SỰ TÍCH
GIỚI LUẬT
Ni
Sư Thích Nữ Trí Hải
---o0o---
Kính Dâng Giác linh Đại lão Hòa thượng tôn sư.
Kính dâng quí vị tôn túc Ni.
Kính dâng chư thiện hữu tri thức- trong đó có cửu
huyền thất tổ, hiện tiền phụ mẫu và chư huynh tỉ muội - những người đã gieo
trong tàng thức con những hạt giống tốt lành.
Thân kính tặng ni chúng Hồng ân Huế, những pháp hữu
đã khơi nguồn cảm hứng trực tiếp cho tác phẩm này, nhân mùa an cư năm Ất hợi
(1995).
Thích Nữ Trí Hải
DẪN NHẬP
Giới luật tỷ kheo ni gồm 348 giới điều, được gọi là
"Ngũ thiên thất tụ". Trước hết, "thất tụ" là bảy nhóm như sau:
Nhóm 1: 8 pháp Ba la di
Nhóm 2: 17 pháp Tăng tàn
Nhóm 3: 30 pháp Xả đọa
Nhóm 4: 178 tám pháp Đọa
Nhóm 5: 8 pháp Hối quá
Nhóm 6: 100 pháp Chúng học
Nhóm 7: 7 pháp Diệt tránh.
Phân loại theo các việc cần phải cấm chỉ không được
làm (chỉ trì) hoặc cần phải làm (tác trì) thì có bảy nhóm như trên, gọi là "Bảy
tụ", cũng như những chương, điều được nêu trong bộ luật hình sự ở đời. Những
việc Phật cấm chỉ không được làm, nếu làm thì phạm, gọi là "chỉ trì tác phạm"
như giới sát đạo dâm vọng v.v. Những việc Phật dạy phải làm không được bỏ qua,
thì gọi là "tác trì chỉ phạm", ví như những việc bố tát, tụng giới, yết ma, tự
tứ, vân vân.
Nhưng phân loại theo tội phạm và mức độ xử phạt (tỉ
như định mức án trong bộ luật hình sự ở đời) thì chỉ có năm mục, gọi là "Năm
thiên" đáng nói, đó là:
Thiên 1: Tội ba la di, là khi phạm vào một trong
tám pháp ba la di nói trên (nặng nhất). Mức xử phạt là đuổi ra khỏi chùa.
Thiên 2: Tội Tăng tàn, là khi phạm một trong 17
pháp Tăng tàn nói trên. Mức xử phạt là sám hối trước hai bộ đại tăng và hành sám
một thời gian, bằng cách làm các việc do tăng chỉ định.
Thiên 3: Tội Ba dật đề, là khi phạm vào hai nhóm 3
và 4 nói trên. Mức hành sám ngang nhau, nhưng một bên có vật trình ra trước Tăng
để xả (nói theo luật pháp ở đời là "có tang vật cần tịch thu") rồi sám hối tội
đáng đọa lạc, nên gọi là "Xả đọa". Còn một bên không có tang vật, nhưng có những
hậu quả xấu như mang tai tiếng cho đoàn thể hoặc gây thiệt hại cho người khác,
gọi là pháp "Đọa" vì khiến cho người phạm rơi vào những ô nhiễm do tham sân hoặc
do đam mê sáu trần cảnh, không đem lại giải thoát.
Thiên 4: Tội Thâu lan giá, là loại tội "non Ba la
di già Tăng tàn" ví như trong pháp ba la di thứ tám, mà mới phạm có bảy việc,
hoặc hai ba bốn việc; hoặc khi cố ý giết mà đối tượng chưa chết, hoặc âm mưu bại
lộ, bất thành. Do vậy nên có ba cấp bực Thâu lan giá
Thiên 5: tội Đột cát la, nhẹ nhất nhưng dễ phạm, là
khi vi phạm các pháp trong những thiên còn lại (5, 6, 7) gồm hai thứ: "ác tác"
(làm bậy) và "ác thuyết" (nói bậy); tựa như loại tội "vi cảnh" trong luật đời.
Sự tích giới luật được viết sau khi tham khảo:
1. Tỳ kheo ni giới, bản dịch của HT. Trí Quang.
2. Trung bộ kinh ba tập, bản dịch của HT. Minh
Châu.
3. Bản dịch bộ "Tứ Phần Tỳ kheo ni Giới bản chú
giải" hai tập của Ni sư Phật Oanh, (Thích nữ Trí Hải dịch, 1975).
4. Bản dịch bộ "Luật Ngũ phần" 30 quyển, trong Đại
tạng kinh (dịch giả Thích nữ Trí Hải, 1989).
5. "L’enseignement monastique du Petit Véhicule"
bản dịch của Thích nữ Tuệ dung.
Điều đáng nói sau khi xem những sự tích này là, với
"con mắt thông suốt ba cõi và tấm lòng nghĩ thấu ngàn đời", đức Phật đã quán sát
căn cơ hạ liệt của chúng sinh thời mạt pháp nên khiến ra co những vị làm hành vi
quấy để cho ngài có dịp chế giới. Người đọc cần phải nghĩ nhớ thâm ân chư Phật
bồ tát, không được có tâm phỉ báng như nói "thời Phật mà còn loạn thế". Xét cho
kỹ, ta vẫn thấy được yếu tố rất đáng kính và dễ thương nơi những vị "bồ tát
nghịch hành" hiện tướng phạm giới này là, họ rất thật thà, không bao giời chối
cãi hay biện hộ cho những việc quấy mình đã làm. Lại nữa, so với một tăng đoàn
đông đảo gồm một ngàn hai trăm năm chục "toàn là những bậc đại a la hán" (được
kể trong nhiều kinh) và nhiều vị khác chưa chứng đạo, thì con số hai mươi ba vị
Tăng (Lục quần và Thập thất quần), và Nhóm 6 tỳ kheo ni "làm gương mẫu" cho sự
phạm giới quả thực quá ít.
Trong nhiều bộ luật còn kể chuyện ngài Ưu ba cúc đa
(Upagupta) xuất gia sau khi Phật nhập diệt không bao lâu. Lúc đó có một vị ni
sống tới trên 120 tuổi, bà đã từng được trông thấy Phật và sinh hoạt của chúng
tăng thời Phật. Ưu ba cúc đa xin bà kể cho ngài và một số tỷ kheo bạn hữu nghe
về đời sống thanh tịnh của tăng già thời Phật, vì nghe ai cũng chê uy nghi tế
hạnh của tăng chúng bây giờ thua xa thuở Phật còn tại thế. Ni bà hẹn với chúng
tỷ kheo của Ưu ba cúc đa một buổi đến tư thất. Gần tới giờ hẹn, ni bà treo một
bát dầu đầy trên đỉnh cánh cửa đi vào. Khi họ đã vào hết trong phòng và ngồi
xuống xin ni bà kể về uy nghi tế hạnh của tỷ kheo thời Phật, Ni bà mở lời: "Vào
thời Phật, trong chúng tăng có Lục quần tỷ kheo là những vị thường bị khiển
trách là thiếu uy nghi nhất, nhưng vẫn còn có uy nghi tế hạnh hơn chúng tỷ kheo
bây giờ nhiều lắm. Chẳng hạn, Lục quần tỷ kheo đẩy cửa đi vào phòng thì sẽ không
làm đổ dầu như thế... (bà đưa tay chỉ ra cửa)". Khi Ưu bà cúc đa và đại chúng
nhìn theo tay Ni bà chỉ, họ mới trông thấy những giọt dầu rơi trên nền đất, cùng
bát dầu đầy treo lửng lơ trên cánh cửa ra vào.
Mỗi giới điều được thâu tóm thành bốn chữ, chỉ cốt
để giúp trí nhớ và học thuộc lòng. Muốn rõ nghĩa phải xem nội dung của giới điều
và xem sự tích. Khi đọc sự tích, ta có thể thấy rõ nguyên do chế giới và mục
tiêu mỗi giới, đồng thời cũng có thể thấy cái tinh thần nằm ở đằng sau chữ
nghĩa, vượt trên chữ nghĩa và truyện tích. Có vậy mới thấy giới luật tuy nhiều
mà rút lại không ngoài bốn chữ "thiểu dục tri túc" hay không ngoài hai chữ "tàm
quý". Và có vậy mới thấy 348 giới cũng không thấm gì, Phật dạy bao nhiêu cũng
không đủ nếu ta chỉ hiểu trên ngôn từ mà không đạt ý. Do đấy mà có đến ba ngàn
uy nghi tám vạn tế hạnh để kiện toàn một con người xứng đáng bậc "Chúng trung
tôn".
Phần một
TÁM PHÁP
BA LA DI
Tóm tắt
1. Làm hạnh bất tịnh
2. Lấy của không cho
3. Sát sinh đủ cách
4. Dối nói đắc đạo
5. Nhiễm tâm xoa chạm
6. Nhiễm tâm tám sự
7. Che giấu tội trọng
8. Theo người bị cử.
1. LÀM
HẠNH BẤT TỊNH:
Lúc Phật
ở Xá vệ, có ngài Tu đề na (Sudina) làm hạnh bất tịnh với vợ cũ. Nguyên Tu đề na
con nhà giàu, đã có vợ, nghe Phật thuyết pháp bèn năn nỉ cha mẹ bất đắc dĩ phải
để cho ông đi tu. Không bao lâu, gặp mùa đói kém Phật cho phép chúng tỷ kheo tản
mác đi khất thực các nơi. Tu đề na dẫn một đoàn tăng chúng về thôn nhà khất
thực. Cha mẹ nhân cơ hội ấy năn nỉ Tu đề na hoàn tục, Tu đề na không chịu; cha
mẹ lại năn nỉ Tu đề na ở lại với vợ cũ một đêm để ông bà có cháu bế cho vui cửa
vui nhà, hơn nữa khi chết còn có người cúng cơm, thờ tự. Tu đề na cuối cùng phải
xiêu theo. Nhưng khi trở lại trong tăng chúng, ông cảm thấy bứt rứt, hối hận,
khổ sở. Các tỷ kheo bạn tới hỏi thăm, ông nói thật, và cùng đi đến Phật kể rõ sự
tình. Phật quở trách đủ thứ và dạy đó là việc không đáng làm, phi phạm hạnh.
