi
lạch sâu mà chê sông lớn cạn. Há không lầm ư? Ông quay lưng với Phật pháp
mà đi tôn thần tiên, chính là việc đó.
9. LỊCH ĐẠI PHÁP
BẢO KÝ (ĐTK 2075 tờ 179c9-23)
Phiên âm:
Mâu Tử vân: Tích Hán Hiếu Minh
hoàng đế, dạ mộng kiến thần nhân, thân hữu nhật quang, phi tại điện tiền,
ý trung hân nhiên dã, tâm thậm duyệt chi. Minh nhật truyền vấn quần thần:
Thử vi hà vật? Hữu thông sự xá nhân
Phó Nghị viết: Thần văn Thiên Trúc hữu đức
đạo giả hiệu viết Phật, kinh cử phi đẳng
thân hữu nhật quang, đải tương kỳ thần. Ư thị thượng
ngộ, khiển sứ Trương Khiên, vũ lâm lang
trung Tần(?), bác sỹ đệ tử Vương Tuân, nhất
thập nhị nhân, Đại nguyệt thị
, tả thủ Phật kinh. Tứ thập nhị chương ,
tại Lan Đài thạch thất đệ thập tứ, tức thời Lạc Dương thành Tây Ung môn
ngoại khởi Phật tự, kỳ
bích họa triều đình thiên thừa vạn kỵ,
nhiễu kỵ thập tam tráp. Hựu ư nam cung Thanh Lương đài cập Khai dương môn
thượng, tác Phật hình tượng. Minh đế tại thời, trị mạng vô thường, tiên
tạo thọ lăng. Lăng viết Hiển Tiết, diệc ư kỳ thượng, tác Phật đồ tượng. Ư
vị diệt thời, quốc phong dân ninh, viễn di mộ nghĩa, hàm lai vi đức,
nguyện vi thần thiếp giả, dĩ vi ức số, cố thụy viết Minh dã. Tự thị chi
hậu, kinh thành tả hữu cập châu
huyện, xứ xứ các hữu Phật tự. Học giả do
thứ nhi tư.
Dịch:
Mâu Tử nói: Xưa Hán Hiếu Minh
hoàng đế đêm mộng thấy người thần, mình có ánh sáng mặt trời, bay ở trước
điện, trong lòng mừng rỡ tâm rất vui vẻ. Ngày mai truyền hỏi quần thần:
“Đó là vật gì?”. Có thông sự xá nhân Phó Nghị nói: “Thần nghe Thiên Trúc
có người đức đạo, hiệu gọi là Phật, nhẹ cất bay lượn, mình có ánh sáng mặt
trời. Hẳn đó là vị thần ấy”. Do thế, vua hiểu, sai sứ Trương Khiên, vũ lâm
lang trung Tần (Cảnh), bác sỹ đệ tử Vương Tuân v.v.. mười hai người (đi)
Đại nguyệt chi, chép lại kinh Phật bốn mươi hai chương, để ở nhà đá thứ
mười bốn của Lan Đài. Tức lúc ấy ngoài cửa Tây Ung thành Lạc Dương dựng
chùa Phật, vách vẽ triều đình ngàn xe muôn ngựa cưỡi quanh mười ba vòng.
Lại ở đài Thanh Lương của Nam cung và trên cửa Khai Dương, làm hình tượng
Phật. Khi Minh đế còn, biết mạng vô thường, trước tạo thọ lăng. Lăng gọi
Hiển Tiết cũng ở trên nó làm tượng vẽ Phật. Lúc vua chưa mất, nước giàu
dân yên, mọi xa mộ nghĩa đều đến về đức, nguyện làm tôi mọi, lên tới số
ức, nên thụy là Minh. Từ đó về sau, hai bên kinh thành và các châu huyện,
chỗ chỗ mỗi có chùa Phật. Kẻ học do thế mà thịnh.
10. BẮC SƠN LỤC 3 Pháp
tịch điển thiên
Phiên âm:
Mâu Tử vân: Phật kinh tiền thuyết
ức tải chi sự, khước đạo vạn thế chi yếu. Thái tổ vị triệu, thái tử vị
sinh, càn khôn triệu hưng, kỳ vi bất khả ác. kỳ thiêm bất khả nhập. Phật
tất di luân kỳ quảng đại chi biểu, phẩn chiết kỳ yểu miễn chi nội, mỵ bất
kỷ chi. Cố kỳ kinh quyển dĩ vạn kể, ngôn dĩ ức sổ. Thí như lâm hà âm thủy,
bảo nhi tự túc, yên tri kỳ dư tai!
