Đại Đế Asoka
Hộ Giác
---o0o---
Phó Vương Xuất Gia
Nhờ túc duyên
thực hành Ba la mật, nhờ ánh sáng chánh pháp soi đường, nhờ chịu ảnh hưởng
đạo tâm thuần cố của mẫu hậu và hoàng huynh, nhờ pháp thoại Tôn giả
Sangharakkhita khai thị, phó vương hạ quyết tâm từ bỏ đời sống hoàng
triều tự nguyện sống cuộc đời vô gia đình độc cư tu tịnh.
Đem vấn đề
thoát ly triều cung để sống cuộc đời xuất gia tấu trình và xin hoàng huynh
chuẩn tấu. Nghe người em duy nhất phát tâm xuất gia, Đức vua Asoka
không cầm được nước mắt. Vừa nhìn em sửng sốt vừa nghẹn ngào nói thật
nhỏ, thật êm đủ hai người nghe:
Hoàng đệ thân
thương, đệ đã suy nghĩ thật kỹ chưa?
Muôn tâu, đệ
đã suy nghĩ thật chín chắn, và xuyên suốt rồi.
Nhìn đứa em
huyết thống cùng mồ côi cha, Asoka nhẹ nhàng nhưng cương quyết:
Hoàng đệ thân
mến, phụ hoàng đã về chầu tiên đế, giờ chỉ còn mẫu hậu và hai huynh đệ
chúng ta, hoàng đệ dù muốn dù không, trong tương lai không lâu nữa cũng
phải nối ngôi thay huynh trị vì thiên hạ, làm cho nước thêm mạnh, dân thêm
giàu và sanh con nối dõi triều đại Moriya. Vả lại, đệ là hoàng tử,
từ nhỏ đã quen nếp sống cao sang quyền quý, nhất cử nhất động đều có người
phục dịch chu đáo. Thực phẩm thì sớm chiều hải vị sơn hào, nằm ngồi lầu
ngọc sang ngà, hoàng phục thì nhung lụa gấm hoa sắc màu rực rỡ, cơ ngơi
thì đặc biệt thích hợp cho ba mùa, mỹ nữ thì túc trực vũ ca, cung nghinh
khiêu gợi, sẵn sàng thỏa mãn yêu cầu. Còn đời sống tu hành thì hoàn toàn
trái ngược, nhất là thường xuyên tiếp cận với đủ tầng lớp giai cấp. Huynh
không bao giờ có ý nghĩ kỳ thị. Nhưng chỉ sợ đệ không quen, thậm chí có
những vị xuất thân từ giai cấp Thủ đà la. Huynh không nghĩ là đệ có thể
chịu đựng một cuộc sống hoàn toàn dị biệt như vậy.
Tâu hoàng
huynh, đệ có tiên liệu những sự kiện thực tế trái nghịch này. Nhưng, đệ
có suy nghĩ lượng định qua phương pháp Tỷ giảo. Chẳng hạn như: đệ biết rõ
đức Bổn sư là quốc vương giai cấp Sát đế lỵ, số đông đệ tử Ngài cũng thuộc
giai cấp như Ngài. Nhưng sau khi xuất gia sống chung với những vị Tỳ kheo
xuất thân từ những giai cấp khác, các Ngài cũng sống hòa hài an nhiên tự
tại trong giáo đoàn mà khuôn thước pháp luật của Ngài chính là kim chỉ nam
vô cùng an lạc có khả năng thuyết phục. Đối với đệ nếu đem so sánh với
Đức Phật và chư vị đệ tử quý tộc xuất gia của Ngài thì đệ tự tin là mình
làm được.
Biết rõ sự
quyết tâm bất chuyển của đứa em, Asoka vô cùng hoan hỉ gạn hỏi:
Hoàng đệ đã
tấu trình mẫu hậu chưa?
Tâu hoàng
huynh, đệ định sau khi được hoàng huynh chấp thuận, đệ sẽ tấu xin ý chỉ
mẫu hậu.
Bái kiến mẫu
hậu, Vitasoka trình bày tâm nguyện xuất gia và xin mẫu hậu chuẩn
tấu. Nghe Vitasoka quyết chí từ bỏ gia đình sống cuộc đời vô gia
đình với mục đích thăng hoa phẩm hạnh tự tu, tự độ, tự giác và giác tha
trong đạo tràng của Đức Phật. Mẫu hậu Vedisa không cầm được nước
mắt vì tâm trạng quá vui mừng phấn khởi. Ôm đứa con út thân yêu vào lòng,
với tất cả rung cảm thiết tha, mẫu hậu nói:
Con yêu quý
của mẹ, con có biết sự quyết tâm xuất gia, sống hạnh ly trần của con là
món quà vĩ đại trân quý nhất mà con đã hiến tặng mẹ. Hoàng huynh con là
Đại đế thống trị tiểu lục địa Bharata bằng vương đạo; còn con, nếu
thành tựu cứu cánh đời sống phạm hạnh và dấn thân vân du hóa đạo, khai thị
lê dân bá tánh phát tâm quy ngưỡng chánh pháp thì mẹ nghĩ, trên thế gian
này không nữ nhân nào có phước lớn như mẹ, ngoại trừ Phật mẫu và những nữ
nhân thân quyến của Đức Phật. Đạo lộ con chọn hành trình tuy nhiều chướng
duyên, lắm thử thách nhưng có khả năng hướng thiện, hướng thượng đời sống
tâm linh lên tuyệt đỉnh giác ngộ, một thành tựu quảng đại, huyền nhiệm mà
tự thân và tha nhân được thừa hưởng bình đẳng. Liên tưởng cuộc hành trình
đúng đạo lộ chánh pháp của con mà mẹ đây sung sướng ngập lòng, cảm tưởng
như chết đi được sống lại. Một chuyển hướng quá lớn trong triều đình
khiến mẫu hậu vô cùng phấn khích.
Để khích lệ
lý tưởng thoát tục mong cầu đạo bồ đề của đứa con út sớm mồ côi cha, mẫu
hậu khuyến tấn:
Con ạ, Phật,
Pháp, Tăng là ba ngôi báu quý nhất trần gian: Phật là bậc đạo sư chỉ lối
tựu điểm tịnh lạc. Pháp là phương pháp thực hành viên mãn thành tựu cảnh
giới tịnh lạc ấy. Tăng là những thiện hữu mô phạm tự thân và hướng dẫn
mọi người hành hóa chánh pháp. Do đó, Tam Bảo có khả năng tác thành hạnh
phúc và giải khổ ngay trong hiện kiếp và hậu kiếp. Đối tượng phục vụ có
ba tiêu chuẩn:
-
Chánh tín
-
Nhất hướng thanh tịnh hóa
thân, miệng, ý.
-
Tích cực hành trì chánh pháp.
Hành giả
không thể thiếu bất cứ tiêu chuẩn nào, nhất là điều một và đều ba. Hơn
nữa, mục đích xuất gia của con là thoát ly phiền não, an tịnh tâm hồn.
Đức Phật dạy: Không lạc phúc nào bằng sự an tịnh. Ngài cũng đề cập
những lạc phúc trần gian, như: dục lạc và thiền lạc.
Dục lạc
thì sự thụ hưởng khoái cảm quá ít, trong khi đau khổ quá nhiều và chính
hiểm họa của dục càng nhiều hơn. Giống như người khát nước càng uống nước
mặn thì càng thêm khát.
Thiền
lạc thì tác thành phỉ lạc giúp hành giả sống cuộc sống thân tâm vô
cùng an lạc tế tịnh nhưng tương đối giai đoạn không vĩnh hằng. Duy
tịnh lạc tức niết bàn lạc mới tuyệt đối vô lượng lạ. Nói tuyệt
đối tịnh lạc ám chỉ sự bất thối, bất chuyển, bất dị, bất đọa, bất luân
hoán, bất nghị, bất ngôn thuyết. Mẹ vô cùng hoan hỉ, tin tưởng, phấn
khởi, mãn nguyện có một đứa con biết chọn cho mình một cuộc sống nhiêu ích
tự thân và tha nhân, hạng người cao quý nhất trong bốn hạng người, tức
người sinh ra chuyên làm lợi người. Mẹ nghĩ, chỉ riêng triều đại
Moriya sẽ được xưng tán và truyền tụng vạn đại chính nhờ hoàng huynh
con và con đặc trưng tiêu biểu.
Phó vương
Vitasoka được Tôn giả Dhammarakkita tổ chức giới đàn cho thọ
đại giới Tỳ kheo tại Asokarama (A dục tự). Sau khi xuất gia, Tỳ
kheo Vitasoka xin phép thầy tế độ hành thiền ở Videha. Một
thời gian tương đối lâu, thầy Vitasoka mới trở về vấn an mẫu hậu và
hoàng huynh. Mỗi lần về kinh đô Pataliputra, thầy Vitasoka
đều có giảng pháp cho hoàng huynh và hoàng thân quốc thích, khuyến hóa mọi
người lánh xa điều ác, tu tập hạnh lành, thanh tịnh tâm ý, tức bao gồm cả
pháp môn tu tập, pháp môn dứt bỏ và pháp môn thanh lọc nội tâm. Trên
đường trở về chùa Asokarama Đức vua Asoka tự thân chắp tay
đi bộ tiễn đưa thầy đến chùa, đảnh lễ rồi mới hồi cung.
Dự luận quần
chúng vô cùng náo nhiệt, vang dội khắp cả nước. Họ bảo nhau, quả phước Sa
môn thật là phi thường, kỳ lạ, chưa từng thấy. Một vị Đại đế đi bộ chắp
tay tiễn đưa một vị Sa môn mà vị ấy chính là em ruột của mình. Thật quý
hóa thay là hạnh xuất gia ly dục, cao thượng thay là hạnh từ bỏ gia đình,
sống không gia đình, đúng là đời sống phạm hạnh khác xa đời sống thế tục
không thể nghĩ bàn. Đạo hạnh Đại đế Asoka khiến quần chúng phát
tâm quy ngưỡng chánh pháp đông đảo trên sức tưởng tượng, tạo thành phong
trào thịnh hưng chánh pháp có một không hai trong lịch sử phục hưng đạo
Phật kể từ sau ngày Đức Phật thị nhập vô dư niết bàn, Phật lịch 2218 năm.
Đã có nhiều
lần, nơi hoàng cung huy hoàng, tráng lệ của triều đại Moriya, Đại
đế Asoka tự phát hiện thân phận mình như con chim bị nhốt trong
lồng son nhỏ bé, còn em mình, Đại đức Vitasoka như cánh đại bàng
giữa bầu trời cao rộng, vượt thoát thiên lao, vui thú hải hồ. Bản thân
Đại đức Vitasoka nhờ tích cực công phu hành đạo, không bao lâu đã
chứng quả vị thánh Tăng A la hán. Chính sự thành tựu vĩ đại trong
đời sống phạm hạnh, Tôn giả Vitasoka càng tích tực hơn trong công
trình hoằng dương chánh pháp, sách tấn hậu lai, tạo kỳ công trong việc
chấn hưng chánh pháp, một thành tích đến hôm nay vẫn chưa phai mờ trong
trang sử đạo Phật
Danh Tăng Thời Đại Đế Asoka
Tôn giả Moggaliputtatissathera
Tôn giả sinh
ra trong một gia đình giai cấp Bà la môn, kinh đô Hoa thị (Pataliputra)
Trung Ấn. Thiếu thời Tôn giả nổi tiếng thông minh mẫn tuệ, làu thông Tam
phệ đà, nghĩa văn vô ngại. Song thân Tôn giả vô cùng hãnh diện và mãn
nguyện. Kỳ duyên dun rủi, một hôm, công tử Moggaliputtatissa được
bái kiến và đàm đạo với tôn giả Siggava trong dịp Ngài viếng thăm
song thân công tử. Trong phần đàm đạo, công tử nêu nhiều chuyên đề liên
quan Tam phệ đà về cả hai mặt nghĩa và văn vô cùng uyên áo, thâm viễn.
Vấn đề được
ghi nhận là Tôn giả thảo luận rốt ráo tận uyên nguyên nguồn cội, khiến
công tử đi từ ngạc nhiên đến kính phục. Nhất là sau khi Tôn giả
Siggava nêu những chi pháp trong bộ pháp tụ. Bộ thứ nhất của bảy bộ
A tì đàm để thảo luận thì công tử thực sự bái phục và quyết tâm
theo Tôn giả học đạo. Lẽ đương nhiên song thân công tử vô cùng hoan hỉ
tùy thuận vì ông bà vốn rất kính trọng và tin tưởng Tôn giả.
Công tử được
Tôn giả truyền trao Sa di giới. Xuất gia xong, Sa di tinh tấn hành thiền
và chứng quả dự lưu tức Tu đà hườn quả. Tôn giả Siggava gởi gắm Sa
di Moggaliputtatissa cho y chỉ với trưởng lão Candavajji và
được trưởng lão tổ chức giới đàn cho Sa di thọ đại giới Tỳ kheo lúc hai
mươi tuổi. Nhờ tích cực công phu hành đạo, thầy Moggaliputtatissa
chứng thánh quả A la hán. Chính Tôn giả là Hoà thượng tế độ A xà
lê cho Thái tử Mahinda và công chúa Sanghamitta thọ Đại giới
Tỳ kheo, Tỳ kheo ni và cũng chính Ngài chủ tọa đại hội kết tập Tam tạng
thánh điển lần thứ ba.
Tôn Giả Upagupta
Tôn giả thuộc
giai cấp phệ xá (doanh thuơng) là thứ nam trong một gia đình chuyên bán
hương liệu gần kinh đô Mathura, nằm ven bờ sông Yamuna.
Gia đình này
rất trong sạch và tin tưởng Tôn giả Sanavasi còn có tên là
Sanasambhuta. Vợ chồng này có hứa với Tôn giả là nếu sinh trai sẽ cho
cháu xuất gia. Nhưng khi đã sinh trai thì vợ chồng viện cớ là để cháu
tiếp tay quản lý tài sản gia đình. Sinh đứa con thứ hai thì vợ chồng lại
viện cớ để cháu lo công tác đối ngọai như giao hàng, cất hàng, thu tiền,
đòi nợ và yêu cầu Tôn giả chịu khó chờ đứa thứ ba. Nhưng rồi không lâu,
vợ phú thuơng sinh đứa thứ ba. Đứa con này vô cùng khôi ngô tuấn tú. Vợ
chồng lại làm ngơ. Cậu út được cha mẹ giao trọng trách trông nom một cửa
hàng rất lớn ở trong thị trấn. Từ ngày cậu út nhận trách nhiệm và trực
tiếp điều hành thì công ăn việc làm vô cùng thịnh phát nhất là hàng hóa
bán chạy như tôm tươi.
Một hôm, qua
thiên nhãn thuần tịnh, Tôn giả Sanavasi nhận thấy duyên lành thánh
đạo cậu út đã đến, bèn ghé cửa hàng khai thị. Pháp thoại hôm ấy tuy ngắn,
nhưng vừa đủ để cậu út phát khởi tín tâm muốn được xuất gia. Sau cuộc gặp
gỡ này, Tôn giả chính thức nhắc lại lời hứa lúc trước của ông bà. Ở thế
chẳng đặng đừng, ông bà đành phải ưng thuận. Cậu được Tôn giả Sanavasi
tổ chức giới đàn cho thọ đại giới Tỳ kheo. Xuất gia không lâu, nhờ tích
cực công phu thiền định, thầy Upagupta chứng quả A la hán,
trở thành một trong những vị thánh tăng nổi tiếng lúc bấy giờ. Có khoảng
18,000 Tăng sinh tu học dưới sự giáo thọ của Ngài. Cơ sở giáo dục của
Ngài đặt tại ngôi đại tự Bhattikarama tọa lạc trên một ngọn đồi tên
Uramanda.
Đại đế
Asoka nghe Ngài là bậc thánh Tăng đạo cao đức trọng, bát thông Tam
tạng. Đại đế quyết tâm tự thân đến tận nơi bái thỉnh. Nhưng Tôn giả biết
trước và Ngài hạ sơn hướng về kinh đô Hoa thị (Pataliputra) bằng
đường thủy. Được tin này, Đại đế vô cùng hoan hỉ và đã khởi hành đường bộ
bằng chân đất suốt đoạn đường hai do tuần và tổ chức lễ cung thỉnh thật
trọng thể.
Thời gian sau
không lâu, chính Tôn giả hướng dẫn Đại đế đi chiêm bái những thánh địa và
thuyết minh thật đầy đủ.
Tôn giả Vitasoka Hoặc
Gọi Tissathera
Ngoài Tôn giả
Moggaliputta và Tôn giả Upagupta còn một Tôn giả nữa là ngài
Vitasoka còn gọi là Tissathera tức hoàng đệ của Đại đế
Asoka mà diễn tiến sự kiện đã được tường thuật đầy đủ nơi chương Hoàng
ngự đệ Vitasoka.
Trọng điểm
được đề cập nơi đây là sau khi trở thành Thánh Tăng, Tôn giả tích cực
hoằng dương chánh pháp chẳng những khuyến hóa giới hoàng tộc triều thần,
văn quan, võ tướng và các hàng binh sĩ, luôn cả gia đình họ quy ngưỡng
chánh pháp, và hơn nữa còn chịu khó chu du khắp mọi miền từ thành thị đến
thôn quê nhất là các vùng biên địa để hướng dẫn họ bỏ tà quy chánh, lánh
dữ làm lành.
Tôn giả đã
thành công rất lớn về phương diện trì đạo và truyền đạo. Sở dĩ Tôn giả có
được sự thành công rực rỡ là nhờ đời sống giới hạnh tinh nghiêm, thánh
phong cao viễn, đạo cách thuần từ, đức tu tịnh khiết.
Tôn Giả Mahindathera
Bộ đại tông (Mahavamsa)
có đề cập nhân duyên xuất gia của Hoàng tử Mahinda và Công chúa
Sanghamitta là do Hoàng đế Asoka phụ hoàng của nhị vị gợi ý.
Một hôm, trong cuộc đàm đạo với Tôn giả Moggaliputtatissa, Đại đế
có bạch hỏi:
Với những
công đức tương đối không nhỏ, không ít mà mình đã cống hiến cho giáo pháp
có được khép vào hàng thân quyến chánh pháp hay không?
Tôn giả cho
biết chỉ được danh xưng là đại hộ pháp. Ngoại trừ, cho con nam hoặc nữ
của mình xuất gia thì mới được khép vào hàng quyến thuộc chánh pháp thực
sự. Với bồ đề tâm dũng mãnh và tín tâm thuần cố, Hoàng đế ngỏ ý với Hoàng
tử và Công chúa. Thật không ngờ, nhị vị vô cùng hoan hỉ, tình nguyện tuân
hành ý chỉ.
Một đại lễ
xuất gia vô cùng trọng thể được tổ chức. Hoàng tử được thọ đại giới qua
đại giới đàn Tỳ kheo: Hoà thượng Tế độ A xà lê: Tôn giả
Moggaliputtatissathera, Hòa thượng Tế độ A xà lê: Tôn giả Devathera,
Hòa thượng Giáo thọ A xà lê: Tôn giả Majjhattikathera và hàng trăm
vị Tỳ kheo chứng minh.
Công chúa
được thọ đại giới qua đại giới đàn Tỳ kheo ni: Hòa thượng Tế độ A xà lê:
Tôn giả Dhammapalitheri, Hòa thượng Yết ma A xà lê kiêm giáo thọ A
xà lê: Tôn giả Lipalitheri và hàng trăm Tỳ kheo ni chứng minh.
Đúng sáu năm
kể từ ngày đăng quang, Hoàng đế Asoka chính thức kiền thỉnh Tôn giả
Moggaliputtatissa thành lập nhiều phái bộ Tăng già truyền giáo qua
các quốc gia lân cận và Tôn giả Mahindathera được ủy cử làm trưởng
phái đoàn truyền giáo sang Srilanka.
Công Tác Gởi Sứ Giả Truyền Đạo
Tiếp theo
công trình di lưu sử liệu Phật giáo bằng mười bốn đại thạch pháp dụ theo
tài liệu hai bản Anh ngữ thống nhất và được nhìn dưới hai góc độ tiêu
biểu:
I.
Giới hàn lâm của các tác giả Hayarayanpao Appurao Nikam và
Richard Mckeon thuộc viện đại học Chicago, ấn hành 1959.
II.
Giới Tăng già của Đại đức Dhammika thuộc Buddhist
Publication Society, Srilanka, ấn hành năm 1993: ngoài ra, còn có
tài liệu bản Thái ngữ của ngài Dhammapitaka Prayudha Payut dịch từ
bản Thái ngữ khác của học giả Vasin Indasara Phật lịch 2526 tái bản
lần thứ ba do Pháp bảo phường đại học Mahamakut ấn hành thì có đến
30 thạch pháp dụ.
Ngoài công
trình di lưu các thạch pháp dụ, Đại đế Asoka thỉnh cử phái đoàn Tỳ
kheo tăng, đảm nhận sứ mạng truyền đạo ở một số quốc gia lân cận:
1.
Phái đoàn do Tôn giả Majjhattika hướng dẫn đi truyền đạo ở
Cashmir và Gandhara, hiện nay là phần đất nằm phía Tây bắc
Ấn độ ăn sâu vào một số vùng thuộc lãnh thổ Afghanistan.
2.
Phái đoàn do Tôn giả Mahadeva hướng dẫn đi truyền đạo ở
Mahisamandala, hiện nay là Mysor và vùng đất dọc lưu vực sông
Godhavari nằm phía Tây Ấn Độ.
3.
Phái đoàn do Tôn giả Rakkhita hướng dẫn đi truyền đạo ở
Vanavasi tức vương quốc Canara nằm về phía Tây nam Ấn Độ. Theo
Đại tông Mahavamsa ghi nhận lúc bấy giờ có khoảng 500 ngôi chùa trong khắp
vương quốc.