Nhân đấy Phật chế giới.
Lời bàn:
Tội ba
la di còn dịch là: "tha thắng", là để cho cái khuynh hướng khác, không phải mình
(tự) thắng lướt, làm cho mình không còn là mình nữa. Chính đây là nguồn gốc của
mọi pháp tu và giới luât Phật chế: khiến cho con người đừng đi lạc xa cái "tánh
thường" của mình, nếu lỡ đi xa một chút thì phải nhớ mà quay trở lại. Khi Phật
chưa chế giới thì chưa gọi là "phạm", thế nhưng sau khi Tu đề na làm hạnh bất
tịnh thì tự thấy hổ thẹn khổ sở. Điều đó chứng tỏ tánh thường của chúng ta vốn
tự thanh tịnh, không xen lẫn dâm dục, nên khi làm cái sự gì khác (tha) với tánh
thường ấy, thì tâm tự thấy khó chịu.
2. LẤY
CỦA KHÔNG CHO:
Phật ở
Xá vệ, Tỳ kheo Đàn ni ca (Dhanya) con nhà thợ gốm phạm trước tiên. Ông làm một
chòi lá trong rừng để ở, một hôm đi khất thực về thấy chòi đã bị những người
kiếm củi và chăn trâu phá hết vách mái. Ba lần như vậy, nhớ nghề cũ, ông bèn ra
tay nung đất làm gạch xây một cái nhà có mái đỏ chói. Một hôm Phật và chúng tăng
đi qua trông thấy, biết của tỷ kheo xây, Phật bèn sai Anan tới phá, rồi cấm đệ
tử không được tự tay đào đất, nung ngói gạch xây nhà, vừa mất thì giờ hành đạo
vừa tổn hại chúng sinh. Đàn ni ca khi trở về thấy ngôi nhà ngói cũng bị phá, hỏi
ra biết được là do lệnh Phật, ông bèn vào rừng tìm cây để làm nhà gỗ. Quan giữ
rừng không cho, nhưng Đàn ni ca bảo, vua đã cho tôi rồi. Quan nói nếu vua đã cho
thì xin đại đức cứ tự tiện mà chặt đốn. Đàn ni ca đốn hết những cây gỗ quý lâu
năm. Khi ngự giá qua rừng, trông thấy cây cối ngã nghiêng, những cây gỗ quý dành
để tu bổ cung đình đã biến mất, vua cho đòi quan giữ rừng đến hỏi. Quan tâu, vì
thấy vua một Phật, mà có vị tỷ kheo bảo vua đã cho chặt, nên ông đã để cho vị ấy
chặt cây. Nhà vua tức giận cực điểm, cho là quan nói láo, sai bắt nhốt vào cũi
giải về cung trị tội. Giữa đường gặp Đàn ni ca, ông ta kêu khóc ầm ĩ. Tỷ kheo
bảo không sao, để tôi tới bảo cho vua nhớ, rồi vua sẽ thả ông về. Tỷ kheo đến
thẳng cung vua, nói: "Vua không nhớ sao, ngày làm lễ đăng quan, vua có đọc bài
diễn văn hứa khi lên ngôi, vua sẽ cho phép các vị xuất gia tự do hành đạo và xử
dụng tất cả những vật cần dùng hiện có trong nước. Bởi thế mà tôi đốn những cây
gỗ tôi cần để làm nhà". Vua ngao ngán. Căn cứ theo luật pháp, tội tỷ kheo ấy
đáng bị xử tử nhưng vì tôn kính đức Phật, nên vua chỉ mắng cho một trận là "kẻ
giặc, kẻ ngu si không biết gì cả, hãy đi đi cho khuất" và đuổi tỷ kheo về.
3. GIẾT
HẠI MẠNG NGƯỜI:
Phật ở
Xá vệ chế giới. Nhiều tỷ kheo phạm. Bấy giờ vào một mùa an cư, Phật dạy cho
chúng tỷ kheo hành trì pháp môn quán sát 32 uế vật trong thân, cốt để nhàm chán
thân thể, trừ ái dục, gọi là quán bất tịnh. Một số đông tỷ kheo sau khi đắc quả
nhờ pháp tu này, đâm ra chán ghét thân thể xú uế bèn đem y bát của mình (tất cả
gia tài của một tỷ kheo thời Phật) thuê một người đồ tể giết giùm cái thân.
Trong một ngày mà trong vườn Cấp cô độc có đến sáu mươi người chết theo cách ấy.
Khi giải hạ, thấy số chúng đến yết kiến Phật gảim thiểu, hỏi nguyên do, Phật bèn
quở trách sự hủy hoại thân thể. Thay vì quán bất tịnh, bấy giờ Phật dạy các tỳ
kheo quán hơi thở và các pháp "quán tịnh" như quán màu sắc các loại hoa xanh
vàng đỏ trắng, hư không, ánh sáng... gọi là quán "biến xứ" hay kasina. Đồng thời
Phật cho biết, các vị a la hán ấy hủy hoại thân thể là do dư báo của nghiệp
"sát" lâu xa về trước, đến khi đắc quả họ vẫn còn phải thọ báo lần cuối cùng.
Tất cả những vị ấy xưa kia đều đã từng làm nghề đồ tể giết hại súc sinh.
4. ĐẠI
VỌNG NGỮ:
Phật chế
giới này lúc ở thành Tỳ xá ly, trong giảng đường lâu các bên sông Di hầu. Gặp
thời đói kém, vào ngày tự tứ, chư tăng đến đảnh lễ Phật. Ai cũng gầy ốm xanh xao
vì suy dinh dưỡng, nhưng đặc biệt có một tốp tỳ kheo mập mạp hồng hào. Khi Phật
hỏi cách sinh hoạt tu hành của họ trong mùa an cư ra sao, khất thực có dễ kiếm
hay không, họ bạch: "Dạ bạch thế tôn, dễ lắm. Vì chúng con thay phiên nhau để
một người ngồi thiền giữa công cộng, trong khi những người kia thì đi khắp nơi
quảng cáo rằng vị ấy chính là một bậc a la hán, ai cúng dường vị ấy sẽ được
phước lớn lao. Thiên hạ đua nhau đem thực phẩm thượng hạng tới cúng, do vậy
chúng con khất thực không khó khăn gì cả". Phật quở trách thậm tệ cái thói vì y
thực mà dối xưng thần thánh ấy, và chế giới.
Phụ:
Nhân đây
Phật kể cho chúng tỳ kheo nghe chuyện về hoàng hậu Ba tư nặc. Trước đây bà vốn
là một nữ tì giữ việc chăm sóc vườn lài cho một nhà giàu. Một hôm, sau khi cúng
dường phần ăn sáng của mình cho một sa môn khất thực, nữ tì gặp vua Ba tư nặc đi
vào vườn hoa. Nàng ân cần đón tiếp, khiến ông vua hài lòng đến độ ngay hôm ấy,
vua cho mời ông trưởng đến để ngỏ ý muốn bỏ tiền chuộc nữ tì đưa về hoàng cung.
Sau khi về cung, vua lại còn phong ngay cho nàng làm đệ nhất phu nhân, gọi là
Mạt lợi phu nhân (Mallika hay Cô Gái Vườn Lài). Khi được làm hoàng hậu, Mạt lợi
phu nhân nhớ đến vị sa môn bà đã cúng dường buổi sáng cùng ngày gặp đức vua, và
muốn cho đi tìm ngài. Khi hỏi ra mới biết vị sa môn mà bà đã cúng dường đó chính
là Đức Phật. Bà liền đến nơi Đức Phật xin đảnh lễ quy y, và trở thành một phật
tử.
Một hôm
bà đi đến Đức Thế Tôn để hỏi ngài do nhân gì đời trước mà nay bà được cái phước
được gặp Đức Thế Tôn và lại được làm hoàng hậu. Phật kể, vào một tiền kiếp xa
xưa, bà làm một phụ nữ giào mộ đạo, ham làm phước và cầu mong được gặp bậc minh
sư. Vào một mùa đói kém khất thực khó khăn, trong xứ bà ở có bỗng có một nhóm
năm vị sa môn đến thay nhau tọa thiền ngoài công viên, bà đến đảnh lễ và rước về
nhà cúng dường tứ sự. Năm vị này không có giới đức, chỉ hiện tướng sa môn để thụ
hưởng của bà, đồng thời đi các nơi dối gạt mọi người để thủ lợi, làm cho ai cũng
nghĩ họ là thần thánh, cúng dường trọng hậu. Do nhân ầy mà trải qua nhiều đời
kiếp, họ phải làm thân nô tì để trả nợ cũ. Còn cô gái, do nhân cúng dường với
tâm thanh tịnh và lòng khao khát cầu gặp minh sư, mà nay được cái phước gặp Phật
và ở địa vị cao sang.
Nghe
Phật dạy, Mạt lợi phu nhân tò mò hỏi: "Bạch Thế tôn, vậy ra nhờ cúng dường năm
sa môn ấy mà nay con được gặp Phật. Thế thì con rất muốn gặp lại các ngài để đền
ơn. Xin Thế tôn cho con được biết hiện nay những vị ấy tái sinh chỗ nào?" Phật
dạy: "Họ ở ngay bênh cạnh bà! Đó là năm tên đầy tớ của bà hiện nay, làm các công
việc đánh xe, nấu bếp, giặt ủi..."
Nghe
Phật dạy, hoàng hậu khóc ròng: "Bạch Thế tôn, con thực đã gây tội lỗi tầy trời!
Đối với những bậc tôn sư đã đem lại cho con cái phước báo ngày nay, con đã không
tôn kính cúng dường mà lại thường sai sử đánh mắng".
Phật an
ủi bà: "Không phải lỗi tại bà, đó là quả báo mà các ông ấy phải gặt mà thôi".
Hoàng
hậu nói: "Bạch Thế tôn, nhưng khi đã biết như vậy, thì con cũng không thể nào
tiếp tục sai khiến chúng được nữa. Con sẽ cho gọi chúng đến để trả tự do, và xin
đức Thế tôn thuyết pháp cho chúng".