Dịch:
Mâu Tử nói: Kinh Phật trước nói
việc cả ức năm, sau kể chuyện chính muôn đời. Thái tổ chưa ra, thái tử
chưa sinh, càn khôn nổi lên, nhỏ không thể bắt, bé không thể vào. Phật gồm
bao hết bên ngoài sự lớn rộng của nó, chẻ bẻ bên trong sự nhỏ nhiệm của
nó. Cho nên. kinh Phật quyển lấy vạn mà kể, lời lấy ức mà đếm. Ví như đến
sông uống nước, no thì đủ thôi, chứ đâu lo nước sông còn?
11. THÁI BÌNH NGỰ LÃM
Phiên âm:
Mâu Tử viết: Châu ngọc thiểu nhi
quý, phàm thuộc đa nhi tiện, Thánh nhân thất kinh nhi dĩ. Phật thoại vạn
ức ngôn, khủng phiền nhi vô đáng dã.
Mâu Tử viết: Tích Công Minh Nghi
vị ngưu đàn thanh giốc nhi tháo, phục thực, như cố, chuyển vị văn manh
thanh tắc kiều vĩ nhi niếp điệp.
Mâu Tử viết: Hoặc vấn viết: Phật
kỳ hà nhi sinh? Ninh hữu tiên tổ? Mâu Tử viết: Phật sanh Thiên Trúc, già
hình ương gia. Phụ viết Bạch Tịnh, phu nhân tử viết Tịnh Diệu, tứ nguyệt
bát nhật, Phật tinh tùng thiên lai, phu nhân trú tẩm, mộng kiến tượng lục
gia, hân nhiên duyệt chi, toại cảm nhi dựng, nhàn dĩ bát nhật tùy mãn hữu
hiệp nhi sanh. Thái tử hữu tam thập nhị tướng, bát thập chủng hảo, giáp
như sư tử, bị bất thọ trần thủy, thư túc giai câu tỏa, mao tất hướng
thượng.
Hựu viết: Tử đắc Phật đạo dĩ lai
lương hữu ích phủ. Mâu Tử viết: Ngô tự đắc Phật đạo lai, như khai phù vân,
kiến bạch nhật như chấp hỏa cự nhập nghi thất hỷ.
Dịch
Mâu Tử nói: châu ngọc ít mà quý,
loài thường nhiều mà rẻ. Thánh nhân chỉ có bảy kinh mà thôi. Phật bèn lại
có vạn ức lời, thì e sợ rườm rà không đáng.
Mâu Tử nói: Xưa Công Minh Nghi vì
trâu mà gảy loại nhạc Thanh giốc, trâu vẫn cúi xuống ăn như cũ. Thế mà vì
có tiếng muỗi mòng mà nó lại cất đuôi vọt chạy.
Mâu Tử nói: Hoặc có người hỏi
Phật sanh từ đâu? Há có tiên tổ? Mâu Tử trả lời: Phật sanh Thiên Trúc mượn
hình vương gia. Cha là Bạch Tịnh, mẹ tên Tịnh Diệu, mồng tám tháng tư, hồn
Phật từ nơi trời giúp xuống, phu nhân ngày ngủ mộng thấy voi trắng sáu
ngà, lòng vui hớn hở, bèn cảm lấy mà có thai. Nhân thế vào ngày 8 thái tử
từ hông bên phải của mẹ mà sanh ra, có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, má giống
như sư tử, da không dính nước dơ, tay chân thon thả, lông tóc đều mọc
thẳng.
Lại hỏi: Ông học được đạo Phật từ
đó đến nay có ích gì không?
Mâu Tử trả lời: Tôi từ ngày học
được đạo Phật đến nay thì giống như vén được bức màn che thấy được mặt
trời, như cầm cây đuốc lớn mà vào nhà tối.
12.
QUẢNG VẬN
Phiên âm:
Mâu Tử viết: Hán Minh đế mộng thần
nhân, thân hữu nhật quang, phi tại điện tiền, dĩ vấn quần thần. Phó Nghị
đối viết: “Thiên Trúc hữu Phật, tương kỳ thần giã”.