4.
Phái đoàn do Tôn giả Dhammarakkhita hướng dẫn đi truyền đạo
ở Aparaka tức phần đất thuộc miền duyên hải phía Bắc Bombay
ngày nay.
5.
Phái đoàn do Tôn giả Mahadhammapitaka hướng dẫn đi truyền
đạo ở tiểu quốc Maharashadr hiện nay là vùng đất nằm phía Đông bắc
cách xa Bombay.
6.
Phái đoàn do Tôn giả Maharakkhita hướng dẫn đi truyền đạo ở
Yonaka tức nước Greece thuộc Trung Á, chạy dài đến Iran và Turkistan.
7.
Phái đoàn do Tôn giả Majjihima là trưởng đoàn và bốn Tôn
giả: Bhassapagotta, Mulakadeva, Dundabhissara và
Deva là những đồng sự cùng đoàn đi truyền đạo ở những vùng tiếp cận Hy
mã lạp sơn.
8.
Phái đoàn do nhị vị Tôn giả Sona và Uttara đi truyền
đạo ở vùng tam giác vàng. Có bốn ý kiến khác nhau:
1.
Nhóm thứ nhất ám chỉ vùng này gồm một số tiểu quốc nằm phía Đông
Nam Ấn Độ.
2.
Nhóm thứ hai ám chỉ bán đảo Java và Sumatra.
3.
Nhóm thứ ba ám chỉ Miến Điện.
4.
Nhóm thứ tư ám chỉ vùng đất nằm dọc theo dòng sông Chauphraya
của Thái Lan.
Ý kiến nhóm
thứ tư có khả năng thuyết phục mạnh nhất.
9. Phái
đoàn do Tôn giả Mahinda hướng dẫn đi truyền đạo ở đảo Srilanka.
Căn cứ tài
liệu bộ Đại tông (Mahavamsa) thì Đại đế Asoka đã thỉnh cử
nhiều phái đoàn Tăng lữ truyền đạo qua nhiều vùng đất, nhiều quốc gia như
đã lược kể. Trong 9 phái đoàn truyền giáo, phái đoàn thứ 8 do ngài
Sona, Uttara và phái bộ thứ 9 do ngài Mahinda hướng dẫn
thì được các sử liệu tường thuật nhiều nhất vì phái bộ thứ 8 truyền giáo
về những lãnh thổ thuộc địa dư Đông nam Châu Á như Miến Điện, Mã Lai Á,
Tân Gia Ba, Thái Lan, Lào, Cam Pu Chia, và các tỉnh miền Tây nam Việt Nam.
Đáng lý ra,
những giá trị pháp bảo mà Phật tử ở những quốc gia vừa kể trực tiếp hoặc
gián tiếp thừa tự từ thời tổ tiên phải có bổn phận truy chọn một ngày lịch
sử trong năm (kể từ năm Phật lịch 220 sau Phật niết bàn) làm ngày niệm tổ
để xác minh niềm tin chánh pháp nguyên thủy có cơ sở sử liệu không mê tín
hoang đường. Có những vấn đề vô cùng quan trọng liên quan đời sống tu tập
truyền thống hơn hai ngàn năm lịch sử lưu bổ mà không gian, thời gian đã
là chứng kiện khả tín trong quá trình phát triển liên lũy truyền tục.
Thiết tưởng, chúng ta đã đến lúc phải nghiêm túc chuyên nghiệm tuyển chọn
và minh định vài trò chư tổ truyền giáo, truyền đạo một thiên chức đáng lý
phải có từ lâu.
Nghệ thuật Kiến Trúc Thời Asoka
Theo sử liệu
văn bản Pali và Sanskrit thì Đại đế Asoka cho kiến
tạo tám vạn bốn ngàn (84.000) ngôi tháp trong toàn quốc Bản đại tông (Mahavamsa)
có ghi rằng, Đại đế Asoka bạch hỏi Tôn giả Moggaliputtatissa
về số lượng của pháp môn.
Tôn giả cho
biết, pháp môn gồm có 84.000. Đại đế phát khởi tín tâm cho kiến tạo
84.000 ngôi tháp cúng dường. Kinh phí 96 tỉ. Đồng thời phân phối Xá lợi
tôn thờ tại những ngôi tháp ấy. Riêng tại thủ phủ Hoa thị
(Pataliputra), Đại đế cho kiến tạo ngôi đại tự Asoka (Asokarama)
mà nghệ thuật điêu khắc tinh xảo kỳ tuyệt. Một đại lễ lạc thành được tổ
chức vô cùng trọng thể, phấn khởi suốt bảy ngày.
Bộ
Asokavadana thì ghi rằng, Đại đế Asoka cho mở hộp đựng Xá lợi
mà Đức vua Ajatasattu (A xà thế) tôn trí trong một ngôi đại tháp
nằm về hướng đông Tịnh xá Trúc Lâm (Veluvanavihara) và phân phối
tôn thờ nơi 84.000 ngôi tháp toàn cõi diêm phù. Sự kiện này khả tín. Vì
cho đến thế kỷ đương đại, và sau khi Phật giáo bị các tôn giáo thù nghịch
tiêu diệt, bách hại vẫn còn tồn tại không ít những ngôi bảo tháp rải rác
khắp đó đây trên toàn lãnh thổ Ấn. Các nhà chiêm bái Trung Hoa Pháp Hiển,
Huyền Tráng, Nghĩa Tịnh đều có ghi chép những sử kiện này, nhất là ngài
Huyền Trang nhà đại chiêm bái Trung Hoa, trong cuộc hành hương, thỉnh kinh
thế kỷ thứ 11 có ghi rõ ràng chính xác những địa danh từ Takkasila
Bắc Ấn chạy dài đến Malakuta cực Nam đều có những ngôi tháp do Đại
đế Asoka kiến tạo vẫn còn hiện hữu.
Về vật liệu
kiến thiết thì hầu hết các ngôi tháp đều xây bằng gạch nung hoặc bằng đá.
Hình thức như bình bát úp. Chu vi quanh tháp đều có đường đi nhiễu. Nền
tháp vuông vức như hình bồ đoàn. Mỗi ngôi tháp đều có tường bao bọc xung
quanh và trên vách đều có khắc hình tích chuyện bổn sanh hoặc mười tích
chuyện đại bổn sanh tiêu biểu cho mười hạnh Ba la mật. nghệ thuật điêu
khắc triều đại Đại đế Asoka quả thật kỳ đặc, tuyệt mỹ. Có một hình
thức điêu khắc mà trong câu chuyện không có nhân vật chính yếu mà chỉ có
thể hiểu ngầm, chẳng hạn như:
Ảnh đản sanh
được điêu khắc với tôn tượng đức Mahamada Hoàng hậu trong tư thế
đứng với tay níu nhành vô ưu, không có hình Thái tử sơ sanh.
Ảnh xuất gia
được điêu khắc với hình tuấn mã Kiền trắc và Sa nặc mà không có hình Bồ
Tát.
Ảnh thành đạo
được điêu khắc tượng trưng Bồ đề đại thọ, dước gốc có Kinh cương tòa,
không có ảnh Đức Phật.
Ảnh chuyển
pháp luân được điêu khắc tượng trưng bằng Pháp luân xa, có hình những con
nai quỳ mọp xung quanh. Tây Tạng thường dùng hình Pháp luân xa làm hoa
văn trong các công trình kiến thiết đại hùng bảo điện, cũng như Trung Hoa
rất chuộng hình lưỡng long tranh châu vậy.
Hình Phật
niết bàn được điêu khắc biểu trưng bằng thiền sàng giữa tàng song long
thọ, không có hình ảnh báo thân.
Sở dĩ nghệ
thuật điêu khắc triều đại Asoka có khuynh hướng đặc dị như vậy là
vì dân tộc Aryan thời trung cổ chủ trương không sử dụng hình ảnh để tôn
thờ. Mãi về sau, khi có hoàn cảnh tiếp cận với nền văn minh Ai cập
(Greek) dân Aryan mới thực sự chuyển hướng.
Trụ Đá và Bia Ký
Vốn tinh tín
đối với chánh pháp và quan niệm khế hợp lý tình rằng, người nghiêm hành
chánh pháp sẽ hưởng vô lượng phúc lạc, nhân dân tu tập chánh đạo sẽ khiến
đất nước thịnh hưng, toàn dân cường phú. Chính nhờ sự liên đới hỗ tương
giữa thế quyền và giáo quyền khiến đời sống vật chất ổn định, đời sống
tinh thần thăng hoa, triều đình luôn quan tâm áp dụng văn hóa chỉ đạo,
tiêu biểu cho ý nguyện toàn dân, không lệ thuộc ý kiến chủ quan của hoàng
gia. Nên dân chúng Bharata sống hết sứ thanh bình, ấm no và hạnh
phúc.
Đại đế quyết
tâm áp dụng chánh pháp vào đời sống nhân dân. Ngài tin rằng: tất cả thành
công, thắng lợi và phúc lạc do chánh pháp mang đến là thắng duyên hội tụ
bất biến. Từ thế hệ này sang thế hệ khác vì không có cuộc thắng trận nào
vẻ vang bằng cuộc thắng trận của chánh pháp. Kinh nghiệm bản thân Đại đế
trước và sau khi quy ngưỡng thực hành chánh pháp đã hoán chuyển tính độc
tài, bất khoan thứ trở nên minh đạo, nhân từ tuyệt hảo. Nhờ kinh qua
thành quả nghiêm trì chánh pháp đạt thành tích vĩ đại trong công trình giữ
nước an dân, một khuôn thước minh đạo không riêng cho Bharata mà
chung cho thành phần lãnh đạo quốc gia khắp thế giới.
Một kỳ công
lưu tích lịch sử mà Đại đế Asoka đã cống hiến cho Phật pháp trong
triều đại Moriya của Ngài thật vô cùng vĩ đại, vượt thời gian,
không gian, một công trình vô ngôn, một kho tàng Phật sử chính thống, một
nền văn hiến minh đạo khai phóng đã được các nhà khảo cổ nhất là ông
Cunningham - một nhà khảo cổ Anh quốc – đã khai quật và tìm thấy tất cả
trụ đá, bia ký mà Đại đế cho khắc ghi những sự kiện vô cùng quan trọng
liên quan đời sống thị hiện giáng trần, thị ngộ liễu chứng, thị chuyển
pháp luân ,thị tịch niết bàn và những di tích lịch sử liên quan công trình
vân du hóa đạo mà các cơ sở công ích như Kỳ viên tự (Jetavanavihara),
Trúc lân tự (Veluvanavihara), Đông phượng tự (Dubbarama)
v.v… Tóm lại, nếu không có bàn tay, con tim và khối óc của một minh quân
hiền triết, đạo đức và nhân bản như đại đế Asoka thì ngày nay Phật
tử năm châu cũng chưa thấy được ánh sáng văn minh, khoa học.
Trong nền văn
học Phật giáo và lẽ dĩ nhiên gia tài của lẽ sống là từ bi và sự nghiệp tâm
linh là trí tuệ mà Đức Phật đã trao truyền tuy gián tiếp nhưng Đại đế
Asoka vẫn đầy đủ tư cách và xứng đáng với danh nghĩa thừa tự. Những
công trình lưu bố mang tính lịch sử trọng đại mà Đại đế Asoka
nghiêm túc thực hiện. Trước tiên, Đại đế hạ quyết tâm trì hành thập pháp
vương đạo gồm có:
1.
Dana (Thí): nơi bốn cửa thành, Đại đế đều cho thiết lập
phước xá bố thí thực phẩm cho người nghèo.
2.
Sila (Giới) - tự thúc liễm thân khẩu, không sát hại,
không bóc lột, không tà dục hạnh, không làm sai nói quấy, không say sưa
rượu men rượu nấu.
3.
Paricago – hy sinh tự lợi cho công ích, sẵn sàng từ bỏ
mọi tiện nghi cá nhân, danh tiếng kể cả sinh mạng cho nhân dân.
4.
Ajjava – thành thật và liêm chính.
5.
Maddava – uy nghiêm và từ ái.
6.
Tapa – gương mẫu tức sống đơn giản, không xa hoa, trụy
lạc.
7.
Akodha – không nóng giận, không để sân hận chi phối,
không hiềm khích tư thù.
8.
Avihimsa - bất hại, không gây tổn thương, không có hại
tư duy, luôn chủ trương hòa bình, chận đứng chiến tranh. Và những bạo
động phá hoại sự sống.
9.
Khanti (kham nhẫn) tức can dũng chịu đựng mọi chướng
duyên, nghịch cảnh kể cả những lời chỉ trích thô bạo, phạm thượng mà không
mất bình tĩnh.
10.
Avirodhana – an nhiên hành xã tức không chống lại ý dân,
tuyệt đối đặt quyền lợi nhân dân lên hàng đầu, không mâu thuẫn trong hành
động và quyết định.
Soạn giả xin
phép ghi lại bài kinh Kutadanda trường bộ III, Thế tôn giải thích
các hình phạt không hữu hiệu, không lợi ích và không thành công bằng sự
cải thiện kinh tế. Để cải thiện kinh tế, Thế tôn dạy:
-
Cung cấp các thứ hạt giống và
phương tiện canh tác cho nhà nông.
-
Cung cấp vốn cho những người
kinh doanh, đầu tư, trả lương thích đáng cho công nhân.
-
Đại bố thí cho nhân dân thay
cho các lễ tế đàn. Khi mà dân chúng thu hoạch đủ lợi tức, sẽ vừa lòng,
sẽ không sợ hãi, lo lắng và kết quả sẽ là xứ sở được thanh bình, dân
chúng được phú cường thịnh vượng.
Nhờ nghiêm
hành thập pháp vương đạo mà Đại đế đã xây dựng tiểu lục địa Bharata
không còn hiện tượng tội ác trong xã hội. Đối với bản thân, Đại đế đem
thân làm gương và làm chứng. Nhờ tiêu biểu minh đạo, Đại đế đã thể hiện
tư cách Phật tử thuần thành hộ trì chánh pháp bằng công trình di lưu Phật
sử và Phật pháp mà thời gian, không gian đã là dấu ấn. Sau đây là những
cống hiến đặc trưng truyền kỷ:
Trong một bia
ký, Đại đế có ghi sắc chỉ: Đại đế Thiên ái (tức Asoka) luôn thương
yêu, không hãm hại mọi loài chúng sinh, thúc liễm tự thân, bình đẳng và
hòa ái, đã quán chiếu xuyên suốt: chỉ cuộc thắng trận chánh pháp là vĩ đại
nhất và thiên thu bất hoại mà bản thân Đại đế là người thừa tự. Sự thành
tựu trong công trình chiến thắng này đã ảnh hưởng rộng xa đến các lân bang
tiếp cận tiểu lục địa Bharata khoảng 600 do tuần như quốc vương
Antiyoga thuộc cộng hòa Yonaka tức Đức vua Anti August đệ II nước cộng hòa
Syria, vương quốc bốn vị vua; Đức vua Turayama, tức vua Patoleme nước
Egypt, Đức vua Antikena tức vua Antikone nước Macedonia, Đức vua
Alikasundara tức Alexander nước Epirs, Đức vua Magha tức tiểu vương Magast
trị vì tiểu quốc nằm về hướng đông nước Egypt.
Về hướng Tây
vương quốc Magadha (Ma kiệt đà), các sắc dân sau đây cũng nằm dưới
quyền thống trị của Đại đế Asoka, đó là sắc dân Pandyas,
Satyaputras, Keralaputra, Srilanka, Yavana,
Kamboja, Nabhaka, Nabhapanti, và một số tiểu quốc cha
truyền con nối, như nước Andhara, Parinda. Các vương quốc,
tiểu vương quốc và các sắc dân nói trên đều y theo sắc chỉ phụng hành
nghiêm túc. Ngay như một số các quốc gia tiếp cận mà sứ giả Đại đế chưa
đến kết giao cũng hưởng ứng phụng hành chỉ dụ.
Những công
trình có kết quả lớn như vừa ghi nhận, đối với Đại đế chỉ mang tính cục
bộ. Cái thành tựu trên bình diện quy mô Đại đế nhắm đến là làm thế nào
các con, cháu, chắt của ngài nhận biết rõ ràng xuyên suốt cuộc thắng trận
mà ngài gặt hái được không phải bằng xâm lăng, chiến tranh, núi xương,
sông máu mà chính là bằng chánh pháp. Đối với Đại đế Asoka thì
câu: Cuộc chiến thắng của chánh pháp là vẻ vang. Thật sự đúng một
ngàn phần ngàn. Vì từ ngày Đại đế xua quân chinh phạt các quốc gia lân
cận, lớn nhỏ, mạnh yếu, tất cả đều thất thủ trước đạo quân bách chiến bách
thắng của Asoka. Tóm lại, từ chiến thắng này đến chiến thắng khác,
thế mà sau khi san bằng Kalinga, và trong tiếng hoan hô như long
trời lở đất thì Đại đế lần đầu tiên trong cuộc đời bỗng cảm thấy trái tim
đau buốt cơ hồ như muốn vỡ tung lồng ngực và tự nguyện sẽ không bao giờ
xâm lăng bất cứ quốc gia nào bằng quân sự.
Về chủ nghĩa
hòa bình tuyệt đối của chính quyền triều đại Asoka, chúng ta tiếp
tục xem xét một số chỉ dụ trên bia ký, trụ đá để thấy chính thể đương kim
hoạt động như thế nào.
Chiếu thạch
dụ thứ mười ba, sau khi mô tả công cuộc bình định xứ Kalinga và
những đau khổ mà Đại đế chứng kiến lúc bấy giờ, có viết tiếp rằng: nhưng
có điều là tôi, đứa con cưng của thần thánh, thấy còn đáng buồn hơn, trong
khi tất cả nhân sinh nào là giáo sĩ Bà la môn, tu sĩ khổ hạnh và các đạo
sĩ tông phái khác, các gia nhân, người thường ngoan ngoãn tuân theo các
ông chủ, các bậc cha mẹ, phụ huynh, thường đối xử bạn bè, người quen,
chiến hữu, họ hàng, nô lệ và đầy tớ sự kính trọng và vững tin vào tín
ngưỡng của mình - tất cả đều phải chịu đựng bạo lực, giết chóc và ly biệt
với người thân của mình.
Chúng ta
chẳng phải ngạc nhiên khi các nhà cổ học phương tây phải suốt lời tán thán
những nỗ lực của vua A dục trong việc thực hiện chính sách ngoại
giao hòa bình. Những năm cuối thế kỷ hai mươi, nhân loại mới bắt đầu thử
nghiệm một cơ chế nào đó để bảo đảm các nước cùng cọng trú trong hòa bình,
mặc dù các cường quốc vẫn tiếp tục xây dựng lực lượng quân sự to lớn và
đàm phán tay đôi theo tinh thần bí mật và nghi ngờ lẫn nhau. Trái lại,
vua A dục đã kêu gọi cho chủ nghĩa hòa bình tuyệt đối dựa trên tư
tưởng Phật giáo, đơn phương tuyên bố từ bỏ chiến tranh, một hành động cực
kỳ khó khăn nhất là đối với các nước lớn.
Theo sử liệu,
sau khi xác định chính sách cai trị đất nước bằng đạo pháp, vua A dục
đã cắt giảm các lực lượng vũ trang và chỉ dùng quân đội vào các dịp diễn
hành trong các lễ hội long trọng. Các bản ghi đều cho thấy nông dân và
các tầng lớp khác trong xã hội không còn bị động viên thực hiện nghĩa vụ
quân sự. Chính sách của vua A dục, thậm chí thể hiện khi làm việc
với các bộ tộc cường khấu ương ngạnh ở miền biên cương, và đối đãi với
người dưới như con đẻ của mình. Tinh thần đó được bộc lộ rất rõ trong một
chiếu dụ do vua ban cho các quan chức đi trấn giữ nước mới chiếm được là
Kalinga. Chiếu dụ có những đoạn như sau: Như ta hằng mong, mọi
người đều là con của ta, mọi điều hạnh phúc và tốt đẹp trên thế giới hiện
nay và mai sau đều cho con cháu của ta; ta cũng mong muốn như vậy cho mọi
người. Nhưng ta tin rằng, trong số dân sống dọc miền biên giới khác nhau,
hãy còn chưa quy phục ta, còn có những kẻ tự hỏi mình: Đức vua muốn gì với
chúng ta. Vậy ta truyền cho các người biết, điều duy nhất ta mong muốn
với dân chúng ở miền biên cương là: Dân chúng miền biên cương không còn
phải sợ ta nữa. Ta muốn họ tin ta, muốn họ nhận những an ủi từ tay ta và
không phải nhận những đau khổ từ tay ta. Các người phải làm cho họ hiểu
điều này nữa: Đức vua sẽ làm tất cả những gì có thể vì lợi ích của họ và
nếu họ tuân theo lời dạy của ta, thực hành đạo pháp, chắc chắn họ sẽ được
giàu sang và hạnh phúc ở thế giới này và kiếp sau.
Câu nói: “Mọi
ngưòi đều là con của ta” đã gây ấn tượng đặc biệt, một diễn đạt sinh động
của giáo lý đạo Phật về sự bình đẳng của mọi người, không phân biệt bốn
đẳng cấp truyền thống của xã hội Ấn Đô. Đạo Phật còn dạy rằng, mỗi người
đều có duyên nợ với mọi chúng sinh và vua A dục cũng đã nhận ra
những nghĩa vụ như vậy đối với mọi chúng sinh, không chỉ riêng trong vương
quốc của ông mà còn trên thế giới. Thử hỏi đã có bao nhiêu ông vua như
vậy xuất hiện trên thế gian này?
