---o0o---
Tập
5
Cuốn 81
Giải thích: Phẩm Sáu Độ Tương
Nhiếp
Thứ 68 (tiếp theo)
Kinh:
Tu Bồ đề bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn, làm sao Bồ Tát trú
trong Nhẫn ba la mật nhiếp thủ Thí ba la mật?
Phật
dạy: Bồ Tát từ khi mới phát tâm cho đến khi ngồi đạo tràng, ở
khoảng trung gian ấy nếu có chúng sinh đi đến sân giận, mắng
nhiếc hoặc cắt từng chi phần mà Bồ Tát vẫn nhẫn nhục, nghĩ
rằng: Ta nên bố thí cho tất cả chúng sinh, chẳng nên không
cho: Cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cho đến mọi vật cần
dùng để nuôi sống đều cho hết. Đem công đức ấy chia xẻ cho
chúng sinh, cùng hồi hướng đến Vô thượng chánh đẳng chánh
giác. Bồ Tát ấy trong khi hồi hướng, không sinh hai tâm, nghĩ
rằng: Ai hồi hướng? Hồi hướng đến chỗ nào? Thế là Bồ Tát
trú trong Nhẫn nhục ba la mật nhiếp thủ Thí ba la mật .
Bạch
đức Thế Tôn, làm sao Bồ Tát trú trong Nhẫn nhục ba la mật
nhiếp thủ Giới ba la mật ?
Phật
dạy: Bồ Tát từ khi mới phát tâm cho đến khi ngồi đạo tràng, ở
khoảng trung gian ấy trọn không cướp mạng kẻ khác, không lấy
của không cho, cho đến không tà kiến, cũng không them địa vị
Thanh văn, Bích Chi Phật. Đem công đức ấy chia xẻ cho chúng
sinh, cùng hồi hướng đến Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Bồ
Tát ấy trong khi hồi hướng không sinh ba tâm nghĩ rằng: Ai
hồi hướng đến Vô thượng chánh đẳng chánh giác? Dùng pháp gì
hồi hướng? Hồi hướng đến chỗ nào? Ấy là Bồ Tát trú trong
Nhẫn ba la mật nhiếp thủ Giới ba la mật.
Bạch
Đức Thế Tôn, làm sao Bồ Tát trú trong Nhẫn ba la mật nhiếp
thủ Tinh tấn Bát nhã ba la mật?
Phật
dạy: Bồ Tát trú trong Nhẫn ba la mật sinh tâm tinh tấn nghĩ
rằng: Ta sẽ đi qua một do tuần, hoặc mười do tuần, hoặc ngàn,
vạn, ức do tuần, quá một thế giới, cho đến quá trăm, ngàn,
vạn, ức thế giới, giáo hóa chúng sinh, cho đến dạy một người
khiến thọ trì năm giới; huống gì dạy khiến được quả Tu đà
hoàn, cho đến quả A la hán, Bích chi Phật đạo, Vô thượng chánh
đẳng chánh giác. Đem công đức ấy chia xẻ cho chúng sinh, cùng
hồi hướng đến Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ấy là Bồ Tát
trú trong Nhẫn ba la mật nhiếp thủ Tinh tấn ba la mật .
Bạch
Đức Thế Tôn, làm sao Bồ Tát trú trong Nhẫn ba la mật nhiếp
thủ Thiền ba la mật ?
Phật
dạy: Bồ Tát trú trong Nhẫn ba la mật, lìa dục, lìa pháp ác
bất thiện, có giác có quán; lìa dục sinh hỷ lạc vào sơ thiền,
cho đến vào đệ tứ thiền; ở trong các thiền ấy tịnh tâm tâm
số pháp đều hồi hướng về Nhất thiết trí. Trong khi hồi
hướng, Bồ Tát ấy đối với các thiền và thiền chi đều không thể
có được. Ấy là Bồ Tát trú trong Nhẫn ba la mật nhiếp thủ
Thiền ba la mật .
Bạch
Đức Thế Tôn, làm sao Bồ Tát trú trong Nhẫn ba la mật nhiếp thủ
Bát nhã ba la mật?
Phật
dạy: Bồ Tát trú trong Nhẫn ba la mật quán các pháp hoặc
tướng lìa, hoặc tướng tịch diệt, hoặc tướng vô tận; không do
tướng tịch diệt thủ chứng cho đến ngồi đạo tràng dược trí Nhất
thiết chủng; từ đạo tràng đứng dậy, chuyển bánh xe pháp. Ấy
là Bồ Tát trú trong Nhẫn ba la mật nhiếp thủ Bát nhã ba la
mật, vì không lấy, không bỏ.
Tu bồ
đề bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn, làm sao Bồ Tát trú trong
Tấn ba la mật nhiếp thủ Thí ba la mật ?
Phật
dạy: Bồ Tát trú trong Tấn ba la mật, thân tâm tinh tấn, không
giải đãi, không ngừng nghỉ, nghĩ rằng: Ta chắc chắn sẽ được
Vô thượng chánh đẳng chánh giác, không thể không được. Bồ Tát
ấy vì lợi ích chúng sinh mà đi qua một do tuần, hoặc trăm,
ngàn, vạn, ức do tuần; hoặc qua một thế giới; hoặc qua trăm,
ngàn, vạn, ức thế giới, trú trong Tấn ba la mật, nếu không gặp
được một người để giáo hóa khiến vào Phật đạo, hoặc vào Thanh
văn đạo, hoặc Bích chi Phật đạo; hoặc gặp được một người giáo
hóa khiến tu mười thiện đạo, tinh tấn không giải đãi, khiến
nhiếp thủ pháp thí và tài thí. Đem công đức ấy chia xẻ cho
chúng sinh, cùng hồi hướng đến Vô thượng chánh đẳng chánh
giác, không hồi hướng đến Thanh văn, Bích chi Phật. Ấy là Bồ
Tát trú trong Tấn ba la mật nhiếp thủ Thí ba la mật.
Bạch
Đức Thế Tôn, làm sao Bồ Tát trú trong Tấn ba la mật nhiếp thủ
Giới ba la mật?
Phật
dạy: Bồ Tát trú trong Tấn ba la mật, từ khi mới phát tâm cho
đén khi ngồi đạo tràng, tự mình không sát sinh, không dạy
người sát, tán thán việc không sát sinh, hoan hỷ tán thán
người không sát sinh; cho đến tự mình xa lìa tà kiến, dạy
người khác xa lìa tà kiến, tán thán việc không tà kiến, hoan
hỷ tán thán người không tà kiến. Bồ Tát ấy trú trong Giới ba
la mật, không cầu phước báo ở cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc;
không cầu địa vị Thanh văn, Bích chi Phật. Đem công đức ấy
chia xẻ cho chúng sinh, cùng hồi hướng đến Vô thượng chánh
đẳng chánh giác, không sinh ba tâm: Không thấy người hồi
hướng, không thấy pháp hồi hướng, không thấy chỗ hồi hướng.
Ấy là Bồ Tát trú trong Tấn ba la mật nhiếp thủ Giới ba la mật.
Bạch
Đức Thế Tôn, làm sao Bồ Tát trú trong Tấn ba la mật nhiếp thủ
Nhẫn ba la mật?
Phật
dạy: Bồ Tát trú trong Tấn ba la mật, từ khi mới phát tâm cho
đến khi ngồi đạo tràng, ở khoảng trung gian ấy hoặc người,
hoặc phi nhân đi đến cắt từng chi phần. Bồ Tát nghĩ rằng: Kẻ
cắt ta là ai? Kẻ xẻo ta là ai? Kẻ cướp ta là ai? Lại nghĩ
rằng: Ta dược thiện lợi lớn. Ta vì chúng sinh nên thọ thân,
chúng sinh lại tự đi đến nhận lấy. Khi ấy Bồ Tát nhớ nghĩ một
cách chơn chánh thật tướng các pháp. Đem công đức ấy chia xẻ
cho chúng sinh, cùng hồi hướng đến Vô thượng chánh đẳng chánh
giác, không hồi hướng đến địa vị Thanh văn, Bích chi Phật. Ấy
là Bồ Tát trú trong Tấn ba la mật nhiếp thủ Nhẫn ba la mật.