Dịch:
Mâu Tử nói: Hán Minh đế mơ thấy
người thần, mình có ánh sáng mặt trời, bay tại trước điện, đem hỏi quần
thần. Phó Nghị đáp rằng: “Thiên Trúc có Phật, chắc là vị thần đó!”
13. BẮC SƠN LỤC TÙY HÀM
quyển thượng
Bĩ vấn viết: Chí bảo bất hoa, chí
ngôn bất sức, ngôn ước nhi chí giả lệ, sự quả nhi đạt giả minh, cố châu
ngọc thiểu nhi quí, ngõa thước đa nhi tiện. Thánh nhân chế thất kinh, bất
quá tam vạn dư ngôn, chúng sự bị yên. Kim Phật kinh, quyển dĩ vạn kể, ngôn
dĩ ức sổ, phi dĩ nhân lực sở kham giã, thị phồn nhi bất yếu giã. Mâu Tử
viết: Giang hải dị ư hành lạo giã, dĩ thâm quãng giã. Sơn nhạc biệt ư khưu
lăng giả, dĩ cao đại giã. Nhược cao bất tuyệt khưu phụ, tắc bề dương lăng
kỳ điên. Nhược thâm bất tuyệt nguyên lưu, tắc nhụ tử dục kỳ uyên. Cố kỳ
lân bất xứ uyển hào chi trung, thốn châu chi ngư bất du sổ nhận chi khê.
Phẩu tam thốn bạng, cầu minh nguyệt chi châu, thám chỉ cức chi sào, cầu
phụng hoàng chi sồ, tất nan hoạch giả.
Hữu nhân giả vấn ư Mâu Tử vân: Đạo
gia vân Nghiêu Thuấn Châu Khổng thất thập nhị hiền, giai bất tử nhi đăng
tiên. Tiên (sic) gia ngôn nhân đương tử, mạc năng miễn, hà tai? Mâu Tử
viết: Thử yêu vọng chi ngôn. phi thánh ngôn giã. Lão Tử viết: Thiên địa
bất đắc trường cửu, nhi huống nhân hồ. Ngô quan truyện ký, Nghiêu hữu trở
lạc, Thuấn hữu Thương Ngô chi sơn, Vũ hữu Cối Kê chi lăng, Bá Di hữu Thú
dương chi cơ, Văn vương bất cập tru Trụ. Vũ băng bất đãi Thành vương, Châu
công hữu cải táng chi thiên, Trọng Ni hữu lưỡng doanh chi mộng, Bá Ngư hữu
tiên phụ chi niên, Tử Lộ hữu trư hải chi ngữ, Bá Ngưu hữu mệnh tử chi văn,
Tăng Sâm hữu khải túc chi từ, Nhan Hồi hữu bất tú chi dụ. Thế nhân vân nhi
bất tử, khởi bất hoặc hồ!
Hoặc vấn Mâu Tử trường sinh thần
tiên chi đạo giả, tử viết: Nhân nghĩa bất tu, hiếu để bất lập, hề vi
trường sinh, thậm hỷ, nhân chi vô tử giã, Túng Trọng Ni trị Quảng tang
sơn, nãi nhân tiền hành nhân phụ nghĩa, hiếu để trung tín chi sở cảm giã,
khởi thị Khổng Tử thiêu đan phục chi sở trí hồ?
Dịch:
Kẻ kia hỏi: Ngọc quí thì không hoa
văn, lời hay thì không trang sức. Lời gọn mà hay là đẹp. Việc ít mà xong
là rõ. Cho nên, châu ngọc ít mà quí, ngói gạch nhiều mà hèn. Thánh nhân
viết bảy kinh không quá hơn ba vạn lời, mà mọi việc đều đủ. Nay kinh Phật,
quyển dùng số vạn mà kể, lời dùng số ức mà đếm, chẳng phải lấy sức người
chịu được. Thật rườm rà mà không cốt yếu. Mâu Tử nói: Sông biển khác với
ngòi lạch vì sâu rộng, núi non khác với gò đống vì cao to. Nếu cao không
hơn gò đống thì dê què đạp lên đỉnh nói, nếu sâu không hơn ngòi rãnh thì
trẻ nhỏ tắm trong vũng nó. Cho nên, kỳ lân không ở trong vườn nhà, cá nuốt
được thuyền không bơi trong khe mấy thước. Mổ con trai ba phân, mong được
châu minh nguyệt, mò tổ chim táo gai, mong bắt con phượng hoàng, ắt phải
khó có.
