VIỆT NAM PHẬT GIÁO SỬ
LUẬN
Nguyễn Lang
---o0o---
TẬP III
CHƯƠNG XXXI
XÂY DỰNG LẠI CÁC CƠ SỞ HÀNH ĐẠO
Mặt trận kháng chiến
Sài Gòn rồi Hà Nội và Huế tan vỡ; tang tóc gieo trên quê hương càng lúc
càng nhiều. Một số tăng sĩ và cư sĩ làm việc trong kháng chiến rút theo về
các căn cứ chiến khu. Những tăng sĩ và cư sĩ khác tại các địa phương tản
cư cũng cùng với đồng bào từ từ hồi cư tìm về nơi trú cũ.
Nhiều nơi nhà cửa tan
hoang và chùa chiền đổ nát. Quân đội viễn chinh Pháp lập đồn lũy khắp nơi.
Đó là vào khỏang cuối 1947. Chùa chiền được quét dọn, mở cửa. Những lễ cầu
siêu và cầu an được tổ chức. Tâm hồn nặng trĩu đau thương và tang tóc,
Phật tử đổ xô về chùa để tìm nguồn an ủi. Đau thương càng nhiều thì đức
tin tôn giáo càng mạnh. Biến chuyển càng nhiều thì giáo lý vô thường càng
được nhìn nhận rõ ràng. Phật giáo thời gian ấy là Phật giáo của niềm an ủi
vỗ về, là giọt nước cam lộ từ bi trên nhành dương liễu.
Tuy đã bắt đầu tổ
chức guồng máy kiểm soát trong các thành phố nhưng thực dân và những người
tay sai vẫn không có cách gì ngăn cản được sự liên hệ giữa quần chúng hồi
cư và những căn cứ kháng chiến. Bề ngoài ai nấy đều có vẻ sống yên lặng,
nhưng ý thức về cuộc kháng chiến thì rất tỏ rõ. Tại các chùa, nơi phòng
khách, người ta thường đọc một bản yết thị nhỏ dán trên tường: “Đây là
thiền môn, không nên luận bàn về chính trị”. Những yết thị đó, ai cũng
biết là chỉ để dành cho những người do thám cho guồng máy thực dân. Những
tăng ni trẻ tuổi ở các chùa vẫn có liên lạc với các đồng liêu của họ trong
vùng kháng chiến và nhiều vị vẫn lén về khu kháng chiến một cách đều đặn.
Chính trong thời gian này mà nhiều tăng ni bị bắt giam hoặc bị sát hại. Ít
có chùa nào ở những vùng núi non và thôn quê mà không có liên lạc để giúp
đỡ công cuộc kháng chiến.
Những tổ chức Phật
giáo cứu quốc được tiếp tục duy trì. Trụ sở của các tổ chức này có nơi đặt
tại vùng kháng chiến, có nơi đặt tại vùng hồi cư. Tỉnh nào cũng duy trì
một Ủy ban Phật Giáo Cứu Quốc. Không những chỉ có các tăng sĩ trẻ đứng ra
đảm nhiệm công cuộc này mà những vị tôn túc nhiều khi cũng đã chịu đứng ra
làm chủ tịch các ủy ban để các tăng sĩ trẻ tuổi dựa vào mà làm việc. Thiền
sư Huệ Quang, một trong những cây cột chống của hội Lưỡng Xuyên Phật học,
đã đứng ra làm chủ tịch Ủy Ban Phật Giáo Cứu Quốc tỉnh Trà Vinh, đồng thời
cũng là ủy viên xã hội của Ủy Ban Hành Chính tỉnh bộ Trà Vinh. Hồi ấy ông
đã gần 60 tuổi. Thiền sư Pháp Dõng đứng ra làm chủ tịch Ủy Ban Phật Giáo
Cứu Quốc tỉnh Gia Định. Thiền sư Pháp Tràng là chủ tích Ủy Ban Phật Giáo
Cứu Quốc tỉnh Mỹ Tho. Thiền sư Pháp Long là chủ tịch Ủy Ban Phật Giáo Cứu
Quốc tỉnh Vĩnh Long. Chùa Ô Môi ở xã Mỹ Quý trong chiến khu Đồng Tháp Mười
là trụ sở của hội Phật Giáo Cứu Quốc Nam Bộ.