Quyết tâm của
vua Asoka dùng những diệu pháp chính nghĩa, đạo đức để trị vì được
biểu lộ rất rõ trên thạch dụ thứ sáu, trong đó có đoạn trích như sau:
Đã từ lâu, trong quá khứ, không vị vua chúa nào muốn giải quyết việc nước
hay nghe những lời oan ức bất kể giờ nào trong ngày. Nhưng nay ta ban
lệnh sau: Các quan lại có các sớ tâu liên quan đến việc dân, việc nước sẽ
được phép trình dâng bất cứ lúc nào và bất kỳ ở đâu, dù là ta đang ngự bữa
ăn, nhập thâm cung, ở thư phòng, xem chuồng thú, trên ngự xa, hay vãn vườn
cảnh. Nếu họ làm được như vậy, ta sẽ quyết định công việc liên quan tới
chúng dân, bất kể lúc đó ta đang ở đâu. Bất cứ lúc nào có sự tranh cãi
trong hội đồng hay một đề nghị soi xét phần thưởng về bổng lộc hay gia ân
ta đã ban, hay lệnh hịch liên quan tới những chiếu dụ ta đã ban hành hay
liên quan tới việc giải quyết những vấn đề hệ trọng đã được giao phó cho
các đại thần, các khanh phải trình bẩm lại cho ta ngay lập tức, bất kể ta
đang ở đâu hay lúc nào.
Rõ ràng, theo
chỉ dụ này, vua Asoka đã nhận thức được ý nghĩa lịch sử gắn liền
với phương pháp trực tiếp chăm lo công việc lãnh đạo của mình. Quả thật
ông tự xưng là vị vua đầu tiên trong lịch sử không dùng vũ lực để cai trị
đất nước mà bằng sức mạnh của đạo pháp. Theo sử liệu, có liệt kê đại ý
một loạt các chiến dụ của vua Asoka như sau:
Chiếu
thứ nhất: cấm sát sinh để tế lễ.
Chiếu
thứ hai: xây dựng hai loại bệnh viện cho người và cho súc vật;
trồng dược thảo, trồng cây ven đường lớn và đào giếng.
Chiếu
thứ ba: sắc lệnh liên quan tới việc đi thanh tra các tỉnh 5 năm
một lần.
Chiếu
thứ tư: mô tả những biện pháp để truyền báo giáo lý đạo Phật.
Chiếu
thứ năm: đặt các chức “đạo pháp quan” để thực hiện các chính sách
mới.
Chiếu
thứ sáu: sắc lệnh liên quan đến việc nhanh các sớ tâu và giải
quyết ngay các công việc quốc gia.
Chiếu
thứ bảy: mong muốn tất cả các giáo phái có thể cùng chung sống;
kêu gọi đề cao tấm lòng trong sạch.
Chiếu
thứ tám: bãi bỏ các chuyến vui chơi dã ngoại mà các vua chúa đời
xưa ưa chuộng, bắt đầu các chuyến du đạo.
Chiếu
thứ chín: những bản nguyện về đạo pháp và giải thích ý nghĩa của
chúng.
Chiếu
thứ mười: giải thích về danh tiếng và vinh quang đạt được bởi sự
tuân thủ thực hành tu niệm đạo pháp.
Chiếu
thứ mười một: diễn giải việc bố thí, truyền bá đạo pháp; thân
thiện, hữu hảo trong tinh thần đạo pháp, chia sẻ công đức dưới ánh sáng
đạo pháp, kết duyên với Phật pháp là những dạng bố thí cao nhất.
Chiếu
thứ mười hai: kêu gọi sự khoan dung lẫn nhau giữa các phe phái tôn
giáo, tuyên bố rằng, sự nâng niu các tinh hoa của mỗi tôn phái là tặng
phẫm và lòng kính trọng cao nhất, chỉ định các “đạo pháp quan”, các đại
quan về phụ nữ, tổng trưởng khu bảo tồn thú.
Chiếu
thứ mười ba: mô tả những cảnh khủng khiếp trong cuộc xâm chiếm
Kalinga, những lời biểu hiện sự sám hối, lòng kính trọng đạo pháp và
lòng quyết tâm truyền bá đạo; chiếu thắng bằng đạo pháp được tuyên bố là
chiến thắng hiển hách nhất; các sứ giả được gởi tới các quốc gia láng
giềng, năm vị vua Hy Lạp được nhắc tên.
Chiếu
thứ mười bốn: những lời kết luận các bản khắc của chiếu chỉ được
dựng ở nhiều địa điểm khác nhau trong đế quốc, có ba dạng: vắn tắt, chi
tiết và rất chi tiết, phụ thuộc và địa điểm.
Ở thời đại
đó, khi chưa có những phương tiện thông tin hiện đại như ngày nay thì đó
là phương pháp để chính quyền công bố các mục đích và chính sách của mình
bằng cách khắc tên chúng lên vách đá hay các cột to. Mặc dù được viết
cách đây hai ngàn năm nhưng những lời của vua Asoka như còn thúc
giục, nhắc nhở người đời nay, đáng tiếc biết bao khi còn quá nhiều các
lãnh tụ chính trị thế giới đời nay không có tầm cỡ của vị quân vương vĩ
đại thời cổ đại ấy.
Trụ Đá và Bia Ký Tiếp Theo
Trong năm thứ
mười một triều đại Asoka, một loạt sắc lệnh được ban bố mà ai cũng
nhận là những sáng kiến kỳ tuyệt chưa chính quyền nào nghĩ ra. Ngài cho
đục khắc lên núi đá, cột trụ các sắc lệnh viết theo thổ ngữ từng miền, bất
kỳ người Ấn nào biết chữ cũng có thể đọc được. Nhiều sắc lệnh khắc trên
núi đá ở nhiều nơi tại Ấn Độ, ngày nay mười cây cột lớn còn đứng vững và
có thể định được vị trí của hai chục cây cột khác.
Những sắc
lệnh đó tỏ rằng nhà vua đã hoàn toàn tin lời dạy của đạo Phật và áp dụng
nó vào việc trị nước. Những sắc lệnh rõ ràng chịu ảnh hưởng Phật giáo,
nhưng không có khuynh hướng tôn giáo. Không có đoạn nào trong sắc lệnh
bảo dân phải thờ phụng một vị thần nào; ngay đến Phật, cũng không bắt buộc
dân phải thờ.
Sắc lệnh ở
Saranath bảo phải giữ sự hòa thuận trong các đền chùa, Tăng hội và kẻ
nào đề xướng sự ly giáo sẽ bị trị tội. Nhiều sắc lệnh khác bảo phải khoan
dung về phương diện tôn giáo, tôn trọng tự do tín ngưỡng, phải bố thí cho
các tu sĩ Bà la môn cũng như các Tăng đồ, không được mạt sát tín ngưỡng
của người khác.
Sắc lệnh số
muời hai (XII) ghi khắc như sau: Hoàng thượng chí từ chí linh chào hết
thảy thần dân trong mọi giáo phái, dù là hạng tu hành khổ hạnh hay hạng tu
tại gia. Hoàng thượng không cho những tặng vật và những chào hỏi bề ngoài
là quan trọng bằng cái bản chất chủ yếu của giáo phái. Cái chủ yếu đó có
thể tiến bộ theo nhiều hình thức, nhưng điều căn bản là phải giữ gìn lời
ăn tiếng nói, không nên vô cớ đề cao giáo phái của mình, chê bai giáo phái
của người. Muốn chê bai thì phải có lý do vững vàng vì tất cả các giáo
phái đều có một khía cạnh nào đó đáng cho ta kính trọng. Nếu giữ được như
vậy thì vừa làm cho giáo phái của mình phấn khởi, vừa giúp được các giáo
phái khác, còn trái lại là làm hại giáo phái mình và các giáo phái khác.
Sự hòa thuận là điều đáng tán thưởng.
Cái bản chất
chủ yếu đó đã được định nghĩa rõ hơn trong sắc lệnh trên cột thứ nhì (II):
Đạo sung kính là điều rất tốt. Nhưng thế nào là sung kính? Sùng kính
là ít nghịch đạo, làm nhiều điều thiện, từ bi, khoan dung, thành thực và
trong sạch. Chẳng hạn Asoka ra lệnh cho các quan phải thương dân như con,
dịu dàng kiên nhẫn với họ, không có lý do chắc chắn thì không được bắt
giam, tra khảo họ. Ông còn ấn định cứ đều đều đúng kỳ hạn phải đọc những
chỉ thị đó trước công chúng cho mọi người biết. Asoka như mọi nhà cải
cách chân chính, rất tin rằng những lời của mình khắc trên đá rất hiệu
nghiệm.
Trong sắch
lệnh số bốn (IV) khắc trên đá, ông cho biết rằng ông đã đạt được kết quả
kỳ diệu và đoạn trần thuật dưới đây cho ta hiểu thêm giáo lý của ông:
Bây giờ do sự sung đạo của Hoàng thượng từ chí linh, tiếng vang của đạo
thay cho tiếng trống thúc quân… một việc từ lâu đã không xảy ra, là ngày
nay nhờ những cố gắng của Hoàng thượng chí từ chí linh để truyền bá đạo,
người ta nhận thấy số sinh vật bị hy sinh để tế thần mỗi ngày mỗi giảm, số
loài vật bị giết cũng giảm, dân chúng kính trọng cha mẹ và các tu sĩ Bà la
môn, người ta nghe lời cha mẹ và các bậc trưởng thượng. Cho nên có thể
nói rằng, về nhiều điểm, đạo đã được tuyệt đại đa số tuân hành. Hoàng
thượng chí từ chí linh sẽ tích cực làm cho đạo được tuân hành mỗi ngày
nhiều hơn nữa và con cháu của Hoàng thượng chí từ chí linh hãy cố gắng duy
trì, phát triển nếp sống đạo đức tốt đẹp này.
Asoka
hăng say làm việc đúng như chánh pháp, tự xưng là Đại hộ pháp. Theo trữ
liệu, ông cho xây cất 84.000 ngôi tháp và dựng khắp nơi trong nước, nhiều
dưỡng đường cho loài người là loài vật. Ngài phái các cao Tăng đi truyền
bá đạo pháp ở khắp Ấn Đô, Tích Lan, Syrie, Ai Cập, Hy Lạp, Tây Tạng, Mông
Cổ, Nhật Bản, v.v…
Các nguồn tư
liệu cho biết, có khoảng sáu mươi ngàn (60.000) Tỳ kheo hành đạo ở Hoa thị
(Pataliputra), kinh đô của vua. Từ đó chúng tao có thể tin chắc
rằng, Phật giáo đã bước vào giai đoạn cực kỳ hưng thịnh.
Sắc lệnh số
tám (VIII) có đoạn: Sau mười năm đăng quang, Hoàng thượng thiên ái tuân
lâm chiêm bái Buddhagaya (Bồ đề đạo tràng) nơi đức Thích tôn viên thành
chánh giác. Kể từ chuyến hành hương này, Asoka hạ quyết tâm du hành chiêm
bái tất cả thánh tích khắp Ấn Độ và gọi những chuyến du hành như vậy là
“cuộc hành hương chiêm bái”. Những lần hành hương như vậy, Asoka thường
dành thì giờ thăm viếng các vị tu sĩ, Sa môn, Bà la môn thuộc các tổ chức
tôn giáo đương thời và ban nhiều loại nhu yếu phẩm tương đối thích hợp đời
sống tu hành và một số khá lớn tịnh tài. Đối với các vị trưởng lão đạo
cao đức trọng Phật giáo, Asoka cúng dường tứ sự, truyền tu sửa các cơ sở
quy mô như phước xá đa dụng và Tăng xá cơ ngơi biệt lập của chư vị Tỳ
kheo. Đối với quần chúng Asoka thường ân cần thăm hỏi gia đình và đời
sống của họ, luôn tiện Đức vua khuyến tấn họ thực hành chánh pháp để được
hạnh phúc cho bản thân, gia đình và cộng đồng trong những dịp thuận lợi
như vậy, Đức vua thường dành không khí ưu ái, thân thiện và sẵn sàng trả
lời bất cứ điều gì mà người dân muốn biết cũng như giải quyết tại chỗ nếu
có oan tình. Quần chúng vô cùng tin tưởng, phấn khởi. Họ có cảm tưởng
như một hiền phụ lúc nào cũng quan tâm đời sống, vật chất và tinh thần của
họ.
Trụ Đá và Bia Ký -
Trần Trúc Lâm
Việt dịch
Nội dung
những dụ khắc trên đá của Đại đế Asoka triều đại Moriya (304
TTL – 232 TTL)
Lời thưa
trước: Hiện nay có khá nhiều bản dịch ra Anh ngữ về những Pháp dụ của
vua Asoka vốn được viết bằng tiếng Brahmi (Prakrit). Bản dịch Việt ngữ
này đã dựa vào hai bản Anh ngữ phổ thông nhất và được nhìn dưới hai góc độ
tiêu biểu: 1) Giới hàn lâm của các tác giả Nayarayanrao Appurao Nikam và
Richard McKeon thuộc Viện đại học Chicago, ấn hành năm 1959 (viết tắt “Bản
Nikam”) và 2) Giới Tăng già, của Đại đức S. Dhammika thuộc Buddhist
Publication Society, Sri Lanka, ấn hành năm 1993 (viết tắt “Bản
Dhammika”). Quý độc giả có thể vào trang
http://www.accesstoinsight.org để xem bản Dhammika. Tuy vậy, trong
khi đối chiếu để làm rõ nghĩa hơn giữa hai bản này chúng tôi nhận thấy
rằng ngoài những khác biệt về văn phòng, ở vài đoạn các dịch giả nói trên
đã có lối diễn dịch khác hẳn nhau. Vì thế chúng tôi đã cân nhắc chọn lối
dịch nào gần với tinh thần nội dung của Pháp dụ để chuyển ra Việt ngữ, và
dùng những từ ngữ hợp với đương thời hơn. Ngoài ra ngay dưới mỗi pháp dụ,
chúng tôi thêm phần ghi chú và nhận xét riêng để giải thích những khác
biệt, thay vì để ở cuối bài không được tiện dụng. Dù vậy vẫn không thể
tránh được những sơ sót. Mong bài viết này đóng góp phần nào vào tài liệu
Sử Phật Giáo.
A.
Mười Bốn Đại Thạch Pháp Dụ
ĐTPD thứ
nhất (I)
Thiên tử, Vua
Piyadasi, ban lệnh cho ghi pháp dụ này [1]. Trong lãnh thổ do trẫm cai
trị không sinh linh nào được sát hại hoặc tế sống và không tiệc tùng liên
hoan nào được tổ chức, bởi Thiên tử, vua Piyadasi thấy nhiều điều xấu ác
trong những cuộc tụ họp liên hoan ấy. Nhưng Thiên tử, vua Piyadasi vẫn
chuẩn y cho một vài cuộc liên hoan khác. Trước đây, trong nhà bếp hậu
cung của trẫm đã có hằng trăm ngàn sinh thú bị giết hằng ngày để làm thức
ăn. Nhưng với Pháp dụ này kể từ nay chỉ có ba loại sinh thú được phép hạ
thịt mà thôi, là hai con công và một con nai, nhưng thỉnh thoảng mới làm
thịt nai. Và rồi nay mai cả ba thú này cũng sẽ khỏi bị giết.
Ghi
chú:
1. Bia ký
Girnar, ban vào năm 257 TTL. Bản Nikam còn viết là vua Piyadasi. Trong
các Pháp dụ, Đại đế Asoka luôn tự xưng là Thiên tử, Vua Piyadasi.
ĐTPD thứ
hai (II)
Khắp nơi [2]
thuộc lãnh thổ do Thiên tử, vua Piyadasi cai trị, và dân cư ngoài biên ải
như dân Cholas, dân Pandyas, dân Satiyaputras, dân Keralaputra và xa hơn
nữa dân Tamraparni, và ở xứ Yona (Hy lạp) do vua Antiyoka cai trị, và vua
các xứ lân cận với vua Antiyoka[3]. Thiên tử, vua Piyadasi ban cho hai
loại săn sóc y tế: cho người và cho thú. Nơi nào không có thảo dược để
trị liệu, trẫm cho du nhập và trồng. Nơi nào không có củ rễ hoặc trái cây
làm thuốc, trẫm cho du nhập và trồng. Dọc các đường trẫm cho đào giếng và
trồng cây để người và thú được hưởng lợi [4].
Ghi
chú:
2. Bia ký
Girnar, ban vào năm 257 TTL.
3. Dân
Cholas và Panhdyas ở phía nam ngoài đế quốc do vua Asoka cai trị. Dân
Satiyaputras và Keralaputras sống cận duyên vùng tây nam. Tamraparni là
tên cổ của Tích Lan (Sri Lanka). Antiyoka tức là Antiochos II Theo sử của
xứ Syria (261-246 TTL).
4. Asoka
thực hành lời dạy của Đức Phật trong Samyutta Nikaya (Tương Ứng Bộ Kinh),
I:33.
ĐTPD thứ
ba (III)
Thiên tử, vua
Piyadasi phán rằng [5]: Pháp dụ này được ban ra mười hai năm trẫm đăng
quang. Trẫm lệnh cho các quan Yuktas, Rajjukas và Pradesikas phải tuần du
thanh tra khắp nơi thuộc lãnh thổ do trẫm cai trị mỗi 5 năm để huấn dụ
chánh pháp như dưới đây, đồng thời lo các chính sự khác [6]. Biết kính
trọng vâng lời cha mẹ là việc tốt, hào phóng với bạn bè, thân hữu, bà con,
các bậc tu hành [7] là việc tốt, không sát sinh là việc tốt, biết chừng
mực trong tiêu pha và tiết kiệm là việc tốt, tất cả toàn là những điều
phước đức. Triều đình nên báo cho các quan địa phương phải tuân thủ
nghiêm chỉnh những điều huấn dụ này đúng ý của trẫm.
Ghi
chú:
5. Bia ký
Girnar, ban vào năm 257 TTL.
6. Bản
Dhammika: Không có tài liệu nào tồn tại cho biết rõ chức năng của các vị
quan này. Bản Nikam: đó là các quan cai trị huyện (Yuktas), tỉnh
Rajjukas) và kinh đô (Pradesikas).
7. Bản
Nikam: “priests and ascetics”; Bản Dhammika: “Brahmans and ascetics”: “tu
sĩ (Ba la môn và đạo sĩ khổ hạnh”, chỉ cho giới tu hành thời bấy giờ. Đạo
sĩ khổ hạnh gồm cả các khất sĩ Phật giáo, Ajivika và Kỳ na giáo.
ĐTPD thứ
tư (IV)
Nhiều trăm
năm trong quá khứ, việc sát hại sinh vật, đối xử tệ bạc với bà con, và
thiếu tôn kính với các bậc tu hành đã gia tăng [8]. Nhưng nay do việc
thực hành chánh pháp của Thiên tử, vua Piyadasi, nên diệu âm của chánh
pháp thay dần cho tiếng trống [9]. Đã nhiều trăm năm hiện tượng về những
thiên xa, voi lành, sao băng, và những cảnh tượng thần linh đã không xảy
ra. Nhưng nay do Thiên tử, vua Piyadasi cổ xúy việc khống chế sát hại
sinh thú, đối xử ân cần với bà con, tôn kính các bậc tu hành, và kính
trọng cha mẹ và bậc trưởng thượng, những cảnh tượng điềm lành ấy lại gia
tăng [10]. Những điều này cùng với nhiều lối khác thực hành chánh pháp đã
được Thiên tử, vua Piyadasi khuyến khích, và ngài sẽ tiếp tục thăng tiến
việc thực hành chánh pháp. Rồi cũng thế, các con, cháu và chắt của Thiên
tử, vua Piyadasi sẽ tiếp tục thăng tiến việc thực hành chánh pháp cho đến
hết đời; an trú trong chánh pháp thì họ mới giáo huấn dân theo chánh pháp
được. Thực vậy, giáo huấn theo chánh pháp là công tác cao cả. Tuy vậy kẻ
thiếu đạo đức thì không thể thực hành chánh pháp được, bởi việc thực hành
và thăng tiến chánh pháp là việc đáng ca tụng. Pháp dụ này được ghi để
những kẻ kế thừa trẫm hoan hỉ tận lực thăng tiến chánh pháp và không để
suy thoái. Thiên tử, vua Piyadasi đã lệnh cho pháp dụ này ghi lại mười
hai năm sau khi ngài đăng quang.
Ghi
chú:
8. Bia ký
Girnar, ban vào năm 257 TTL.
9 Bản
Dhammika: muốn nói đến tiếng trống đánh lên khi triều đình trừng phạt
những kẻ phạm pháp. Bản Nikam: là tiếng trống trận. NXR: bản dịch của
Nikam và McKeon về đoạn này không sát bằng bản của HT S. Dhammika.
ĐTPD thứ
năm (V)
Thiên tử, vua
Piyadasi phán rằng [11]: làm điều thiện thật khó. Kẻ nào làm điều thiện
là làm được nan sự. Trẫm đã làm nhiều điều thiện và nếu các con, các cháu
và hậu duệ của trẫm, cho đến hết đời noi gương trẫm thì sẽ làm được những
điều thật tốt. Nhưng ai trong bọn chúng bỏ bê dù một phần huấn dụ này thì
chúng sẽ làm điều ác. Thật vậy, làm điều ác thì rất dễ [12].