Thế rồi
bà cho gọi bốn người đánh xe trong đoàn tùy tùng như Phật đã chỉ. "Bạch Thế tôn,
còn một người nữa ở đâu?".
- "Còn ở
trong cung, đang lau chùi nhà tắm".
Hoàng
hậu đau buồn cho gọi đủ năm tên đầy tớ đến. Khi đến, muốn tránh Phật, tất cả năm
người đều đứng nấ sau cánh cửa. Phật dùng thần lực khiến cho họ xoay về hướng
nào cũng thấy ngài đứng ngay trước mặt. Khi đã xoay đủ chiều mà không tránh nổi,
họ bưng mặt khóc: "Chúng tôi khổ sở đủ điều mà sa môn này còn nhiễu loạn chúng
tôi!".
Phật thu
nhiếp thần lực, ôn tồn bảo: "Cũng chính các con tự làm tự chịu đấy thôi".
Năm tên
nô lệ nói: "Làm đầu tắt mặt tối mới có được bát cơm ăn, chừng nào mới hết nỗi
khổ này!".
Hoàng
hậu bèn lên tiếng: "Thôi ta trả tự do cho các người, khỏi làm nô lệ nữa".
Năm tên
nô lệ đồng loạt quỳ mọp dưới chân hoàng hậu mà khóc lóc: "Tâu lệnh bà, chúng con
có lỗi lầm gì xin lệnh bà cứ hành phạt sao cũng được, nhưng xin lệnh bà đừng
đuổi chúng con. Chúng con muốn phục dịch hầu hạ lệnh bà mãi mãi!".
Phật dạy
cho Mạt lợi phu nhân biết, khi chưa trả hết nợ thì năm tên nô bộc ấy vẫn còn ở
lại, dù bà có hành hạ xua đuổi chúng đến đâu. Nhưng đến khi đã trả hết nợ cho bà
thì dù bà không nói, chúng cũng sẽ tự động ra đi. Mạt lợi phu nhân thấm thía lời
Đức Thế Tôn dạy, đảnh lễ rồi xin cáo từ.
5. NHIỄM
TÂM XOA CHẠM:
Phật ở
Xá vệ chế giới. Thâu la nan đà phạm đầu tiên.
Trưởng
giả Đại Thiện Lộc Lạc có tình ý với Tỷ kheo ni Thâu La Nan Đà, nên vì cô này mà
thỉnh đại chúng về nhà thọ trai. Ni cô này cũng để ý trưởng giả, đến ngày thọ
trai cô làm bộ ốm, ở lại trong chùa không đi. Tới giờ ăn, trưởng giả đến chùa
gặp Thâu La Nan Đà làm các việc như trên. Khi đại chúng thọ trai trở về, sa di
ni giữ chùa bạch chúng việc Thâu La Nan Đà đã làm, nội vụ cuối cùng được trình
lên Phật. Sau khi quở trách Thâu La Nan Đà xong Phật chế giới ba la di thứ 5.
6. NHIỄM
TÂM TÁM SỰ:
(Tám sự
là: có tâm ô nhiễm mà nắm tay, nắm áo, vào chỗ vắng, đứng chung, đi chung, xúc
chạm, dựa kề, hò hẹn - với nam) Phật ở Xá vệ chế giới: Thâu La Nan Đà phạm đầu
tiên, cùng với Sa Lâu Lộc Lạc.
7. CHE
GIẤU TỘI NẶNG:
Phật ở
Xá vệ chế giới; Thâu La Nan Đà bao che cho em ruột là Đề Xá phạm tội ba la di,
sau cô này bỏ đạo hoàn tục cô kia mới nói mình đã biết chuyện đó từ trước, nhưng
không nói cho chúng tăng biết vì sợ xấu lây.
8. THEO
NGƯỜI BỊ CỬ:
Phật ở
thành Tỳ xá ly chế giới; Tỳ kheo ni Ủy thứ phạm đầu tiên.
Xiển đà
(Channa) trong chúng tỷ kheo phạm nhiều tội như ăn biệt chúng, v.v... bị tăng
yết ma quở trách, tăng chưa làm pháp yết ma giải tội. Ông đến chùa ni và được em
gái là tỳ kheo ni Ủy thứ giúp đỡ mọi sự. khi bị tăng quở trách. Cô còn nói: "Đấy
là anh ruột tôi, không giúp đỡ lúc này thì lúc nào mới giúp".
Phần hai
MƯỜI BẢY
PHÁP TĂNG TÀN
Tóm tắt
1. Làm người mai mối.
2. Vu khống tội nặng.
3. Xuyên tạc tội nặng.
4. Đi thưa kiện người.
5. Biết giặc mà độ.
6. Giải cho tội trọng.
7. Phạm vào bốn sự.
8. Nhiễm tâm thọ thực.
9. Khuyên thọ nhiễm thực.
10. Phá tăng hòa hiệp.
11. Hỗ trợ phá tăng.
12. Hoen ố tín đồ.
13. Không nghe can gián.
14. Thân nhau giấu tội.
15. Xúi đừng ở riêng.
16. Giận bỏ tam bảo.
17. Chê bai chúng tăng.
1. MAI
MỐI:
Phật ở
Xá vệ chế giới. Tỳ kheo Ca la phạm đầu tiên. Ông giỏi về khoa bói toán, nên
nhiều cư sĩ đến nhờ ông coi ngày coi tuổi để dựng vợ gả chồng cho con cái họ.
Ông nhờ thế mà được nhiều người thân cận cúng dường. Nhưng có những cặp vợ chồng
sau khi cưới nhau gặp rắc rối, cơm không lành canh không ngọt, hò bèn đến chùa
mắng vốn. Các tỳ kheo bạch Phật.
2. VU
KHỐNG:
Phật ở
Xá vệ chế giới này. Tỳ kheo Tư Địa phạm. Lúc ấy Đạp bà ma la đã chứng quả a la
hán, phát nguyện làm tri sự phân phối phòng ốc, đồ nằm và cử tăng theo thứ tự
thọ thực tại các nhà cư sĩ. Vào ngày kết hạ an cư, Tư địa đến vườn Cấp cô độc
lúc trời đã tối, chư tăng đến trước đã yên chỗ. Chỉ còn môt chỗ nghỉ tồi hơn các
chỗ khác, Đáp bà ma la đưa Tư địa đến đấy và phân phối mền chiếu cũ cho ông. Tư
địa tức giận, nghĩ Đáp bà ma la còn đồ tốt mà muốn chơi xấu mình. Sáng hôm sau,
ông lai được phiên thọ thực tại một nhà cư sĩ giào có, nhưng lại cúng toàn thực
phẩm dơ. Nguyên vì Tỳ kheo Tư địa mang tiếng xấu trong giới cư sĩ, nên khi nghe
ông được cắt phiên đến nhà ấy thọ thực, chủ nhà bèn đổi ý định cúng thực phẩm
thượng hạng, mà chỉ cúng những thứ hạng nhì hạng ba. Tư địa lại nghi Đạp bà la
ma xúi, nên ôm hận trong lòng. Để trả thù, ông đến chùa ni gặp cô em gái là Di
đa la nhờ cô này vu khống cho Đạp bà ma la phạm giới dâm dục, làm hạnh bất tịnh
với mình. Giữa đại chúng, trước sự vu khống của ni cô, tôn giả Đạp bà ma la
chứng tỏ sự thanh tịnh của mình bằng cách xòe ngón tay út phát ra ánh sáng và
bạch Phật:: "Bạch Đức Thế Tôn, từ khi cha sinh mẹ đẻ, dù trong mộng con cũng
chưa từng có một ý niệm nhiễm ô đối với phụ nữ, huống hồ là phạm giới bằng thân
hay lời". Đức Phật xác chứng cho lời nói của tôn giả, quở trách hai anh em Tư
địa và Di đa la ni đủ điều rồi chế giới: Không được vu khống vô căn cứ, muốn cử
tội nặng của người nào, phải đủ chứng cớ rõ ràng gồm ba sự là thấy, nghe và
nghi.
3. XUYÊN
TẠC PHỈ BÁNG:
Phật chế
giới này lúc ở Xá vệ. Tư địa sau khi bị Phật quở trách tội nhờ em gái vu khống
cho Đạp bà ma la, bèn tìm cách khác để phỉ báng. Một hôm xuống đồi, trông thấy
hai con dê, từ đấy ông bèn nảy ý đặt tên cho dê cái là Di đa la và dê đực là Đạp
bà ma la, rồi tuyên bố giữa chúng tăng: "Tôi đích thân thấy Di đa la và Đạp bà
ma la hạnh dâm dục, phạm hạnh bất tịnh. Chứng cớ rõ ràng, không phải là tội ba
la di vô căn cứ đâu". Khi tăng hỏi ông đã thấy trong trường hợp nào và ở đâu,
ông đáp lúc đi xuống đồi, ngay trên bãi cỏ lúc chúng đang cùng ăn cỏ với nhau.
Đại chúng nghe lạ tai, bèn hỏi tiếp mới vỡ lẽ đấy là hai con dê được Tư địa đặt
tên. Như vậy gọi là lấy một chút cớ nhỏ ("thủ phiến") thuộc về chuyện khác ("ư
dị phận sự trung", như để, người trùng tên) để vu oan cho người.
4. ĐI
THƯA KIỆN NGƯỜI:
Phật ở
Xá vệ chế giới. Có một cư sĩ cúng đất cho ni chúng làm chùa, một thời gian sau
ni chúng bỏ chỗ ấy đi dựng chùa nơi khác, chỗ cũ thành một đám đất hoang. Con
của cư sĩ đến canh tác, liền bị ni đi kiện. Quan xử cho ni được kiện và tịch
biên tài sản của người con cư sĩ. Nhiều người bàn tán chuyện này đến tai Phật,
Phật chế giới. Sau đó một trường hợp tương tự xảy ra là, ni chúng bỏ chùa đi
vắng cư sĩ chủ chùa bèn đem chùa cúng cho một nhóm Phạm chí ngoại đạo. Nhiều kẻ
thấy vậy bất bình, đưa việc ấy ra tòa. Ni chúng sợ phạm giới Phật chế không dám
đi. Vì thiếu nhân chứng nên tòa xử cho Phạm chí được kiện, ni chúng bị mất chùa.