Tham dự vào ban chấp
hành có các thiền sư Minh Nguyệt, Huệ Phương, Viên Minh và Không Không. Tờ
Tinh Tấn, nguyệt san của tổ chức có khi được phổ biến về tận Sài
Gòn. Tại Liên Khu V, nơi cư sĩ Lê Đình Thám làm chủ tịch Ủy Ban Hành Chánh
Miền Nam Trung Bộ, tăng sĩ và cư sĩ hoạt động mạnh mẽ trong Ủy Ban Phật
Giáo Cứu Quốc ở trung ương cũng như tại các tỉnh hệ thuộc. Các tăng sĩ trẻ
như Tâm Hoàn, Kế Châu, Huyền Quang v.v… được sự cộng tác đắc lực của một
số đoàn viên đoàn Phật Học Đức Dục cũ như Nguyễn Hữu Quán, đã gây được
những sắc thái đặc biệt cho hoạt động của tổ chức Phật giáo trong liên
khu.
Tại khu cực miền Bắc
Trung Phần gồm Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh, sự có mặt của thiền sư Mật
Thể đại biểu Quốc Hội và của những vị khác như Giác Phong, Trí Độ v.v… dã
tạo được ít nhiều sinh lực.
Tại các chiến khu
miền Bắc, tăng sĩ và cư sĩ tham dự đắc lực vào việc xây dựng vùng giải
phóng, sản xuất kinh tế, chăm nom giáo dục và nuôi nấng thiếu nhi. Cư sĩ
Thiều Chửu và hơn năm mươi em cô nhi của chùa Quán Sứ đã định cư luôn trên
vùng giải phóng. Thiền sư Thế Long, trụ trì chùa Cổ Lễ ở Nam Định là người
tiêu biểu nhất cho giới tăng sĩ tham dự cách mạng. Ông đã hoạt động hết
lòng tại các vùng kháng chiến và đã kêu gọi thanh niên tăng tạm thời ngừng
việc tu học để góp phần vào cách mạng. Gần ba mươi thanh niên tăng kể cả
các vị sư trú tại chùa Cổ Lễ đã nghe theo lời gọi của ông đi vào vùng
kháng chiến.
Phần lớn, tăng sĩ ở
các khu vực giải phóng đều làm việc lao động khai phá đất đai, trồng mía,
trỉa bắp, liên lạc, tiếp tế hoặc những công tác xã hội và giáo dục khác.
Tại các vùng hồi cư,
điều kiện đã có đủ cho sự tạo dựng lại cơ sở. Khắp nơi tăng sĩ và cư sĩ
tìm về với nhau để tổ chức lại sự tu học. Một số Phật học đường được mở
cửa và các tổ chức tăng già và cư sĩ được tái lập. Công việc Phật sự tiến
hành rất mau chóng bởi vì quần chúng Phật tử đi chùa và tham dự Phật sự
rất đông đảo.
Tại Trung Phần, thiền
sư Trí Thủ vận động mở cửa lại Phật học đường Báo Quốc vào năm 1947. Hội
Việt Nam Phật Học, hậu thân của hội An Nam Phật Học cũng được thành lập
vào tháng Sáu năm 1948 đặt trụ sở tại số 1B đường Nguyễn Hoàng, Huế. Cư sĩ
Chơn An Lê Văn Định đứng làm hội trưởng. Hội bắt đầu liên lạc và tái lập
các tỉnh hội và chi hội ở miền Trung.
Các huynh trưởng Gia
Đình Phật Hóa Phổ cũng quy tụ thanh thiếu niên Phật tử lại và đoàn ngũ hóa
tổ chức. Chỉ trong vòng một năm thôi, hội Việt Nam Phật Học đã thiết lập
được cơ sở hành đạo vững vàng tại miền Trung.