Trong quá khứ
không hề có Pháp Đại thần (Dhamma Mahamatras), nhưng mười ba năm sau khi
trẫm đăng quang chức vụ này được bổ nhiệm. Từ nay họ được ủy nhiệm làm
việc với tất cả các tôn giáo cho việc củng cố chánh pháp, cho sự thăng
tiến chánh pháp. Họ được ủy nhiệm làm việc với dân Yonas (Hy lạp), dân
Kambojas, dân Gandharas, dân Rastrikas, dân Pitinikas, và các dân khác ở
biên cương phía tây của lãnh thổ [13]. Họ được ủy nhiệm việc làm với quân
sư, các cấp chỉ huy, các bậc tu hành, các cư sĩ, [14] kẻ nghèo khó, người
già cả, và những ai ngưỡng mộ chánh pháp để lo cho sự an ninh và hạnh phúc
của họ và để họ khỏi bị nhũng nhiễu. Các Pháp đại thần được ủy nhiệm làm
việc cải thiện cách đối xử với tù nhân, đưa đến việc phóng thích chúng và
nếu các Pháp Đại thần nghĩ rằng “kẻ này có một gánh nặng gia đình”, “kẻ
kia bị vu cáo”, “kẻ nọ đã già”, thì họ tiến hành việc phóng thích các kẻ
đó. Họ được ủy nhiệm làm việc khắp nơi, ở đây (nơi bia ký được khắc,
dựng), ở những thị trấn xa xôi, trong những hậu cung thuộc các bào huynh
hay bào tỉ của trẫm và hoàng tộc. Các Pháp Đại thần chuyên lo truyền bá
chánh pháp được cử đi khắp nơi thuộc lãnh thổ, giữa người dân ngưỡng mộ
chánh pháp để xem ai ngưỡng mộ chánh pháp, hay an trú trong chánh pháp,
hay thực hành bố thí. Pháp dụ này được khắc lên đá để nó có thể trường
tồn và hậu duệ của trẫm có thể theo đấy mà thực hành.
Ghi
chú:
11. Bia ký
Kalsi, ban năm 256 TTL.
12. Theo
lời Phật dạy trong “Pháp cú” (Dhammapada), câu 163.
13. Dân Hy
Lạp (Yonas) định cư đông đảo ở vùng mà nay là Afghanistan và Pakistan sau
cuộc xâm lăng của Alexander the Great.
14. Trong
hai bản đều dịch là “householders: gia trưởng”. NXR: Có lẽ Asoka muốn nói
đến giới cư sĩ. Theo chúng tôi, dịch là “cư sĩ” thì đúng với tinh thần
Pháp dụ hơn.
ĐTPD thứ
sáu (VI)
Thiên tử, Vua
Piyadasi phán rằng: [15] trong quá khứ, quốc sự hoặc các biểu tấu không hề
được đệ trình Hoàng thượng thường xuyên. Nhưng nay trẫm ra lệnh này, khi
các quan có chuyện bẩm báo về dân tình trong nước thì có thể đến gặp trẫm
bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu, dù trẫm đang ngự thiện, đang ở trong hậu
cung, trong cấm cung, trên long xa, trong ngự giá, trong thượng uyển hay
đang cầu nguyện. Và khi một ban bố hay tuyên dương bằng khẩu lệnh, hoặc
vì quốc vụ khẩn cấp trẫm ủy quyền cho các Pháp Đại thần, mà gây nên sự bất
đồng hay bàn cãi trong triều thì phải cấp báo cho trẫm biết ngay bất cứ
lúc nào và bất cứ ở đâu. Đó là mệnh lệnh của trẫm.
Trẫm không hề
bao giờ bằng lòng với việc làm và canh cánh cho quốc vụ của trẫm. Trẫm
cho rằng việc thăng tiến an sinh của thần dân là nhiệm vụ cao cả nhất của
trẫm, và cốt lõi của việc này là phải chính mình tận lực. Đối với trẫm,
không có điều gì quan trọng hơn là nỗ lực của trẫm chỉ là trả cái nợ trẫm
mắc chúng sinh để mưu cầu hạnh phúc cho họ trong đời này và đạt đến thiên
giới trong kiếp sau. Vì trẫm lệnh cho các pháp dụ này được khắc ra để
trường tồn và các con, các cháu và chắt của trẫm noi theo vì sự an sinh
cho mọi người. Tuy nhiên đây là một việc khó nếu không nhiệt tâm và tận
sức.
Ghi
chú:
15. Bia ký
Girnar, ban vào năm 256 TTL.
ĐTPD thứ
bảy (VII)
Thiên tử, vua
Piyadasi muốn rằng tất cả môn đồ của các tín ngưỡng đều chung sống trên
đất nước của ngài, vì tất cả bọn họ đều mong cầu tự chế và thiện tâm
[16]. Nhưng con người thường có nhiều xu hướng và khát vọng khác nhau,
nên họ có thể thực hành được một phần hay tất cả những điều ấy. Những kẻ
thiếu tự chế, lòng không trong sạch, thiếu ân tình và tín tâm mà lại nhận
lắm phẩm vật cúng dường, thì kẻ ấy là gian ác [17].
Ghi
chú:
16. Bia ký
Girnar, ban vào năm 256 TTL.
17. Bản
Nikam lại dịch là: “Ngay cả kẻ không cúng dường được phẩm vật xa xỉ, không
biết tự chế và lòng không trong sạch, không có ân tình, và tín tâm vững
chắc vẫn đáng khen và cần thiết.”
ĐTPD thứ
tám (VIII)
Trong quá
khứ, các thiên tử hay tuần du để săn bắn hoặc vui chơi [18]. Nhưng mười
năm sau khi lên ngôi, Thiên tử, vua Piyadasi đã đến thăm Bồ đề đạo tràng
[19] và như thế thiết chế những cuộc Pháp du hành (Dharma-yatras) [20].
Trong những lần như thế, các việc sau đã được làm: viếng thăm và quà tặng
cho các bậc tu hành, viếng thăm và tặng (tiền) vàng cho người già, viếng
thăm dân ở thôn quê, huấn dụ họ về chánh pháp và thảo luận với họ về chánh
pháp khi thích hợp. Những điều này đã làm Thiên tử, vua Piyadasi đẹp mặt
và lại được xem như là một mối thu hoạch khác [21].
Ghi
chú:
18.
Vihar-yatras. Bia ký Girnar, ban vào năm 256 TTL. Ở đây vua Asoka dùng
“Thiên tử” để chi cho các tiên vương.
19. Bản
Dhammika: Thời bấy giờ có tên là Sambodhi hay Virirasana chứ không gọi là
Bodh Gaya như ngày nay.
20. Bản
Nikam lại dịch đoạn này như sau: “Tuy nhiên, vua Piyadasi đã giác ngộ
(sambuddha) mười năm sau ngày đăng quang, nên từ đó những chuyến tuần du
của ngài được gọi là Pháp du hành.”
21. Bản
Nikam dịch: “Những chuyến Pháp du hành này làm vua Piyadasi rất vui lòng
hơn những chuyến khác.”
ĐTPD thứ
chin (IX)
Thiên tử, vua
Piyadasi phán rằng [22]: Người ta hay cúng nhiều lễ, nhất là những dịp đau
ốm, khi cưới hỏi, lúc sinh nở, trước một chuyến đi xa. Đặc biệt là phụ nữ
lại còn bày ra lắm lễ lặt vặt, vô nghĩa khác. Không có gì quấy với những
lễ cúng bái này nhưng thường thì chẳng đem lại kết quả nào. Chỉ có lễ
chánh pháp (Dharma-managa) là mang lại rất nhiều kết quả. Nó bao gồm việc
đối xử tử tế với nô tì và gia nhân [23], tôn kính thầy dạy, đừng độc ác
với sinh linh, và cúng dường cho các bậc tu hành. Những việc như thế được
gọi là lễ chánh pháp. Vì thế một người cha, một người con, một người anh
em, một người chủ, một người bạn, một người phối ngẫu, hay cả người hàng
xóm thấy thế nên bảo: “Những việc này tốt, nên làm cho đạt đến mục đích,
tôi nên tham dự.” Những buổi cúng lễ khác, dù đạt được mục đích trong đời
này, nó tạo ra vô lượng phước đức cho đời sau. Nếu lễ chánh pháp đạt được
mục đích trong đời này thì lại có cả phước đức trong đời này và đời sau
[24]. Lòng hào phóng thực đáng ca ngợi. Nhưng không có quà nào lớn bằng
quà chánh pháp, hoặc bằng lợi lộc chánh pháp. Vì thế, một người bạn,
người khách, bà con, hoặc người phối ngẫu nên cổ xúy người khác khi cơ hội
đến và bảo rằng: “Điều này tốt, nên làm, rất đáng khen. Làm việc này ta
có thể đạt thiên giới”. Và có việc gì còn giá trị hơn là đạt thiên giới
[25].
Ghi
chú:
22. Bia ký
Kasi, ban năm 256 TTL. Asoka nghĩ đến Mangala Sutta (Sutta Nipata
258-269) khi ban Pháp dụ này.
23. Bản
Dhammika: “công nhân và gia nhân”.
24. Nhiều
bản chấm dứt ngang đây.
25. Bia ký
ở Girnar, Dhauli và Jaugada lại thêm đoạn này.
ĐTPF thứ
mười (X)
Thiên tử, vua
Piyadasi không xem vinh quang và danh vọng có giá trị gì trừ phi thần dân
của trẫm đều nghe đến chánh pháp và thực hành chánh pháp trong hiện tại và
tương lai [26]. Chỉ có điều này Thiên tử, vua Piyadasi mới muốn được vinh
quang và vang danh. Tất cả mọi nỗ lực của trẫm chỉ nhắm đến giải thoát
cho con người khỏi vòng nô lệ trong đời từ nay về sau. Bởi ác nghiệp là
vòng nô lệ. Thật là nan sự cho kẻ giàu và người nghèo trừ phi họ tận lực
và từ bỏ tham vọng. Lại càng khó bội phần cho kẻ giàu hơn là người nghèo
[27].
Ghi
chú:
26. Bia ký
Girnar, vào năm 256 TTL.
27. Bản
Dhammika dịch đoạn này như sau: “Tất cả mọi nỗ lực của trẫm chỉ nhắm đến
an sinh trong đời sau cho thần dân, và để họ không vướng ác nghiệp. Vô
phước đức là ác nghiệp. Thật là việc khó làm cho kẻ hèn hạ và người cao
sang trừ phi họ tận lực và từ bỏ tham vọng. Lại càng khó bội phần với
người cao sang (hơn là với kẻ hèn hạ).”
ĐTPD thứ
mười một (XI)
Thiên tử, vua
Piyadasi phán rằng [28]: Không quà nào bằng quà chánh pháp (Dharmadana)
[29], không sự quen biết nào bằng sự quen biết chánh pháp
(Dharmasamstava), không sự san sẻ nào bằng sự san sẻ chánh pháp
(Dharma-sambandha). Và nó bao gồm những điều này: đối xử tử tế với nô tì
và gia nhân, kính trọng cha mẹ, hào phóng với bạn bè, phối ngẫu, bà con,
các bậc tu hành, và đừng sát sinh. Vì thế một người cha, một người con,
một người anh em, một người chủ, một người phối ngẫu, hay một người hàng
xóm nên bảo rằng: “Điều này có phước đức, nên làm.” Bằng cách biếu quà
chánh pháp, người ta được lợi lộc ngay trong đời này và vô lượng phước đức
trong đời sau.”
Ghi
chú:
28. Bia ký
Girnar, ban vào năm 256 TTL.
29.
Dharma-dana: Đàn thí chánh pháp. Tương tự “Pháp cú” (Dhammapada) câu 354.
ĐTPD thứ
mười hai (XII)
Thiên tử, vua
Piyadasi tôn kính tất cả các bậc tu hành và các cư sĩ của các tôn giáo qua
quà cáp ngài ban và nhiều sự vinh dự [30]. Nhưng Thiên tử, vua Piyadasi
không coi trọng quà cáp hay vinh dự bằng sự tăng trưởng về đạo hạnh của
người có tín ngưỡng [31]. Sự tăng trưởng về đạo hạnh có thể đạt được bằng
nhiều lối, nhưng cái gốc rễ vẫn là phải kiềm chế lời nói, không được đề
cao tôn giáo mình và lại phỉ báng tôn giáo khác một cách vô cớ, hoặc là
khi đúng cớ thì lại quá đà.
Dù bất kỳ lý
do nào, tín ngưỡng của kẻ khác cần phải được tôn vinh. Có như vậy thì tôn
giáo của mình cũng được lợi lộc và tôn giáo của kẻ khác nữa. Ngược lại
thì tôn giáo của mình bị tổn hại, và tôn giáo của kẻ khác nữa. Kẻ nào
huênh hoang về tôn giáo của mình vì cuồng tín và phỉ báng tôn giáo kẻ khác
với ác ý “Để ta làm vinh quang đạo của ta”, thì chỉ làm tổn hại đến tôn
giáo của mình. Vì thế, sự hòa đồng tôn giáo là điều tốt [32]. Ai cũng
phải lắng nghe và tôn kính giáo lý của đạo khác. Thiên tử, vua Piyadasi
muốn rằng mọi người nên tìm hiểu thêm giáo lý chân chính của tôn giáo
khác. Kẻ nào chỉ biết cố chấp với tôn giáo của mình thì phải đuợc dạy
rằng: Thiên tử, vua Piyadasi không coi trọng quà cáp và vinh dự bằng sự
tăng trưởng về đạo hạnh của mọi tôn giáo. Để đạt đến điều này, các Pháp
đại thần, các Đại thần chuyên lo về hậu cung, những quan lại trông nom
những vùng xa xôi và những quan lại khác phải tận tâm. Và kết quả là tôn
giáo của mỗi người đều thăng tiến và chánh pháp cũng được rạng rỡ.
Ghi
chú:
30. Bia ký
Girnar, ban vào năm 256 TTL.
31. Nguyên
bản: Saravadi dịch là “Tinh túy tôn giáo” có nghĩa là “phẩm chất đạo
hạnh”.
32. Theo
bản Dhammika, vốn dựa vào bản bằng tiếng Pal, dịch theo câu: “Ta samavayo
eva sadhu” mà “Samavayo” chiết tự ra thì có “sam+ava+I”, có nghĩa là đến
với nhau.
ĐTPD thứ
mười ba (XIII)
Thiên tử, vua
Piyadasi xâm chiếm Kalinga tám năm sau khi ngài đăng quang [33]. Một trăm
năm chục ngàn người bị bắt và bị đày, một trăm ngàn người bị giết và rất
nhiều người nữa chết vì những lý do khác. Ngay sau khi Kalinga được chinh
phục, Thiên tử, vua Piyadasi mạnh mẽ nghiêng về học hỏi chánh pháp, yêu
thích chánh pháp và muốn phát triển chánh pháp. Nay Thiên tử, vua
Piyadasi rất xúc động và lấy làm hối hận đã chinh phục Kalinga. Thật vậy
Ngài rất buồn và hối tiếc việc chinh phục một dân tộc bất khuất qua tàn
sát, chết chóc và đày ải. Điều quan trọng hơn cả làm Thiên tử hối hận là
các bậc tu hành cũng như giới cư sĩ, tín đồ của các tôn giáo của nước này
- tất cả đều thực hành kính trọng bậc trưởng thượng, cha mẹ và thầy dạy,
đối xử tử tế và trung thành với bạn bè, người quen, người phối ngẫu và bà
con bị liên lụy. Những việc này làm Thiên tử, vua Piyadasi đau buồn.
Không có nước
nào, trừ xứ của người Yonas (Hy lạp) ở đó không có các bậc tu hành (giống
như tu sĩ Bà la môn và đạo sĩ khổ hạnh), và không ở nơi nào mà cư dân lại
không phụng thờ tôn giáo này hay tôn gáo nọ [33]. Bởi thế, dù số tử vong
hay số bị đày ải qua trận Kalinga chỉ bằng một phần trăm hay một phần ngàn
của thực sự, điều này cũng làm Thiên tử, vua Piyadasi đau buồn. Ngài nghĩ
rằng những ai phạm lỗi nên được tha thứ nếu có thể [34]. Ngay đối với dân
mọi rợ nay sống dưới quyền cai trị của Thiên tử, vua Piyadasi, cũng nên
theo lối sống mới mà cư xử đàng hoàng. Chúng nên được khuyến cáo rằng dù
Ngài hối hận nhưng Ngài vẫn còn đủ quyền lực để trừng trị bọn chúng nếu
bọn chúng phạm tội đáng chết. Thật vậy, Thiên tử muốn ai cũng được vô
hại, tự chế và công bằng, ngay cả những kẻ phạm lỗi. Nay Thiên tử, vua
Piyadasi xem chinh phục bằng chánh pháp (Darma-vijaya) mới là cuộc chinh
phục quan trọng nhất [35]. Cuộc chinh phục này đã chiến thắng liên tục
không những trong xứ mà còn cả với những dân sống ngoài biên cương xa đến
sáu trăm do tuần (Yojanas) ở đó vua Yona (Hy lạp) là Antiyoka cai trị và
xa hơn nữa là dân Tamraparni [38]. Ở đây trong lãnh thổ của Thiên tử,
giữa dân Yonas [39], dân Kambojas, dân Nabhakas, dân Nabhapamkits, dân
Bhojas, dân Pitinikas, dân Andhras và dân Palidas, khắp nơi dân đều theo
lời giáo huấn về chánh pháp của Thiên tử, vua Piyadasi.
Cả đến những
xứ mà sứ giả của Thiên tử, vua Piyadasi chưa đến, dân ở đấy cũng đã nghe
đến chánh pháp và những chiếu chỉ của Thiên tử về chánh pháp nên họ đã
tuân thủ và tiếp tục tuân thủ. Cuộc chinh phục bằng chánh pháp này diễn
ra khắp nơi và đem lại niềm hân hoan - niềm hân hoan chỉ do chinh phục
bằng chánh pháp đem lại mà thôi. Nhưng niềm hân hoan cũng chỉ là kết quả
nhỏ. Thiên tử xem quả gặt được trong đời sau mới thực quan trọng. Trẫm
cho ghi pháp dụ này để các con và các cháu của trẫm khi kế vị đừng lấy xâm
lăng làm thành tích. Nếu chinh phục thì nên khoan hòa và nhẹ trừng phạt.
Nên xem chinh phục bằng chánh pháp là cuộc chinh phục thật sự bởi nó có
kết quả trong đời này và đời sau. Hãy vui lấy niềm vui trong chánh pháp
(Dharma-rati) bởi nó mang lại kết quả tốt trong đời này và đời sau.
Ghi chú
32. Bia
ký Kalsi, ban năm 256 TTL. Kalinga, bây giờ là bang
Orissa.
33. Thời bấy giờ Asoka nghĩ rằng Hy lạp là xứ vô tôn
giáo.
34. Bản Nikam dịch: “Bây giờ, vua Priyarsi nghĩ rằng kẻ
phạm lỗi với Ngài nên được tha thứ nếu lỗi ấy có thể tha thứ được.
35. Có thể Asoka nghĩ đến “Pháp cú” câu 103-104.
36. Khoảng ba ngàn dặm.
37. Theo thứ tự, là các vua Antiochos II theo của Syria
(261-246 TTL), Ptolemy II Philadelphos của Egypt (285-247 TTL), Antigonos
Gonatos của Macedonia Alexander của Epirus (272-258 TTL).
38. Xem
ghi chú 3
39 Xem ghi
chú 13
ĐTPD thứ
mười bốn (XIV)
Thiên tử, vua
Piyadasi ra lệnh cho những Pháp dụ này được ghi. Vài bản được ghi ngắn
gọn, vài bản được ghi vừa đủ hay vài bản được ghi dài hơn [40]. Không
phải tất cả đều được trưng bày khắp nơi bởi lãnh thổ của trẫm rất rộng.
Nhiều bản đã được khắc và trẫm sẽ còn sai làm thêm. Vài Pháp dụ đã được
lập đi lập lại vì lời hay ý đẹp của lời dạy để thần dân thực hành noi
theo. Vài Pháp dụ không hoàn tất vì không thích hợp với địa phương, hoặc
vì cần loại bỏ, hoặc vì lỗi của người ghi khắc.
Ghi
chú:
40. Bia ký
Girnar, ban vào năm 256 TTL
B.
Những Thạch Pháp Dụ Kalinga
TPDKa thứ
nhất (I)
Thiên tử, vua
Piyadasi phán lệnh này cho các Đại thần ở Tosali cũng là các Phán quan
thuộc thành ấy [41]: Trẫm muốn thấy những gì trẫm xem là chính đáng phải
được thi hành nghiêm chỉnh. Trẫm phải chỉ thị cho các ngươi lối thực hiện
điều này vì trẫm đã đặt các ngươi ở vị trí phải thu phục được nhân tâm của
hàng vạn người. Mọi người là con cái của trẫm. Những gì trẫm ước muốn
cho con cái của trẫm, như phúc lợi cho đời này và đời sau, trẫm đều ước mơ
muốn như thế cho thần dân. Các ngươi không hiểu lòng trẫm muốn như thế
nào về những điều này, và dù một vài người trong các ngươi hiểu đi nữa
cũng không thấu đáo hết lòng của trẫm.
Các ngươi
phải quan tâm đến điều này. Trong khi thi hành luật pháp nhiều người phải
bị giam cầm, tra khảo và ngay cả bị giết vô cớ nên lòng dân ta thán. Vì
thế các ngươi phải hành sự thật vô tư. Phải tránh tị hiềm, tức giận, tàn
bạo, thù ghét, nhẫn tâm, chây lười hoặc mệt nhọc. Luôn phải tự hỏi:
“những thói ấy có ở trong lòng ta không?” Cốt lõi vẫn là không tức giận
và nên nhẫn nại. Quan chức nào chán mệt khi thi hành công lý không nên
được thăng chức, kẻ khác thì càng thăng tiến và nên được đề bạt. Ai trong
các ngươi hiểu được điều này nên nói với đồng sự “Cố gắng thi hành nhiệm
vụ mà Thiên tử giao phó. Như vậy, như thế này đúng là lời dạy của Thiên
tử, vua Piyadasi.