Có người hiền hỏi Mâu Tử: Đạo gia
nói Nghiêu Thuấn Châu Khổng và 72 vị hiền đều không chết mà lên tiên. Nhà
Phật (Nguyên bản viết “tiên”, xin sửa lại - Lê Mạnh Thát) nói người ta đều
chết, không ai thoát được. Sao vậy? Mâu Tử nói: Đó là lời yêu vọng, chẳng
phải là lời thánh hiền. Lão Tử nói: “Trời đất còn không được lâu dài,
huống nữa là con người”. Tôi xem truyện ký, thì Nghiêu có rơi chết, Thuấn
có núi Thương Ngô, Vũ có lăng Cối Kê, Bá Di có nền Thủ Dương, Văn vương
chưa kịp giết trụ, Vũ băng không đợi Thành vương, Châu công có thiên cải
táng, Trọng Ni có mộng hai cột, Bá Ngư có tuổi trước cha. Tử Lộ có lời
thịt thớt, Bá Ngưu có văn mạng chết, Tăng Sâm có dặn mở chân, Nhan Hồi có
ví không hạt. Người đời bảo bất tử, há không lầm ư?
Có người hỏi Mâu Tử đạo trường
sinh thần tiên, ông nói: Nhân nghĩa không làm, hiếu để không giữ, thì làm
sao trường sinh? Quá lắm là chuyện người không chết. Túng sử Trọng Ni trị
núi Quảng Tang, ấy do trước đó ông đã làm nhân, gánh nghĩa, hiếu để trung
tín mà cảm được. Há do Khổng Tử luyện đan phục khí mà tới được ư?
14. TAM GIÁO BÌNH TÂM LUẬN
quyển hạ
(ĐTK 2117 tờ 792c24-29 và
793c14-17)
Phiên âm:
Hán hữu Mâu Tử giả, thường trước
thư biện minh Phật giáo, danh viết Lý hoặc, kỳ thuyết viết: Ngô phi biện
dã, kiến bác cố bất hoặc nhĩ. Ngô vị giải Phật kinh chi thời, tụng ngũ
kinh chi văn, dĩ vi thiên hạ chi lý, tận tại ư thị. Ký đổ Phật kinh chi
thuyết, hồi thị ngũ kinh, do lâm thiên tỉnh nhi khuy khê cốc, đăng Tung
Đại nhi kiến khưu điệt dã.
Hựu viết: Thiếu sở kiến, đa sở
quái, đổ lạc đà, ngôn mã thủng bối.
Mâu Tử viết: Ngô chi sở bào, do
thủ trần ai dĩ phụ Tung Thái, thâu triêu lộ dĩ ích giang hồ. Tử chi sở
báng, do trắc nhất chưởng dĩ ế nhật quang, cử thổ khôi dĩ tắc hà quyết.
Ngô chi sở bào, bất năng sử Phật cao, tử chi sở báng, bất năng lịnh Phật
hạ.
Dịch:
Đời Hán có Mâu Tử thường viết sách
biện minh Phật giáo, tên gọi Lý hoặc. Thuyết ông nói: Tôi chẳng tranh
biện, thấy rộng nên không lầm. Khi tôi chưa hiểu kinh Phật, đọc văn năm
kinh, cho là lý lẽ thiên hạ, đều nằm hết ở đó. Lúc đã thấy lời dạy của
kinh Phật, nhìn lại năm kinh, thì như đến giếng trời mà xem hang khe, lên
Tung Đại mà trông gò đống.
Lại nói: Thấy ít, lạ nhiều. Thấy
lạc đà, bảo ngựa sưng lưng.
Mâu Tử nói: Tôi có khen như lấy
bụi bặm bồi cho Tung Thái, gom sương mai thêm cho sông hồ. Ông có chê thì
nghiêng một bàn tay để che ánh sáng mặt trời, đem một cục đất để lấp sông
vỡ. Tôi có khen không thể khiến Phật cao lên, ông có chê không thể làm cho
Phật thấp xuống.
15. CHIẾT NGHI LUẬN [58]
4 (ĐTK 2118 tờ 812b13-17)
Phiên âm:
Mâu Tử vân: Khát giả bất tất đầu
giang hải nhi ẩm, cơ giả bất tất đãi Ngao thương nhi bảo. Đạo vi trí giả
thiết, biện vi đạt giả thông, thơ vi hiểu giả truyền, sự vi kiến giả minh.