Tổ chức “Sơn Môn Tăng
Già” cũng được thành lập tại chùa Thừa Thiên và dần dần tại các tỉnh.
Thiền sư Tịnh Khiết được suy tôn làm Tùng Lâm Pháp Chủ của Sơn Môn Tăng
Già Trung Việt. Vào năm 1947, trụ sở của Sơn Môn Tăng Già Trung Việt đặt
tại chùa Linh Quang Huế.
Về phương diện báo
chí, một tạp chí Phật học được xuất bản, lấy tên là Giác Ngộ, do
một số thanh niên tăng sĩ và cư sĩ chủ trương, trong đó có Võ Đình Cường,
Cao Khả Chính, Trương Tú, Trịnh Tiên, Phạm Đăng Trí và Trúc Diệp v.v… Sau
đó, tờ Viên Âm được tục bản với sự chăm sóc của thiền sư Trí Quang,
làm cơ quan ngôn luận chính thức của hội Việt Nam Phật Học.
Tại Bắc Phần, một số
tăng sĩ triệu tập đại hội chư tăng tại chùa Quán Sứ vào ngày 20.8.1949 để
thành lập hội Tăng Ni Chính Lý Bắc Việt và bầu thiền sư Tố Liên làm hội
trưởng. Một Phật học đường cho tăng sinh do thiền sư Tuệ Tạng đứng làm đốc
giáo được khai giảng tại chùa Quán Sứ vào tháng Chính 1949 và một Phật học
đường cho ni sinh cũng được khai giảng tại chùa Vân Hồ cũng vào tháng Chín
1949. Đến ngày 9.9.1950, đại hội “Tăng Ni Chỉnh lý” họp tại chùa Quán Sứ
và danh xưng được đổi lại là “ Phật Giáo Tăng Già Bắc Việt”. Tháng Tư năm
1951, thiền sư Mật Ứng được suy tôn làm Thiền gia pháp chủ. Bán nguyệt san
Phương Tiện được xuất bản, do thiền sư Tố Liên đảm nhiệm với sự
cộng tác của các thiền sư Trí Hải, Vĩnh Trường, Quảng Hằng và Ngọc Bảo.
Đồng thời hội Việt
Nam Phật Giáo cũng được thành lập tại chùa Quán Sứ, với cư sĩ Bùi
Thiện Cơ làm hội trưởng. Một hội khác tên là hội Phật Tử Việt Nam
được thành lập tại chùa Chân Tiên.
Tại Nam Phần, các
thiền sư Trí Tịnh và Quảng Minh thành lập Phật học đường Liên Hải tại Chợ
Lớn vào năm 1946. tiếp đến, thiền sư Huyền Dung mở Phật học đường Mai Sơn.
Phật học đường này sau được dời về chùa Sùng Đức Chợ lớn. Năm 1949, thiền
sư Trí Hữu thành lập Phật học đường Ứng Quang, cũng ở Chợ Lớn. Tại Trà
Vinh, thiền sư Thiện Hoa cũng mở cửa lại Phật học đường Trà Vinh, thiền sư
Thiện Hoa cũng mở cửa lại Phật học đường Trà Vinh từ 1946 và thu nhận học
tăng mới.
Năm 1950, các thiền
sư Trí Hữu, Thiện Hòa, Nhật Liên, Huyền Dung, Trí Tịnh và Quảng minh họp
tại chùa Ứng Quang và quyết định thống nhất các Phật học đường Liên Hải,
Mai Sơn và Ứng Quang lại. Kết quả là Phật học đường Nam Việt được thành
lập tại chùa Ứng Quang. Thuận theo ý thiền sư Nhật Liên, chư tăng đồng ý
đổi danh xưng Ứng Quang thành Ấn Quang,
Năm 1953, Phật học
đường Phật Quang cũng gia nhập Phật học đường Nam Việt và thiền sư Thiện
Hoa được mời về chùa Ấn Quang để cộng tác.