Bạch
Đức Thế Tôn, làm sao Bồ Tát trú trong Tấn ba la mật nhiếp thủ
Thiền ba la mật?
Phật
dạy: Bồ Tát trú trong Tấn ba la mật, lìa dục, lìa pháp ác bất
thiện, có giác có quán; lìa dục sinh hỷ lạc vào sơ thiền, nhị
thiền, tam thiền, tứ thiền; vào từ, bi, hỷ, xả, cho đến vào
Phi hữu tưởng. Phi vô tưởng xứ; không đem thiền vô lượng,
định vô sắc ấy, lãnh thọ quả báo, mà sinh đến nơi làm lợi ích
chúng sinh; đem sáu Ba la mật thành tựu chúng sinh; từ một cõi
Phật đến một cõi Phật thân cận cúng dường chư Phật, gieo trồng
căn lành. Ấy là Bồ Tát trú trong Tấn ba la mật nhiếp thủ
Thiền ba la mật.
Bạch
Đức Thế Tôn, làm sao Bồ Tát trú trong Tấn ba la mật nhiếp thủ
Bát nhã ba la mật?
Phật
dạy: Bồ Tát trú trong Tấn ba la mật, không thấy pháp Thí ba
la mật, không thấy tướng Thí ba la mật, cho đến không thấy
pháp Thiền ba la mật, không thấy tướng Thiền ba la mật; bốn
niệm xứ cho đến trí Nhất thiết chủng; cũng không thấy pháp,
cũng không thấy tướng; không thấy pháp, phi pháp, phi phi
pháp; đối với pháp không còn dính mắc. Bồ Tát ấy làm đúng như
nói. Ấy là Bồ Tát trú trong Tấn ba la mật nhiếp thủ Bát nhã
ba la mật.
Tu bồ
đề bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn, làm sao Bồ Tát trú trong
Thiền ba la mật nhiếp thủ Thí ba la mật?
Phật
dạy: Bồ Tát trú trong Thiền ba la mật, lìa dục, lìa pháp ác
bất thiện, có giác có quán; lìa dục sinh hỷ lạc vào sơ thiền,
nhị thiền, tam thiền, tứ thiền; vào từ, bi, hỷ, xả cho đến vào
Phi hữu tưởng Phi vô tưởng xứ; ở trong Thiền ba la mật tâm
không tán loạn, thực hành tài thí và pháp thí cho chúng sinh.
Tự thực hành hai thí, dạy người khác thực hành hai thí, tán
thán pháp hai thí, hoan hỷ tán thán người thực hành hai thí.
Đem công đức ấy chia xẻ cho chúng sinh, cùng hồi hướng đến Vô
thượng chánh đẳng chánh giác, không hồi hướng đến địa vị Thanh
văn, Bích chi Phật. Ấy là Bồ Tát trú trong Thiền ba la mật
nhiếp thủ Thí ba la mật.
Bạch
Đức Thế Tôn, làm sao Bồ Tát trú trong Thiền ba la mật nhiếp
thủ Giới ba la mật?
Phật
dạy: Bồ Tát trú trong Thiền ba la mật không sinh tâm dâm dục,
sân giận, ngu si; không sinh tâm não loạn người khác, chỉ tu
tâm tương ưng với Nhất thiết trí. Đem công đức ấy chia xẻ cho
chúng sinh, cùng hồi hướng đến Vô thượng chánh đẳng chánh
giác, không hồi hướng đến địa vị Thanh văn, Bích chi Phật. Ấy
là Bồ Tát trú trong Thiền ba la mật nhiếp thủ Giới ba la mật.
Bạch
đức Thế Tôn, làm sao Bồ Tát trú trong Thiền ba la mật nhiếp
thủ Nhẫn ba la mật?
Phật
dạy: Bồ Tát trú trong Thiền ba la mật, quán sắc như bọt nước;
quán thọ như bóng nước; quán tưởng như sóng nắng; quán hành
như cây chuối; quán thức như huyễn; trong khi quán thấy năm
uẩn không bền chắc, nghĩ rằng: Kẻ cắt ta là ai? Kẻ xẻo ta
là ai? Ai thọ? Ai tưởng? Ai hành? Ai thức? Ai máng? Ai
chịu mắng? Ai sinh sân hận? Ấy là Bồ Tát trú trong Thiền ba
la mật nhiếp thủ Nhẫn ba la mật.
Bạch
Đức Thế Tôn, làm sao Bồ Tát trú trong Thiền ba la mật nhiếp
thủ Tấn ba la mật?
Phật
dạy: Bồ Tát trú trong Thiền ba la mật, lìa dục, lìa pháp ác
bất thiện, có giác có quán; lìa dục sinh hỷ lạc vào sơ thiền,
nhị thiền, tam thiền, tứ thiền; từ các thiền và thiền chi ấy,
chấp thủ tướng, sinh các thần thông như: Đi trên nước, đi
trên đất; vào đất như vào nước; có thiên nhĩ nghe hai thứ
tiếng: Tiếng trời, tiếng người, biết tâm kẻ khác hoặc thu
nhiếp, hoặc tán loạn, cho đến tâm có thượng, tâm vô thượng;
nhớ biết các đời trước; có thiên nhãn thanh tịnh hơn mắt
người, thấy chúng sinh cho đến thọ quả báo như nghiệp đã tạo.
Bồ Tát trú trong năm thần thông ấy, từ một cõi Phật đi đến một
cõi Phật, thân cận cúng dường chư Phật, gieo trồng căn lành,
thành tựu tuệ giác cho chúng sinh, nghiêm tịnh cõi Phật. Đem
công đức ấy chia xẻ cho chúng sinh cùng hồi hướng đến Vô
thượng chánh đẳng chánh giác. Ấy là Bồ Tát trú trong Thiền ba
la mật nhiếp thủ Tấn ba la mật.
Bạch
Đức Thế Tôn, làm sao Bồ Tát trú trong Thiền ba la mật nhiếp
thủ Bát nhã ba la mật?
Phật
dạy: Bồ Tát trú trong Thiền ba la mật không được sắc, không
được thọ, tưởng, hành, thức; không được Thí ba la mật cho đến
Bát nhã ba la mật; không được bốn niệm xứ cho đến trí Nhất
thiết chủng; không được tính hữu vi, không được tính vô vi. Vì
không được nên không làm, không làm nên không sinh, không sinh
nên không diệt, vì sao? Vì dù có Phật hay không có Phật thì
như như, pháp tướng, pháp tính thường trú ấy vẫn chẳng sinh,
chẳng diệt; thường nhất tâm tu hành tương ưng với Nhất thiết
trí. Ấy là Bồ Tát trú trong Thiền ba la mật nhiếp thủ Bát nhã
ba la mật.
Tu bồ
đề bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn, làm sao Bồ Tát trú trong
Bát nhã ba la mật nhiếp thủ Thí ba la mật?
Phật
dạy: Bồ Tát trú trong Bát nhã ba la mật, nội không, nội không
chẳng thể có được, ngoại không, ngoại không chẳng thể có được;
nội ngoại không, nội ngoại không chẳng thể có được; không
không, không không chẳng thể có được, cho đến hết thảy pháp
không, hết thảy pháp không chẳng thể có được. Bồ Tát trú
trong mười bốn không ấy không thấy tướng sắc hoặc không, hoặc
chẳng không, không thấy tướng thọ, tưởng, hành, thức hoặc
không, hoặc chẳng không; không thấy tướng bốn niệm xứ hoặc
không, hoặc chẳng không, cho đến không thấy tướng Vô thượng
chánh đẳng chánh giác hoặc không, hoặc chẳng không; không thấy
tính hữu vi, tính vô vi hoặc không, hoặc chẳng không. Bồ Tát
như vậy trú trong Bát nhã ba la mật, có bố thí gì, hoặc ăn
uống, y phục, đồ nuôi sống, quán việc bố thí ấy là không,
không những gì? Là người bố thí, người nhận thí và vật bố thí
không, không sinh tâm xan lẫn, vì sao? Vì Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật, từ khi mới phát tâm cho đến khi ngồi đạo tràng,
không có vọng tưởng phân biệt. Như chư Phật khi chứng được Vô
thượng chánh đẳng chánh giác, không có tâm lẫn tiếc. Bồ Tát
cũng như vậy, khi hành Bát nhã ba la mật, không có tấm lẫn
tiếc, cái mà Bồ Tát tôn quý, là Bát nhã ba la mật. Ấy là Bồ
Tát trú trong Bát nhã ba la mật nhiếp thủ Thí ba la mật.
