TỔNG TẬP
VĂN
HỌC PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Lê Mạnh
Thát
---o0o---
Tập III
=================
Mục
Lục
LỜI NÓI ĐẦU
Tổng tập Văn học Phật giáo Việt
Nam 3 dành trọn quyển cho việc in lại tác phẩm Thiền uyển tập anh cùng
phần nghiên cứu, bản dịch và chú thích của chúng tôi, mà trước đây đã từng
được xuất bản. Việc dành tập 3 cho Thiền uyển tập anh này tất nhiên không
đáp ứng hoàn toàn tiêu chí sắp xếp do chúng tôi đã đề ra trong Tổng tập 1,
đó là “sắp xếp các tác phẩm Văn học Phật giáo Việt Nam theo niên đại ra
đời của các tác gia, tác phẩm từ khi Phật giáo truyền vào nươc ta cho đến
thế kỷ XX”.
Lý do nằm ở chỗ Thiền uyển tập anh
ra đời sớm lắm thì cũng từ năm 1337, tức là sau các tác giả như Trần Thái
Tông, Tuệ Trung, Trần Nhân Tông v.v… rất nhiều, mà phần lớn thuộc vào thế
kỷ thứ XIII. Thêm vào đó, nếu chấp nhận giả thiết của chúng tôi về tác giả
Thiền uyển tập anh là thiền sư Kim Sơn, thì niên đại càng muộn màng hơn
nữa, vì Kim Sơn phải sống cho tới lúc vua Trần Minh Tông mất vào năm
1357.
Tuy thế, vì Thiền uyển tập anh là
một tác phẩm tập hợp các tư liệu liên hệ với giai đoạn Phật giáo từ khi
Sáu lá thư ra đời cho đến lúc vua Trần Thái Tông lên ngôi. Cho nên, về một
mặt nào đó, ta có thể coi Thiền uyển tập anh như một đại biểu cho văn học
Phật giáo Việt Nam của giai đoạn ấy. Đó là nguyên do tại sao chúng tôi đã
đưa Thiền uyển tập anh vào Tổng tập 3 này.
Trong lần in lại đây, chúng tôi
cho bổ sung một số dữ kiện mới phát hiện được. Thứ nhất, về người đứng in
bản in 1715 là thiền sư Như Trí, chúng tôi đã thu thập được một số thông
tin về vị thiền sư này cùng những người đệ tử của ông, mà trước đây chưa
có. Đó là Tiêu Sơn Thiên Tâm tự cúng tổ khoa, trong ấy ta tìm thấy thiền
sư Như Trí được kể ra như một vị trú trì của chùa Thiên Tâm tại Tiêu Sơn.
Tên của thiền sư Như Trí này cũng
được kết liên với thiền sư Như Trúc (1691-1735) và được coi là thầy của
Như Trúc. Tiểu sử của Như Trúc khắc trên tháp Tâm Hoa tại chùa Bút Tháp ở
thôn Bút Tháp xã Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh cho biết Như Trúc là đệ tử của
Như Trí của chùa Thiên Tâm ở Tiêu Sơn. Sau khi Như Trí tịch, ông đã đến
chùa Đông Sơn, 5 năm sau lại đến Long Động, rồi về trụ trì chùa Bút Tháp
13 năm thì mất.
Thế có nghĩa Như Trí mất lúc in
Thiền uyển tập anh xong không lâu, bởi vì Như Trúc chỉ sống được 45 tuổi
ta và thời điểm ông bắt đầu đến chùa Đông Sơn khoảng vào năm 1717, nếu
tính thời gian ông ở Đông Sơn và Bút Tháp cọng lại khoảng 18 năm, trừ năm
ông mất là 1735. Vậy, Như Trí có thể mất vào năm 1717.
Thứ hai, từ việc phát hiện Như Trí
từng làm trú trì tại chùa Thiên Tâm tại Tiêu Sơn, ta mới biết thêm thông
tin về bản đáy, mà An Thiền đã dùng để in lại Thiền uyển tập anh trong thế
kỷ thứ XIX, đặc biệt khi An Thiền ghi chú trong bản in mình là đã dựa vào
“Tiêu Sơn cựu bản”. Như thế, Tiêu Sơn cựu bản chính là bản gỗ cũ chùa Tiêu
Sơn. Và đã là bản gỗ cũ chùa Tiêu Sơn thì rõ ràng phải do Như Trí đứng in,
vì Như Trí đã từng là trụ trì của chùa Tiêu Sơn này. Do đó, ta không còn
nghi ngờ gì về nguồn gốc bản đáy của bản in đời Nguyễn và bản gỗ cũ chùa
Tiêu Sơn chỉ bản nào.