Trong những vị cư sĩ
ủng hộ việc thành lập Phật học đường Nam Việt, có vị tên là Mai Thọ
Truyền, pháp danh là Chánh Trí. Thấy các miền Trung và miền Bắc đã có cơ
sở tu học vững chãi cho người cư sĩ, ông Mai Thọ Truyền vận động với các
thân hữu để thành lập hội Phật Học Nam Việt. Hội này ra đời ngày 25.2.1951
tại Sài Gòn, đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng ở Hòa Hưng, và sau đó ít lâu
dời về chùa Phước Hòa ở Bàn Cờ. Hội trưởng niên khóa đầu tiên là cư sĩ
Nguyễn Văn Khỏe, một cư sĩ từng hoạt động đắc lực cho hội Lưỡng Xuyên Phật
Học. Sau nhiều năm hoạt động, hội Phật Học Nam Việt dựng chùa Xá Lợi để
làm trụ sở.
Ngày 5.6.1951 một
cuộc đại hội của chư tăng tại chùa Hưng Long đã đi đến sự thành lập
Giáo Hội Tăng Già Nam Việt, trụ sở đặt tại chùa Ấn Quang. Thiền sư Đạt
Từ làm trị sự trưởng của Giáo Hội và thiền sư Nhất Liên đảm nhận trách vụ
tổng thư ký. Thiền sư Đạt Thanh (chùa Giác Ngộ) được suy tôn làm pháp chủ
lâm thời. Đại hội ngày 8.3.1953 của Giáo Hội Tăng Già Nam Việt bầu thiền
sư Thiện Hòa làm trị sự trưởng và suy tôn thiền sư Huệ Quang làm pháp chủ.
Như vậy là Bắc Trung
Nam đã có đủ các tập đoàn tăng sĩ và cư sĩ. Ba tập đoàn tăng sĩ và ba tập
đoàn cư sĩ này năm 1951 đã họp hội đồng tại Huế và thành lập một tổ chức
Phật giáo thống nhất lấy tên là Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam.
Đứng về phương diện
hình thức, các tổ chức Phật giáo nói trên đều tuyên bố là không mang màu
sắc chính trị, nghĩa là tránh không đả động tới vấn đề thời cuộc. Điều này
có tính cách dễ hiểu, bởi vì những tổ chức này được thiết lập và hoạt động
trong những vùng “quốc gia”, những vùng được cai trị và bảo vệ bởi một
“chính quyền quốc gia” với sự kiểm soát của quân đội thực dân Pháp. Tuyên
bố công khai rằng họ chống thực dân và chính quyền bù nhìn do thực dân đặt
ra, đó là việc những tổ chức Phật giáo ấy không thể làm được, bởi vì nếu
làm như thế thì bị đóng cửa và đàn áp ngay từ buổi đầu. Điều họ có thể làm
được, do đó, là tuyên bố tính cách phi chính trị của họ và như vậy
có thể từ chối những áp lực của thực dân và các chính quyền tay sai biến
mình thành những yếu tố chống kháng chiến. Tuy nhiên, thực hiện được điều
này cũng là một công trình vất vả. Áp lực của chính quyền thường xuyên đè
nặng trên họ, và khi chống lại áp lực này, họ trở thành những tổ chức
không được chính quyền tin cậy. Trái lại, họ còn bị nghi ngờ, nhất là khi
một số tu sĩ và cư sĩ trong các tổ chức Phật giáo bị bắt vì lý do hoạt
động bí mật cho kháng chiến. Lợi dụng những tổ chức này vào mục tiêu chính
trị không được, chính quyền bèn xoay sang nâng đỡ những thành phần tăng sĩ
và cư sĩ “thân hữu” để giúp họ thành lập những tổ chức Phật giáo có tính
cách thân chính. Do đó, những tổ chức như Phật Giáo Thuyền Lữ (ở