Bạch
Đức Thế Tôn, làm sao Bồ Tát trú trong Bát nhã ba la mật nhiếp
thủ Giới ba la mật?
Phật
dạy: Bồ Tát trú trong Bát nhã ba la mật không sinh tâm Thanh
văn, Bích chi Phật, vì sao? Vì Thanh văn, Bích chi Phật đối
với Bồ Tát ấy không thể có được; tâm hướng đến Thanh văn, Bích
chi Phật cũng không thể có được. Bồ Tát ấy từ khi mới phát
tâm cho đến khi ngồi đạo tràng, ở khoảng trung gian ấy, tự
mình không sát sinh, không dạy người sát sinh, tán thán việc
không sát sinh, hoan hỷ tán thán người không sát sinh, cho đến
tự mình không tà kiến, dạy người không tà kiến, tán thán pháp
không tà kiến, hoan hỷ tán thán người không tà kiến. Việc trì
giới ấy không có pháp khả thủ hoặc địa vị Thanh văn, hoặc Bích
chi Phật, huống gì pháp khác! Ấy là Bồ Tát trú trong Bát nhã
ba la mật nhiếp thủ Giới ba la mật.
Bạch
Đức Thế Tôn, làm sao Bồ Tát trú trong Bát nhã ba la mật nhiếp
thủ Nhẫn ba la mật?
Phật
dạy: Bồ Tát trú trong Bát nhã ba la mật tùy thuận pháp nhẫn
sinh, nghĩ rằng: Trong pháp ấy không có gì, hoặc khởi, hoặc
diệt, hoặc sinh, hoặc tử, hoặc chịu lời mắng nhiếc, hoặc chịu
lời nói dữ, hoặc cắt, hoặc xẻ, hoặc phá, hoặc trói, hoặc đánh,
hoặc giết. Bồ Tát ấy từ khi mới phát tâm cho đến khi ngồi đạo
tràng, nếu chúng sinh đi đến mắng nhiếc, nói dữ; dùng dao gậy,
ngói đá cắt, xẻ làm thương hại, tâm không lay động, nghĩ rằng:
Thật quái lạ, trong đó không có cái gì chịu mắng nhiếc, nói
dữ, cắt xẻ, làm thương hại, mà chúng sinh vẫn chịu các khổ
não. Ấy là Bồ Tát trú trong Bát nhã ba la mật nhiếp thủ Nhẫn
ba la mật.
Bạch
Đức Thế Tôn, làm sao Bồ Tát trú trong Bát nhã ba la mật nhiếp
thủ Tấn ba la mật?
Phật
dạy: Bồ Tát trú trong Bát nhã ba la mật, vì chúng sinh thuyết
pháp, khiến tu Thí ba la mật cho đến Bát nhã ba la mật; dạy
khiến tu bốn niệm xứ cho đến tám phần thánh đạo; dạy khiến
được quả Tu đà hoàn cho đến đạo Bích chi Phật; dạy khiến được
Vô thượng chánh đẳng chánh giác, không trú trong tính hữu vi,
không trú trong tính vô vi. Ấy là Bồ Tát trú trong Bát nhã ba
la mật nhiếp thủ Tấn ba la mật.
Bạch
Đức Thế Tôn, làm sao Bồ Tát trú trong Bát nhã ba la mật nhiếp
thủ Thiền ba la mật?
Phật
dạy: Bồ tát trú trong Bát nhã ba la mật, trừ tam muội của chư
Phật, vào được hết thảy tam muội khác, hoặc của Thanh văn,
hoặc của Bích chi Phật, hoặc của Bồ Tát; đều thực hành, đều
vào được. Bồ Tát ấy trú trong các tam muội thuận và nghịch,
ra và vào tám bội xả. Những gì là tám? Bên trong có sắc
tướng, bên ngoài quán sắc, đó là bội xả đầu; bên trong không
có sắc tướng, bên ngoài quán sắc, là bội xả hai; bội xả thanh
tịnh, tự thân tác chứng, là bội xả ba; qua khỏi hết thảy sắc
tướng, diệt tướng có đối đãi, không nghĩ đến các tướng, vào vô
lượng Hư không xứ, là bội xả bốn; qua khỏi Hư không xứ, vào vô
biên thức xứ, là bội xả năm; qua khỏi Thức xứ, vào Vô sở hữu
xứ, là bội xả sáu; qua khỏi Vô sở hữu xứ, vào Phi hữu tưởng
Phi vô tưởng xứ, là bội xả bảy; qua khỏi Phi hữu tưởng Phi vô
tưởng xứ, vào Diệt thọ tưởng xứ, là bội xả tám. Đối với tám
bội xả ấy, hoặc thuận hoặc nghịch, hoặc ra hoặc vào chín thứ
đệ định. Những gì là chín? Lìa dục, lìa pháp ác bất thiện,
có giác có quán, lìa dục, sinh hỷ lạc vào sơ thiền, cho đến
qua khỏi Phi hữu tưởng Phi vô tưởng xứ, vào Diệt thọ tưởng
định; ấy gọi là chín thứ lớp định, hoặc thuận hoặc nghịch, ra
vào. Bồ Tát ấy nương tám bội xả, chín thứ lớp định, vào pháp
tam muội Sư tử phấn tấn. Thế nào gọi là tam muội Sư tử phấn
tấn? Đó là Bồ Tát lìa dục, lìa pháp ác bất thiện, có giác có
quán, lìa dục sinh hỷ lạc vào sơ thiền, cho đến vào Diệt thọ
tưởng định; từ Diệt thọ tưởng định khởi lên, trở lại vào Phi
hữu tưởng Phi vô tưởng xứ; từ Phi hữu tưởng Phi vô tưởng xứ
khởi lên, trở lại vào cho đến sơ thiền. Ấy là Bồ Tát nương
pháp tam muội Sư tử phấn tấn, vào tam muội Siêu Việt. Thế nào
là tam muội Siêu việt? Đó là Bồ Tát lìa dục, lìa pháp ác bất
thiện, có giác có quán, lìa dục sinh hỷ lạc vào sơ thiền; từ
sơ thiền khởi dậy, vào cho đến Phi hữu tưởng Phi vô tưởng xứ;
từ Phi hữu tưởng Phi vô tưởng xứ khởi dậy, vào Diệt thọ tưởng
định; tử Diệt thọ tưởng định khởi dậy, trở vào sơ thiền; từ sơ
thiền khởi dậy, vào Diệt thọ tưởng định; từ Diệt thọ tưởng
định khởi dậy, vào nhị thiền; từ nhị thiền khởi dậy vào Diệt
thọ tưởng định; từ Diệt thọ tưởng định khởi dậy, vào tam
thiền; từ tam thiền khởi dậy, vào Diệt thọ tưởng định; từ Diệt
thọ tưởng định khởi dậy, vào tứ thiền; từ tứ thiền khởi dấy,
vào Diệt thọ tưởng định; từ Diệt thọ tưởng định khởi dậy, vào
Không xứ; từ Không xứ khởi dậy, vào Diệt thọ tưởng định; từ
Diệt thọ tưởng định khởi dậy, vào Thức xứ; từ Thức xứ khởi
dậy, vào Diệt thọ tưởng định; từ Diệt thọ tưởng định khởi dậy,
vào Vô sở hữu xứ; từ Vô sở hữu xứ khởi dậy, vào Diệt thọ tưởng
định; từ Diệt thọ tưởng định khởi dậy vào phi hữu tướng Phi vô
tưởng xứ; từ Phi hữu tưởng Phi vô tưởng xứ khởi dậy, vào Diệt
thọ tưởng định; từ Diệt thọ tưởng định khởi dậy vào trong tán
tâm; từ trong tán tâm khởi dậy, vào Diệt thọ tưởng định; từ
Diệt thọ tưởng định khởi dậy trở lại vào trong tán tâm; từ
trong tán tâm khởi dậy vào Phi hữu tưởng Phi vô tưởng xứ; từ
Phi hữu tưởng Phi vô tưởng xứ khởi dậy trở lại trú trong tán
tâm; từ trong tán tâm khởi dậy vào Vô sở hữu xứ; từ Vô sở hữu
xứ khởi dậy trú trong tán tâm; từ trong tán tâm khởi dậy, vào
Thức xứ; từ Thức xứ khởi dậy trú trong tán tâm; từ trong tán
tâm khởi dậy, vào Không xứ; từ Không xứ khởi dậy trú trong tán
tâm, từ trong tán tâm khởi dậy, vào đệ tứ thiền; từ trong đệ
tứ thiền khởi dậy trú trong tán tâm; từ trong tán tâm khởi
dậy, vào đệ tam thiền; từ trong đệ tam thiền khởi dậy trú
trong tán tâm; từ trong tán tâm khởi dậy, vào đệ nhị thiền; từ
trong đệ nhị thiền khởi dậy trú trong tán tâm; từ trong tán
tâm khởi dậy, vào sơ thiền; từ trong sơ thiền khởi dậy trú
trong tán tâm. Bồ Tát ấy trú trong tam muội Siêu việt được
thật tướng các pháp. Ấy là Bồ Tát trú trong Bát nhã ba la mật
nhiếp thủ Thiền ba la mật.