Phật chê tòa xử bất minh và nhân đấy chế lại giới này, cho phép nếu tòa mời hay
có việc chính đáng thì Tỳ kheo được phép đến cửa quan.
5. BIẾT
GIẶC MÀ ĐỘ:
Phật ở
Xá vệ chế giới. Có những nam nữa dòng họ Ly xa (Licchavi) vào rừng cắm trại, bị
một cô gái điếm ăn trộm hết bảo vật rồi chạy vào trốn trong chùa ni, xin cạo tóc
xuất gia. Khi quan quân truy nã bắt được, bèn chê bai ni chúng đồng lõa với bọn
trộm cướp.
6. GIẢI
CHO TỘI TRỌNG:
Phật ở
Xá vệ chế giới. Tỳ kheo ni Ủ y thứ phạm tội bị chúng tăng quở trách chưa hành
sám mà Thâu la nan đà vì tình riêng, đưa ra ngoại giới làm phép giải tội cho cô
này.
7. PHẠM
VÀO BỐN SỰ:
Phật ở
Xá vệ chế giới. Hai Tỳ kheo là Thâu la nan đà và Sai ma thường phạm bốn việc là
một mình qua sông, một mình vào xóm, một mình ngủ lại và một mình đi sau, khi
được hỏi lý do thì các cô bảo "để gặp nam tử". Các Tỳ kheo ni thiểu dục quở
trách và trình lên. Phật chế giới Tỳ kheo ni không được làm bốn việc một mình
ấy, để đề phòng chỉ trích và hỗ trợ phạm hạnh.
8. NHIỄM
TÂM THỌ THỰC:
Phật ở
Xá vệ chế giới. Ni cô tên Đề xá nan đà có nhan sắc, thường tới nhà một ông
trưởng giả để khất thực. Ông này cúng cho cô nhiều thực phẩm hảo hạng trong một
thời gian dài, cuối cùng một hôm nọ khi vào khất thực, cô bị ông ta ôm chầm lấy.
Ni cô la làng. Khi mọi người kéo tới, ông trưởng giả phân bua: "Tôi có ý muốn
mua cô này về làm vợ bé đã lâu, nên cúng dường trọng hậu. Số tiền tôi bỏ ra bấy
lâu cho cô đã đủ mua một nàng hầu".
Mọi
người hỏi ni cô: "Ni cô có biết ông này có tình ý với cô hay không?".
Đề xà
đáp "Biết".
Mọi
người bĩu môi chê trách: "Biết sao còn nhận đồ cúng của ông ta? Biết sao còn
rộng họng la lớn thế".
Ông
trưởng giả sai người trói ni cô lại, chừng nào có tiền đem hoàn đủ số mới thả
về. Cô khóc lóc thảm thiết. Chợt có một nhóm thương gia ở đâu tình cờ đi qua,
trông thấy ni cô bị hành hạ, bèn bảo ông trưởng giả: "Chớ đụng vào những của nợ
ấy. Đấy là những đệ tử của Đức Thế Tôn mà tất cả vua, đại thần đều kính trọng,
ai khôn hồn thì đừng dây dưa tới họ, coi chừng mang hoạ".
Tất cả
mọi người đều tin lời thương gia vì năng đi đây đi đó biết nhiều hiểu rộng, bèn
cởi trói thả cho Đề xá ra về, còn hăm he: "Liệu hồn, sau đừng dẫn xác tới đây
nữa".
9.
KHUYÊN NHẬN NHIỄM THỰC:
Phật ở
Xá vệ chế giới. Một Tỳ kheo ni lớn tuổi có một đệ tử nhan sắc mỹ miều thường đem
đồ khất thực ngon về cho bà dùng. Trải qua một thời gian dài, bà chuyên được
thực phẩm hảo hạng do ni cô khất thực về dâng. Nhưng sau đó, thực phẩm ni cô đem
về càng ngày càng tệ; bà thầy nuốt không xuống (vì đã quen ăn ngon) bèn hỏi ni
cô: "Trước đây ngươi thường xin được toàn đồ ngon không, tại sao sau này ngươi
đem về tinh ròng những thứ ma chê quỷ hờn thế?".
Ni cô
thực tình kể: "Bấy lâu có một ông nhà giàu thường cúng cho con toàn thực phẩm
hảo hạng. Một hôm cúng xong ông ta hỏi, cô có biết tại sao tôi cúng dường cho cô
không? Con trả lời, thí chủ cho tôi là vì muốn cầu phước chứ còn vì sao nữa. Ông
trưởng giả nói không phải, vì tôi yêu ni cô đấy thôi. Chính vì ông trưởng giả
nói như vậy, nên từ đấy con không tới nhà ông ta để khất thực nữa, vì Phật đã
chế giới không được nhiễm tâm nhận đồ ăn".
Bà thầy
nghe xong nói: "Người kia có nhiễm tâm hay không mặc kệ, miễn sao ngươi không có
nhiễm tâm là được rồi, sợ nỗi gì. Họ đã cho đồ ăn thì cứ tới mà nhận đi chứ".
Cô đệ tử
cãi lại: "Phật đã chế giới xuất gia phải thiểu dục tri túc, sao thầy đã không
khuyên con những điều tốt đẹp, lại còn vì thức ăn mà xúi con làm bậy?".
- "Có gì
là bậy? Ta có xúi ngươi phạm giới đâu cà?".
Hai thầy
trò cãi nhau càng lúc càng hăng, đến tai những vị khác, cuối cùng trình lên
Phật. Phật xử cho ni cô đệ tử nói có lý, và quở trách bà thầy tham xơi ngon xúi
bậy.
Câu
chuyện này chứng tỏ tinh thần bình đẳng trong Phật giáo. Liên hệ thầy trò trong
giáo lý Phật thường được đề cao hết mực, bậc thầy đôi khi còn quan trọng hơn tam
bảo, vì nhờ thầy mà ta biết đến tam bảo. Nhưng không phải vì thế mà người đệ tử
trở thành mù quáng vô trách nhiệm đối với bản thân, mọi sự đều nhất nghe theo
thầy. Vì ngoài bậc thầy còn có Chánh pháp và lương tâm của mình là những tiêu
chuẩn để phân biệt phải quấy; nếu thầy nói những lời mà mình xét không thích hợp
với chánh pháp hoặc với lương tâm, thì có thể trình bày lý do bất tuân mà không
sợ phạm tội hỗn láo hay phản thầy.
10. PHÁ
TĂNG HÒA HỢP:
Phật ở
Xá vệ, Đề bà đạt đa (Devadatta) phạm đầu tiên. Đề bà đạt đa ganh tị với uy thế
của Phật, cố dựa thế lực của chính quyền vu A xà thế để tự xưng Phật và lập
riêng một tăng đoàn có quy luật khắc khe hơn giới luật Phật chế, như phải khất
thực suốt đời không được nhận lời mời ăn tại nhà cư sĩ, phải suốt đời mặc y phấn
tảo (lượm vảo bỏ đống rác mà mặc) vân vân. Một số tăng khoái khổ hạnh quá khích
đi theo Đề bà đạt đa.
11. HỖ
TRỢ PHÁ TĂNG:
Phật ở
Xá vệ chế giới, nhóm đi theo Đề bà đạt đa phạm tội này.
12. HOEN
Ố TÍN ĐỒ:
Phật ở
Xá vệ chế giới. Hai Tỳ kheo Mã túc và Mãn túc ở chung tại một thôn xóm giao du
với cư sĩ, làm nhiều việc phi pháp, không có uy nghi, tiếng đồn đến tận vườn Cấp
cô độc. Phật sai Xá lợi phất và Mục kiền liên đến nơi cử tội hai Tỳ kheo làm
hoen ố tín đồ. Vì chưa bao giờ trông thấy vị Tỳ kheo nào khác ngoài hai ông ấy,
nên khi Xá lợi phất Mục kiền kiên đến, cư dân trong vùng bảo nhau: "Hai ông này
không nhanh nhẩu hoạt bát gì cả, cũng không thân mật vui vẻ với mình, khác xa
hai vị ta thường cúng. Người gì đâu mà đi khất thực thì cứ lầm lì chằm bẵm không
cười không nói, chán thấy mồ". Làm cho người ta có một hình ảnh sai lạc về Phật
Pháp Tăng như vậy, gọi là hoen ố tín đồ hay làm dơ nhà người, "ô tha gia".
13. ÁC
TÁNH CHỐNG CAN:
Phật ở
Xá vệ chế giới. Tỳ kheo Xa nặc (Channa, có chỗ dịch âm là Xiển đà) một trong Lục
quần, ỷ dòng họ cao sang, không nghe lời chúng tăng can gián, còn bảo: "Đáng lẽ
tôi dạy các vị mới phải chứ, sao các vị lại dạy tôi. Tại sao? Chư vị thuộc đủ
các giai cấp, thuộc nhiều dòng họ (bạch tánh) tụ họp lại đây, trong khi đó dòng
họ của tôi thì thù thắng hơn tất cả chư vị. Vậy, các vị chẳng nên đem lời khuyên
can tôi, tôi cũng không khuyên can gì các vị". Các Tỳ kheo đến bạch Phật, Phật
quở trách Xiển đà rồi chế giới.
14. THÂN
NHAU GIẤU TỘI:
Phật ở
Xá vệ, hai Tỳ kheo ni Tô ma và Bà phả đi ở chung trong một thôn xóm, thân nhau,
sinh hoạt không khác gì người thế tục, bị đời chê bai phỉ báng đến tai Phật.
15. XÚI
ĐỪNG Ở RIÊNG:
Phật ở
Xá vệ, Tỳ kheo ni Thâu la nan đà xúi Tô ma, Bà Phả di đừng nghe lời chúng tăng
mà ở riêng.
16. GIẬN
BỎ TAM BẢO:
Phật ở
Xá vệ chế giới.Nhóm 6 ni phạm đầu tiên.
17.