Thực hiện
nghiêm chỉnh huấn dụ này thì gặt được nhiều kết quả, còn nếu làm khác đi
thì chẳng đạt đến thiên giới và cũng chẳng làm Thiên tử hài lòng. Nếu các
ngươi thất bại trong nhiệm vụ sẽ làm trẫm kém vui. Nếu thực hiện nghiêm
chỉnh thì các ngươi sẽ đạt thiên giới và đẹp lòng trẫm. Pháp dụ này phải
được tuyên cáo cho mọi người vào mỗi ngày Tisya[42]. Nó cũng có thể được
đọc cho những cá nhân vào những dịp đặc biệt ở những ngày khác. Nếu làm
được như thế là các ngươi thi hành nhiệm vụ. Pháp dụ này đã được ghi ở
đây để nhắc nhở các Phán quan trong thành này lúc nào cũng nên cố gắng
tránh giam cầm và tra tấn không chánh đáng. Để đạt được điều này trẫm sẽ
phái các Đại quan nhân ái đi thanh tra mỗi 5 năm xem các Phán quan có theo
đúng lời dạy của trẫm. Hơn nữa, vị Hoàng tử cai trị thành Ujjiyini sẽ
phái những vị quan thanh tra như thế mỗi 3 năm. Cũng làm như thế từ thành
Takasila. Những Đại quan thanh tra này không được chểnh mảng công tác và
họ phải bảo đảm là những Phán quan theo đúng huấn dụ của Thiên tử.
Ghi
chú:
41. Bia ký
Dhauli, ban năm 256 TTL. Hai pháp dụ Kalinga chỉ tìm thấy được ở Dhauli
và Jaugada.
42. Bản
Dhammika: còn viết là Tisa; là ngày rằm, trăng tròn.
TPDKa thứ
hai (II)
Thiên tử, vua
Piyadasi phán lệnh này cho các Đại thần ở Samapa [43]. Trẫm muốn thấy
những gì trẫm xem là chính đáng phải được thi hành nghiêm chỉnh. Trẫm
phải chỉ thị cho các ngươi lối thực hiện điều này. Mọi ngươi đều là con
cái của trẫm. Những gì trẫm ước muốn cho con cái của trẫm, như phúc lợi
và hạnh phúc cho đời này và đời sau, trẫm đều ước muốn như thế cho thần
dân.
Những dân tộc
chưa bị chinh phục ở ngoài biên cương lãnh thổ trẫm có thể đang thắc mắc:
“Hoàng thượng đang tính toán gì về chúng ta?” Ý định duy nhất của trẫm sẽ
ban cho chúng hạnh phúc chứ không phải khổ đau. Hơn nữa, chúng nên ghi
nhớ rằng trẫm tha thứ cho chúng những lỗi lầm có thể tha thứ được, và rằng
chúng nên noi gương trẫm mà thực hành chánh pháp để hưởng phước trong đời
này và đời sau. Trẫm dạy điều này là để trả cái nợ mà trẫm đã chịu và để
các ngươi hiểu rõ lòng quyết tâm và lời cam kết không lay chuyển được của
trẫm. Vì thế, để thực hiện được điều này các ngươi phải thi hành nhiệm vụ
và làm bọn chúng an tâm tin tưởng rằng “Hoàng thượng cũng như là người cha
vậy. Ngài thương chúng ta như thương chính Ngài. Chúng ta đối với Ngài
cũng như là con cái của Ngài vậy.”
Trẫm dạy các
ngươi và cho các ngươi biết về lòng quyết tâm và lời cam kết không lay
chuyển được của trẫm. Trẫm sẽ bổ nhiệm các quan chức thi hành điều này ở
khắp các tỉnh[44]. Hẳn nhiên, các ngươi còn có thể khích lệ bọn chúng tin
tưởng trẫm và bảo đảm an sinh và hạnh phúc cho chúng trong đời này và đời
sau. Làm được như thế, các ngươi sẽ đạt thiên giới và giúp trẫm trả cái
nợ cho chúng sinh. Pháp dụ này đã được ghi khắc ở đây để các Đại thần có
thể tận tụy khích lệ các dân ngoài biên cương luôn tin tưởng vào trẫm và
khuyến khích chúng thực hành chánh pháp. Pháp dụ này phải được tuyên cáo
cho mọi người mỗi bốn tháng lúc đầu mùa [45] vào mỗi ngày Tisya. Nó cũng
có thể được tuyên cáo vào những kỳ giữa những ngày kể trên; và có thể được
đọc cho những cá nhân vào những dịp đặc biệt. Làm được như thế là các
ngươi thi hành nhiệm vụ.
Ghi
chú:
43. Bia ký
Jaugada, ban năm 256 TTL.
44. Bản
Dhammika dịch đoạn này như sau: “Bằng vào việc chỉ dạy và cho các ngươi
biết về lòng quyết tâm và lời cam kết của trẫm, trẫm sẽ tự mình quan tâm
để đạt đến mục tiêu này.”
45. Ấn có
3 mùa: nóng, mưa và lạnh. Ngày Tisya: xem ghi chú 42.
C.
Tiểu Thạch Pháp Dụ
TTPD I
(còn gọi là Pháp Dụ Maski)
Thiên tử, vua
Asoka phán rằng [46]: Trẫm đã trở thành một cư sĩ Phật tử (Upasaka) hơn
hai năm rưỡi, nhưng không mấy thuần thành. Mãi đến nay sau khi thường đến
viếng Tăng già (Shanga hanh Shamga) hơn một năm trẫm trở nên rất thuần
thành [47]. Thần dân của trẫm nếu chưa có tín ngưỡng thì nên noi theo
[48]. Đây là kết quả của lòng nhiệt thành chứ không phải vì người cao cả
mới làm được. Cho ngay đến cả người hèn hạ [49] nếu có lòng nhiệt thành
vẫn có thể đạt thiên giới. Và tuyên ngôn này được ghi lại cho mục đích
ấy. Hãy nhiệt thành lên hỡi người cao cả và kẻ hèn hạ, hãy đến cho các
dân ở ngoài biên cương biết và hãy để cho lòng nhiệt thành trường tồn. Và
rồi lòng nhiệt thành sẽ tăng trưởng, nó sẽ tăng trưởng to lớn hơn, nó sẽ
tăng trưởng gấp một lần rưỡi [50]. Thông điệp này đã được Thiên tử tuyên
cáo hai trăm năm chục lần trong chuyến du hành [51].
Ghi
chú:
46. Bia ký
Gavimath, ban năm 257 TTL. Pháp dụ này đã tìm thấy ở 12 nơi khác nhau,
với nội dung không đồng nhất. Đặc biệt là chỉ trong Pháp dụ Maski nói với
Tăng già này Đại đế mới xứng thực danh là Asoka (Asokaraja).
47. Nhiều
học giả khi dịch đoạn Pali “yam me samghe upeti” (đã vào Tăng già), đã
hiểu nhầm, cho là Đại đế Asoka đã trở nên một Tỳ khưu (Tăng sĩ).
48. Nhiều
bản khác dịch sát nguyên ngữ là “men unmingled with Gods: ngưòi không hoà
lẫn với Trời.” Hai bản Nikam và Dhammika dịch “the people who have not
associated with the gods.”
49. Bản
Nikam dịch là “kẻ giàu và người nghèo”. Nói chung là đều bình đẳng trong
chánh pháp.
50. Bản
Nikam dịch đoạn này như sau: [Ở cõi Diêm Phù Đề (Jambudvipa), trời vốn
không hòa lẫn với người nay đã hòa lẫn với họ. Nhưng những kết quả trẫm
thu đạt chỉ bằng của (ngay cả) người nghèo nếu họ ngưỡng mộ chánh pháp.
Thực không đứng nếu nói rằng điều này chỉ dành cho kẻ giàu. Kẻ giàu và
người nghèo đều phải được bảo rằng: “Nếu các ngươi làm như thế thì những
thành tựu đáng ca tụng này sẽ trường tồn và sẽ gia tăng một lần rưỡi”]
51. Bản
Nikam không dịch đoạn này.
TTPD II
(Còn gọi là Pháp Dụ Brahmagiri)
Thiên tử, vua
Piyadasi phán rằng [51]: Phải kính trọng, vâng lời cha mẹ và các bậc
trưởng thượng. Phải tôn trọng sinh mạng. Đừng nói dối. Phải thực hành
những giới này của Chánh Pháp. Cũng như thế, học trò phải tôn kính thầy
dạy, và trong gia đình phải lịch thiệp với thân nhân. Đây là lệ truyền
thống của chánh pháp dẫn đến trường sinh. Ai cũng phải hành động như
thế. Ghi bởi người khắc (tên là) Chapala.
Ghi
chú:
51. Bia ký
Brahmagiri.
TTPD III
(Còn gọi là Pháp Dụ Baira hay Bhabra)
Thiên tử, vua
Piyadasi gởi lời chào Tăng già, và cầu chúc khỏe mạnh và an lạc, đồng thời
thưa rằng [52]: Bạch chư tôn đức, chư vị đã rõ đức tin cao cả của trẫm vào
Phật, Pháp, Tăng như thế nào rồi. Bạch chư tôn đức, những gì Đức Phật
thuyết giảng đều là diệu ngôn [53].Phải phép mà nói, thưa chi vị, diệu
chánh pháp phải trường tồn [54]. Bạch chư tôn đức, những bài pháp trích
từ Giới Luật, Lối Sống Cao Thượng, Âu Lo đến, Bài Ca Đạo sĩ, Bài giảng về
Cuộc Sống Tinh Khiết, những câu hỏi của Ưu bà đề xà và bài giảng về vọng
ngữ do Đức Phật cho La hầu la - những bài pháp này, kính thưa chư vị trẫm
muốn tất cả Tỳ khưu và Tỳ khưu ni (Tăng và Ni) nên thường tụng niệm [55].
Những Ưu bà tắc và Ưu bà di (cư sĩ nam và nữ) cũng nên làm như thế. Trẫm
cho ghi Pháp dụ này để chư tôn đức hiểu được ý trẫm.
Ghi
chú:
52. Pháp
dụ này được tìm thấy trên một tảng đá nhỏ gần thành phố Bairat, và nay
được bảo tồn trong Hiệp Hội Á Châu ở Calcutta.
53. Câu
này đã dựa vào một đoạn trong kinh Tăng Nhất A Hàm (Anguttara Nikaya, IV:
164) “thật là diệu ngôn, những lời do đức Thế tôn thuyết.”
54. Bản
Nikam dịch: “Cho phép trẫm liệt kê những bản kinh phản ánh Diệu Chánh
Pháp, và làm chánh pháp trường tồn.”
55. Đã có
nhiều thảo luận về những bản kinh Pali nào tương ứng với trích dẫn của vua
Asoka: 1) Vinaya samukose (Skt.: Vinaya samukasa: Xưng tụng về trì giới):
có thể là Attavasa Vagga, Anguttara Nikaya, 1:98-100. 2) Aliya vasani
(Skt.: Aliya vasani: Mẫu mực về đời đạo hạnh): có thể là Ariyavasa Sutta,
Anguttara Nikaya, V:29, hoặc Ariyavamsa Sutta, Anguttara Nikaya, II:
27-28. 3) Anagata bhayani (Skt. Anagattabhayani: Âu Lo về Tương Lai): có
thể là Anagatta Sutta, Anguttara Nikaya, III: 100. 4) Muni gatha (Skt.:
Muni-gatha: Bài Ca Đạo Sĩ): là Muni Sutta, Sutta Nipata 207-221. 5)
Upatisa pasine (Bài Giảng về Cuộc Sống Thánh Thiện): là Sariputta sutta,
Sutta Nipata 955-957. Và 6) Laghulavade (Skt.: Rahulavada: Bài giảng về
vọng ngữ cho La hầu la): là Rahulavada Sutta, Majjihima Nikaya, I:421.
D.
Bảy Thạch Trụ Pháp Dụ
TTPD thứ
nhất (I)
Thiên tử, vua
Piyadasi phán rằng [56]: Pháp dụ này được ghi hai mươi sáu năm khi trẫm
đăng quang. hạnh phúc đời này và đời sau thực khó mà đạt được nếu không
hết lòng yêu thích chánh pháp, hết lòng tự xét, hết lòng kính trọng, vâng
lời, hết lòng kinh sợ (ác nghiệp), và hết lòng hăng hái. Nếu đúng lời của
trẫm về tôn kính chánh pháp thì lòng yêu thích chánh pháp gia tăng mỗi
ngày, và sẽ tiếp tục gia tăng. Mọi quan lại các cấp của triều đình từ
thượng, trung và hạ cấp đều hành theo chánh pháp đúng như lời dạy của
trẫm, và có khả năng cảm kích người khác làm như thế. Các đại thần ở biên
cương cũng làm như thế. Và đây là những lời dạy của trẫm: cai trị theo
chánh pháp, nâng cao sự an lạc của dân theo chánh pháp, và che chở họ theo
chánh pháp.
Ghi
chú:
54. Bảy
pháp dụ này dịch từ bia ký Dehili Topra, sáu bản đầu được ban ra năm 243
TTL và còn thấy trên năm thạch trụ khác. Bản thứ bảy được ban ra năm 242
TTL.
TTPD thứ
hai (II)
Thiên tử, vua
Piyadasi phán rằng: chánh pháp thì diệu hảo, nhưng cái gì tạo nên chánh
pháp? Nó gồm làm lành tránh dữ, nhân ái, hào phóng, chân thật và trong
sạch. Trẫm đã ban sự sống bằng nhiều cách [55]. Trẫm đã ban nhiều sắc
chỉ nhân từ bao gồm quà của sự sống cho những sinh vật hai và bốn chân
(người và thú), trên không và dưới nước [56]. Và còn nhiều việc thiện
khác do trẫm làm nên. Pháp dụ này được ghi để thần dân noi theo, và để nó
trường tồn. Và ai noi theo đúng sẽ làm nhiều thiện nghiệp.
Ghi
chú:
55. Theo
tiếng Pali: Cakku dane” có nghĩa là “Trẫm ban cho sự thấy.” Có thể là vua
Asoka ban cho “con mắt trí tuệ”, nhưng đặt nó vào toàn bộ Pháp dụ thì có
vẻ như là Asoka đã ra lệnh những lối hình phạt làm mù mắt.
56. Có
nghĩa là ngưng sát sinh.
TTPD thứ
ba (III)
Thiên tử, vua
Piyadasi phán rằng: Người ta chỉ thấy việc tốt của mình, bảo rằng: “Ta đã
làm việc thiện này.” Nhưng họ lại không nhìn thấy việc xấu họ làm mà bảo
rằng “Ta đã làm việc ác này, điều này gọi là ác nghiệp.” Nhưng sự tự giác
rất khó thấy [57]. Người ta nên tự bảo thế này: “Những việc này đưa đến
điều ác, đến bạo hành, đến hung hãn, đến giận dữ, đến kiêu căng và ganh
tị. Ta đừng mắc vào.” Và hơn nữa, người ta nên nghĩ rằng: “Điều này đưa
đến an lạc trong đời này và đời sau.”
Ghi
chú:
56.Tương
tự như lời Phật dạy trong “Pháp cú” (Dhammapada) câu 50 và 252.
TTPD thứ
bốn (IV)
Thiên tử, vua
Piyadasi phán rằng: Pháp dụ này đã được ghi hai mươi sáu năm sau khi trẫm
đăng quang. Các quan đầu tỉnh (Rajjukas) đang cai trị dân, hằng trăm ngàn
dân. Họ được giao cho trông coi việc thỉnh cầu của dân và thi hành công
lý một cách vô tư và hiền hậu và nhờ thế họ mới chăm lo cho an sinh và
phúc lợi của dân. Nhưng họ nên nhận rõ điều gì gây ra hạnh phúc và khổ
đau cho dân và bởi họ hằng ngưỡng mộ chánh pháp, họ nên khuyến khích dân
làm như thế để có thể được an lạc trong đời này và đời sau. Những quan
đầu tỉnh (Rajjukas) này hết lòng phụng sự trẫm. Họ cũng tuân lệnh những
thượng quan (Purusas) đã hiểu ý trẫm và chỉ thị họ để làm trẫm vui lòng.
Cũng như một người an tâm giao con mình cho vú nuôi nghĩ rằng: Bà vú này
sẽ săn sóc tốt con mình”, nên trẫm đã bổ nhiệm các quan để lo cho an sinh
và phúc lợi của thần dân.
Các quan đầu
tỉnh được giao cho trông coi việc thỉnh cầu của dân và thi hành công lý
nên họ đã thi hành nhiệm vụ một cách quả quyết, hiền hậu và vui vẻ, và nhờ
thế họ mới chăm lo cho an sinh và phúc lợi của dân. Trẫm muốn rằng phải
có một sự công bằng trong luật pháp và trong việc kết tội. Trẫm còn đi xa
hơn, trẫm muốn gia ân triển hạn thêm ba ngày cho những tử tội trước khi
hành hình. Trong thời gian ấy, thân nhân của chúng có thể khiếu nại để
khỏi tội chết. Nếu không còn ai khiếu nại cho chúng tử tội có thể bố thí
hay chay tịnh để được phước trong đời sau. Trẫm thật lòng muốn rằng, theo
lối này, nếu thời gian của tử tội không còn bao lâu hắn cũng có thể chuẩn
bị cho đời sau, và rằng việc thực hành chánh pháp của dân qua tự chế và bố
thí sẽ được gia tăng trong thần dân.
TTPD thứ
năm (V)
Thiên tử, vua
Piyadasi phán rằng: hai mươi sáu năm sau khi đăng quang, trẫm ra lệnh
những thú vật sau đây được triều đình bảo vệ: két, chim sáo sậu, ngỗng,
vịt trời, dơi, kiến chúa, ba ba, cá không xương [58], rùa, nhím sóc, hươu
có gạc già, bò đực, thú nuôi trong nhà, tê giác, lừa hoang, aruna,
nandimukhas, gelatas, vedareyaka, gangapuputaka, sankiya, okapinda, bồ câu
nuôi hoặc hoang và tất cả những thú bốn chân có ích hoặc không ăn được
[59]. Những dê cái, trừu cái, hoặc heo rừng cái đang nuôi con hoặc cho
con bú cũng được bảo vệ. Cũng thế, những thú con dưới sáu tháng. Gà
trống không định thiến, vỏ cây đang che chở sinh vật không được đất, và
rừng cây không được đốt nếu không có lý do hoặc chỉ để giết thú. Không
được dùng một con thú để nuôi con thú khác. Và ba ngày Caturmasis [60],
ba ngày trăng tròn Tisya [61] và vào những ngày 14 và 15 của tháng
Uposatha [62], cá không được giết và bán. Vào những thứ 8 và vào ngày 14
và 15 của tháng, vào ngày Tisya, ngày Punarvasu [63], ba ngày của
Caturmasis và những ngày tháng khác, bò đực, dê đực, hươu đực, heo rừng và
những thú khác không được thiến. Vào ngày Tisya, Punarvasu, Caturma-sis
và mỗi nửa tháng của tháng Caturmasis, ngựa và bò con không được đóng dấu
nóng trên da. Hai mươi sáu năm sau khi trẫm đăng quang, tù nhân được ân
xá trong hai mươi lăm dịp.
Ghi
chú:
58. Có thể
là tôm, cua.
59. Hai
bản Dhammika và Nikam vẫn để những tên thú theo nguyên ngữ, không dịch
được.
60. Ngày
đầu mùa. Xem 45.
61. Ngày
Tisya: xem 42. NXR. Ở đây chỉ quy định ngày trăng tròn của tháng đầu mối
mũa.
62. Tháng
an cư kiết hạ.
63. Ngày
lễ hội.
TTPD thứ
sáu (VI)
Thiên tử, vua
Piyadasi phán rằng: mười hai năm sau khi đăng quang trẫm đã cho ghi những
Pháp dụ về an sinh và hạnh phúc của thần dân, để họ sửa đổi mà phát triển
theo chánh pháp. Trẫm tin rằng chỉ với cách này an sinh và hạnh phúc của
thần dân mới đạt được. Trẫm luôn quan tâm đến làm cách nào để bảo đảm an
sinh và hạnh phúc cho mọi người, không phải chỉ riêng bà con của trẫm hoặc
dân sống ở kinh đô mà còn cả dân sống ở những vùng xa xôi hẻo lánh. Trẫm
đối xử bình đẳng như thế với tất cả mọi người, mọi giới. Hơn nữa, trẫm đã
tôn kính mọi tôn giáo bằng mọi cách cúng dường nhưng cách tốt hơn hết là
trực tiếp thăm viếng họ. Pháp dụ này được ghi hai mươi sáu năm sau khi
trẫm đăng quang.
TTPD thứ
bảy (VII)
Thiên tử, vua
Piyadasi phán rằng: Trong quá khứ các vua đã nghĩ đến nhiều cách để tăng
sự ngưỡng mộ chánh pháp của dân. Nhưng dù vậy, sự ngưỡng mộ chánh pháp
của dân vẫn không tăng trưởng. Về việc này, Thiên tử, vua Piyadasi phán
rằng: việc này cũng đã xảy ra với trẫm. Trong quá khứ các vua đã nghĩ đến
nhiều cách để tăng sự ngưỡng mộ chánh pháp của dân. Nhưng dù vậy, sự
ngưỡng mộ chánh pháp của dân vẫn không tăng trưỏng. Nay phải làm sao để
khuyến khích thần dân tuân theo? Làm thế nào để sự ngưỡng mộ của thần dân
gia tăng qua sự truyền bá chánh pháp? Làm sao trẫm có thể nâng cao họ qua
sự truyền bá chánh pháp? Về việc này, Thiên tử, vua Piyadasi còn phán
thêm rằng: “việc này đã từng xảy ra với trẫm. Trẫm phải công bố chánh
pháp và chỉ dạy chánh pháp. Khi thần dân nghe đến lời tuyên cáo và sự chỉ
dạy, họ sẽ sống theo chánh pháp, tự nâng cao họ và tiến bộ qua sự truyền
bá chánh pháp.” Vì mục đích này mà trẫm phải công bố chánh pháp và trẫm
phải chi dạy chánh pháp bằng nhiều cách, và những quan lại được lệnh phải
gắng truyền bá và giải thích chánh pháp thực rõ ràng. Các quan đầu tỉnh
cai trị hàng trăm ngàn người được lệnh như thế để hướng dẫn dân ngưỡng mộ
chánh pháp.