Luận.
Hỏi: Có sao chỉ một Ba la mật làm chủ?
Đáp:
Nhân duyên tu hành có thứ lớp phải vậy. Bồ tát có hai hạng:
Tại gia và xuất gia. Bồ Tát tại gia nhờ có phước đức nên giàu
lớn, nhân giàu lớn nên cầu Phật đạo, tu các Ba la mật. Trước
tiên nên tu bố thí, vì sao? Vì đã có tài vật, lại biết tội
phước, lại có tâm từ bi đối với chúng sinh nên trước tiên tu
hạnh bố thí rồi, theo thứ lớp nhân duyên tu các Ba la mật
khác. Bồ Tát xuất gia vì không có tài vật, theo thứ lớp nên
tu trì giới, nhẫn nhục, thiền định, vì thích nghi nên gọi làm
chủ. Trừ tài thí, các Ba la mật khác, người xuất gia nên thực
hành. Bồ Tát lấy Nhẫn Ba la mật làm chủ, nguyện rằng: Nếu có
người đến cắt xẻo thân thể tôi, không nên sinh tâm giận. Nay
tôi tu đạo Bồ Tát, nên nhiếp thủ các Ba la mật. Trong các Ba
la mật, bố thí đứng đầu. Trong việc bố thí, vật quí trọng,
thương tiếc nhất không gì qua thân thể, mà có thể đem thí cho
người, không tiếc, không giận. Như vậy, đầy đủ Nhẫn nhục Ba
la mật nhiếp thủ bố thí. Bồ Tát trú trong nhẫn nhục, bố thí
cho chúng sinh cơm áo, đồ vật, lại bị người nhân thí mắng
ngược lại, đánh đập Bồ Tát, muốn phá sự nhẫn nhục trong khi bố
thí. Bồ Tát nghĩ rằng: Ta không nên vì cái thân hư dối mà
phá hủy đạo Ba la mật. Ta nên bố thí, không nên sinh tâm ác,
không vì một chút ác nhỏ mà thối mất. Bồ Tát ấy trong khi
mạng sắp hết càng tăng thêm tâm bố thí. Nếu khi mạng chung,
nhờ có sức hai Ba la mật kia, nên liền sinh vào chỗ tốt, tiếp
tục bố thí.
Nhiếp
thủ Giới Ba la mật là:
Hỏi:
Trong khi nhẫn nhục, không làm ác tức là giới, cớ gì còn nói
trú trong nhẫn nhục nhiếp thủ Giới Ba la mật, mà nên trú giới
để nhiếp thủ nhẫn thì đúng hơn?
Đáp:
Trong đây nói về tướng chứ không nói về thứ lớp phát sinh.
Tuy hòa hợp mà mỗi tướng có khác nhau. Nếu theo thứ lớp thời
phải trước giới sau nhẫn. Giới là không cướp mạng người, nhẫn
là không tiếc mạng mình; thế nên trong nhẫn nhục riêng nói
tướng giới.
*Lại
nữa, nhẫn là tự thu nhiếp tâm mình, không khởi lên sân hận;
còn trì giới có hai: Một là không não hại chúng sinh; hai là
tự mình làm, vì là cội gốc sinh ra thiền định. Có vị Bồ Tát
tu nhẫn nhục mà chưa thọ trì giới pháp, chỉ do sợ tội nên nhẫn
nhục, chưa thể vì thương xót chúng sinh. Người ấy hoặc theo
thầy nghe, hoặc tự suy nghĩ: Trì giới là nhân duyên của Phật
đạo, không nhiễu hại chúng sinh. Ta nay đã có thể nhẫn nhục,
thì tu trì giới là việc dễ; ấy là nhẫn nhục có thể nhiếp thủ
Giới Ba la mật.
*Lại
nữa, nhẫn nhục là tâm số pháp; trì giới là sắc pháp: Trì giới
là tâm sinh, miệng nói để thọ trì, còn nhẫn nhục thì chỉ là
tâm sinh, chẳng phải thọ trì.
*Lại nữa, thân và miệng thanh tịnh gọi là trì giới; ý thanh
tịnh gọi là nhẫn nhục.
Hỏi:
Thiền và Trí Ba la mật cũng là tâm thanh tịnh, cớ gì chỉ nói
nhẫn nhục?
Đáp:
Thiền và trí sức lớn cho nên không nói. Trong khi trì giới,
tâm chưa được thanh tịnh, cần phải có nhẫn nhục để giữ tâm.
Trong kinh này tự nói nhân duyên: Có Bồ Tát có công đức và
trí tuệ lợi căn lớn, đối trước Phật hiện tại phát tâm tu các
Ba la mật, thế nên đời đời tăng trưởng cho đến khi được Vô
thượng chánh đẳng chánh giác không bị đọa ác xứ. Vị Bồ Tát ấy
từ khi mới phát tâm cho đến khi ngồi đạo tràng không sinh tâm
giận, cướp mạng chúng sinh, cũng không đắm Nhị thừa. Đó là
công đức của hai Ba la mật, lìa ba thứ tâm, hồi hướng đến Vô
thượng chánh đẳng chánh giác. Ba tâm ấy là: Không có người,
không có pháp, không có chỗ hồi hướng, không có tâm chấp ngã,
tâm điên đảo.
Nhiếp
thủ Tấn Ba la mật là: Hoặc tự mình chứa nhóm công đức, hoặc
vì độ chúng sinh mà phát tâm không giải đãi, cho đến thành tựu
mọi việc; nếu có nhân duyên chướng đạo, tâm không nghi, không
thối, kham chịu mọi khổ, không lấy việc khổ nhọc lâu ngày làm
khó. Như trong kinh nói: Bồ Tát ấy cho đến đi qua ngàn vạn
do tuần, nếu không gặp được một người để dạy tiến vào thật
pháp được Niết bàn, khi ấy tâm cũng không sầu; nếu gặp dạy
khiến trì ngũ giới, bấy giờ tâm hoan hỷ, không nghĩ rằng: Ta
vượt qua vô lượng quốc độ ấy mà chỉ gặp được một người này,
nên cho là sầu khổ, vì sao? Vì tướng một người tức là tướng
hết thảy người, tướng hết thảy người là tướng một người, vì
tướng các pháp không hai.