KHÁNG CỰ KHÔNG PHỤC:
Phật ở
Xá vệ chế giới. Nhóm 6 Tỳ kheo phạm lỗi, tăng chúng quở trách thì chống cự không
phục tùng.
Phật
nhân đấy để chuyện về mục đồng tên Hoan hỉ thường đến nghe pháp. Vào thời Phật
Ca Diếp, mục đồng ấy đã làm một vị Tỳ kheo tinh thông ba tạng,có tài phân xử.
Một hôm có hai Tỳ kheo đền nhờ ông xử đoán một việc tranh chấp, ông vận việc nên
giới thiệu họ đến nhờ chúng tăng phân xử. Khi xong việc trở về, nghe thuật lại
cách phân xử của tăng, ông bèn chê: "Chúng tăng xử đoán việc như thế không khác
gì lối xử của bọn chăn trâu". Do lời nhục mạ ấy mà ông phải làm kẻ chăn trâu
nhiều đời kiếp.
Phần ba
BA MƯƠI
PHÁP XẢ ĐỌA
(NI TÁT KỲ
BA DẬT ĐỀ)
Tóm tắt
1. Hạn giữ y dư (10 ngày)
2. Lìa y mà ngủ
3. Hạn cất vải dư (1 tháng)
4. Xin y không thân
5. Nhận vải quá phần
6. Xin thêm tiền y
7. Khuyên chung tiền lại
8. Đòi quá 6 lần
9. Cầm giữ tiền của
10. Mua bán bảo vật
11. Bán mua đổi chác
12. Xin bát quá phần
13. Không thân xin nhờ
14. Bảo thợ dệt thêm
15. Cho rồi đoạt lại
16. Cất chứa nhiều đồ
17. Giữ y cúng gấp
18. Xoay nhiều về một
19. Đòi vầy đòi khác
20. Pháp đường thành y
21. Xoay một về nhiều
22. Cúng vầy xoay khác
23. Xin vầy xoay khác
24. Chứa nhiều bát tốt
25. Chứa nhiều đồ đẹp
26. Không cho bệnh y
27. Dùng y phi thời
28. Đổi rồi đòi lại
29. Áo dày quá giá
30. Áo mỏng quá giá
1. GIỮ Y
QUÁ HẠN:
Phật ở
Xá vệ chế giới tỷ kheo không được giữ quá 3 y. Vào một mùa an cư, tôn giả A nan
được cúng dường một tấm y ca sa đẹp. Ngài đã có đủ y, nhưng muốn giữ cái y này
để dành cúng tôn giả Ca diếp đang an cư xa chưa về, mà lại sợ phạm giới bèn đến
bạch Phật. Phật hỏi: "Ca diếp chừng nào về đến?"
A nan
thưa: "Bạch Đức Thế Tôn, khoảng mười ngày nữa".
Phật bèn
chế giới hạn cho phép chứa y dư là trong vòng 10 ngày, quá hạn ấy phải bạch tăng
để làm phép "tịnh thí". Tịnh thí có hai loại, là "chân thật tịnh khí" và "triển
chuyển tịnh thí". Loại một là cho đứt một người nào chưa đủ ba y. Loại hai là
sau khi bạch chúng để xả y dư, đương sự nói lên tên người mình muốn cho, rồi mỗi
khi cần dùng những y ấy, thì phải mượn. (Theo HT Trí Quang).
Theo Ni
sư Phật Oanh thì trong pháp "chân thật tịnh thí" đương sự phải hỏi chủ mới được
mặc, còn "triển chuyển" thì khỏi cần hỏi cũng mặc được, không phạm.
Chân
thật tịnh thí thì ở giữa chúng, đương sự tác bạch với một vị như sau: "Bạch đại
đức, tôi có y dư này chưa làm pháp tịnh thí, nay muốn thanh tịnh nên xả cho đại
đức".
Triển
chuyển tịnh thí thì bạch:
"Bạch
đại đức, tôi có y dư chưa làm pháp tịnh thí, nay muốn thanh tịnh nên xả cho đại
đức. Xin đại đức triển chuyển tịnh thí giùm tôi".
Vị thọ
tịnh trong trường hợp này nên nói:
"Đại
đức, xin nghe cho. Đại đức có y dư, chưa tác tịnh, vì muốn thanh tịnh nên cho
tôi, tôi sẽ nhận".
Nhận
xong lại hỏi:
"Nay đại
đức muốn tôi chuyển cho ai?". Đương sự đáp: "Cho vị tên Cột".
Vị thọ
tịnh nên nói:
"Đại
đức, xin nghe cho. Y dư của đại đức chưa tác tịnh, vì muốn thanh tịnh nên cho
tôi. Nay tôi nhận để cho vị tên Cột. Nhưng vị tên Cột đã có đủ y, vậy đại đức
nên vì Cột mà giữ gìn y ấy, khi cần thì cứ lấy mà mặc".
2. LÌA Y
MÀ NGỦ:
Phật ở
Xá vệ chế giới. Nhóm 6 Tỳ kheo phạm. Một Tỳ kheo trong chùa ngày nào cũng đem
nhiều y ra phơi cho khỏi hư mục. Các Tỳ kheo hỏi sao có nhiều y dư không bạch,
vị ấy đáp đấy là của Lục quần Tỳ kheo nhờ giữ hộ để du hành. Phật nhân đấy nhóm
tăng chế giới không được rời y ngủ cách đêm.
3. CHỨA
VẢI QUÁ HẠN:
Phật ở
Xá vệ chế giới. Sau khi Phật cấm chứa vải (y) dư, một Tỳ kheo có y tăng già lê
bị rách, muốn sắm y khác nhưng chưa có đủ vải, mà không dám giữ những mảnh vải
hiện có vì sợ phạm. Phật bèn cho phép nếu có hi vọng được thêm vải để may y, thì
cho phép giữ vãi vụn chờ được thêm cho đủ. Lục quần Tỳ kheo nhân đấy đi xin
nhiều vải ra phơi, các Tỳ kheo biết chuyện bạch Phật. Phật bèn chế giới cho giữ
vải vụn trong vòng một tháng phải may thành y, quá hạn ấy mà còn giữ bo bo thì
phạm Ni tát kỳ ba dật đề.
4. XIN Y
KHÔNG THÂN:
Phật ở
Xá vệ chế giới này. Tỳ kheo Bạt nan đà có tài ăn nói lưu loát, biết nhiều hiểu
rộng, một buổi sáng sớm tình cờ gặp một ông trưởng giả mặc áp lông cừu sang
trọng đi vào vườn Cấp cô độc vãn cảnh. Nghe Tỳ kheo nói chuyện quá hay, ông ta
phát tâm muốn cúng dường: "Tôi muốn cúng dường đại đức, đại đức cần gì xin nói
cho tôi biết?".
Bạt nan
đà muốn trêu ông ta bèn nói: "Điều mà tôi cần, ông không thể nào cho được, nói
ra cũng vô ích mà thôi".
Trưởng
giả năn nỉ: "Không hề gì, xin đại đức cứ nói đi. Tôi sẽ đá ứng".
- "Thật
không?".
-
"Thật".
Bạt nan
đà nói: "Tôi cần cái áo lông cừu trên người ông đang mặc".
Ông
trưởng giả nói: "Cũng được, nhưng xin hãy để đến mai, tôi sẽ cho người mang đến.
Vì hôm nay đi dạo sớm, tôi chỉ khoác một cái áo này ra ngoài cho mau".
Bạt nan
đà bèn bảo: "Thấy chưa? Tôi đã nói là điều tôi xin, ông không thể nào đáp ứng,
thì nay quả nhiên như vậy".
- "Không
phải là tôi không thể cúng cho đại đức cái áo này, tôi chỉ nói là hãy để đến
mai".
- "Tôi
không cần nó ngày mai, tôi cần ngay bây giờ. Ông tiếc của thì cứ nói phứt đi,
đừng bày đặt nói loanh quanh để từ chối".
Bị chạm
tự ái, ông trưởng giả bèn cởi phăng cái y đưa cho tôn giả rồi hằm hằm ra về.
Thấy ông mang giày da sang trọng, vận quần xa tanh dài láng bóng, nhưng mình lại
ở trần trùng trục mà tản bộ giữa đường, không ai không ngạc nhiên. Về đến cổng,
gia nhân ra chào đón thấy vậy thất kinh hỏi dồn: "Thưa chủ nhân, cái áo cừu đẹp
của chủ đâu rồi? Phải chăng chủ đã bị bọn cướp đường trấn lột?".
- "Phải,
ta đã bị Sa môn Thích tử trấn lột mất cái áo cừu". Thiên hạ bu tới biết chuyện,
chê bai Tỳ kheo tham cầu không biết chán; dù người ta có cho cũng không nên nhận
những vật đắt giá, huống hồ cưỡng bức mà xin. Khi câu chuyện này đến tai Phật,
ngài bèn họp tăng chế giới: "Với người cư sĩ không thân, không được xin y".
5. NHẬN
VẢI QUÁ PHẦN:
Phật ở
Xá vệ chế giới này. Khi các Tỳ kheo bị cướp sạch hết y phục được phép đi xin y,
các cư sĩ thấy tội nghiệp bè đua nhau cúng y cho họ. Lục quần Tỳ kheo xúi những
vị này nên thừa dịp ấy cứ nhận thật nhiều rồi về cho bớt anh em. Phật bèn chế
giới không được nhận quá phần y mình được giữ.
6. XIN
THÊM TIỀN Y:
Phật ở
Xá vệ, Bạt Nan Đà phạm đầu tiên. Các Tỳ kheo đi khất thức nghe một nhà cư sĩ nọ
đang bàn tính chuyện may y cúng cho Tỳ kheo Bạt Na Đà, bèn về mách lại. Bạt Nan
Đà thân hành đi đến nhà ấy, nói: "Lành thay, nghe nói cư sĩ muốn cúng cho tôi,
vậy hãy cúng một tấm y như vậy như vậy...". Thái độ của Bạt Nan Đà làm cư sĩ bất
mãn, nhất là ông đòi một cái y đắt tiền hơn cái giá tiền y mà họ muốn cúng.