Ngô dĩ tử tri kỳ ý, cố dẫn nhi thân chi. Nhược thuyết Phật kinh dĩ đáp ngô
tử, thí như manh giả diệu ngũ sắc, lung giả tấu ngũ âm dã.
Dịch:
Mâu Tử nói: Người khát không nhất
thiết đến sông biển mới uống. Kẻ đói không nhất thiết đợi kho Ngao mới ăn
no. Đạo này cho người trí. Giải thích cho người hiểu thông. Sách truyền
cho người hiểu. Việc rõ cho người thấy. Tôi nghĩ ông biết ý ấy, nên dẫn mà
giải bày. Nếu nói kinh Phật để đáp ông, thì ví như rọi năm màu cho kẻ đui,
tấu năm âm cho người điếc.
16. BIỆN NGỤY
LỤC 2 (ĐTK 2116 tờ 763a26-27)
Phiên âm:
Hậu Hán Mâu Tử văn*: Nghiêu Thuấn
Châu Khổng Lão Trang chi hóa, tỷ chi ư Phật, do bạch lộc chi kỳ lân.
* Vi Thương Ngô thái thú.
Dịch:
Mâu Tử * đời Hậu Hán nói: Giáo hóa
của Nghiêu Thuấn Châu Khổng Lão Trang so sánh với Phật thì như hươu trắng
so với kỳ lân.
* Nguyên chú: Là thái thú Thương
Ngô.
PHỤ LỤC 2
DẬT VĂN TỪ HUỆ THÔNG VÀ PHẠM
VIỆP
Kể từ ngày Tokiwa Daijo phát hiện
ra Bác di hạ luận của Huệ Thông có những văn cú tương đương với Lý hoặc
luận và kết luận tác giả của Lý hoặc luận không ai khác hơn là Huệ Thông,
những nhà nghiên cứu về sau, đặc biệt Pelliot và Fujui Kojun, đã phê phán
mạnh mẽ quan điểm vừa nêu của Tokiwa. Tuy nhiên, nếu Huệ Thông không phải
là tác giả của Lý hoặc luận, và Bác di hạ luận của ông lại có những văn cú
nhất trí với Lý hoặc luận, thì rõ ràng Huệ Thông phải rút những văn cú
nhất trí ấy chắc chắn từ Lý hoặc luận, chứ không đâu khác.
Đây là một bút pháp phổ biến không
chỉ vào thời Huệ Thông mà còn về trước nữa. Cụ thể là Khương Tăng Hội viết
An ban thủ ý kinh tự. Chỉ một đoạn ngắn: “Dư sinh mạt tung, thỉ năng phụ
tân, khảo tỷ trở lạc, tam sư điêu táng, ngưỡng chiêm vân nhật, bi vô chất
thọ, quyện ngôn cố chi, san nhiên xuất thế”, ta đã tìm thấy gần một nửa là
rút từ các sách khác, tức tám câu bốn chữ, thì 3 câu rút từ Lễ ký và Kinh
thi
. Đó là “năng phụ tân” của Lễ ký chính
nghĩa 5 tờ 9a11 và “quyện ngôn cố chi, san nhiên xuất thế” từ bài thơ Đại
đông của Mao thi chính nghĩa 13/1 tờ 4b3.
Vấn đề do thế là cần trích lại hết
những văn cú nhất trí vừa nói trong Bác Di hạ luận, để làm nguồn tư liệu
hiện biết về Mâu Tử vào thế kỷ thứ V, ngoài Minh Phật luận của Tôn Bính và
Hậu Hán thư của Phạm Việp (398-445). Công tác này trước đây chưa được một
nhà nghiên cứu nào quan tâm. Bản Bác di hạ luận chúng tôi dùng cũng nằm
trong Hoằng Minh tập 7 ĐTK 2102 tờ 45b26-47a8.
BÁC DI HẠ LUẬN
1. Tờ 45c26-27: Thiên Trúc, thiên
địa chi trung, Phật giáo sở xuất giả dã.
2. Tờ 45c29-46a2: Thí do trì biều,
dục giảm giang hải, trắc chưỡng dĩ tệ nhật nguyệt, bất năng tổn giang hải
chi tuyền, yếm nhật nguyệt chi minh dã.