Thiên tử, vua
Piyadasi phán rằng: “Với mục đích này, trẫm đã cho dựng những pháp thạch
trụ để công bố chánh pháp, và bổ nhiệm các Pháp Đại thần để truyền bá
chánh pháp.”
Thiên tử, vua
Piyadasi phán rằng: Dọc đường, trẫm đã cho trồng nhiều cây đa để lấy bóng
mát cho thú và người, và trẫm cũng đã cho trồng vườn xoài. Cứ cách khoảng
tám Krosas [64], trẫm cho đào giếng nước, xây nhà nghỉ chân, và ở nhiều
nơi trẫm cho xây bồn nước cho thú và người dùng. Nhưng đây chỉ là những
thành tựu nhỏ mà thôi. Những việc như thế làm cho dân vui đã được nhiều
tiên vương thực hiện. Trẫm làm những điều này chỉ với mục đích là mọi
người có thể hăng say thực hành chánh pháp.
Thiên tử, vua
Piyadasi phán rằng: Những đại thần của trẫm bận rộn với những công tác
giúp đỡ các bậc tu hành và cư sĩ các tôn giáo. Trẫm ra lệnh cho họ nên
chăm lo cho đời sống Tăng già. Trẫm ra lệnh cho họ nên chăm lo cho đời
sống của các tu sĩ Bà la môn và đạo sĩ Ajivvika. Trẫm ra lệnh cho họ nên
lo cho đời sống của Niganthas [65]. Trẫm ra lệnh cho họ chăm lo đời sống
của các tông phái khác.
Thiên tử, vua
Piyadasi phán rằng: Những đại thần này và những quan lại quan trọng khác
bận rộn phân phát quà tặng của trẫm cũng như của các hoàng hậu. Trong hậu
cung của trẫm, họ cũng tổ chức những sinh hoạt cứu tế khác, ngay ở đây
(kinh đô) và ở các châu quận. Trẫm ra lệnh cho các thái tử và hoàng tử
nên ban phát quà để những việc cao cả của chánh pháp và việc thực hành
chánh pháp được tăng tiến. Những việc thiện cao cả của chánh pháp và việc
thực hành chánh pháp bao gồm gia tăng lòng nhân từ, hào phóng quảng đại,
chân thật, trong sạch, tử tế và thiện tâm giữa mọi người.
Thiên tử, vua
Piyadasi phán rằng: Những việc thiện gì trẫm đã làm, đều được thần dân noi
theo và thực hiện. Nhờ vậy mà họ tiến bộ và còn tiếp tục tiến bộ qua sự
tôn kính cha mẹ, tôn kính các bậc trưởng thượng, lễ phép với người già và
tử tế với các bậc tu hành, với người nghèo, kẻ khổ và ngay cả với nô tì và
gia nhân.
Thiên tử, vua
Piyadasi phán rằng: Những tiến bộ này của thần dân qua chánh pháp được
thực hiện bằng hai cách, bởi những quy định chánh pháp và bởi thuyết
phục. Những quy định chánh pháp thì không có hiệu quả mấy, trong khi
thuyết phục thì hiệu quả hơn nhiều. Những quy định chánh pháp trẫm ban
chẳng hạn như phải bảo vệ một số thú, và nhiều quy định chánh pháp khác.
Nhưng chi bằng thuyết phục thì tiến bộ của thần dân qua chánh pháp có
nhiều hiệu quả hơn liên quan đến không hành hạ sinh vật và không sát sinh.
Về việc này,
Thiên tử, vua Piyadasi phán rằng: Ở đâu có thạch trụ hay mặt đá thì ở đấy
pháp dụ được khắc ghi để nó trường tồn đến đời con cháu trẫm, và còn dài
lâu như mặt trời và mặt trăng còn soi sáng để thần dân thực hành theo lời
dạy chánh pháp. Bởi qua thực hành chánh pháp thì an lạc mới có trong đời
này và đời sau. Pháp dụ này được ghi hai mươi bảy năm sau khi trẫm đăng
quang.
Ghi
chú:
64. Khoảng
1 mile.
65. Tu sĩ
Kỳ na giáo Jaina hay Jains. Giáo chủ là Makkhali Gosala, cùng thời với
Đức Phật Thích Ca.
E.
Tiểu Thạch Trụ Pháp Dụ
TTTrPD I
(Còn gọi là Thạch Trụ Pháp Dụ Rummindei)
Hai mười năm
sau khi đăng quang, Thiên tử, vua Piyadasi đã viếng thăm và lễ bái nơi này
bởi vì đây là nơi Đức Phật Thích Ca, Bậc Giác Ngộ đã ra đời [66]. Thiên
tử đã cho xây một tường đá bao bọc xung quanh và dựng một thạch trụ [67].
Và vì Đức Thế Tôn đản sinh ở đây, làng Lumbini [68] được miễn thuế và chỉ
đóng một phần tám nông sản.
Ghi
chú:
66. Lời
ghi này được khắc trên một thạch trụ tại Lumbini vào năm 249 TTL.
67. Bản
Dhammika: “Thiên tử đã cho tạc tượng và dựng một thạch trụ.”
68. Nay
được gọi là Rummindei.
TTTrPD II
(Còn gọi là Pháp Dụ Sanchi, hay Allahabad)
Thiên tử, vua
Piyadasi lệnh cho Đại thần cai trị ở Kosambi rằng [69]: Kẻ nào đã chia rẽ
tăng già không được thâu nhận vào Tăng già nữa.
Tăng già của
Tỳ khưu hay Tăng già của Tỳ khưu ni hay đã được hòa hợp, tiếp tục hòa hợp
cho đến đời con và cháu của trẫm, và còn dài lâu như mặt trời và mặt trăng
soi sáng.
Kẻ nào, dù là
Tỳ khưu hay Tỳ khưu ni, quấy rối trong Tăng già bị buộc phải mặc bạch y
[70] và không được sống trong tịnh xá [71]. Ước muốn của trẫm là Tăng già
hòa hợp và trường tồn mãi mãi.
Ghi
chú:
69. Phần
đầu của Pháp dụ này đã bị hư hỏng; chỉ có câu “chia rẽ” còn đọc được mà
thôi. Người ta phải dựa vào những Pháp dụ nơi khác để đọc được toàn bộ
nội dung của Pháp dụ này.
70. Chỉ
Tăng và Ni mới được mặc y vàng.
71.
Anabasasi.
TTTrPD
(còn gọi là Pháp dụ Sarnath)
[…] [72]
không ai được gây xáo trộn Tăng già. Nếu một Tỳ khưu hay một Tỳ khưu ni
quấy rối trong Tăng già, Tăng hay Ni ấy phải bị buộc phải mặc bạch y và
không được sống trong tịnh xá. Pháp dụ này phải được công bố trong Tăng
già của Tù khưu và trong Tăng già của Tỳ khưu ni.
Thiên tử, vua
Piyadasi phán rằng: Treo một bản của Pháp dụ này trong hành lang của tịnh
xá; trao một bản cho tất cả tín đồ. Tín đồ phải tụ họp mỗi ngày chay để
học tập về Pháp dụ này. Mỗi quan lại phải thường xuyên đến dự mỗi ngày
chay để làm quen và hiểu rành rẽ Pháp dụ này.
Lại nữa,
ngươi (chỉ vị quan đầu tỉnh) phải ra lệnh xuống khắp nơi thi hành nghiêm
chỉnh Pháp dụ này. Các phó quan thuộc quyền của ngươi cũng phải làm như
thế ở khắp các châu huyện.
Ghi
chú:
72. Ba
dòng đầu của Pháp dụ đã bị hư hỏng. Những mảnh còn sót đọc được cho người
ta gợi ý rằng vua Piyadasi (Asoka) lệnh cho các quan phải ngăn ngừa những
kẻ quấy rối trong Tăng già. Bản Dhammika không có Pháp Dụ này.
F.
Pháp Dụ Hang Động Karna Chaupar
Mười chín năm
sau khi đăng quang, Thiên tử, vua Piyadasi [73] tặng hang động này, trong
dãy đồi thơ mộng Khalatika, không hề bị ngập nước vào mùa mưa.
Ghi
chú:
73. Bản
Dhammika không có Pháp dụ này. Dãy đồi Barabar (thời Asoka gọi là
Khalatika) có 7 động: 4 ở đồi Barabar, 3 ở đồi Nagarjuni. 5 động được
tặng cho các đạo sĩ Ajivika làm nơi cư trú.
Tài liệu
Tham khảo
1.
Ven. S. Dhammika, “The Edicts of Kinh Aoka” Buddhist Publication
Society, Kandy, Sri Lanka, 1993.
2.
Nayarayanrao Appurao Nikam và Richard McKeon, “The Edicts of
Asoka,” The University of Chicago Press, 1959.
3.
Kenoyer, J.M., “Ancient Cities of the Indus Valley Civilization,”
Oxford university Press, Oxford, New York, Delhi, 1998.
4.
Possehl, G.L., “Indus Age; The Beginnings”, Oxford and IBH
Publishing, New Delhi, 1999.
5.
Possehl, G.L., “Harappan Civilization: a Recent Perspective”,
Oxford and IBH Publications, New Delhi, 1993.
6.
Possehl, G.L., “Indus Age – The Writing” Oxofrd and IBH
Publications, New Delhi, 1999.
7.
Shaffer, J.G., “The Indo-Aryan Invasions: Cultural myth and
Archaeological Reality” in “The People of South Asia” edited by J.R.
Lukas, Plenum Press, NY, 1984.
8.
Chris J.D. Kostman, M.A., “The Demise of Utopia: Contexts of
Civilizational Collapse in the Bronze Age Indus Valley,” JAGNES, the
Journal of the Assocation of Graduates in Near Eastern Studies, 2001.
9.
Romila Thapar, “Languages and Scripts of Asoka’s Inscriptions.”
Microsoft Encarta DVD, 2001.
10.
John Snelling, “The Buddhist Handbook,” B&N, NY, 1991.
Hoàng Tử Kunala
Đại công hộ
pháp giai đoạn tích cực cáo thành. Tâm hồn Đại đế Asoka đang được
tưới tẩm trong dòng suối phỉ lạc thì tin vui thứ phi hạ sinh hoàng nam vô
cùng khôi ngô tuấn tú, nhất là đối mắt đẹp và sáng như hai viên ngọc quý.
Đại đế nhìn không chớp mắt, vừa sung sướng vừa kinh ngạc vì suốt cuộc đời
Đại đế từ thiếu thời đến trưởng thành rồi nam chinh bắc phạt, gót chân in
dấu mọi miền lục địa Ấn Độ chưa bao giờ Đại đế thấy một người nào dù nam
hay nữ mà có đôi mắt đẹp như vậy.
Trong tư thế
nhìn hoàng nam một cách xuất thần, Đại đế bỗng suy nghĩ: nhờ ta chân chánh
trì hành chánh pháp nên chánh pháp đặc ân ban thưởng cho ta một quý tử.
Tin rằng đất nước sẽ thịnh trị, nhân dân sẽ phú cường, triều đại Maurya
sẽ miên trường, cửu trụ. Chính vì đôi mắt Hoàng tử quá đẹp khiến Đại đế
không tìm được một danh từ thích hợp, tương xứng đặt tên cho Hoàng tử.
Rất may, lúc bấy giờ, có một lão thần kính tâu Đại đế là ở Hy mã tuyết sơn
có một loại chim tên Kunala nổi tiếng có cặp mắt đẹp nhất, đẹp tuyệt không
có đối tượng so sánh. Đại đế đặt tên Hoàng tử là Kunala.
Tám cung nữ
được tuyển chọn đặc trách phụng hầu Hoàng tử; hai cô chuyên việc ẵm bồng,
cưng chiều chăm chút Hoàng tử; hai cô làm bạn bày trò đùa chơi với Hoàng
tử; hai cô giữ vai nhũ nữ và hai cô chuyên trách việc vệ sinh, tắm rửa.
Đến tuổi
trưởng thành, Hoàng tử kết hôn với Công nương Kancanamala một người
đẹp thuộc hoàng triều Maurya. Cuộc hôn nhân vô cùng hạnh phúc.
Nhị vị sống như tiên nam tiên nữ trong tinh thần tương kính, tương nhường,
tương thân, tương ái, nhất là nghiêm trì bổn phận vợ chồng theo lời Phật
dạy, như năm bổn phận chồng đối với vợ:
-
Luôn đối xử hòa ái
-
Không bạc đãi khinh khi
-
Một dạ thủy chung
-
Giao quyền nội chính
-
Tùy khả năng mua sắm tư trang
cho vợ
Năm bổn phận
vợ đối với chồng:
-
Quán xuyến công việc gia đình
-
Cư xử với hai họ một cách
đồng đều
-
Một lòng tiết hạnh
-
Gìn giữ tài sản
-
Cần mẫn trong bổn phận
Chính những
yếu tố đạo đức này trợ duyên tích cực đời sống lứa đôi hạnh phúc của Hoàng
tử Kunala và Công nương Kancanamala. Một hôm, Hoàng tử theo
Đại đế viếng chùa Kukkutarama. Một danh lam nổi tiếng, một tu viện
đào tạo Tăng sĩ thực tu, thực học hàng trăm vị. Ngài tu viên trưởng là
một vị thánh Tăng viên đắc ngũ minh tức khả năng quán triệt trong năm lĩnh
vực.
1.
Pubbenivasanussatinana: Túc mạng minh tức khả năng hồi
nhớ tiền kiếp bản thân và mọi loài chúng sinh.
2.
Dibbasota: Thiên nhĩ minh tức khả năng nghe được mọi thứ
âm thanh.
3.
Cutupapatanana: Thiên nhãn minh tức khả năng nhìn thấy diễn
tiến sinh tử của khắp mọi loài chúng sinh kể cả hữu tình tam giới.
4.
Cetopariyannana: Tha tâm minh tức khả năng biết rõ tâm tư
của tất cả chúng sinh dù chỉ là ý nghĩ thầm kín nhất.
5.
Iddhividhi: Thần túc minh tức khả năng biến hóa và thị hiện
các loại thần thông.
Hòa thượng và
Đại đế đàm đạo rất tương đắc, thời gian tương đối khá lâu. Suốt thời gian
ấy, Hoàng tử kính cẩn và nghiêm túc theo dõi. Sau buổi đàm đạo, Hòa
thượng chăm chú nhìn Hoàng tử rồi quay sang Đại đế:
Tâu Hoàng
thượng, đôi mắt Hoàng tử đẹp vô cùng, vẻ đẹp thiên phú, có một không hai,
lần đầu tiên trong cuộc đời bần đạo mới được chiêm ngưỡng. Bần đạo có
từng nghe một loài chim ở tuyết sơn Hy mã tên Kunala nổi tiếng có
cặp mắt tuyệt đẹp, đẹp vô song. Tuy nhiên, bần đạo nghĩ, đôi mắt Hoàng tử
còn đẹp hơn nhiều.
Qua thiên
nhãn thuần tịnh, Hòa thượng thấy rõ một đại nạn thảm khốc vô cùng thương
tâm sẽ xảy đến Hoàng tử khiến đôi mắt phải bị mù lòa. Nghĩ đến công trình
hộ pháp đắc lực của Đại đế cũng như nếp sống đạo đức, hiền thiện của Hoàng
tử, Hòa thưọng không tiện nói thẳng, nhưng đề cảnh giác định lý vô thường
thuận, nghịch, khổ lạc của vạn hữu và để nhị vị ít nhiều xa gần, trực
tiếp, gián tiếp đề cao cảnh giác một cách như lý tác ý, Hòa thượng khai
thị:
Tâu đại
vương, trong bài kinh hạnh phúc, điều thứ 38 Đức Phật dạy: Khi xúc chạm
việc đời, tâm không động không sầu, tự tại và vô nhiễm, là hạnh phúc tối
thượng. Đại vương nhờ lĩnh hội chánh pháp và y giáo phụng hành, do
đó, cuộc sống đạo đức, hiền thiện, tự lợi lợi tha, tự độ độ tha, khiến đất
nước thái bình thịnh trị, nhân dân sống cuộc đời an cư lạc nghiệp, mưa
thuận gió hòa, xa gần một lòng thuần phục. Tuy nhiên, đã gọi là việc đời,
là thế sự, là cuộc sống thì định luật vô thường chi phối, thao túng, sai
sử trong suốt cuộc sống liên tục, không hề gián đoạn, từ sát na tâm đến
sơn hà, đại địa, tam thiên đại thiên thế giới, ba cõi dục, sắc và vô sắc
qua tám thế gian pháp còn gọi là bát phong tức tám ngọn gió thổi ngã bạt
ngàn vạn hữu. Bát phong gồm: được lợi, mất lợi, được danh, mất
danh, được khen, bị chê, lạc, khổ.
Khi chúng ta
xúc tiếp những sự kiện khả ý, khả lạc, khả hỉ, khả ái thì chúng ta thích
thú, đam mê, lập tâm chiếm hữu bất chấp thủ đoạn, bất chấp sự đau khổ tha
nhân miễn thỏa lòng tham dục. Trong trường hợp ngược lại thì bực bội, bất
mãn, tức tối, nóng giận. Muốn loại bỏ đuổi xô, từ chối, vứt quăng nhưng
bất lực, thì càng sân si, phiền não, oán ghét, uất hờn. Một trạng thái
của lòng sân hận.
Tâu Đại
vương, suốt tiến trình cuộc sống, trong một tương lai gần hoặc xa, nếu
đương đầu một sự kiện bất khả ý, bất khả hỉ, bất khả ái, bất khả lạc xảy
ra cho người thân hoặc bản thân thì Đại vương hãy tâm tâm niệm niệm: mình
không phải điên khùng đi tìm kiếm tai họa mà cũng không phải chi tiền mua
chác vào thân, thế mà tai họa đã xảy đến thì chính nghiệp là tác nhân chủ
động. Vì mỗi chúng sinh là kết tinh của những gì đã tạo và sẽ là kết quả
những gì đang tạo. Quá, khứ, hiện tại, vị lai kết nối bằng những tác ý
thiện hay bất thiện. Cũng đừng bao giờ oán trách, đổ thừa cho bất cứ ai.
Nếu có trách thì trách cái lỗi của sự luân hồi. Còn tự thân và ngọai nhân
là những nạn nhân vô tôi.
Đại đế vô
cùng cảm kích, nét mặt rạng rỡ tươi vui chứng tỏ đã lĩnh hội sâu sắc lý
đạo thâm viễn mà Hòa thượng khai thị khái lược nhưng hàm súc. Nhị vị đảnh
lễ Hòa thượng và ra về.
Một Thảm Họa
Kể từ ngày
hồi cung, sau chuyến cùng Đại đế viếng thăm tu viện Kykkutarama và
được nghe bài pháp ngắn mà Hòa thượng Tu viện trưởng khai thị, Hoàng tử
Kunala cảm thấy vô cùng phấn khởi nhất là càng tư duy sâu sắc định
luật vô thường qua sự chuyển biến sinh diệt liên tục của các tế bào, của
hơi thở ra vô, của từng nhịp đập con tim, của thực trạng trẻ trung chuyển
sang già nua, khỏe mạnh đưa đến bệnh hoạn, sống đi dần đến chết.
Hoàng tử cũng
cảm thấy rất rõ sự biến dịch của vũ trụ mà biểu trưng như: hoa nở để tàn,
trăng tròn để khuyết, đoàn tụ để chia phôi, gặp để rồi xa, quen rồi thành
lạ. Tất cả là màn kịch đời. Một số người là những kịch nhân non tay
nghề. Trong khi tuyệt đại đa số là những khán thích giả ham vui, bị các
kịch nhân lừa bịp qua những vai dữ hiền, trung nịnh, ngu trí, khổ vui
khiến mọi người khóc cười, buồn vui, thương ghét, khen chê vừa tốn tiền
vừa mất thì giờ, bị lừa mà không biết.
Nhờ tư duy
chân chính, Hoàng tử sống rất bình dị. Hoàng tử thấy mọi hiện thành và
tiêu tán của một kiếp người chỉ là sự đắp đổi liên hồi của dòng đời tuôn
chảy thiên thu hoặc chỉ là những nhân duyên tổng hợp mà có và sẽ trở thành
không, khi nhân duyên thất tán. Hoàng tử thấy rõ thân phận mình cũng là
kẻ vô hộ, vô chủ, vô quyền và hoàn toàn bất lực. Cuộc sống Hoàng tử sau
ngày viếng chùa Kukkutarama, được nghe pháp thoại của Hòa thượng Tu
viện trưởng, hoàn toàn thay đổi. Khi xưa Hoàng tử thích cao lương mỹ vị
nay thì có khuynh hướng ăn uống đạm bạc; xưa rất thích giải trí bằng những
cuộc ca, vũ, nhạc, kịch giờ thì thích sống nhiều về nội tâm. Tóm lại, lúc
trước Hoàng tử thích cuộc đời hưởng thụ vật chất phù phiếm xa hoa, giờ thì
dùng phần lớn thì giờ cho cuộc sống tâm linh: có thí, có giới, có thiền.
Công chúa, vợ Hoàng tử, mẫu người đức hạnh, ngoan hiền, đẹp người, đẹp
nết, hội đủ tứ đức: công, dung, ngôn, hạnh nên rất hoan hỉ và tùy thuận
cuộc sống Hoàng tử.
Những tưởng
cuộc sống vương giả, hài hòa, tuyệt vời thơ mộng sẽ mãi mãi reo chảy như
suối nguồn bất tận, nào ngờ sóng dậy đất bằng, một đại họa vô cùng thảm
khốc đã xảy ra cho Hoàng tử.