7.
KHUYÊN CHUNG TIỀN LẠI:
Cũng như
trên, người phạm là Bạt Nan Đà. Ông nghe lỏm biết có hai nhà cư sĩ cùng muốn
cúng y, sợ họ cúng hai cái y xấu (mà ông có thể phải xả bớt một), ông bèn đến
điều đình hai nhà nên chung tiền sắm một cái cho tốt. Cư sĩ chê bai, Phật chế
giới.
8. ĐÒI
QUÁ 6 LẦN:
Phật ở
Xá vệ chế giới. Bạt Nan Đà được cúng tiền y, giao cho một cư sĩ giữ. Đến khi
cần, ông đi đến cư sĩ gặp lúc ông này đang bận túi bụi công việc, sắp phải dự
một phiên họp hàng năm của các thương gia, ai đi trễ bị phạt năm trăm quan tiền.
Cư sĩ giữ tiền của Bạt Nan Đà năn nỉ ông ta chờ đến khi đi họp về sẽ giao tiền
may y, nhưng Bạt Nan Đà nhất quyết đòi cho được, cuối cùng ông ta phải về nhà
lấy, và do vậy trễ cuộc họp, phải bị phạt. Cư sĩ chê bai: "Tỳ kheo gì mà lại làm
cho người ta sạt nghiệp".
9. CẦM
GIỮ TIỀN CỦA:
Phật ở
Xá vệ, Bạt Nan Đà phạm. Nhân Bạt Nan Đà có vàng do bà vợ một ông đại thần cúng,
ông đem vào chợ gửi cho cư sĩ giữ, bị chê bai. Phật khiển trách và chế giới.
10. MUA
BÁN BÁO VẬT:
Phật ở
Xá vệ. Bạt Nan Đà đem vật xin được chỗ này đến chỗ kia trong chợ mà đổi chác.
Khi Xá Lợi Phất đi khất thực đến những nơi đã từng đổi chác với bcn, họ bèn hỏi:
"Ông có gì đổi không? Trước đây một tỳ kheo luôn luôn có thứ này thứ khác để đổi
với chúng tôi, nay ông đến tay không thì sao được?" Xá Lợi Phất về bạch Phật,
Phật chế giới.
12. XIN
BÁT QUÁ PHẦN:
Phật ở
Xá vệ. Bạt Nan Đà làm bể bình bát, bèn đến các nhà cư sĩ xin. Nhà nào ông cũng
khai rằng bát bể, hãy cho tôi một cái mới. Các cư sĩ ai cũng hoan hỉ cúng dường.
Cúng xong gặp nhau họ khoe: "Hôm nay tôi làm được việc phước đức lớn".
- "Việc
gì?"
- "Cúng
bát cho Tỳ kheo".
- "Cúng
cho ai?"
- "Đại
đức Bạt Nan Đà Thích tử!".
- "Thì
tôi cũng vậy". Khi ấy họ vỡ lẽ Bạt Nan Đà đến nhà ai cũng xin bát, lấy làm bất
mãn, chê bai tới tai chúng tăng.
13.
KHÔNG THÂN XIN NHỜ:
Phật ở
Xá vệ. Bạt Nan Đà đi đến các nhà cư sĩ xin chỉ để dệt y tăng già lê (đại y). Sau
khi xin được thật nhiều chỉ có thể may đến ba cái y, ông đem tới một người thợ
dệt không thân nhờ dệt giúp. Thợ dệt trông thấy Tỳ kheo xin quá nhiều chỉ, bèn
chê vị ấy tham cầu không chán.
14. BẢO
THỢ DỆT THÊM:
Phật ở
Xá vệ chế giới. Bạt nan đà nghe lỏm có cư sĩ đang gửi chỉ nơi một thợ dệt để dệt
y cho mình bèn tức tốc đến nơi thợ dệt ấy mà hỏi thực hư. Thợ dệt xác nhận, và
đưa chỉ người kia cúng cho ông ta xem. Bạt nan đà bảo, cứ dệt cho dày, tốt, rồi
tôi sẽ trả thêm tiền công cho. Thợ dệt nói bấy nhiêu chỉ thì dày, tốt gì nổi,
phải thêm vào mới đủ. Bạt nan đa bèn tới nhà cư sĩ nọ, nói cái y dệt cúng cho
tôi còn thiếu chỉ. Gặp lúc cư sĩ vắng nhà, bà vợ đưa chỉ tốt cho tỳ kheo đem đi.
Khi thợ dệt giao hàng đến nhà, cư sĩ thấy cái y có hai thứ chỉ, không như ý mình
muốn cúng ban đầu, bèn hỏi vợ mới biết tỳ kheo đã đến nhà lấy thêm chỉ tốt hơn
để giao cho thợ dệt. Cư sĩ nổi giận chê bai phỉ báng.
15. CHO
RỒI ĐOẠT LẠI:
Phật ở
Xá Vệ chế giới. Trong vườn Cấp cô độc bấy giờ có một tỳ kheo trẻ tuổi giỏi đi
khuyến hóa, thường được cúng nhiều Bạt nan đà tặng cho ông này một tấm y để dụ
ông ta cùng đi với mình. Sau đó, có nhiều tỳ kheo khác nói cho tỳ kheo trẻ biết
hoặc Nan đà thiếu tư cách, thường bị Phật quở, và khuyên ông ta đừng đi chung.
Tỳ kheo trẻ nghe lời, đổi ý không chịu đi theo Bạt nan đà nữa. Bạt nan đà giận
đòi y lại, ông kia nói: "Đại đức đã cho con rồi, sau bây giờ đòi lại?"
- "Ta
cho ngươi vì nghĩ rằng ngươi sẽ theo ta. Bây giờ ngươi đổi ý thì hãy trả y lại."
Tỳ kheo
trẻ không trả, Bạt nan đà dùng vũ lực cưỡng đoạt y lại, bị chúng tăng chê rồi
bạch lên Thế Tôn. Phật chế giới đã cho rồi không được đòi lại.
16. CẤT
CHỨA NHIỀU ĐỒ:
Phật ở
Xá vệ chế giới này. Tỳ kheo Tất lăng già bà sa và chúng đệ tử của ông xin được
nhiều vật thực, đem về chất đầy một nhà gồm những đồ chứa đủ cỡ, đựng sữa tươi,
đường phèn, dầu, bơ… để ruồi bu, kiến đậu. Cư sĩ vào chùa trông thấy chê bai.
17. GIỮ
Y CÚNG GẤP:
Phật ở
Tỳ lan nhã, nhân lục quần tỳ kheo và Bạt nan đà mà chế giới. Thể theo lời cầu
thỉnh của một Bà la môn giàu có, Phật cùng chúng tăng đến thôn ấp của ông mà an
cư ba tháng mùa mưa. Sau đó, Bà la môn bị ma ám nên không nhớ gì đến chuyện đã
thỉnh Phật. Suốt mùa an cư ấy Phật và chư tăng phải tạm dùng lúa ngựa để sống
qua ngày. Khi sách mãn hạ an cư, Bà la môn mới nhớ tới chuyện cúng dường, bèn
đến sám hối và thỉnh Phật cùng chư tăng lưu lại ba tháng nữa, nhưng Phật từ
chối. Bà la môn năn nỉ xin được có một ngày cúng dường Phật và chúng tăng y
thực. Phật im lặng nhận lời. Bà la môn bèn mang thật nhiều y thực thượng hạng đủ
dùng cả ba tháng mà cúng dường Phật và chúng tăng trong ngày hôm đó để bù lại
việc khinh suất của mình vừa qua. Lục quần tỳ kheo thấy Phật cho phép nhận y
trong mùa an cư, và cấm nhận y khi an cư chưa xong, phải đợi cho đến ngày Tự tứ.
Về sau,
có hai viên quan chưa đến mùa Vu lan (còn những mười ngày nữa) đã đến Tinh xá Kỳ
viên xin cúng dường y gấp để đi đánh giặc, vì không kịp chờ đến ngày Tự tứ. Các
tỳ kheo không dám nhận, bạch Phật, Phật nhân đấy chế giới này lần thứ hai, cho
phép nhận y cúng gấp trước Tự tứ mười ngày. Quá mười ngày phải bạch trước chúng
tăng để làm phép "chứa y dư", nếu không bạch thì cái y ấy gọi là y phi thời,
nghĩa là nhận không đúng lúc. Y nhận đúng lúc, được phép mặc gọi là "thời y"
nghĩa là y nhận từ rằm tháng bảy đến rằm tháng chạp (nếu có thọ y công đức).
18. XOAY
NHIỀU VỀ MỘT:
Phật ở
Xá vệ chế giới này. Bạt Nan Đà biết một cư sĩ đang sắm sửa y thực để cúng cho
chư tăng ở Kỳ viên tinh xá, bèn tới nhà nói: "Phật và chúng tăng đã được vua và
đại thần cúng nhiều y sang quý tốt đẹp, chỉ có tôi còn thiếu. Ông cúng chư tăng
thực phẩm là đủ rồi, khỏi cần cúng vải vóc làm gì". Cư sĩ làm theo lời, chỉ cúng
thức ăn. Các Tỳ kheo biết chuyện, bạch Phật. Phật chế giới "không được xoay vậy
người ta định cúng chư tăng về cho một mình mình".
19. ĐÒI
VẦY ĐÒI KHÁC:
Phật ở
Xá vệ chế giới. Tỳ kheo ni Thâu La Nan Đà dung mạo xinh đẹp, được sĩ khoái nên
cô đòi gì được nấy. Vì quen được chiều chuộng nên cô yêu sách đủ điều, xin thứ
này được cư sĩ đáp ứng xong cô lại đổi ý trả lại, đòi thứ khác. Nhiều lần như
vậy, cư sĩ đâm chán, chê bai đồn đến tai chúng tăng.