Nhiếp
thủ Thiền Ba la mật là: Bồ Tát ấy nhờ sức nhẫn nhục nên tâm
được điều hòa nhu nhuyến; tâm điều hòa nhu nhuyến nên dễ được
thiền định; ở trong thiền định được tâm tâm số pháp thanh tịnh
và từ, bi, hỷ, xả; đều đem tâm không chấp trước hồi hướng đến
Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Nhiếp
thủ Bát nhã ba la mật là: Bồ Tát trú trong chúng sinh nhẫn,
nhẫn mọi điều ác của chúng sinh đưa đến, tu đại từ bi; vì thế
nên được phước đức lớn. Được phước đức lớn tâm nhu nhuyến
nên dễ được pháp nhẫn, nghĩa là hết thảy pháp rốt ráo vô
sinh. Trú trong pháp nhẫn ấy quán hết thảy pháp tướng không,
tướng lìa, tướng vô tận tịch diệt như tướng Niết bàn; bấy giờ
trở lại tăng trưởng chúng sinh nhẫn, ở trong rốt ráo không như
vậy, thì ai là người mắng, ai là người có hại? Khi ấy nhiếp
thủ hai nhẫn, không thấy ba việc là pháp nhẫn, người nhẫn và
chỗ nhẫn. Vì không hý luận hết thảy pháp như vậy, nên có thể
thấy hết thảy pháp tướng không, tịch diệt như Niết bàn. Vì
bản nguyện cầu Phật đạo nên không đắm vào pháp rốt ráo không
ấy, cho đến khi chưa ngồi đạo tràng không thủ chứng Niết bàn.
Khi đã ngồi đạo tràng, nhiếp thủ Phật pháp, được Phật đạo,
chuyển Pháp luân tùy ý làm lợi ích chúng sinh. Những việc như
vậy đều do sức Bát nhã ba la mật.
Trú
trong Tấn Ba la mật nhiếp thủ Thí Ba la mật là: Bồ Tát ban
đầu dùng cửa tinh tấn để vào trong các Ba la mật, siêng tu năm
Ba la mật, thân tâm tinh tấn không ngừng nghỉ, không đổi
khác. Ở trong tinh tấn ấy không sợ khổ địa ngục A tỳ, huống
gì khổ khác? Bồ Tát cũng biết hết thảy pháp rốt ráo không, từ
rốt ráo không khởi xuất, vì tâm từ bi nên trở lại làm các
thiện nghiệp mà không chứng Niết bàn; ấy là sức tinh tấn. Bồ
Tát ở trong tinh tấn nên nghĩ rằng: Ta lâu xa chắc sẽ được Vô
thượng chánh đẳng chánh giác, không thể không được. Người ấy
đi qua một do tuần, cho đến trăm ngàn do tuần, dùng tài và
pháp thí cho chúng sinh. Cho đến đi qua trăm, ngàn, vạn, ức
quốc độ, giả sử không gặp được một người dễ dạy khiến vào ba
thừa, tâm Bồ Tát củng không hối, không nghi, không nghĩ rằng:
Ta trải qua bấy nhiêu Phật độ mà không gặp được một người khả
độ, thời làm sao độ hết thảy người? Trải qua trăm, ngàn quốc
độ, hoặc gặp được một người dạy khiến tu mười thiện, không
trúng vào ba thừa, không vì một người không ngộ được thật
tướng mà ôm lòng khinh thường, hối hận. Lại nghĩ rằng: Ta
nay khiến người đó tu mười thiện đạo, dần dần đem đạo lý ba
thừa để độ thoát cho họ. Dạy tu mười thiện rồi lại đem tài và
pháp bố thí đầy đủ cho chúng sinh, rồi đem công đức ấy hồi
hướng đến Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Thân tâm tinh tấn
trải qua vô số quốc độ vì chúng sinh thuyết pháp.
Hỏi:
Tất cả việc bố thí đều do tinh tấn, cớ gì chỉ nói tài và pháp
thí do tinh tấn phát sinh?
Đáp:
Tuy tất cả việc bố thí đều do tinh tấn phát sinh, nhưng nghĩa
đây nói do sức tinh tấn phát sinh nhiều hơn. Như kinh này
nói: Trải qua trăm, ngàn quốc độ, đem hai việc bố thí đầy đủ
cho chúng sinh.
Trú
trong Tấn Ba la mật nhiếp thủ Giới Ba la mật là: Bồ Tát tu đủ
mười thiện đạo gọi là Giới Ba la mật, hoặc từ nhẫn nhục
v.v...... phát sinh. Nếu Bồ Tát từ khi mới phát tâm cho đến
khi ngồi đạo tràng, bỏ mười bất thiện đạo, tu bốn mươi thiện
đạo không ngừng nghỉ; ấy gọi là Tinh tấn Ba la mật. Có người
chỉ một thứ thiện đạo không thể tu được, huống gì tu cả bốn
thứ thiện đạo, cũng do Tinh tấn Ba la mật nên không sinh vào
ba cõi, không thọ quả Nhị thừa. Chúng sinh vì tâm phiền não
giải đãi nên sinh vào ba cõi, vì nhàm chán sinh tử nên bỏ Phật
đạo, cầu chứng Tiểu thừa, đó đều là tướng giải đãi. Thế nên
nói Bồ Tát không tham ba cõi, không cầu chứng Nhị thừa.
Trú
trong Tấn Ba la mật nhiếp thủ Nhẫn Ba la mật là: Bồ Tát từ khi
mới phát tâm cho đến khi ngồi đạo tràng, hoặc người hoặc phi
nhân đi đến cắt xẻo thân thể mang đi. Bấy giờ Bồ Tát phá tâm
điên đảo chấp ngã, vì thiện nghiệp rốt ráo không, nên nghĩ
rằng: Trong đây không có người cắt xẻo, việc ấy đều là phàm
phu hư dối trông thấy; ta được lợi lớn. Khi ta biết thật
tướng các pháp, có thể vào Niết bàn, nhưng vì thương xót chúng
sinh nên thọ thân; chúng sinh tự đi đến mang đi, ta không nên
tiếc. Bấy giờ thân nhập thật tướng các pháp, trong thật tướng
ấy không có định tướng; chúng sinh tự sinh sợ hãi, đem công
đức ấy chia xẻ cho chúng sinh, cùng hồi hướng đến Vô thượng
chánh đẳng chánh giác. Trong đây hoặc có người mắng nhiếc,
đánh hại đều có thể nhẫn được; ấy gọi là nhẫn; hoan hỷ không
thoái chuyển, ấy gọi là tinh tấn. Hai pháp ấy hoặc từ tinh
tấn sinh nhẫn nhục, hoặc từ nhẫn nhục sinh tinh tấn. Đây nói
từ tinh tấn sinh nhẫn nhục.
Trú
trong Tấn Ba la mật nhiếp thủ Thiền Ba la mật là: Có người tự
nhiên được thiền định, như trong thời kỳ kiếp tận. Hoặc có
người khi thối chuyển được, khi sinh ra được, hoặc sinh ở
thượng địa đến hạ địa được; tuy được thiền định như vậy không
từ tinh tấn sinh. Có người nhân đại bố thí mà phá năm triền
cái là tham dục v.v... liền được thiền định. Hoặc có người
trì giới thanh tịnh, tu tập nhẫn nhục, nhân có tâm nhàm chán
liền được thiền định. Hoặc có người do sức trí tuệ lớn, biết
cõi Dục vô thường hư dối, bất tịnh, liền được thiền định;
thiền định tuy cũng hư dối nhưng vẫn hơn ở cõi Dục. Tuy có
tinh tấn như vậy, lại nhân nơi pháp khác được thiền định, nên
không gọi là từ tinh tấn sinh. Có người không nhân nơi năm
pháp làm chủ, chỉ ngày đêm tinh tấn, kinh hành, tọa thiền,
thường tranh đấu với tâm, do năm lực, tín, tấn, niệm, định,
tuệ chế ngự dến cùng năm triền cái; nếu tâm dong ruỗi liền thu
nhiếp trở lại, như chiến đấu với giặc, cho đến đổ mồ hôi.
Những người được thiền định như vậy là từ tinh tấn sinh. Hoặc
có Bồ Tát độn căn, vì tội cũ che lấp mà đắm sâu cái vui thế
tục, dong ruỗi khó chế phục; người như vậy phải gia sức tinh
tấn mới có thể được định. Thí như người có phước đức, an cư
vô sự mà phước lộc tự đến; người phước mỏng siêng năng công
việc, tranh đấu nhiều mới được. Người có phước tự nhiên được,
gọi là phước đức tự đi đến; do siêng năng tranh đấu mới có
được gọi là do tinh tấn mà được. Như vậy, mọi nơi tuy có tinh
tấn nhưng theo nơi nhiều mà gọi tên.