3. Tờ 46a17-20: Tích Công Minh
Nghi vi ngưu đàn Thanh giốc chi tháo, phục thực như cố, phi ngưu bất văn,
bất hiệp kỳ nhĩ dã. Chuyển vi văn manh cô độc chi thanh, ư thị phấn nhĩ
trạo vỹ, điệp tiệp nhi thính chi. Kim ngô tử sở văn giả, cái văn manh chi
âm dã.
4. Tờ 46b7-10: Thí nhược khinh vũ
tại cao, ngộ phong tắc phi tế thạch tại cốc, phùng lưu tắc chuyển, Duy
Thái sơn bất vi phiên phong sở động bàn thạch bất vi tật lưu sở hồi. Thị
dĩ mai lý kiến sương nhi lạc điệp, tùng bá tuế hàn chi bất điêu, tín hĩ.
5. Tờ 46b12-13: Nhược phù Nhan
Hồi kiến Đông dã Tất chi ngự trắc kỳ tương bại. Tử Cống quan Trâu Lỗ chi
phong, thẩm kỳ tất vong.
6. Tờ 46b23-24: Ngạn viết: Chỉ nam
vi bắc, tự vị bất hoặc, chỉ tây vi đông, tự vị bất mông.
LÝ HOẶC LUẬN
Điều 1 tờ 1c25-26: Sở dĩ sinh
Thiên Trúc giả, thiên địa chi trung, sử kỳ trung hòa dả.
Điều 28 tờ 5c29-6a1: Do ác biều cô
dục giảm giang hải, điệp canh lỗi dục tổn Côn lôn, trắc nhất chưỡng dĩ ế
nhật quang.
Điều 26 tờ 5c7-10: Công Minh Nghi
vi ngưu đàn Thanh giốc chi tháo, phục thực như cố, phi ngưu bất văn, bất
hiệp kỳ nhĩ hĩ. Chuyển vi văn manh chi thanh, cô độc chi minh, tức trạo vỹ
phấn nhĩ, điệp tiệp nhi thính thơ lý tử nhĩ.
Điều 35 tờ 6c11-14: Khinh vũ tại
cao, ngộ phong tắc phi, tế thạch tại khê, đắc lưu tắc chuyển. Duy Thái sơn
bất vi phiêu phong động, bàn thạch bất vi tật lưu di. Mai lý ngộ sương nhi
lạc diệp, duy tùng bá chi nan điêu hĩ.
Điều 34 tờ 6c4-6: Nhan Uyên thừa
tứ chi nhật, kiến Đông dã Tất chi ngự, tri kỳ tương bại.
Tử Cống quan Trâu Lỗ chi hội,
chiếu kỳ sở dĩ táng.
Điều 36 tờ 6c20-21: Mâu Tử viết:
Chỉ nam vi bắc, tự vị bất hoặc, chỉ tây vi đông, tự vị bất mông.
7. Tờ 46b25-26: Bộc văn Lão thị
hữu, ngũ vị chi giới, nhi vô tuyệt cốc chi huấn hĩ.
8. Tờ 46b26-27: Thị dĩ thiền nga
bất thực, quân tử thùy trọng, oa mãng huyệt tàng thánh nhân hà quí.
9. Tờ 46b28-c2: Cố Thuấn hữu
Thương Ngô chi phần, Vũ hữu Cối Kê chi lăng, Châu công hữu cải táng chi
thiên, Trọng Ni hữu lưỡng doanh chi mộng, Tăng Sâm hữu khải túc chi từ,
Nhan Hồi hữu bất hạnh chi thán.
10. Tờ 462-5: Tích giả hữu nhân vị
kiến kỳ lân, vấn thường kiến giả viết: “Lân hà loại hồi” Đáp vân:“Lân như
lân dã!” Vấn giả viết: “Nhược thường kiến lân tắc bất vấn dã, nhi vân lân
như lân, hà da?” Đáp vân: “Lân quẩn thân, ngưu vỹ, lộc đề, mã bối”. Vấn
giả nải hiểu nhiên nhi ngộ.
Điều 30 tờ 6a15-16: Ngô quan Lão
thị thượng hạ chi thiên, văn kỳ cấm ngũ vị chi giới, vị đổ kỳ tuyệt ngũ
cốc chi ngữ.