Trung) và Phật Giáo Cổ Sơn Môn (ở Nam) ra đời. Tuy vậy, những tổ
chức này không hữu hiệu và không lớn mạnh được
Đứng về phương diện
nội dung, các tổ chức Phật giáo nói trên, ít nhất là trong giai đoạn
1948-1950, đều có khuynh hướng thân kháng chiến. Khuynh hướng này được
trông rõ rệt trong giới trẻ tuổi của các tập đoàn Phật giáo, tăng sĩ cũng
như cư sĩ. Từ 1949, tổ chức Gia Đình Phật Hóa Phổ đã được thành lập và
phát triển mạnh ở miền Bắc rồi và đạo Phật ở Việt Nam hòi đó không còn là
đạo của riêng những người lớn tuổi nữa. Chùa chiền ở thành thị (và ở cả
thôn quê nữa) đều thấp thoáng bóng người trẻ tuổi và vang vang tiếng hát
của họ. Nhiều phần tử tăng sĩ và cư sĩ trẻ tuổi bí mật tham dự kháng chiến
và bí mật liên lạc với bạn bè của họ trong vùng kháng chiến. Họ đồng nhất
“chính nghĩa độc lập” với đạo Phật và họ gọi con đường tranh đấu cho độc
lập quốc gia của những người kháng chiến là “chính đạo”. Hãy nghe một
thanh niên Phật tử ở Hà Nội cầu nguyện trong đêm giao thừa Canh dần, đem
16 thángHai năm 1950:
“Đêm giao thừa Canh dần! Giờ phút thiêng liên này đã đánh dấu một năm khói
lửa mịt mù trên giang sơn nước Việt, một năm chiến tranh tàn khốc từ Bắc
chí Nam, từ Đông sang Tây, trên bán đảo chữ S, một năm đầy dẫy những giết
chóc, đấnp, thiêu hủy, gây nên biết bao nỗi đau thương tang tóc!… nhưng
cũng là là một năm mà dân tộc Việt Nam đã trưởng thành, một năm mà dân tộc
Việt Nam đã hy sinh xương máu để dành Độc Lập, Tự Do cho Tổ Quốc. Biết bao
nhiêu chiên sĩ và nạn nhân chiến tranh đã bỏ mình nơi chiến địa! Biết bao
cơ nghiệp bị phá hủy! Sự hy sinh của cả một dân tộc thật là vô bờ bến.
“Trong giờ phút thiêng liêng của lễ giao thừa, tất cả hàng Phật tử lên
khóa lễ tụng kinh niệm Phật để tâm hồn được yên tĩnh mà tưởng niệm đến
những người thân yêu, giờ này đang còn tranh đấu, còn đang chịu cực khổ
lầm than ở khắp nơi từ thành thị thôn quê đến tận bên giời góc bể, để
tưởng niệm đến những bà con họ hàng thân thích đã bao thu biệt vô âm tín,
hiện nay còn sống hay đã ngã quỵ trước mũi tên hòn đạn nơi sa trường!
“Ngoài trời tối đen
như mực, gió bấc vi vút từng cơn, hật mưa xuân lạnh buốt càng gợi cho ta
nhớ đến các bà con, anh em, chú bác, cô dì, con cháu thân yêu của chúng ta
giờ đây ở những nơi xa xăm mù mịt,đang lo lắng làm tròn phận sự của một đệ
tử Phật chân chính đang nổ lực hoạt động cho hòa bình chóng trở lại với
giang sơn đất nước…
“Chiến tranh tàn sát
sẽ chấm dứt!
“Chính nghĩa, chính
đạo phải được tôn trọng!
“Xa xa tiếng chuông
chùa vọng trong không trung như nhắn nhủ các hàng đệ tử Phật hãy kiểm điểm
mình, kiểm điểm công việc mình làm trong năm vừa qua và hãy nương ánh hào
quang chư Phật soi sáng cho con đường “chính đạo” để sang năm mới, cá bạn
mạnh dạn tiến bước, tăng trưởng đạo tâm và cương quyết giữ vững tinh thần”.