Trú
trong Tấn Ba la mật nhiếp thủ Bát nhã ba la mật là: Bồ Tát do
sức tinh tấn nên được Thiền Ba la mật; được Thiền Ba la mật
nên phát sinh thần thông. Do hai việc ấy dùng sức thần thông
đi khắp mười phương, công đức chưa đầy đủ muốn làm cho đầy đủ;
lại muốn giáo hóa chúng sinh. Trừ trí tuệ sinh ra từ bốn Ba
la mật, các trí tuệ khác phần nhiều từ tinh tấn sinh, nên lấy
tinh tấn làm chủ dể nhiếp thủ trí tuệ. Bát nhã ba la mật có
hai: Một là quán thật tướng các pháp, trong đó không thấy
tướng pháp, không thấy tướng phi pháp; hai là tu hành đúng như
nói. Người có tâm giải đãi không thể làm hai việc, nhờ có sức
tinh tấn mới làm hai việc đầy đủ.
Trú
trong Thiền Ba la mật làm chủ nhiếp thủ năm Ba la mật là: Bồ
Tát trú trong Thiền Ba la mật tâm điều hòa nhu nhuyến, không
lay động, có thể quán sát thật tướng các pháp; thí như trong
nhà kín đốt đèn, ánh sáng tỏa chiếu; ấy gọi là ở trong Thiền
Ba la mật phát sinh trí tuệ. Bấy giờ không não hại chúng
sinh, lại gia tâm thương xót; ấy gọi là trì giới thanh tịnh và
nhẫn nhục. Do sức thần thông biến hóa tài vật bố thí đầy đủ,
lại khiến người biến hóa ấy nói pháp. Lại, Bồ Tát từ thiền
khởi dậy, do tâm thanh tịnh nhu nhuyến vì chúng sinh thuyết
pháp; ấy gọi là bố thí. Nhân sức thiền dịnh phát khởi thần
thông, đi khắp mười phương dẫn đạo lợi ích tất cả mà không
giải đãi; ấy gọi là tinh tấn. Lại, nhân thiền định làm cho
bốn Ba la mật được tăng ích; ấy gọi là từ thiền định sinh tinh
tấn. Các nghĩa khác như trong kinh này đã nói rộng.
Trú
trong Bát nhã ba la mật làm chủ nhiếp thủ năm Ba la mật là,
như trong kinh này Phật tự nói rộng.
Hỏi:
Tuy Phật nói rộng, mà trong ấy còn có người không hiểu, nên
nay sẽ hỏi: Trong mười tám không, cớ gì chẳng nói bốn không
cuối cùng?
Đáp:
Cái không thứ mười bốn là Nhất thiết pháp không. Nói nhất
thiết tức là trùm khắp tất cả pháp, thế nên không nói.
Hỏi:
Nếu như vậy, chỉ nên nói mười bốn, cớ gì lại có mười tám
không?
Đáp:
Trong kia phân biệt tất cả pháp tướng không, tất cả không đều
tổng nhiếp vào mười tám không. Trong này vì hành giả mà nói.
Hành giả hoặc tu một không, hai không, cho đến mười bốn không,
tùy theo chỗ chấp trước nhiều hay ít. Có người chấp trước tà
kiến sâu nặng, thời dùng bốn không còn lại, vì cớ sao? Vì hữu
pháp, vô pháp v.v... là tà kiến ngoại đạo. Bồ Tát tu từ bi
tâm nhu nhuyến nên không sinh tà kiến chấp có, chấp không như
vậy. Lại nữa, Bồ Tát lấy mười bốn không huân tập tâm, nên ở
trong có và không rõ ràng không sai lầm. Thế nên không nói
bốn không cuối cùng.
Hỏi:
Cớ sao nói Bồ Tát giống như Phật, không có tâm tham trước; câu
nói ấy có nghĩa gì?
Đáp:
Phật dứt các phiền não tập khí, không còn sinh khởi, còn Bồ
Tát do sức Bát nhã chế phục, làm cho không khởi. Nay muốn tán
thán sức Bát nhã, nên tuy kiết sử chưa dứt mà sức Bát nhã nơi
Bồ Tát cùng với Phật đã dứt kiết sử không khác, để khiến người
ta biết quý sức Bát nhã mà phát tâm nghĩ rằng, trong đây không
có pháp hoặc sinh, hoặc diệt, hoặc chịu sự mắng nhiếc, cắt xẻ.
Hỏi:
Đây tức là vô sinh nhẫn, cớ sao lại nói là nhu thuận nhẫn?
Đáp:
Trong đây nói cốt phá giả danh chúng sinh, do năm uẩn hòa hợp,
chứ không thể phá pháp. Thế nên kinh nói: Không có kẻ sinh,
diệt; không có ai chịu mắng nhiếc. Lại, người ấy phá ngã, tuy
quán pháp không mà chưa thể thâm nhập, nên vẫn còn ưa đắm
pháp. Như được vô sinh pháp nhẫn mà vẫn có tâm từ bi thương
xót chúng sinh; ở trong nhu thuận nhẫn cũng có niệm về pháp
không. Trong hai pháp ấy: Một là ở nơi chúng sinh không thể
có được nên gọi là chúng sinh nhẫn; hai là ở nơi pháp không
thể có được nên gọi là pháp nhẫn. Pháp nhẫn, không trở ngại
chúng sinh nhẫn; chúng sinh nhẫn, không trở ngại pháp nhẫn,
chỉ có sâu cạn khác nhau.
Hỏi:
Tam muội Siêu việt không được siêu hai bậc, lại không từ tán
tâm mà vào Diệt tận định, cớ gì trong đây nói như vậy?
Đáp:
Pháp Đại, Tiểu thừa khác nhau: Không siêu hai bậc là trong
pháp Tiểu thừa nói. Còn Bồ Tát có vô lượng phước đức và trí
tuệ, thâm nhập thiền định nên có thể tùy ý siêu việt. Như lực
sĩ người nhảy không quá vài trượng, nếu lực sĩ trời nhảy không
kể gần xa. Lại, trong A tỳ đàm đều vì hàng phàm phu và Thanh
văn mà nói; Bồ Tát thời không vậy. Do lực trí tuệ vào tam
muội Sư tử phấn tấn, có thể tự tại đối với các pháp; do lực
Bát nhã có thể tùy ý thuyết pháp tự tại, thích ứng với chúng
sinh. Lại, có Bồ Tát tu Bát nhã ba la mật nhiều, biết thật
tướng các pháp an trú bất động, hết thảy thế gian trời, người
không thể cật nạn làm khuynh động được. Nếu được tài vật bố
thí hai hạng, hoặc là thí cho Phật, hoặc thí cho chúng sinh,
vì chúng sinh không nên tâm kia bình đẳng, không quý trọng chư
Phật, không khinh dễ chúng sinh. Nếu thí cho người nghèo mà
khinh dễ nên phước ít, nếu thí cho Phật, mà vì đắm trước nên
phước không đầy đủ. Nếu đem vàng bạc, vật báu và cỏ cây để bố
thí, vì pháp không nên cũng bình đẳng không khác. Dứt các
vọng tường phân biệt các pháp một hoặc khác, vào pháp môn
không hai mà bố thí; ấy gọi là tài thí. Pháp thí cũng như
vậy, không tham quý người có trí biết thọ pháp thí, không
khinh chê người vô trí không biết pháp, vì sao? Vì Phật pháp
vô lượng, không thể nói, không thể nghĩ bàn. Như nói pháp bố
thí thiển cận, và nói mười hai nhân duyên không, vô tướng, vô
tác; không, vô tướng, vô tác là pháp thậm thâm, bình đẳng,
không sai khác, vì sao? Vì pháp ấy đều vào trong tịch diệt,
không hý luận. Như vậy là từ Bát nhã sinh bố thí.