Có một lần,
Đại đế theo thường lệ đều có cuộc hành hương chiêm bái bốn thánh địa và
một số thánh tích liên quan công trình hoằng pháp của Đức Phật. Mỗi
chuyến hành hương mất thời gian khá lâu. Hoàng tử Kunala được chỉ
định tạm chấp chính trong thời gian ấy. Một thứ phi của Đại đế tương đối
trẻ trung hương sắc nhưng ít được Đại đế gần gũi tâm tình. Do đó, sự đòi
hỏi nhục dục là sự kiện tất nhiên. Cộng thêm thứ phi vốn có tình cảm đặc
biệt với Hoàng tử mà động cơ chính là đôi mắt tuyệt đẹp, vừa chiếu sáng,
vừa thu hút, vừa khêu gợi. Thứ phi thầm ước mơ sẽ có một ngày chiếm hữu
bằng được con người có cặp mắt đẹp độc nhất vô nhị ấy. Thì nay thời cơ đã
đến. Đại đế đi xa, Hoàng tử tạm chấp chính.
Thứ phi nhiều
đêm không ngủ, trăn trở nghĩ kế thế nào để Hoàng tử không thể từ chối đến
cung bà. Cuối cùng bà đã nghĩ được cách chước giả đau nặng và quả thật
Hoàng tử thấy có bổn phận đến vấn an. Vì dù sao thứ phi trên danh nghĩa
chính thức là dì mẫu Hoàng tử. Trong cuộc gặp gỡ này, thứ phi không nén
được tấm lòng yêu thương vô cùng rạo rực, mãnh liệt đã ấp ủ từ lâu và
chính đây là cơ hội ngàn vàng nếu bỏ lỡ sẽ không hy vọng tái diễn. Thế là
thứ phi đã thực sự tỏ tình với Hoàng tử và tha thiết yêu cầu được Hoàng tử
nghĩ tình đoái thương dù chỉ một lần cũng mãn nguyện và sẽ sống với kỷ
niệm ấy cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay.
Sự tình được
ghi nhận là Hoàng tử đã cương quyết khước từ, nại lý do thứ phi là người
phối của phụ vương mình và cũng là thứ mẫu của mình. Hoàng tử khuyên thứ
phi cố đè nén tình cảm riêng tư và hãy tiếp tục giữ tròn trinh tiết với
phụ vương mình. Nói xong, Hoàng tử bỏ ra về.
Thật tội cho
thứ phi, bà có cảm tưởng như từ tầng cao té xuống, vừa chới với hụt hẫng,
tim bà đau nhói, nhịp đập như ngừng lại, nỗi tuyệt vọng đã xé nát và bóp
chết hồn bà. Những hy vọng vô cùng phấn khởi ban đầu nay đã biến thành
mây khói. Bà nằm vất vả đập mình trăn trở, toàn thân mềm nhũn như người
bệnh nặng lâu ngày. Yêu thương sẵn sàng hiến dâng bị từ chối, hy vọng để
rồi tuyệt vọng, bà trách cứ oán hận và muốn gào thét lên thật to để vơi
nỗi niềm uất tức. Nhưng địa vị thực tại không cho phép, càng đè nén, càng
nặng nhọc. Cái nặng nhọc thể chất thì có thể làm cho giảm thiểu. Nhưng
cái nặng của tâm hồn thì khó có thuốc chữa. Để cho vơi nỗi niềm sầu hận,
cách hay nhất là trút cho đối tượng nhẫn tâm từ chối tình yêu của mình.
Thế là vô
hình trung Hoàng tử trở thành đối tượng để bà rửa hận. Những gì bà không
chiếm được thì nhất định không để người khác sở hữu. Bà cũng nghĩ, thái
độ từ chối tình cảm của bà cũng như cự tuyệt tấm thân ngọc ngà mà bà sẵn
sàng hiến dâng là Hoàng tử đã làm nhục bà. Một sự nhục nhã không thể nào
tha thứ. Lệnh bà Tisyarakshita nhất quyết phải trả mối hận lòng.
Vấn đề là thời cơ. Bà kiên tâm chờ đợi…
Trong thời
gian này, nơi biên thùy dân chúng nổi loạn. Cuộc nổi loạn được ghi nhận
là trầm trọng. Đức vua muốn ngự giá thân chinh dẹp loạn. Nhưng bá quan
triều thần văn võ đồng loạt yêu cầu đức vua ủy cử Hoàng tử Kunala.
Đức vua chuẩn tấu. Biết được tin Hoàng tử đến trấn nhậm, toàn dân phấn
khởi, hồ hởi đồng kéo nhau đón chào vui mừng hoan hô gần như bất tận. Kể
từ ngày Hoàng tử chấp chính, cai trị theo chánh pháp khiến dân chúng một
lòng thuần phục. Đời sống ấm no hạnh phúc, mưa thuận gió hòa, quân dân
đoàn kết nhất trí, lạc nghiệp âu ca. Tin chiến thắng vẻ vang của Hoàng tử
được khẩn tấu về triều. Đức vua và bá quan văn võ vô cùng vui mừng phấn
khởi.
Niềm vui lớn
trong lòng Đức vua không được bao lâu thì ngài ngã bệnh. Bệnh tình càng
ngày càng trầm trọng. Đức vua muốn triệu Hoàng tử hồi triều để nhường
ngôi. Nhưng thứ phi Tisyaraksita túc trực suốt thời gian Đức vua
lâm trọng bệnh nên bà kịp thời khẩn khoản:
Muôn tâu,
thần thiếp mạo nghĩ, bệnh tình lệnh Hoàng thượng, thần thiếp có thể điều
trị được. Nếu Hoàng thượng cho phép, đồng thời kính xin Hoàng thượng hạ
chỉ không cho bất cứ thầy thuốc nào kể cả ngự y được dự phần điều trị.
Đức vua chuẩn
tấu.
Sự thật, thứ
phi cũng khá tinh thông y khoa vì thưở nhỏ được phụ thân truyền dạy, cộng
thêm sở thích và sự cố gắng học tập nên bà cũng thuộc hạng thầy thuốc
giỏi. Vả lại, thứ phi luôn túc trực bên giường bệnh nên lệnh bà truyền
những danh y khắp trong nước cố vấn cho bà cách riêng và cẩn mật.
Không bao
lâu, bệnh tình nhà vua thuyên giảm, cuối cùng bình phục hẳn. Đức vua vô
cùng vui mừng phấn khởi và rất cảm kích thứ phi. Đức vua hứa sẽ chuẩn tấu
vô điều kiện bất cứ yêu cầu nào. Đây là cơ hội ngàn năm một thưở, bà có
thể trả mối hận tình mà bà tự biên tự diễn nhưng hoàn toàn thất bại, bà
không cam tâm, không tự nhận lỗi, không dám trực diện với tòa án lương
tâm, bà tự bào chữa chạy tội, và bà trút tất cả tội lỗi, uất hận, nhục nhã
lên Hoàng tử. Bà tâu xin Đức vua ban cho bà cái đặc ân được làm vua bảy
ngày. Đức vua cảm thấy chới với, buồn lo. Nhưng Thiên tử bất hí ngôn.
Đức vua đành phải chấp thuận.
Trong thời
gian làm vua, bà khéo điều hành quốc sự rất tốt. Có một mật chỉ bà muốn
chính thức hóa bằng dấu ấn ngọc tỉ. Trong khi Đức vua chỉ trao quyền
nhiếp chính nhưng không trao ngọc tỉ. Do vậy muốn hợp thức hóa chiếu chỉ
bắt buộc phải có dấu ngọc tỉ. Lệnh bà thừa lúc Đức vua đang an giấc đã
lén đóng được dấu ngọc tỉ vào chiếu chỉ và truyền giao cho Hoàng tử trong
thời gian kỷ lục. Đại ý chiếu chỉ hài tội khi quân phạm thượng vô cùng
trầm trọng mới phát giác sau khi Hoàng tử Kunala rời kinh đô đến
trấn nhậm Takkasila. Đại tội ngỗ nghịch bất đạo này, Hoàng tử phải
bị móc đôi mắt.
Chiếu chỉ đã
gây một sự bất mãn rất lớn. quần chúng phản đối, miệng chuyền miệng huyên
náo, ồn ào, náo động như trời long đất lở: nào là Hoàng tử vô cùng hiền
lành nhân đức, thương dân như ruột thịt. Từ ngày Hoàng tử đến trấn nhậm
không những quần chúng một lòng tuân phục khuôn phò, mà trời cao cũng
thương tình gia hộ. Người hiền đức như vậy mà có thể bị tội móc mắt hay
sao? Chúng ta quyết không để cho bất cứ ai đụng đến Hoàng tử. Người nào
dám đụng đến Hoàng tử là phải bước qua xác chết chúng ta. Trước cao trào
phản kháng của quần chúng, không ai dám thi hành quân lệnh.
Nơi địa điểm
quỳ tiếp chỉ, Hoàng tử cất cao giọng như sư tử hống:
Hỡi ba quân
tướng sĩ, hỡi bá tánh muôn dân, ta phụng mệnh phụ hoàng đến đây để vãn hồi
trật tự an ninh, thiết lập một nền quân chủ pháp trị, cải tiến hệ thống an
sinh xã hội, tạo dựng nền kinh tế thực sự trù phú, giúp toàn dân được sống
an lạc; những sứ mệnh này ta đã hoàn thành. Nay phụ hoàng hạ chỉ giáng
tội thì ta không có quyền kháng chỉ. Vì làm như vậy là lỗi đạo quân thần
và là đứa con bất hiếu.
Qua thái độ
can dũng quyết chí, qua câu nói nghiêm hùng đầy trung can nghĩa khí nhất
là âm thanh vang vọng như sư tử hống của Hoàng tử khiến mọi người đứng yên
thinh lặng như vô hồn, không có bất cứ phản ứng nào, ngoại trừ cặp mắt mở
thật to, hơi thở gấp rút, đứt khoảng, cơ hồ trái tim ngừng đập, máu huyết
ngừng chuyển. Trong giây phút trời sầu đất thảm, người người ngạt thở
chết trân ấy, bản án được thi hành…
Hoàng tử được
Công chúa dắt đi trên bước đường vô định, rày đây mai đó, dầu giãi nắng
mưa, sống độ nhật bằng nghề đàn hát, tá túc xó chợ mái nhà, gầm cầu phước
xá. Trên bước đường lưu ly, tứ cố vô thân lại thêm thân phận mù lòa, nhờ
tiếng đàn giọng hát và tâm tình chung thủy, tất dạ đá vàng, hết lòng phục
dịch, bất kể ngày đêm, đói no cơ cực của Công chúa, khiến Hoàng tử vô cùng
an tâm mãn nguyện với cuộc sống tuy bất toàn nhưng không bất hạnh.
Phụ Tử Trùng Phùng
Một hôm trên
bước đường hành khất, vợ chồng Hoàng tử may mắn được người nài giữ tượng
của Đức vua nhận cho tá túc vì thương tư cách đem tiếng đàn giọng hát để
đổi miếng ăn thay vì ăn xin như những kẻ vô nghề nghiệp, vô tích sự. Vả
lại, người nài rất mê thích tiếng đàn giọng hát của Hoàng tử. Anh cảm
nhận có một sự kiện quan trọng, một quá khứ đáng kính mà hiện tại thì đáng
trân quý, đáng thông cảm nơi con người Hoàng tử.
Một đêm
trăng, dưới ánh sáng mông lung huyền ảo, Đức vua Asoka không ngủ
được, cảm thấy nhớ thương Hoàng tử ngập lòng. Khiến Đức vua chợt nhớ ba
lần mộng triệu đều thấy Hoàng tử hai mắt bị mù. Đức vua càng sốt ruột,
nóng lòng, linh tính báo điểm đứa con vô cùng yêu quý của mình đang ẩn ẩn
hiện hiện đâu đây. Đức vua bước ra hành lang vọng nguyệt lầu, đứng nhìn
cảnh vật đang trải mình dưới ánh trăng vàng.
Bỗng từ góc
vườn thượng uyển, tiếng đàn giọng hát vô cùng truyền cảm ấy sao mà giống
giọng hát tiếng đàn của Hoàng tử. Quá nóng lòng, không kiên tâm chờ đợi
đến ngày hôm sau. Bình minh chưa ló dạng, Đức vua khẩn lệnh cho cận vệ
tin cẩn tìm cho ra người nào đã đàn hát khuya tối hôm qua. Cận vệ quân
khẩn báo: muôn tâu, đó là tiếng đàn giọng hát của một người mù có vợ hiện
đang tá túc nơi tư xá anh nài tượng. Cái cảm giác rất mạnh đến với Đức
vua là người mù này có liên quan mật thiết với Hoàng tử. Đức vua hạ lệnh
truyền triệu vợ chồng người mù vào cung.
Trong cuộc
gặp gỡ này, đối với đức vua, người mù gày đét, da dẻ sạm đen, quần áo lam
lũ và người vợ cũng không khá mấy ngoại trừ đôi mắt không mù, nhất thời,
Đức vua không làm sao nhận ra Hoàng tử và Công chúa. Tuy nhiên, Đức vua
cảm nhận một thứ tình cảm vô cùng đặc biệt, thiêng liêng đối với vợ chồng
người mù.
Sự kiện diễn
tiến sơ khởi, Đức vua muốn được nghe người mù đàn hát. Qua tiếng đàn
giọng hát nhất là lời nhạc sao mà giống của Hoàng tử Kunala đứa con
vô cùng yêu quý. Cố nén lòng, chờ bản nhạc chấm dứt, Đức vua gượng tỉnh,
nhỏ nhẹ hỏi thăm thân thế. Hoàng tử không dám trình tấu sự thật vì sợ
phạm tội khi quân. Nhưng Công chúa không còn chịu đựng được nữa nên đã
dập đầu vừa khóc vừa kể đầu đuôi tự sự đã khiến Hoàng tử mù lòa và trở
thành người hành khất. Đức vua phán hỏi Hoàng tử có đúng vậy không.
Hoàng tử cúi đầu xác nhận.
Đức vua ôm
chầm Hoàng tử và Công chúa. Những giọt lệ tình thâm tuôn tràn ướt đẫm
gương mặt ba người. Sau nỗi mừng vui buồn tủi, Đức vua xác nhận mình
không có hạ chỉ ác độc như vậy và khẩn lệnh điều tra hỏa tốc, thì ra thủ
phạm chính là thứ phi Tisyarakshita. Đức vua hạ lệnh xử trảm,
nhưng Hoàng tử phủ phục tấu trình:
Muôn tâu phụ
hoàng, con thiết nghĩ, sự kiện đã xảy ra lâu rồi. Trong khi phụ vương,
mẫu hậu, bá quan triều thần văn võ cũng như bản thân con đều không muốn,
muôn vạn lần không muốn, nhưng nó cũng vẫn ngang nhiên xảy ra. Nhờ chánh
pháp soi đường, con tự nhận chính do nghiệp lực tác động,vậy thì không
phải lỗi của bất cứ ai ngay cả thứ phi mà thực sự là lỗi của luân hồi. Vì
có luân hồi nên có tạo nghiệp và chúng sinh phải nhận lãnh hậu quả chính
báo hoặc y báo, không có trường hợp ngoại lệ, cũng như không có cứ điểm an
toàn thoát khỏi nghiệp lực.
Muôn tâu,
chắc phụ hoàng còn nhớ. Ngài phương trượng tu viện Kukkutarama
cũng có khai thị gián tiếp cho con là tất cả sự hiện thành và tiêu tán của
một kiếp người chỉ là sự đắp đổi liên hồi của vòng nghiệp thức, còn bản
thân con người là vô hộ, vô chủ, vô quyền, không khác thân phận bọt bèo
trong dòng nước tuôn chảy thiên thu. Tâu phụ hoàng, quả thật con có lĩnh
hội lý đạo nhiệm huyền xảy ra, con không hề oán giận dù một chút hận lòng
đối với thứ phi mà con được biết sau đó không lâu. Chẳng những con không
oán ghét, trái lại con thực sự biết ơn quý phi. Chính khi nhục nhãn không
còn thì huệ nhãn phát sinh, và hiện con sống rất tự tại an lạc.
Tâu phụ
hoàng, nếu ý nghiệp con hoàn toàn tịnh thiện, không một chút oán hận bất
cứ ai kể cả thứ phi và nếu khẩu nghiệp của con thật sự là chân thật ngôn
thì xin đôi mắt con được trở lại bình thường.
Thật là phi
thường! Thật là kỳ diệu! thật là thiêng liêng! Ngay khi lời phát nguyện
vừa dứt thì lập tức đôi mắt Hoàng tử sáng và đẹp trở lại có phần hơn xưa.
Mọi người nhất là Đức vua đều không dám tin ở mắt mình. Nhưng sự thật thì
đã xảy ra trên sức tưởng tượng con người.
Quá vui mừng,
Đức vua ôm chặt Hoàng tử vào lòng và những giọt lệ mừng vui tuôn chảy gần
như bất tận. Sau giây phút xúc động, bàng hoàng, sung suớng. Hoàng tử
không quên cẩn tấu xin đức vua mở lượng hải hà tha tội chết cho thứ phi.
Vấn đề được ghi nhận là thứ phi bị giam và chết trong thiên lao.
Hoàng Hôn Kiếp Người
Kể từ ngày
Đại đế mở mắt nhìn đời, khóc òa, hoảng hốt, thời gian thắm thoắt thoi đưa,
nay thì tuổi thọ sáu mươi. So với đất trời thì sáu mươi năm quá ngắn.
nhưng đối với một kiếp người thì đã khá dài.
Suốt sáu mươi
năm sống thì bốn mươi năm sau cuộc đời, Đại đế thống nhất lục địa Ấn Độ,
cai trị bằng chánh pháp, khiến quốc độ được thái bình thịnh trị, toàn dân
được sống cuộc đời an cư lạc nghiệp. Có thể nói, đại đế Asoka là
một minh quân thánh đế vô tiền khoáng hậu chẳng những của lục địa Ấn mà
gần như của thế giới. Nhưng hoa nở để tàn, trăng tròn để khuyết, bình
minh rồi lại hoàng hôn, nếu tự tánh vũ trụ là vô thường thì thân phận con
người vốn nhỏ hơn hạt cát sa mạc, rồi sẽ thế nào, ra sao. Một vấn nạn
không có đáp án. Và cái tự tánh vô thường không có đáp án ấy đã trùm phủ
lên thân phận Đại đế Asoka người mang tên vô sầu nhưng vẫn bị sầu
chi phối.
Cuối năm ấy,
sức khỏe Đại đế không được tốt, bệnh hoạn thất thường, ngày càng tiều
tụy. Thân hình vạm vỡ, oai vệ, phong độ thưở nào, giờ chỉ là một thân xác
héo gầy, xanh xao, mệt mỏi. Ngự y gần như ngày đêm túc trực thuốc men
điều trị. Thế nhưng bệnh tình Đại đế chẳng những không thuyên giảm mà có
phần càng thêm trầm trọng. Thân Đại đế tuy bệnh nhưng tâm rất bình nhiên,
tỉnh thức vì Đại đế có quá trình tu dưỡng, nhất là thường xuyên niệm năm
pháp quán:
-
quán tuổi già
-
quán thân bệnh
-
quán sự chết
-
quán ái biệt ly
-
quán hạnh nghiệp
Chính nhở
thường xuyên quán tưởng năm pháp này mà Đại đế luôn giác tỉnh, an bình
không buồn lo, không hoảng sợ. Sự sống chết đối với Đại đế chỉ là một sát
na thay đổi, hoán chuyển giữa sắc tướng cũ và mới mà định lý vô thường đã
diễn bày từ vô thủy đến vô chung. Chư trưởng lão tu viện Kukkutarama
và Asokarama luân phiên đến triều vấn an Đại đế. Thường thì mỗi
lần viếng thăm, chư trưởng lão đều ban Pháp dược cho Đại đế, đại lược:
Muôn tâu, mọi
loài hữu tình sống bất an thường trực vì thực trạng già, đau, chết, ái
biệt ly, oán tăng hội, sầu, bi, khổ, não và tóm lược chính sự chấp thủ ngũ
uẩn là khổ, khổ triền miên, khổ bất tận. Sống là nhân chết là quả. Bình
minh là khởi đầu của hoàng hôn. Nước trên nguồn luôn chảy về vùng đất
thấp. Trăng tròn rồi lại khuyết. Hoa nở để tàn. Xuân, Hạ, Thu, Đông,
ngày, đêm đắp đổi liên hồi không hề gián đoạn. Thời gian cùng trôi qua âm
thầm, vô tri nhưng tàn phá kiếp người vô cùng khủng khiếp. Vô thường đến
đâu thì gieo rắc tang thương, chia ly, đau khổ chết chóc, sầu bi, ưu não
và tất cả những nỗi thống khổ ngoại tại, nội tại. Sự sống chỉ tồn tại qua
chốc thoáng của dòng tâm thức mà diễn trình như sau:
Khi giai
trình tâm là quá khứ thì sự sống chỉ có lúc bấy giờ mà không có trong hiện
tại và sẽ không có trong tương lai.
Khi giai
trình tâm là hiện tại thì sự sống chỉ có lúc bấy giờ mà đã không có trong
quá khứ và sẽ không có trong tương lai.
Khi giai
trình tâm là vị lai thì sự sống chỉ có lúc bấy giờ mà đã không có trong
quá khứ và không có ngay trong hiện tại.
Không ai có
thể tắm hai lần trong dòng nước trôi chảy liên tục. Sự sống, tự ngã, và
vui khổ biểu hiện qua tâm thức. Khi giai trình tâm thức qua rồi thì không
ai còn tái nhìn thấy những gì mình đã từng nhìn thấy vì tâm hành luôn biến
chuyển, chảy trôi.