Trong một tạp chí
xuất bản ở thành thị mà viết được như thế, tưởng cũng là rõ rệt và can
đảm. Chúng ta hãy để ý đến danh từ hòa bình dùng trong bài. Danh từ
này còn có nghĩa là “độc lập”.
Cũng như trong một ý
niệm về “hòa bình” tương tự, một Phật tử ở Sài Gòn viết vào tháng Tám năm
1950 đề nghị một chương trình tám điểm, hai điểm đầu như sau:
“Điều thứ nhất: gấp
gấp ngừng chiến tranh. Nên tôn kính chủ quyền của dân tộc. Phải giải phóng
các dân tộc thuộc địa, lập thành quốc gia mà chủng tộc của họ tự chủ lấy.
Không được tham dự vào việc chính trị tự chủ của các quốc gia…”
“Điều thứ hai: Quân
đội viễn chinh phải trở về bổn quốc, không được đình trú trên địa phận một
quốc gia nào. Các giới tư nhân trung lập như thương gia, kỹ nghệ gia v.v…
phải có điều kiện thỏa thuận mưói có thể lưu trú được.
Tính cách “phi chính
trị” có vẻ hình thức của các tập đoàn Phật giáo hồi đó, thực ra, chỉ là
một hình thức tự vệ. Giới Phật tử tuổi trẻ, bằng hành động và phát biểu
của họ, đã nói được khuynh hướng thân kháng chiến của các tổ chức trên.
Nhưng không phải tất
cả mọi người trong các tổ chức Phật giáo đều có hoạt động và tư tưởng thân
kháng chiến. Rất đông những người tới chùa hồi đó là những người đã từng
chịu đựng tai ách chiến tranh: thân nhân của họ từng bị sát hại hoặc tù
đày hoặc mất tích, cơ nghiệp của họ từng bị tan tành vì bom đạn. Họ đến
chùa để tìm sự an tĩnh cho tâm hồn, để được an ủi, để được chở che.
Nữ sĩ Tâm Tấn viết
năm 1949 tại chùa Báo Quốc trong dịp lễ Vu Lan:
A Di Đà Phật, mõ
rền chuông nổi
Tôi đắm chìm trong
thế giới trầm hương
Bỗng nghe vang lời
cầu nguyện bi thương
Chợt tỉnh, lặng
ngắm nhìn tín đồ nam nữ:
Đây là vợ khóc
chồng đày xa xứ
Đây là chồng khóc
vợ tử biệt ly
Cha có con khổ
bệnh đến quy y
Cảnh oàn oại trong
vòng vô lượng khổ
Trí vang ngân lời
kinh siêu độ
Từng nhịp lòng
nhân ái gửi theo chuông
Trong phút giây,
tôi sống giữa hai đường
Phật bất diệt và
trần gian tiêu diệt…”
Có những người đến
chùa để vừa tìm nguồn an ủi, vừa để cầu nguyện cho người thân đã mất hoặc
đang chiến đấu gian khổ ở xa xôi. Những có những người đã quá đau khổ vì
chiến tranh chỉ muốn đến chùa để được an ủi, và không muốn nghe chuyện
chiến tranh và chính trị ở chốn thiền môn dù tình cảm của họ vẫn thiên về
bên kháng chiến. Cũng có người nhất quyết bảo vệ tính cáh “phi chính trị”
của tổ chức Phật giáo: họ chống chuyện làm chính trị trong tổ chức Phật
giáo dù trong thâm tâm, họ không có ác cảm gì với kháng chiến.
Trong số những người
này, ta nhận diện được một số người có mặt trong guồng máy quản trị của
các hội Phật giáo: họ chống lại bất cứ hành động nào có thể gây nguy hại
đến tổ chức họ về phương diện pháp lý, và cố nhiên là họ không đi đôi với
giới thiên tả. Những người này thường thường là những cư sĩ có đôi chút
địa vị trong xã hội. Họ có được thể xem là “cánh hữu” của các tổ chức Phật
giáo. Những thành phần này có thể là những Phật tử thành thực và có đức
tin nơi đạo Phật; tuy nhiên điều ấy đã không ngắn cấm được họ sử dụng địa
vị của họ trong đoàn thể Phật giáo để củng cố địa vị của họ trong xã hội.