*Lại
nữa, Bồ Tát ấy đem công đức tùy hỷ đối với ba thứ tu hành của
mười phương chư Phật và đệ từ, đều chia xẻ cho chúng sinh,
cùng hồi hướng đến Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Do lực
trí tuệ nên không có việc gì không thí và chia xẻ phước đức
cho chúng sinh. Lại, có Bồ Tát trong khi bố thí sinh các tâm
tốt, nhổ sạch cội gốc xan tham mà thực hành bố thí. Đem tâm
từ bố thí nên dứt sân giận. Thấy người lãnh thọ được vui thì
hoan hỷ, nên dứt tâm tật đố. Lấy tâm cung kính ma bố thí nên
phá tâm nghi và vô minh. Không nghĩ rằng người cho và người
lãnh thọ có tướng nhất định, nên phá tà kiến chấp có, chấp
không. Xem người lãnh thọ như Phật, xem vật bố thí như tướng
Vô thượng chánh đẳng chánh giác, xem thân mình từ xưa lại đây
rốt ráo không; nếu như vậy bố thí không hư dối thời được thẳng
đến Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Các tướng như vậy gọi là
từ Bát nhã ba la mật sinh Bố thí Ba la mật.
*Lại
nữa, Bồ Tát thâm nhập Bát nhã ba la mật thanh tịnh, nên chẳng
phải không có chúng sinh mà có thể thọ trì mười thiện giới.
Vì muốn phá tâm điên đảo sát sinh nên có giới không sát sinh,
chứ không phải trong thật tướng có giới đó.
*Lại
nữa, có người giữ giới không sát sinh đối với chúng sinh ở
trong một trăm do tuần; có người giữ giới không sát sinh đối
với chúng sinh trong một cõi Diêm Phù Đề; như vậy là giữ giới
đối với chúng sinh có hạn lượng. Hoặc giữ giới trong một
ngày, hoặc giữ năm giới, mười giới; như vậy là giữ giới có hạn
lượng. Bồ Tát tu Bát nhã, giữ giới đối với chúng sinh trong
vô lượng quốc độ không vì một đời hay hai đời. Như: Như như,
hư không, pháp tính, thật tế, vì tướng rốt ráo không, nên
không chấp thủ giới tướng, không ghét phá giới, không trước
trì giới. Ấy là từ Bát nhã ba la mật phát sinh giới đầy đủ,
không có phân biệt.
Nhẫn
có hai thứ: Một là chúng sinh nhẫn; hai là pháp nhẫn. Bồ Tát
thâm nhập Bát nhã ba la mật nên được pháp nhẫn. Có thể tin
thọ vô lượng Phật pháp, tâm không có phân biệt thị, phi; tướng
như vậy gọi là từ trong Bát nhã sinh nhẫn nhục.
Lại có
Bồ Tát do siêng năng đầy đủ năm Ba la mật nên tu Bát nhã ba la
mật. Được thật tướng các háp, dứt ba nghiệp, thân không tạo
tác, miệng không nói năng, tâm không niệm tưởng; như người
trong mộng thấy mình chìm trong biển cả, cử động tay chân mong
qua khỏi; đến khi thức dậy, tâm mộng liền dứt; ấy là từ trong
Bát nhã ba la mật phát sinh sức tinh tấn. Như trong kinh Trì
Tâm nói: Ta có được sức tinh tấn nên ở chỗ Phật Nhiên Đăng
được thọ ký.
Phật
dạy: Lìa trí tuệ thời không có thiền định, phải nhờ sức trí
tuệ mới được thiền định; thế nên từ trí tuệ sinh thiền định.
Như Phật nói trong kinh Bích chi Phật: Có một quốc vương thấy
hai con trâu đục vì dâm dục nên đấu nhau chết. Vua tự giác
ngộ rằng: Ta do tài sác nên chinh phát các nước khác thời có
khác gì đây? Liền lìa bỏ năm dục, được thiền định, thành Bích
Chi Phật. Bồ Tát cũng như vậy. Do ít nhiều nhàm chán nam dục,
trù lượng cái vui năm dục với cái vui thiền định, thật cách xa
nhau. Ta há có thể vì chút ít cái vui năm dục mà bỏ mất cái
vui thiền định sao? Cái vui thiền định là cái vui phước đức
thanh tịnh, tràn khắp thân tâm. Như vậy, từ trí tuệ phân biệt
phát sinh thiền định. Nghĩa chữ thiền định như trong kinh đã
nói.
*Lại
nữa, Bồ Tát từ trong vô lượng kiếp, vì Phật đạo nên gieo trồng
căn lành, lìa năm dục nên đối với các thiền định được tự tại,
thâm nhập Như như, pháp tính, thật tế. Do sức tinh tấn,
phương tiện, từ bi nên ra khỏi pháp thậm thâm, trở lại tu các
công đức. Người ấy đã thắng phục tâm mình, trong một niệm co
thể tu sáu Ba la mật. Nghĩa là Bồ Tát trong khi bố thí đúng
như pháp xả bỏ tài vật; ấy là Thí Ba la mật. An trú trong
mười thiện đạo mà bố thí, không hướng đến Nhị thừa; ấy là Giới
Ba la mật. Nếu có các phiền não xan tham v.v... và ma dân đi
đến, không thể làm động tâm; ấy gọi là Nhẫn Ba la mật. Trong
khi bố thí, thân tâm tinh tấn không ngừng nghỉ; ấy gọi là Tấn
Ba la mật. Nhiếp tâm vào việc bố thí, không tán loạn, không
nghi, không hối, hướng thẳng đến Vô thượng chánh đẳng chánh
giác; ấy gọi là Thiền Ba la mật. Trong khi bố thí, người cho,
người thọ nhận và tài vật đều không thể có được; không như
những người tà kiến chấp thủ tướng, vọng thấy có tướng nhất
định; như chư Phật, hiền thánh xem tướng tài vật, tướng người
nhận, người cho và tướng chỗ hồi hướng, khi pháp thí cũng như
vậy; ấy gọi là Bát nhã Ba la mật. Bồ Tát thọ đủ các giới,
thiện tâm khởi lên, chánh ngữ, chánh nghiệp ba thứ luật nghi:
Giới luật nghi, thiền định luật nghi và vô lậu luật nghi; ở
trong giới ấy bố thí sự không sợ cho chúng sinh; ấy gọi là Thí
Ba la mật. Các phiền não dâm dục, sân giận muốn làm phá giới,
đều có thể chế phục, có thể nhẫn nhịn.
*Lại
nữa, bị người đến mắng nhiếc, đánh hại, vì sợ phá giới nên
nhẫn nhịn không đáp trả. Lại, gặp sự đói khát, lạnh nóng, các
khổ bức bách, vì giữ giới nên đều có thể nhẫn chịu; ấy gọi là
Nhẫn Ba la mật. Phân biệt các giới tướng nặng, nhẹ, có tàn dư,
hoặc không tàn dư, nhân duyên gốc, ngọn; hoặc ngăn không cho
làm, đó là tâm tinh tấn; hành trì đúng như giới pháp, có phạm
thời hạ ý sám trừ; ấy gọi là thân tinh tấn. Do tinh tấn trì
giới ấy, nên không cầu làm vua trời, vua người, cho đến không
chứng Niết bàn Tiểu thừa, mà chỉ vì giới là trú xứ của Bồ Tát
đạo, do trì giới có thể tu tập cả nam Ba la mật; ấy gọi là
Tinh tấn Ba la mật. Bồ Tát nếu trì giới thanh tịnh thời không
lìa thiền định, vì sao? Vì trì giới thanh tịnh thời phá các
phiền não, tâm được điều hòa, chế phục; thí như tuổi già cướp
hết sức trẻ, chết đến dễ tan hoại. Hành giả vì không được
thiền định nên niệm tưởng năm dục, sinh năm triền cái, xâm hại
việc trì giới. Thế nên, vì trì giới được kiên cố cầu các vui
thiền định. Thiền định là thu nhiếp tâm tâm số pháp hòa hợp
một nơi gọi là thiền định. Hành giả trừ được nghiệp thân,
miệng ác phá giới, tiếp trừ ba ác giác quán, vậy sau trừ ba
giác quán vi tế; nghĩa là giác quán về quốc độ, về bà con và
về bất tử. Trừ được như vậy rồi, liền được thiền định, ấy gọi
là Thiền Ba la mật. Trong khi trì giới, biết giới có thể phát
sinh quả báo công đức đời này, đời sau như vậy; ấy gọi là trí
tuệ.