Điều 36 tờ 6c22-23: Thiền chi bất
thực, quân tử bất quí, oa mãng huyệt tàng thánh nhân bất trọng.
Điều 37 tờ 7a4-10: Thuấn hữu
Thương Ngô chi sơn, Vũ hữu Cối Kê chi lăng (...),Châu công hữu cải táng
chi thiên, Trọng Ni hữu lưỡng doanh chi mộng (...) Tăng Sâm hữu khải túc
chi từ, Nhan Uyên hữu bất hạnh đoản mạng chi ký...
Điều 18 tờ 4b19-22: “Tích nhân vị
kiến lân, vấn thường kiến giả lân hà loại hồ? Kiến giả viết: “Lân như lân
dã”. Vấn giả viết: “Nhược ngô thường kiến lân, tắc bất vấn tử hĩ, nhi vân
lân như lân, ninh khả giải tai”. Kiến giả viết: “Lân quẩn thân, ngưu vỹ,
lộc đề, mãbối”. Vấn giả hoắc giải
Vậy có mười đoạn văn cú nhất trí
giữa Bác di hạ luận và Lý hoặc luận, tối thiểu khi ta căn cứ vào truyền
bản Lý hoặc luận của Hoằng Minh tập. Bởi vì có khả năng có những câu khác
nữa, nhưng vì truyền bản Lý hoặc luận của Hoằng Minh tập ngày nay không
có, nên ta không thể nhận dạng được. Dẫu thế, qua 10 trích dẫn trên, rõ
ràng Huệ Thông chịu ảnh hưởng của Mâu Tử khá đậm nét. Đặc biệt quan điểm
coi Thiên Trúc, quê hương đức Phật, là trung tâm của trời đất.
Điểm lôi cuốn là qua những trích
dẫn, mà không cần ghi tên người như trên, chứng tỏ Huệ Thông đã đọc Lý
hoặc luận khá lâu trước khi viết Bác Di hạ luận. Lâu đủ thời gian cho văn
phong và tư tưởng của Mâu Tử ngấm sâu vào thịt xương của Huệ Thông để đến
khi Thông viết Bác Di hạ luận, văn phong và tư tưởng đó trở thành một bộ
phận của văn phong và tư tưởng của Thông. Sự tình này cho phép ta giả
thiết Huệ Thông đã đọc Lý hoặc luận trước khi Lục Trừng đưa Lý hoặc luận
vào Pháp luận của mình, nghĩa là trước những năm 465.
Thực tế, trước những năm 465 này,
Phạm Việp (398-445) khi viết về nước Thiên Trúc trong Hậu Hán thư 118 tờ
10a9-12, đã kể lại giấc mộng Người vàng của Hán Minh đế và bảo là do “thế
truyền” (đời truyền lại). Điều mà Việp gọi là thế truyền này, chắc chắn đã
đến từ Lý hoặc luận, bởi vì hai mươi năm sau, lúc viết Pháp luận, Lục
Trừng (429-4) đã xác nhận Mâu Tử là người đầu tiên chép về truyền thuyết
giấc mộng ấy. Cho nên để làm tài liệu tham khảo, chúng tôi cũng cho trích
ra đây cùng với trích văn từ Hậu Hán thư của Pháp Lâm trong Phá tà luận
quyển thượng ĐTK 2109 tờ 479a1-6, mà chúng tôi đã cho dẫn trước:
“Thế truyền Minh đế mộng kiến kim
nhân trưởng đại, đỉnh hữu quang minh, dĩ vấn quần thần. Hoặc viết: Tây
phương hữu thần danh viết Phật. Kỳ hình trường trượng lục xích nhi hoàng
kim sắc. Đế ư thị khiển sứ Thiên Trúc, vấn Phật đạo Pháp, toại ư Trung
Quốc đồ họa hình tượng yên”.
(Đời truyền Minh đế mơ thấy người
vàng to lớn đỉnh đầu có ánh sáng, đem hỏi quần thần. Có người nói: “Tây
phương có thần tên gọi là Phật, thân cao trượng sáu thước, mà có sắc hoàng
kim”. Vua do thế sai sứ đi Thiên Trúc, hỏi đạo Pháp của Phật. Bèn ở Trung
Quốc vẽ ra hình tượng.)
Những dật văn từ Huệ Thông và Phạm
Việp, chúng tôi cho in riêng ra, vì chúng đã không được trích đích danh
Mâu Tử. Tuy thế, do có khả năng chúng đã được rút ra từ Mâu Tử, nên chúng
tôi xin ghi lại để làm tài liệu tham khảo.