Thứ ba, đồng thời với việc phát
hiện một số thông tin liên hệ đến nhân thân và niên đại của Như Trí, qua
việc nghiên cứu Hương Hải thiền sư ngữ lục cùng với một số văn bia liên
hệ, ta biết thêm những đệ tử của Như Trí đã tham gia vào việc đứng in bản
in năm 1715 như Tính Nhu và Tính Phụng là thuộc dòng thiền của Minh Châu
Hương Hải. Từ đó, dù Như Trí không thấy được ghi vào trong Hương Hải thiền
sư ngữ lục, ta vẫn có thể chắc chắn Như Trí thuộc dòng thiền này.
Thứ tư, về những dữ kiện chứng tỏ
Thiền uyển tập anh là một tác phẩm đời Trần, chúng tôi đưa thêm sự kiện
chống quân xâm lược Tống của vua Lê Đại Hành mà cả Thiền uyển tập anh lẫn
Đại Việt sử lược đều ghi nhận là xảy ra vào năm Thiên Phúc thứ nhất (981),
chứ không phải vào năm Thiên Phúc thứ hai như Đại Việt sử ký toàn thư 1 tờ
14a1 đã ghi.
Trên đây là một số những bổ sung
mới cho bản in lại Thiền uyển tập anh lần này. Ngoài ra, chúng tôi cũng
cho sửa chữa lại những thiếu sót và sai lầm in ấn do những lần in trước
gây ra, mà chưa khắc phục được. Cụ thể là truyện Từ Đạo Hạnh trong lần in
năm 1999 đã in sót cả một đoạn nguyên chú liên hệ với Đạo Hạnh trong Quốc
sử. Từ việc in sót này, dẫn tới sự in thiếu các chú thích số (22) và (23)
có trong phần chú thích. Không những in sót và thiếu, các bản in trước còn
có in sai. Chẳng hạn, thế hệ thứ 12 của dòng thiền Pháp Vân thì bị in sai
thành thế hệ thứ 7. Những sai sót vừa nói, hy vọng lần in này sẽ được khắc
phục một phần nào.
Vạn Hạnh
Tiết hạ nguyên năm Tân Tỵ
(2001)
Lê Mạnh Thát
Tựa
Bộ sách Nghiên cứu về Thiền uyển
tập anh đây là bản in lại của lần in thứ nhất năm 1976, biết dưới tên
Thiền uyển tập anh, nhưng thường được trích dẫn bằng nhan đề như ta có
trong lần tái bản này. Về cơ bản, nó không có gì thay đổi lớn so với lần
in trước. Điều ấy có nghĩa nó vẫn có phần nghiên cứu về Thiền uyển tập
anh, phần dịch và phần chú thích. Tuy nhiên, do gần một phần tư thế kỷ đã
trôi qua, có một số tiến bộ về mặt nghiên cứu cũng như in ấn, nên trong
lần in này có một số bổ sung mới.
Thứ nhất, về phần Văn bản học, nhờ
có điều kiện nghiên cứu kỹ hơn và tiếp cận một số tư liệu mới, chúng tôi
đã tái dựng được quá trình phát triển truyền bản của Thiền uyển tập anh từ
đời Trần, Hồ, Lê sơ, cho đến Lê trung hưng, đời Nguyễn và ngày nay.
Thứ hai, do việc sở hữu được cả
hai bản đời Lê I và Lê II, tức bản in 1715 và bản in khoảng 1750, chúng
tôi đã phân biệt được hai bản in này là hai bản khác nhau, mà trước đây
Trần Văn Giáp chỉ mô tả qua loa và không liệt ra được những sai biệt giữa
chúng trong Le Bouddhisme en Annam dès origines jusqu’au 13è siècle
và khi viết Tìm hiểu kho sách Hán Nôm II
thì cũng nói đại lược. Còn E. Gaspardone
trong Bibliographie Annamite
, cũng chỉ sở hữu được bản Lê II, tức bản
mang ký hiệu số A.2767, nên căn cứ trên nó mà đưa ra những nhận xét hồ đồ
về giá trị văn bản của bản Lê I do Trần Văn Giáp phát hiện ở Hải Phòng vào
năm 1927, nhưng hình như bảy năm sau đã thất lạc nên Gaspardone đã không
có cơ hội tham khảo.