*Lại
nữa, giới, trì giới, người phá giới, ba việc đó đều không thể
có được; ấy gọi là trí tuệ. Người có ba hạng: Người hạng
dưới phá giới, người hạng giữ chấp trước giới, người hạng trên
không chấp trước giới. Bồ Tát suy nghĩ: Nếu ta ghét phá giới
và người phá giới; ưa giới và người giữ giới mà sinh tâm ưa,
ghét thời trở lại chịu tội nghiệp. Thí như voi tắm xong rở
lại lấy bùn đất bôi lên mình, do vậy không nên sinh tâm yêu,
ghét.
*Lại
nữa, hết thảy pháp đều thuộc nhân duyên, không được tự tại.
Các thiện pháp đều nhân ác pháp sinh; nếu nhân ác pháp sinh
làm sao chấp trước được? Ác pháp nhân thiện pháp sinh làm sao
ghét bỏ được? Suy nghĩ như vậy, đi thẳng vào thật tướng các
pháp, quán việc trì giới và phá giới từ nhân duyên sinh nên
không được tự tại; không được tự tại nên rốt ráo không; rốt
ráo không nên không chấp trước; ấy gọi là Bát nhã ba la mật.
Bồ Tát trong khi tu nhẫn nhục, nghĩ rằng: Nếu chúng sinh đi
đến cắt xẻ thân ta, ta liền bố thí, không để cho chúng sinh
mắc tội trộm cướp. Hoặc khi tu nhẫn nhục, nhân nhẫn nhục
thuyết pháp, dùng mỗi mỗi nhân duyên phân biệt thế gian, Niết
bàn, khiến cho chúng sinh trú trong sáu Ba la mật, được chúng
sinh nhẫn. Lấy thân bố thí gọi là tài thí. Được pháp nhẫn,
thâm nhập các pháp, vì chúng sinh thuyết giảng, ấy là pháp
thí. Hai thí ấy từ hai nhẫn sinh, gọi là Thí Ba la mật. Bồ
Tát khi tu nhẫn nhục còn không tiếc thân mạng, huống gì não
hại chúng sinh để mắc tội phá giới! Thế nên, nhân nhẫn mà trì
giới; thương xót chúng sinh, muốn độ thoát cho họ. Trì giới
là trú xứ an lập hết thảy thiện pháp; ấy gọi Giới Ba la mật.
Bồ Tát ở trong nhẫn nhục, thân tâm siêng tu bốn Ba la mật; ấy
gọi là tinh ấn. Ở trong nhẫn nhục tâm, điều hòa nhu nhuyến,
không đắm trước năm dục, nhiếp tâm một nơi; Ta đối với chúng
sinh có thể nhẫn nhục như đất, ấy gọi là Thiền Ba la mật. Bồ
Tát biết quả báo của nhẫn nhục là được thân tướng hảo trang
nghiêm. Bồ Tát tu nhẫn, hay chướng ngại các phiền não, hay
nhẫn chịu sự xấu ác của chúng sinh, hay nhẫn chịu các pháp
thâm diệu, về sau được thật tướng các pháp; khi ấy thân tâm
hành giả được vô sinh pháp nhẫn, tức là Bát nhã ba la mật.
Bồ tát
trú trong tinh tấn sinh các Ba la mật là, tinh tấn là căn bản
của hết thảy điều lành; lìa tinh tấn thời không có được thiện
pháp. Nhưng chỉ do sức tinh tấn nhiều mà phát sinh năm Ba la
mật, nên gọi là tinh tấn sinh. Bồ Tát thường tu ba cách bố
thí chưa từng lìa bỏ; ấy gọi là Thí Ba la mật. Bồ Tát có
chánh nghiệp về thân, miệng, hướng thẳng đến Phật đạo, không
tham Nhị thừa; ấy gọi là Giới Ba la mật. Siêng tu tinh tấn,
có người đi đến hủy hoại Bồ Tát đạo, Bồ Tát có thể nhẫn chịu
không lay động; ấy gọi là Nhẫn Ba la mật. Bồ Tát tuy tu các
pháp, tâm không tán loạn, nhất tâm niệm tưởng Nhất thiết trí;
ấy gọi là Thiền Ba la mật. Có hai cách tinh tấn: Một là
dộng tướng, tức thân tâm siêng tu; hai là dứt hết hý luận, nên
thân tâm bất động. Bồ Tát tuy siêng tu động tinh tấn, cũng
không lìa bất động tinh tấn, bất động tinh tấn không lìa Bát
nhã ba la mật. Bồ Tát do sức thiền định mà tâm từ bi, nên bố
thí sức không sợ cho chúng sinh. Hoặc do sức thiền định nên
biến làm ra bảo vật như núi tu di, làm đầy đủ cho tất cả; mưa
các hương hoa cúng dường chư Phật và bố thí cho chúng sinh
nghèo cùng áo chăn, ăn uống. Hoặc vào trong thiền định vì
mười phương chúng sinh thuyết pháp; ấy gọi là Thí Ba la mật.
Trong đây tùy theo thiền định mà hành thiện nghiệp thân, thiện
nghiệp miệng; lìa tâm Thanh văn, Bích chi Phật; ấy gọi là Giới
Ba la mật. Bồ Tát vào thiền định, được cái vui thanh tịnh,
nhu nhuyến, có thể không đắm thiền định. Nhờ sức thiền định
nên thâm nhập các pháp không, hay nhẫn chịu pháp ấy, tâm không
nghi hối; ấy gọi là Nhẫn Ba la mật. Bồ Tát khi nhẫn nhục,
muốn sinh khởi các tam muội như tam muội Siêu việt, tam muội
Sư tử phấn tấn v.v... và vô lượng tam muội khác không ngừng
nghỉ; ấy gọi là Tinh tấn Ba la mật. Nhờ sức thiền định, tâm
thanh tịnh không lay động, có thể vào thật tướng các pháp,
thật tướng các pháp tức là Bát nhã ba la mật. Bồ Tát tu Bát
nhã ba la mật, hay quán ba tướng bố thí như vô lượng, diệt các
hý luận về chẳng phải có, chẳng phải không; ấy gọi là Thí Ba
la mật trong vô lượng, vô tận Bát nhã. Thân và khẩu nghiệp
hành theo Bát nhã, vì được Bát nhã, nên có thể trì giới thanh
tịnh, bền chắc; ấy gọi là Giới Ba la mật. Trú trong Bát nhã,
chúng sinh nhẫn, pháp nhẫn càng thanh tịnh sâu xa, ấy gọi là
Nhẫn Ba la mật. Tu Bát nhã thân tâm của Bồ Tát được thanh
tịnh, được bất động tinh tấn, xem động tinh tấn như huyễn, như
mộng; vì được bất động tinh tấn nên không vào Niết bàn; ây gọi
là Tinh tấn Ba la mật. Bồ Tát tu tu vô ngại Bát nhã ấy, nên
tuy thường vào thiền định, nhưng vì được sức Bát nhã ba la mật
nên không ra khỏi thiền định mà vẫn có thể độ thoát chúng
sinh; ấy gọi là Thiền Ba la mật.
Như
vậy, Bồ Tát nhờ trí tuệ lanh lợi, ở trong một tâm, trong một
lúc có thể đầy đủ sáu Ba la mật.
(Hết cuốn 81 theo bản Hán)
--o0o --
Mục
Lục Tập 5
Cuốn 81
|
82
|
83
|
84
|
85
|
86
|
87
|
88
|
89
|
90
91
|
92
|
93
|
94
|
95
|
96
|
97
|
98
|
99
|
100
--o0o --
Mục Lục Tổng Quát Luận Đại Trí Độ
Tập 01
|
Tập 02
|
Tập 03
|
Tập 04
|
Tập 05
--o0o --
Cập nhật: 01-07-2003