Tính chất bảo thủ của họ đã làm trì trệ bước tiến của Phật giáo không phải
là ít.
Trong khoảng thời
gian từ 1945 đến 1950, giới Phật tử yêu nước không tìm thấy con đường nào
có thể phục vụ được cho nền độc lập quốc gia ngoài con đường tham dự vào
cuộc kháng chiến bạo động. Nhưng trong quá trình tham dự này, họ dần dần
nhận thức được những điều sau đây:
1- Các đảng phái đối
lập buổi đầu trong phong trào về sau thanh toán nhau không nương tay.
2- Phật tử bị bắt
buộc phải chọn lựa giữa những đảng phái này và bị lôi cuốn vào guồng máy.
3- Trong các khu giải
phóng, Phật tử không có điều kiện tổ chức sinh hoạt tôn giáo của mình.
4- Tuy mệnh lệnh
chính thức của chính quyền cách mạng là tôn trọng tự do tín ngưỡng, nhưng
khuynh hướng hạn chế về Phật giáo đó đây vẫn còn bộc lộ.
5- Ám sát, đặt mìn,
cầm súng không thích hợp với tinh thần bất bạo động của Phật tử.
Những nhận đình này
bắt đầu chín muồi vào khoảng cuối năm 1950. khi các tổ chức Phật giáo Bắc,
Nam, Trung đã trở thành những lực lượng xã hội đáng kể và đã bắt đầu gây
ảnh hưởng trực tiếp với thời cuộc. Ý niệm đi tìm một con đường tranh đấu
thích hợp với tinh thần Phật giáo được hình thành trong mọi tổ chức Phật
giáo thời đó, và đã thúc đẩy sáu tập đoàn Phật giáo đi tứoi sự triệu tập
đại hội vào năm 1951 để thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam. Bản
Tuyên Ngôn của Tổng Hội công bố ngày Phật Đản năm 1951 tại Huế đã nói lên
được ý nguyện này:
Hỡi toàn thể Phật tử
Việt Nam! Chúng ta hãy san phẳng những hình thức sai biệt, cùng chung sức
chung lòng để làm tròn sứ mạng kiến tạo hòa bình, gây mầm an lạc, và nêu
cao ngọn đuốc trí tuệ của đức Thế Tôn.
Con đường mới tuy đã
tìm thấy, nhưng chưa phải là một con đường thênh thang. Những Phật tử còn
chiến đấu trong hàng ngũ kháng chiến vẫn kiên trì trên con đường gian khổ
của họ. Tại các vùng “quốc gia” kiểm soát, Phật tử nỗ lực củng cố và phát
triển tổ chức mình. Ý niệm “đạo pháp gắn liền dân tộc” được hình thành và
hoài vọng của một cuộc tranh đấu bất bạo động cho hòa bình và cho chủ
quyền dân tộc được khơi mở. Sự thống nhất của Phật giáo Việt Nam năm 1951
đã làm phát sinh một niềm tin mới.
Những chương sau đây
sẽ nói về những hoạt động chấn hưng và phát triển của các tập đoàn Phật
giáo từ 1948 trở đi.
---o0o---
[ Mục
Lục tập III]
[Chương XXVI ] [Chương XXVII ] [Chương XXVIII ]
[Chương XXIX ] [Chương XXX ] [Chương XXXI]
[Chương XXXII ] [Chương XXXIII ] [Chương XXXIV ]
[Chương XXXV ] [Chương XXXVI ] [Chương XXXVII ]
[Chương XXXVIII ] [Chương XXXIX ] [Chương
XXXX ]
---o0o---
[ Mục Lục ][ Tập I ]
[
Tập II ] [ Tập III ]
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Vi Tính:
Nguyên Trang
Cập
nhật: 01-11-2004