20. PHÁP
ĐƯỜNG THÀNH Y:
Phật ở
Xá vệ chế giới này. Nhân thấy một chúng Tỳ kheo ni ngồi giữa trời mà bố tát
thuyết giới, cư sĩ chung nhau tiền đem đến cúng cho ni để làm một pháp đường
(nhà để chư tăng thuyết giới bố tát hay giảng Kinh Luật Luận). Chư ni nhóm họ
bàn rằng, làm nhà thuyết giới thì phải trông coi thợ nề thợ một, vật liệu... quá
phiền phức, mà mỗi tháng chỉ có hai lần bố tát là cần dùng đến nhà ấy. Còn y
phục thì xin kiếm khó khăn, vậy ta nên đem tiền làm pháp đường mà chia cho chúng
may y. về sau, cư sĩ lại thấy chư ni ngồi bố tát giữa trời, hỏi ra mới biết tiền
họ cúng làm nhà giảng đã được phân manh mún chia nhau. Cư sĩ chê bai: "Ai chả
biết y phục khó kiếm? Chính vì nghe Phật dạy làm pháp đường cúng cho tứ phương
tăng hành đạo thì được phước vô lượng, chúng ta mới đem tiền đến cúng làm pháp
đường chứ". Giới này bao hàm sự "xoay vật cúng cho tứ phương tăng thành ra hiện
tiền tăng trong chùa".
21. XOAY
MỘT VỀ NHIỀU:
Phật ở
Xá vệ chế giới. Bấy giờ các tỳ kheo ni ở Xá vệ nghe nói ni sư An Ổn sắp đến, họ
bèn đi khắp thành phố xin tứ sự cho ni sư. An Ổn là một ni sư có danh tiếng thời
bấy giờ, nên nghe nói duyên cho ni sư An Ổn thì phật tử mộ đạo ai cũng hoan hỉ
cúng dường trọng hậu đủ thứ cần dùng. Nhưng rốt cuộc chờ cả tháng ni sư không
đến, chư ni bèn đem phân chia cho chúng tất cả những gì đã quyên cho bà An Ổn.
Chia xong thì An Ổn là dò đến, không có vật dụng bà ôm y bát vào thành để khất.
Các cư sĩ thấy, bèn tới chùa hỏi: "Những vật thực và đồ dùng chúng tôi cúng cho
ni sư ấy đi đâu cả rồi?". Các Tỳ kheo ni cứ thật trình bày, cư sĩ chê bai đủ
điều, tới tai chúng tăng, tăng bạch Phật. Phật chế giới "hồi tác dư dụng" này,
bao hàm sự "xoay đồ cúng cho một người về cho nhiều người" hay cả chúng, nghĩa
là lợi dụng danh nghĩa một vị có tên tuổi để đi xin, rồi mang về phân chia cho
nhiều người khác.
22. CÚNG
VẦY XOAY KHÁC:
Phật ở
Xá vệ, nhân ni An Ổn phạm mà chế giới. Bà đi khất thực, khi được các cư sĩ hỏi
thăm về chỗ ở, bà than phiền là chật chội, ồn ào, đủ thứ. Cư sĩ chung tiền cúng
cho bà làm một phòng riêng mà ở cho thanh tịnh. Sau đó, ni An Ổn đem tiền ấy sắm
y để mặc, gặp cư sĩ hỏi bà vẫn kêu rêu như trước. Họ hỏi, thế thì bà chưa làm
phòng riêng sao. Bà nói, tiền các vị cúng cho tôi làm phòng đã được đem may y
hết rồi. Cư sĩ chê bai. Phật chế giới này, cấm cái sự "người ta cho mình tiền để
làm việc này, mình lại đem làm việc khác".
23. XIN
VẦY XOAY KHÁC:
Phật ở
Xá vệ, Lục quần Tỳ kheo ni đi khắp nơi quyên tiền về làm nhà cho tăng chúng ở,
khi được tiền về, lại không làm nhà mà đem chia nhau để may y, bị cư sĩ chê bai.
Phật chế giới này, cấm cái sự "nhân danh một việc để xin, khi được tiền lại dùng
vào việc khác".
24. CHỨA
NHIỀU BÁT TỐT:
Phật ở
Xá vệ chế giới. Lục quần Tỳ kheo chứa nhiều bát đẹp, dùng mỗi ngày một cái không
rửa, để chất từng đống. Cư sĩ vào chùa trông thấy, chê bai Tỳ kheo ở dơ và không
biết tàm quý, xin bát thật đẹp về mà vứt bừa bãi như gạch vụn.
25. CHỨA
NHIỀU ĐỒ ĐẸP:
Phật ở
Xá vệ, Lục quần Tỳ kheo chứa nhiều đồ dùng màu sắc đẹp đẽ, cư sĩ trông thấy chê
bai, nói giống hàng tạp hóa.
Phụ:
Kinh
Phước Cái Chánh Hạnh sở tập quyển 6 nói: "Khi Phật ở thành Vương Xá, trong vườn
trúc Ca Lan Đà có con trai trưởng giả sau khi nghe Pháp, xin Phật xuất gia.
Người mẹ anh ta chỉ có một con nên không muốn rời, bảo con muốn xuất gia thì hãy
đợi mẹ chết đã. Người con tuân lời dạy, siêng năng làm lụng được bao nhiêu tài
vật đều đem dâng mẹ, lại thường khuyên bà bố thí tu phước. Người mẹ được tài vật
thì cất giữ chôn giấu, tiếc không nỡ đem cho. Nếu có Sa môn đến nhà khất thực
thì mắng nhiếc nói rằng quỷ tới. Người con biết chuyện không vui càng khuyên can
mẹ, người mẹ lại nói dối đã cho. Không lâu bà mẹ chết, người con mở hội bố thí
rộng rãi để hồi hướng cho mẹ rồi xuất gia, tinh tấn tu hành đắc quả A La Hán.
Bên bờ sông Hằng vị ấy tu thiền định trong một am cỏ, một hôm có con quỷ đến
đứng trước mặt hình thể đen xấu như khúc gỗ cháy, đầu tóc lòa xòa cổ nhỏ bụng
lớn, tay chân bốc lửa, kêu la gào thét. Tôn giả hỏi: "Ông là ai?".
Quỷ nói:
"Tôi là mẹ ông, chết đã 25 năm, đọa vào ngạ quỷ, chịu đói khát vô cùng, không
nghe đến cái tên ăn uống và nước. Có khi tôi vừa trông thấy con sông lớn, thì
bỗng nó khô cạn, trông xa thấy có rừng trái cây, tới gần lại không có gì. Tôi
không được lúc nào an vui. Xin tôn giả cứu vớt. Cho tôi xin chút nước uống".
Tôn giả
nghe xong buồn khóc nghĩa: "Sống không tu, chết đoạ ác đạo". Bèn khuyên mẹ phát
tâm hối lỗi. Quỷ cho biết chỗ chôn tài vật lúc sống, nhờ tôn giả đem tài sản ấy
thết trai cúng dường và xin những sa môn thọ thực chú nguyện cho bà được thoát
khổ. Tôn giả liền triệu tập thân quyến về nhà đào của cải lên, đem cúng dường
tam bảo và bố thí cho kẻ ăn xin, lớn tiếng gọi tên mẹ. Bấy giờ Đức Thế Tôn dùng
sức oai thần gia trì và thuyết pháp, 5000 chúng sanh nghe pháp được ngộ, quỷ
tháot khổ, chết ngay. Tôn giả lại nhập định quán sát, thấy mẹ sanh vào loài quỷ
giàu có, bèn thuyết pháp cho bà nghe về quả báo của tham lam, khuyên bố thí. Bà
quỷ phát tâm cúng dường chư tăng hai cuộn vải, nhưng tăng chưa kịp chia thì quỷ
tiếc, ban đêm đến lấy trộm. Tôn giả đến nơi quỷ đòi lại. Quỷ ăn trộm lại ba lần
như thế, chúng tăng cắt ra cho mỗi người một mảnh để vá áo. Quỷ cũng tới ăn trộm
cái áo đi. Phật dạy, nên biết tâm bỏn xẻn thật tai hại, bị nó trói buộc vĩnh
viễn đọa vào cõi xấu.
26.
KHÔNG CHO BỆNH Y:
Phật ở
Xá vệ chế giới. Sau khi Phật chế ba y cho Tỳ kheo và năm y cho Tỳ kheo ni, có
những Tỳ kheo ni có kinh nguyệt ra nhiều, sợ phạm giới không dám giữ vải vụn nên
không đủ để lót, làm dơ bẩn giường ghế. Do đó, Phật cho phép ni được mặc thêm
vải (y) lót bên trong lúc bật tịnh, ngoài mặc nê hoàn tăng (quần), khi cần phải
trải thêm đồ lót ghế, giường để khỏi vấy bẩn.
Ni Chiên
đàn thâu na mới vừa dứt kinh nguyệt, liền khoe mình không có tư tưởng dâm dục
nên không còn bất tịnh, từ nay ai cần cô sẽ cho mượn "bệnh y" tức đồ vệ sinh phụ
nữ. Sau đó một Tỳ kheo ni khác cần, đến mượn thì ni cô này không cho, chính vì
cô cũng đang bất tịnh, nhưng đã lỡ lời khoe khoang nên không nói lý do tại sao
không thể cho mượn. Cô kia bạch chúng tăng.
27. DÙNG
Y PHI THỜI: (làm y phải thời):
Phật ở
Xá vệ chế giới, Lục quần ni phạm.
Y phải
thời là y cúng và thọ nhận trong thời gian 5 tháng thọ y công đức, từ rằm tháng
bảy đến rằm tháng chạp; ngoài thời gian ấy ra mà nhận thì gọi là y phi thời,
phải "thuyết tịnh" nghĩa là đem ra giữa tăng mà xả bằng pháp tịnh thí chân thật
hay triển chuyển đã nói ở giới số 1 Xả đọa ở trên.
"Thọ y
công đức" là một cách Phật tưởng thưởng, cho phép chúng tăng xả hơi sau ba tháng
an cư thanh tịnh. Trong thời gian thọ y công đức, có năm sự được phóng xả như
sau: Một là được chứa y dư; hai lìa y ngủ; ba ăn biệt chúng; bốn ăn nhiều lần;
năm đi ra khỏi dặn, vào bữa ăn sáng (tiền thực) hoặc bữa ăn trưa (hậu thực).