Thứ ba, về bản đời Lê I, tức bản
in 1715, đã thất lạc từ thời Gaspardone, mà ngày nay thư viện Hán Nôm cũng
không thể tìm ra được bản khác như Di sản Hán Nôm Việt Nam III
đã ghi nhận. Do thế, chúng tôi cho in lại
bản Lê I này để làm tài liệu cho những nghiên cứu về sau.
Thứ tư, về bản chép tay A.2767,
trong lần xuất bản trước, chúng tôi không đề cập tới do việc cho rằng
những bản in đời Lê và đời Nguyễn hiện đã được bảo tồn, nên bản chép tay
này không có giá trị nhiều. Tuy nhiên, sau hơn hai mươi năm vì dựa vào nó,
những lần in thạch của Ban Tu thư Viện đại học Vạn Hạnh ấn loát và phát
hành rộng rãi, gây nhiều lầm lạc cho những người nghiên cứu nghiêm túc ở
trong cũng như ngoài nước. Cho nên trong lần in này chúng tôi có mô tả sơ
bản chép tay ấy và chỉ ra những khuyết tật của nó, đồng thời cũng đưa nó
vào bản hiệu đối.
Thứ năm, về vấn đề tác giả, trước
đây chúng tôi đề nghị thiền sư Kim Sơn có thể là người chấp bút viết ra
Thiền uyển tập anh, nhưng không chỉ ra được hướng để tìm hiểu thêm về lai
lịch cũng như cuộc đời của ông. Trong lần tái bản này, do tìm hiểu các văn
bia đời Mạc, chúng tôi có một số dẫn chứng để suy được thiền sư Kim Sơn có
thể đã sống tại tháp Kim Sơn trên núi Nguyệt Áng, tức núi Chè, ở vùng Hải
Dương. Thiền sư Kim Sơn không những chỉ viết Thiền uyển tập anh, mà có khả
năng đã viết Thánh đăng ngữ lục và Cổ châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục,
nếu khi ta tiến hành so sánh cấu trúc ngữ vựng và cú pháp của ba tác phẩm
này với nhau.
Thứ sáu, chúng tôi đánh số thứ tự
liên tục các thiền sư có trong bản Thiền uyển tập anh này nhằm tiện cho
việc tra cứu các chú thích liên hệ đến họ. Đồng thời ghi luôn niên đại
(tính theo Dương lịch) sau khi đã điều chỉnh và hiệu đính văn bản.
Thứ bảy, lần in này chúng tôi có
tăng cường thêm phần phụ lục về trích văn từ các truyền bản đời Trần, đời
Hồ và đời Lê. Trích văn bản đời Hồ vẫn giống như trong bản in cũ, và lấy
từ An nam chí nguyên cùng hiệu đối với các bản đời Lê và đời Nguyễn. Riêng
trong bản đời Trần và đời Lê sơ thì do truyền bản của Lĩnh nam chích quái
quá phức tạp, chúng tôi sử dụng bản in mới nhất do Trần Khánh Hạo chủ
trương, Viễn đông học viện của Pháp xuất bản và do Học sinh thư cục của
Đài Loan ấân hành năm 1992. Điều đáng tiếc là bản in Lĩnh nam chích quái
này có quá nhiều thiếu sót trong phần hiệu kham. Tuy nhiên, cho đến lúc
này nó vẫn là bản tương đối phổ biến và đầy đủ nhất trong các bản in về
Lĩnh nam chích quái ra đời từ trước cho tới nay, nên chúng tôi vẫn sử
dụng.
Như vậy, bản in lần này so với bản
in năm 1976 có triển khai một số dữ kiện mới, để củng cố thêm cho những
kết luận đã đề ra lần trước. Hy vọng rằng nếu có những phát hiện thêm,
chúng tôi sẽ cho bổ túc và điều chỉnh trong những lần tái bản sau.
Vạn Hạnh
Mùa Vu Lan 2543
Lê Mạnh Thát
Trần Văn Giáp, Le Bouddhisme en Annam dès origines jusqu’au Xllle
siècle, BEFEO XXXII (1932) 191-286.
Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm II, Hà Nội: NXB Khoa học xã
hội, 1990, tr. 217.
E. Gaspardone, Bibliographie Annamite, BEFEO XXXIV (1934) 1-173.
Viện nghiên cứu Hán Nôm, Di sản Hán Nôm Việt Nam, Hà Nội: NXB Khoa học
xã hội, 1993, tr. 242-243.
---o0o---
[Mục Lục tập 3]
[Xem phần tiếp theo]
---o0o---
[ Tập I ] [
Tập II ] [ Tập III ]
---o0o---
| Thư Mục
Tác Giả |
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật : 01-01-2003