Muôn tâu, đức
Từ phụ dạy: Những ngã sở mà người đời chấp thủ là bản ngã, chung cuộc
cũng phải đành ra đi với hai bàn tay trắng. Bậc trí vượt ra ngoài hệ lụy
và không chấp thủ bất cứ điều gì. Do đó, không sầu khổ.
Pháp thoại
của chư tôn trưởng lão khích lệ, an ủi Đại đế rất nhiều. Đại đế cảm nhận
pháp thoại có một giá trị vô tỷ, cao khiết đáng được trân quý hơn bất cứ
bảo vật nào trên thế gian kể cả thiên bảo trên thiên giới. Sau khi chư
tôn trưởng lão ra về, Đại đế cho gọi chính cung Hoàng hậu, các phi tần,
các Hoàng tử, hoàng tôn và để lời an ủi đầy đạo vị:
Tất cả những
người thân thương của trẫm, hãy lắng lòng thanh tịnh thọ trì những Phật
ngôn thiết yếu và thực tế mà Đức Thế tôn hằng giáo huấn. Rằng các hành vô
thường, sinh diệt là tự tánh. Sự hiện thành, tiêu tán của một kiếp người
chỉ là vấn đề thời gian. Có một sự thật rất phũ phàng xảy ra trên thân
phận con người là người làm không muốn được, người mua không muốn dùng,
người dùng hoàn toàn không biết: đó là quan tài. Do đó, đạo lộ tốt
đẹp nhất mà mọi người phải hành trình là thực hành chánh pháp, lấy chánh
pháp làm nơi nương tựa, làm đuốc soi đường, thì sẽ được thoát khổ hiện
kiếp và hậu kiếp. đạo lộ mà trẫm lỡ hành trình thời niên thiếu hoàn toàn
tà đạo, các người tuyệt đối không được bắt chước. Còn đạo lộ mà trẫm hành
trình sau khi lĩnh hội chánh pháp và y pháp phụng hành, chính đạo lộ này
mới thực sự là chánh đạo, các người nên hành trình dù phải hy sinh thân
mạng. Nói đến đây, đại đế nhắm mắt và im lặng. Nhưng không lâu Đại đế từ
từ mở mắt, nói tiếp:
Loài người và
mọi loài hữu tình đềư bị bánh xe luân hồi vận hành luân chuyển trong quá
trình sinh tử tử sinh, kiếp này kiếp khác liên tục không gián đoạn, gây vô
vàn đau khổ phiền não qua thời gian vô tận không gian vô cùng. Khi nào
bánh xe luân hồi bị phá gãy bởi dụng cụ thánh quả thì não phiền chấm dứt,
đau khổ không còn. Nói đến đây, đại đế thở dài và im lặng.
Sanh Ra Để Làm Gì
Ngày hôm sau,
khi hoàng hôn nhạt màu, ngài Tu viện trưởng của tu viện Asoka có
thị giả theo hầu, đến triều xin được vấn an sức khỏe Đại đế. Sau phần
thăm viếng, đại đế phán hỏi ngài Tu viện trưởng: Thưa ngài, loài người
sinh ra để làm gì?
Muôn tâu, có
nhiều cách trả lời, chẳng hạn như: sinh ra để chết, sinh ra để chịu khổ,
sinh ra để trả nghiệp.
Câu nói sinh
ra để chết vì con người không muốn chết, cũng phải chết, thánh phàm, vua
dân, sang hèn, ngu trí, quyền quý thế cô, tất cả đều phải chết; không có
trường hợp ngoại lệ.
Câu nói sinh
ra để chịu khổ ám chỉ con người vốn mang theo cái khổ từ phút chào đời mà
âm thanh lúc chôn nhau là tiếng khóc. Khóc vì nỗi thiết tha thế sự, bãi
bể nương dâu, đói cơm, khát nước, nóng như thiêu đốt, lạnh như cắt thịt
da, thậm chí các loài bò sát cắn, chích nhức đau đôi khi gây thương tích
đe dọa mạng sống. Ngoài ra những lời chửi mắng, nhục mạ, sỉ vả, nguyền
rủa tổ tiên, ông bà, cha mẹ khiến mình đau khổ. Vả lại, tam giới là lò
lửa, con ngưòi phải nóng khổ là chuyện đương nhiên. đời là bể khổ mênh
mông, sóng khổ xô đẩy dập dồn, khách trần lặn hụp đến đâu cũng không thoát
khỏi bể khổ.
Thưa Tôn giả,
vậy cá nhân Tôn giả sinh ra để làm gì?
Muôn tâu,
theo bần đạo thì sinh ra để sống trọn vẹn đức tính của một con người.
Xin Tôn giả
từ bi giải thích.
Muôn tâu, Đức
Thế tôn dạy: Trên thế gian có nhiều hạng người.
Mang hình hài
là con người nhưng tâm hồn có khuynh hướng hèn hạ, không biết hổ thẹn,
không hề sợ tội, sống theo thị hiếu, chỉ biết giành giật nhau ăn, thậm chí
loạn luân vô đạo, có nhiều tính thú, rất ít tính người. Hạng người này
xếp hạng người như súc sinh.
Mang hình hài
là con người nhưng cuộc sống vô cùng lầm than cơ cực, bữa đói bữa no, lang
thang xin ăn, lân la hàng quán, ngủ nhờ gầm cầu, xó chợ, vỉa hè, đình
chùa, miếu mạo, vất vả một đời, thậm chí khi chết không người nhặt xương.
Đây chính là hạng người như ngạ quỷ.
Mang hình hài
là con người nhưng cuộc sống tù tội, gông cùm, bị hành hạ đánh đập, khảo
tra, bằng nhiều dụng cụ hình thức khác nhau, nhưng cũng chung một hệ quả
đó là sự đau đớn sống dở chết dở mà nạn nhân không có quyền phản đối, chỉ
biết gục đầu chấp nhận. Hạng người này, hình hài là con người nhưng nếp
sống chẳng khác loài địa ngục.
Đi tìm một
mẫu người đích thực hàm chứa giá trị cuộc sống nhân đạo, biểu lộ tròn vẹn
nhân tính, có khuynh hướng hướng thiện và hướng thượng quả thật thiên nan
vạn nan gần như bất khả cầu. Vì biệt nghĩa đặc trưng của từ Người (Manusso)
là loài hữu tình hiểu biết lợi hại, chính tà tội phước. Nếu thiếu chức
năng hiểu biết này thì không phải con người.
Thưa Tôn giả,
pháp thoại này có phải là Phật ngôn?
Muôn tâu,
đúng vậy.
Thưa Tôn giả,
Đức Bổn sư có từng đề cập vấn đề con người sinh ra để làm gì hay không?
Muôn tâu, Đức
Bổn sư khẳng định, Ngài sinh ra đem phúc lạc cho thế gian và để cứu vớt
chúng sinh.
Thưa Tôn giả,
hạng người nào sinh ra để đem phúc lạc cho đời và để cứu vớt chúng sinh?
Muôn tâu, Đức
Phật, chư Độc giác Phật, chư Thinh văn giác Phật và các Chuyển luân Đại đế
là những người sinh ra đem phúc lạc cho đời và cứu vớt đời.
Im lặng phút
giây, Tôn giả nói tiếp: Muôn tâu, lệnh Hoàng thượng cũng là người sinh ra
để đem phúc lạc cho đời và để cứu vớt đời. Một mai, lệnh Hoàng thượng
trăm tuổi, thì danh thơm tiếng tốt vẫn truyền lưu hậu thế. Vì lệnh Hoàng
thượng tự thân thì thực hành thập thiện pháp, là vị đại hộ pháp, đã bảo
trợ công cuộc kết tập tam tạng thánh điển, đã tu tạo mười công đức tốt, đã
trong sạch hóa hàng ngũ Tăng già, đã thiết lập nhiều thạch pháp dụ để
khẳng định những thánh tích quan trọng, đã tạo dựng 84.000 ngôi tháp tôn
trí Xá lợi đức Thế tôn, đã tái tạo tinh thần đoàn kết trong Tăng đoàn.
Đối với công
cuộc lưu bố chánh pháp thì lệnh Hoàng thượng chẳng những truyền bá khắp
lục địa Bharata mà còn gởi nhiều phái bộ truyền đạo sang các quốc
gia khác. Đối với đất nước thần dân lệnh Hoàng thượng luôn dùng thập
vương pháp để trị nước an dân khiến tổ quốc thái bình thịnh vượng, dân
chúng được sống cuộc đời an cư lạc nghiệp, có thể nói lệnh Hoàng thượng áp
dụng chánh pháp trong công cuộc trị nước an dân, gặt hái thành quả vô cùng
to lớn vô tiền khoáng hậu mà chính bản thân lệnh Hoàng thượng trong âm
thầm riêng tư cũng đã tự phán: tổ quốc thanh bình, nhân dân hạnh phúc dám
mong thế này!
Đại đế
Asoka, người đã sử dụng pháp luân làm quốc huy chấp tay trong tư thế
nằm và nói lời cảm khái:
Thưa Tôn giả,
trẫm vô cùng hoan hỉ với pháp thoại và trẫm cũng thưởng thức pháp vị ngọt
ngào mà Tôn giả ban bố, tâm hồn trẫm vô cùng phấn khởi, tín tâm Tam bảo
thuần cố bất thối chuyển. Duy một vấn đề mà trẫm có phần ân hận, đó là
trẫm từng trục xuất một số lớn tu sĩ, biết đâu có một vài vị bị oan.
Muôn tâu, về
sự kiện này, lệnh Hoàng thượng chớ nên thắc mắc trong lòng. Vì công cuộc
hành xử rất hợp pháp lý, chí công, vô tư. Giáo hội đã tra cứu, khảo hạch
luật pháp nghiêm minh không có tây vị và tắc trách. Ví như nhổ bỏ cỏ xấu
trong thửa ruộng để lúc được trưởng dưỡng trúng mùa. Sự đóng góp tích cực
trong công trình trong sạch hóa cộng đồng giáo đoàn tăng bảo là công đức
vô cùng to lớn. Một ví dụ khác, cọp beo sống chung hươu nai, ắt có ngày
hươu nai sẽ tán mạng. Hoặc như loài lừa đi chung đàn bò thì lừa cũng
không thể thành bò.
Thưa Tôn giả,
trẫm lấy làm vui mừng, an tâm, không còn thắc mắc, và hối hận. Trẫm không
còn bất cứ vấn đề nghi vấn. Chỉ xin tôn giả mở lòng từ mẫn khai thị thêm
những gì mà Tôn giả cảm thấy cần nên khuyến tấn.
Muôn tâu, chỉ
cần lệnh Hoàng thượng tâm tâm niệm niệm tất cả thiện hạnh mà lệnh Hoàng
thượng đã tích cực tác tạo từ trước đến giờ, chắc chắn lệnh Hoàng thượng
sẽ tự thấy phấn khởi, hoan hỉ, một niềm vui vô cùng rộng lớn chuyển vận
tràn ngập toàn thân khiến khinh an, phỉ lạc phát sinh tác thành hiện kiếp
lạc trú, hậu kiếp thượng sinh, sống cộng trú với hàng thiên chúng. Để
cuộc sống được an ổn, không phiền lụy, không lo sợ, không ân hận, đức Bổn
sư có dạy bốn điều bất khả cầu:
-
Muốn trẻ mãi không già
-
Muốn mạnh hoài đừng đau
-
Muốn sống hoài đừng chệ
-
Muốn ác nghiệp đừng trả quả
Này các Tỳ
kheo, đó là bốn điều bất khả cầu vì nó thuộc tự nhiên pháp.
Muôn tâu,
hạnh nghiệp liên quan lời nói, đức Bổn sư dạy: Không nên nói những lời
khiến thiện pháp suy giảm và bất thiện pháp tăng trưởng; chỉ nói những lời
nói khiến thiện pháp tăng trưởng và bất thiện pháp suy giảm. Về
phương diện sống chết, Bà la môn Janussoni nêu câu hỏi rằng, có ai
thật sự không sợ chết. Đức Bổn sư khẳng định, có bốn hạng người không sợ
chết:
-
Người không còn dục ái tức sự
tham đắm ngũ dục.
-
Người không còn luyến ái thân
tứ đại.
-
Người không có hành động tội
lỗi và tạo nhiều thiện nghiệp.
-
Người tuyệt đối không hoài
nghi chánh pháp tức bậc thánh nhân vô lậu.
Đức Bổn sư có
dạy: Người hội tụ bốn pháp là tín, thí, giới, niệm thì có quyền lựa
chọn cảnh giới thọ sinh cho bản thân. Muôn tâu, căn cứ Phật ngôn vừa
kể thì lệnh Hoàng thượng đầy đủ tiêu chuẩn chọn cảnh giới thọ sinh tùy sở
thích.
Đại đế cảm
thấy vô cùng phấn khởi, tin tưởng và hoan hỷ. Gương mặt tươi vui, nụ cười
thật nhẹ, Đại đế chấp tay thổ lộ:
Tam bảo
hồng ân, đức nhiệm màu
Cứu đời
thoát khỏi cảnh bể dâu
Trần ai
nào biết sinh là lụy
Bao thưở
trầm luân mấy thưở sầu
Nhận thấy
cuộc vấn an và đối thoại tương đối có kết quả đáng khích lệ, Tôn giả xin
cáo lui.
Vật Thí Sau Cùng
Sáu mươi năm
kể từ phút giây mở mắt nhìn đời, đại đế Asoka đã nhìn thấy tất cả
diễn tiến thăng trầm, vinh nhục, đặng thất, khen chê, đặc lợi đặc quyền,
mất lợi mất quyền, thú vui nỗi khổ, sum họp chia lìa, nhân tình thế thái,
bãi bể nương dâu, chẳng những chứng kiến để thấy biết, mà còn kinh quá để
học hỏi. Thật vậy, đời là ngôi trường đại học mà mọi người phải học suốt
đời, học đến chết vẫn không hết các môn chuyên biệt. Có lẽ, trong các môn
học, có một môn quan trọng thiết cốt mà người sắp chết vẫn phải học đó là
môn “cầu bất đắc.”
Số là Đại đế
có tâm nguyện cúng dường Tam bảo cho đủ số 100 tỷ. Trước giờ phút giá
băng, Đại đế lệnh xuất ngân bốn tỷ thêm vào cho đủ số. Nhưng Hoàng tôn
Sampati con trai Hoàng tử Kunala tạm quyền nhiếp chính không
cho xuất ngân. Đây là bài học “cầu bất đắc”.
Không còn tài
vật sở hữu, Đại đế lệnh đem dụng cụ ngự thiện bằng vàng cúng dường chư
Tăng. Tiếp theo Đại đế cúng dường dụng cụ bằng bạc. Sau cùng đến dụng cụ
ngự thiện bằng sành, Đại đế không dám cúng dường chư Tăng. Đây cũng là
môn học “cầu bất đắc”. Hôm sau, Đại đế nhờ người hầu cận thân tín, đem
cúng dường chư Tăng trái a ma lặc và thay lời người kính trình: Đây là
món thực phẩm cúng dường chư Tăng sau cùng trong cuộc đời của ngài. Hòa
thượng Tu viện trưởng tu viện Kukkutarama triệu tập chư Tăng trong
viện và nhờ thầy thị giả đâm nát trái a ma lặc hòa nước ấm và đường cúng
dường đồng đều đến chư Tăng. Đồng thời, Hoà thượng cũng khẩn báo tình
trạng sức khỏe Đại đế cũng như thức uống vừa rồi của Đại đế và yêu cầu chư
Tăng từ mẫn nghiêm túc nhất tâm cầu nguyên. Vấn đề được ghi nhận là chư
Tăng đồng loạt tĩnh tọa chú nguyện và hồi hướng công đức cho Đại đế.
Trong khi chư
Tăng đang tĩnh tọa thì khẩn tin Đại đế Asoka giá băng cũng vừa đến
đúng lúc. Chư Tăng cùng nhau hộ niệm tích cực để chơn linh Đại đế được
siêu sinh về lạc cảnh.
Giờ thì Đại
đế vĩnh viễn nhắm mắt, không còn nhìn đời, không còn thụ giáo ở trường đại
học đời và cũng đã mãn nguyện với môn học “cầu bất đắc”.
Trường Ca Kalinga
Kalinga! Kalinga!
Kalinga ngày nào một bãi trường sa!
và giáo và gươm, và hịch truyền loa rúc
và ngựa và người, và chiến xa chen chúc
dưới gầm trời sát khí nghẹn mây đen
và A Dục Vương lẫm liệt giữa rừng tên
trên bạch tượng nghiêng mình xoay ngọn kiếm
xua hết máu xương vào vòng hỗn chiến
và ngút trời lửa dậy đốt mông mênh
và thành trôi trong sóng máu bập bềnh
loang loang chiếu gươm trần loe ánh đuốc
ngựa dày lên voi nghiến bước
xe chồm lên xác cày qua
người gục dưới người sõng sượt
máu đùn lên máu oan gia
giữa màn đêm u uất giục hồi loa
Kalinga! Kalinga!
Kalinga ngày nào một bãi tha ma!
người ta hỏi nhau: ai còn ai mất?
Ôi tử sĩ mười muôn vùi nghiêng liệm sấp
sài lang ơi, xin nhận lấy thịt da
xương trắng đó đùn lên từng nấm đất
hồn phiêu tám nẻo gió mưa nhòa
ôi tử sĩ mười muôn vùi nghiêng liệm sấp
đêm nghe quỷ rú dưới trăng tà
bầy quạ đói từ đâu về tới tấp
từng tử thi thâu dọn bãi trường sa
từng mảnh thịt xóa đi niềm ô nhục
hỡi ơi... người chiến thắng Kalinga!
Kalinga! Kalinga!
Kalinga ngày nào lởm chởm bóng tù xa
chuyển về đâu
đâu cũng là địa ngục
những hình hài dở thú dở người ta
ôi những tù xa...
rồi những tù xa...
bánh chuyển vồng lên tang tóc
bánh chuyển đèo theo oan gia
bánh chuyển về đâu hì hục.
pháp trường hay hỏa ngục?
chuyển về đâu những tội ác của can qua
chuyển về đâu những hiện thân của ô nhục
hỡi ai… người chiến thắng Kalinga?
Kalinga! Kalinga!
Kalinga ngày nào Máu lửa hóa Sen Tòa!
Kalinga, lau đi dòng nước mắt
hỏi làm chi ai còn ai mất
bạo chúa giờ đâu?
Đây chỉ có Chuyển Luân Vương
bạo chúa là ai?
Đây chỉ có đau thương
Đây chỉ có một tâm hồn ray rứt
quằn quại giữa muôn niềm đau ấm ức
Vương gục đầu cắn lệ nuốt trong sương
Vương suốt một đời ngang dọc ngọn trường thương
Uy vũ lệch nghiêng trời đất
đầu lâu rắc nẻo biên cương
mà hôm nay
khi chiến thắng hồi loa vừa ngây ngất
níu xương máu vút trời lên chất ngất
và chùa xa chuông vẳng tiếng du dương...
mà tiếng vọng cứ triền miên trong gió rít
như giục giã như chan hòa như quấn quít
như nức lên từ giữa khối hư không
hồn ai kêu ơi ới giữa mông lung
Vương ngắm đôi tay: tay đầm những máu
Vương ôm hồn gục xuống giữa hoang vu
Và chùa xa chuông vẳng tiếng vi vu...
đầu gục trên niềm hối tiếc
tay buông nhẹ hết triều nghi
chắp lại một lời tha thiết:
Con nguyền sám hối quy y
Gươm giáo đó sẽ là chuông là tượng
Thân tâm này sẽ là bát là y
Con thành kính dâng lên niềm tin tưởng
Trên khung đời tạc lại nét Từ Bi
Nam Mô Thích Ca Mâu Ni!
Đây: chồi Bồ Đề
Đây: ngọc Xá Lợi
Đây: Ba Tạng Pháp Bửu Pa Li
trẫm cung kính trao về chư Đại Đức
đây: muôn đời thông điệp của Từ Bi
xin hãy lên đường hoằng pháp
khung đời tô lại nét huyền vi
mặt người tạc lại niềm u hiển
tâm người khơi lại ánh vô vi
đâu đâu chẳng hồn mơ từng tia nắng mỏng?
đâu đâu chẳng môi khát từng giọt Từ bi?
Nam Mô Thích Ca Mâu Ni!
rồi từng đoàn người đi…
rồi từng đoàn người đi…
đi từ thành Kalinga
kinh đô của Ánh Sáng
đi từ hồn Asoka
nguồn lửa của Từ bi
đạo theo đoàn khất sĩ
kinh theo nẻo vân du
hành trang: một bình bát
võ khí: một lòng tu
đốt lên từng ngọn đuốc
kéo qua cõi Diêm phù
đường đi dầu có vi vu
núi rừng dầu có hoang vu
truông đèo dầu bao chớn chở
sông ngòi dầu bao trắc trở
hiểm nguy dầu khắp nẻo chắn đường tu
nhưng Sứ Giả của Như Lai có bao giờ nhũn bước?
nhưng Chiến Sĩ của Tình Thương có bao giờ lỗi ước?
hào quang khoác áo chinh phu
… và Pháp Phật tràn lan như sóng nước
Và Bồ Đề bóng ngả mát mười phương
từ kinh kỳ ra hải ngoại
nối liền lục địa với trùng dương
pháp nào là chẳng Pháp Phật?
tâm nào là chẳng Tâm thương?
Tung ra thì đạo mở muôn đường
Khép lại thì bặt từng mảy bụi
Ai ngàn xưa mở núi
Ai ngàn sau hành hương
thấy chăng trong nhịp hoằng dương
bóng Người Hộ Pháp lồng khuôn Phật Đà?
Trúc Thiên
---o0o---
Mục Lục > Phần 1
> Phần 2 > Phần 3
> Phần 4
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-9-2008