Dật văn của Lý hoặc luận có cả
thảy 15 tác giả và 16 nguồn, đó là: 1. Thế thuyết tân ngữ, 2. Tử sao
của Dữu Trọng Dung, 3. Ngọc chúc bảo điển của Đỗ Đài Khanh, 4. Phá tà
luận của Pháp Lâm, 5. Biện chính luận của Pháp Lâm, 6. Tập cổ kim Phật
đạo luận hành và Quảng Hoằng Minh tập của Đạo Tuyên, 7. Văn tuyển chú
của Lý Thiện, 8. Chỉ quán phụ hành truyền hoằng quyết của Trạm Nhiên.
9. Lịch đại pháp bảo ký. 10. Bắc sơn lục của Thần Thanh, 11, Thái bình
ngự lãm của Lý Phưởng, 12, Quảng vận của Trần Bành Niên, 13. Bắc sơn
lục tùy hàm của Đức Khuê, 14. Tam giáo bình tâm luận của Lưu Mật, 15.
Chiết nghi luận của Tử Thành và 16. Biện ngụy lục của Tường Mại.
Chu Thúc Ca, Mâu Tử tòng tân,
Bắc Bình: II - II Xã tòng thư1.
Dư Gia Tích, Mâu Tử Lý hoặc
luận kiểm thảo, trong Dư Gia Tích luận học cận trước I, Bắc Kinh:
Trung Hoa thư cục, 1963 tr. 109-132.
Chiết nghi luận có nhiều đoạn
văn cú thống nhất với Mâu Tử Lý hoặc luận. Nhưng đoạn vừa trích có lẽ
vì quá dài nên Tử Thành lại dẫn tên Mâu Tử. Điểm lôi cuốn là ở quyển 5
tờ 816c22-25, Tử Thành lại cho dẫn Mâu Tử và viết: “Mâu Tử nói: Thanh
tịnh pháp hạnh kinh nói: Người nước Chấn Đán khó dạy, nên trước sai ba
thánh đến giáo hóa, Bồ tát Đại Ca Diếp gọi là Lão Tử, Bồ tát Tịnh
Quang Đồng Tử gọi là Trọng Ni, Bồ tát Nho Đồng gọi là Nhan Hồi”. Rồi
chua ở dưới: “Văn xuất từ Phá tà luận (...) quyển thượng”. Kiểm Phá tà
luận quyển thượng ĐTK 2109 tờ 478c7 và 9-11 có ghi: “Tử thơ Mâu Tử 2
quyển thạnh luận Phật pháp (...) Thanh tịnh pháp hạnh kinh nói: Phật
sai ba đệ tử đến Chấn Đán giáo hóa. Bồ tát Nho Đồng, kia gọi Khổng
Khâu, Bồ tát Quang Tịnh kia gọi Nhan Hồi, Ma Ha Ca Diếp kia gọi Lão
Tử”. Thì rõ ràng Mâu Tử không dính líu gì đến chuyện kinh Thanh tịnh
pháp hạnh cả về việc ba đệ tử Phật thành Khổng Tử, Nhan Hồi và Lão Tử.
Tuy nhiên, vì Bác di hạ luận của Huệ Thông trong Hoằng Minh tập 7 ĐTK
2102 tờ 45c9-10 có nhắc đến ba đệ tử ấy với câu: “Cho nên kinh nói:
Ma Ha Ca Diếp, kia gọi Lão Tử, Quang Tịnh Đồng Tử, kia tên Trọng Ni”.
và Bác di hạ luận lại có nhiều đoạn văn cú đồng nhất với Mâu Tử, như
Tokiwa Daijo đã nhận ra, cụ thể là những đoạn ở tờ 46a17-20, 46b7-10,
46b11- 12 và 46b23-c6, nên có khả năng Mâu Tử ít nhiều dính líu chăng?
Lê Mạnh Thát, Khương Tăng Hội
toàn tập I. Saigon: Tu thư Đại học Vạn Hạnh, 1975.
---o0o---
[Mục Lục tập 1]
[Xem phần tiếp theo]
---o0o---
[ Tập I ] [
Tập II ] [ Tập III ]
---o0o---
| Thư Mục
Tác Giả |
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật : 01-01-2003