Nếu
không có thọ y công đức thì năm việc nói trên chỉ được một tháng phóng xả từ rằm
tháng bảy tới rằm tháng tám.
28. ĐỔI
RỒI ĐÒI LẠI:
Phật ở
Xá vệ chế giới, ni Thâu la nan đà đổi y với một cô khác, sau giận không muốn
đổi, đòi lại.
29. ÁO
DÀY QUÁ GIÁ:
Phật ở
thành Tỳ xá ly, trong giảng đường lầu các bên sông Di hầu. Khi Tỳ kheo Ca La đến
khất thực tại nhà một cư sĩ quen biết, gặp một người dòng họ Ly xa (Licchavi);
ông ta phát tâm muốn cúng dường cho cô một món gì, yêu cầu cô nói ra vật dụng cô
cần. Ni cô nói đã có đủ, không cần gì cả. Người Ly xa năn nỉ, cô bèn đòi một cái
y quý, giá thật đắt. Người Ly xa đã không cho, lại còn rêu rao là ni tham cầu
không chán, đáng lẽ dù được cho áo đẹp đắt giá cũng không nên nhận, huống hồ đi
xin. (Xem chuyện số 4 ở chương này).
30. ÁO
MỎNG QUÁ GIÁ:
Phật ở
Tỳ xá ly, như trên. Tỳ kheo ni Bạt đà Ca tỳ la đến nhà cư sĩ mà xin một tấm y
mỏng trị giá 500 tấm vải mịn (trương điệp), bị cư sĩ chê bai ham hố. Phật chế
giới.
Phụ: Tỳ
kheo Tất lăng dà ba sa được cúng một cái áo lông cừu đắt giá, ông mặc đi vào
rừng. Bọn cướp trông thấy, đi theo ngài bén gót. Nửa đêm hôm ấy, bọn cướp đến gõ
cửa chòi. Ngài nói:
- "Các
ngươi muốn gì?".
- "Muốn
cái áo lông cừu. Hãy đưa ra đây".
- "Được.
Hãy thò tay vào song cửa sổ, ta sẽ đưa ra cho".
Tôn giả
gia trì thần lực vào cái y, khiến cho bọn cướp đưa tay vào mà không tài nào lôi
ra được, thất kinh kêu cứu. Tôn giả thu nhiếp thần lực, chúng bèn bỏ chạy một
nước không còn dám bén mảng. Sau tôn giả về thuật lại câu chuyện, các Tỳ kheo
bạch Phật. Phật lo sợ cho các Tỳ kheo đời mạt pháp không có được thần thông như
tôn giả, nếu mặc y quý giá mà ở rừng thì có thể nguy đến tánh mạng. Do đó ngài
chế giới này, một phần để Tỳ kheo giữ hạnh thiểu dục tri túc, trừ thói kiêu mạn
(khi thân cận giới nhà giàu mà được đồ tốt), thói ràng buộc (được đồ tốt thì dễ
bị ràng buộc thân tình với người cho), và nhất là thói giữ của, luôn luôn lo sợ
mất mát và hiểm nguy.
Phần
bốn
178
PHÁP BA DẬT ĐỀ
(ĐƠN
ĐỀ)
Tóm
tắt
1.
Cố ý nói dối |
2.
Nhiếc mắng thành phần |
3.
Nói để ly gián |
4.
Ngủ chung một nhà |
5.
Ngủ quá ba đêm |
6.
Đọc tụng ồn náo |
7.
Nói tội lỗi nặng |
8.
Nói thật đắc đạo |
9.
Quá năm sáu lời |
10.
Đào cuốc đất đai |
11.
Chặt phá cây sống |
12.
Xúc não lời lạ |
13.
Nhiếc mắng tri sự |
14.
Trải đồ chỗ trống |
15.
Trải đồ trong phòng |
16.
Cưỡng hiếm chỗ nằm |
17.
Lôi ra khỏi phòng |
18.
Nằm giường sút chân |
19.
Dùng nước có trùng |
20.
Lợp nhà quá hạn |
|
|
21.
Ăn quá một lần |
22.
Ăn thành biệt chúng |
23.
Nhận ăn quá phần |
24.
Ăn lúc phi thời |
25.
Ăn đồ cách đêm |
26.
Ăn đồ không mời |
27.
Đi không dặn lại |
28.
Nhà ăn ngồi dai |
29.
Nhà ăn ngồi khuất |
30.
Ngồi chung chỗ trống |
31.
Đuổi người đi đi |
32.
Quá hạn thọ thuốc |
33.
Đi xem quân trận |
34.
Trong quân quá hạn |
35.
Xem quân giao chiến |
36.
Uống các thứ rượu |
37.
Đùa giỡn trong nước |
38.
Thọc lét người khác |
39.
Không nghe can gián |
40.
Nhát cho người sợ |
|
|
41.
Tắm dưới nửa tháng |
42.
Đốt lửa đất trống |
43.
Giấu chơi vật dụng |
44.
Dùng không hỏi chủ |
45.
Dùng y mới nguyên |
46.
Cố giết súc sinh |
47.
Uống nước có trùng |
48.
Làm buồn người khác |
49.
Che giấu tội nặng |
50.
Khơi lại tranh cãi |
51.
Hẹn đi với giặc |
52.
Chống can nói càn |
53.
Theo người nói bậy |
54.
Dung kẻ bị đuổi |
55.
Chống cự khuyên học |
56.
Hủy báng giới luật |
57.
Sợ nên nói trước |
58.
Yết ma rồi hối |
59.
Không nói gửi dục |
60.
Gửi dục rồi hối |
|
|
61.
Nghe lén mách lẻo |
62.
Đánh Tỳ kheo ni |
63.
Tát Tỳ kheo ni |
64.
Vu khống tội nặng |
65.
Vào cửa cung vua |
66.
Cầm lấy báu vật |
67.
Vào xóm phi thời |
68.
Làm giường quá hạn |
69.
Dồn bông ba chỗ |
70.
Ăn các thứ tỏi |
71.
Cạo lông ba chỗ |
72.
Tẩy tịnh quá hạn |
73.
Chế ra nam căn |
74.
Cùng vỗ với nhau |
75.
Bưng nước hầu quạt |
76.
Đi xin lúa sống |
77.
Đại tiểu cỏ tươi |
78.
Đổ bậy đồ dơ |
79.
Xem nghe múa hát |
80.
Vào xóm đứng khuất |
|
|
81.
Cùng vào chỗ khuất |
82.
Kề tai nói nhỏ |
83.
Không nói mà đi |
84.
Không mời cứ ngồi |
85.
Nằm nhà cư sĩ |
86.
Cùng vào chỗ tối |
87.
Không nghe cho kỹ |
88.
Việc nhỏ thề bồi |
89.
Đấm ngực khóc la |
90.
Không bệnh chung giường |
91.
Chung mền chung nệm |
92.
Hỏi để quấy rối |
93.
Không thăm nom bệnh |
94.
An cư đuổi người |
95.
Ba mùa du hành |
96.
Giải hạ ở lì |
97.
Đi chỗ biên giới |
98.
Đi chỗ nguy hiểm |
99.
Thân cận cư sĩ |
100.
Đi xem hoàng cung |
|
|
101.
Lộ hình tắm sông |
102.
Khăn tắm quá hạn |
103.
May y quá lâu |
104.
Năm ngày không đoái |
105.
Ngăn cúng tăng y |
106.
Mặc y người khác |
107.
Cho y ngoại đạo |
108.
Ngăn tăng chia vải |
109.
Xúi khoan xuất y |
110.
Xúi đừng xuất y |
111.
Không diệt tranh cãi |
112.
Cho ngoại đạo ăn |
113.
Để người sai sử |
114.
Xe chỉ đánh sợi |
115.
Không hỏi nằm, ngồi |
116.
Không từ mà đi |
117.
Tà mạng chú thuật |
118.
Dạy người chú thuật |
119.
Độ người có thai |
120.
Độ người con bú |
|
|
121.
Độ chưa đủ tuổi |
122.
Không dạy học giới |
123.
Không học sáu pháp |
124.
Độ không hỏi tăng |
125.
Độ gái có chồng |
126.
Đủ năm thiếu phép |
127.
Độ dâm, tặc nữ |
128.
Độ không nuôi dạy |
129.
Không hề y chỉ |
130.
Không phép, làm thầy |
131.
Thiếu hạ làm thầy |
132.
Đủ, tăng không cho |
133.
Hủy báng không cho |
134.
Độ kẻ có chủ |
135.
Độ kẻ đáng yêu |
136.
Gạt thức xoa học |
137.
Gạt thức xoa y |
138.
Dưới mười hai tháng |
139.
Để cách một đêm |
140.
Không thọ giáo thọ |
|
|
141.
Không cầu giáo thọ |
142.
Không cầu tự tứ |
143.
An cư không tăng |
144.
Không thưa mà vào |
145.
Mắng tỳ kheo tăng |
146.
Trách mắng ni chúng |
147.
Mổ nhọt không thưa |
148.
Ăn xong ăn nữa |
149.
Ganh tị với thầy |
150.
Hương liệu xoa thân |
151.
Dầu mè xao thân |
152.
Bảo đồng giới xoa |
153.
Bảo thức xoa xoa |
154.
Sa di ni xoa |
155.
bảo phụ nữ xoa |
156.
Mặc quần lót độn |
157.
Sắm đồ trang điểm |
158.
Mang dày cầm dù |
159.
Không bệnh ngồi xe |
160.
Không mặc áo lót |
|
|
161.
Tối đến nhà người |
162.
Tối mở cổng chùa |
163.
Trời lặn để cổng |
164.
Không có an cư |
165.
Độ người rỉ chảy |
166.
Độ người hai hình |
167.
Độ người nhập một |
168.
Độ người nợ, bệnh |
169.
Học nghề coi bói |
170.
Dạy nghề coi bói |
171.
Đuổi mà không đi |
172.
Hỏi không xin trước |
173.
Đi đứng xúc não] |
174.
Xây tháp chùa tăng |
175.
Khinh tân Tỳ kheo |
176.
Đi mà lắc mình |
177.
Sắm đồ trang sức |
178.
Bảo ngoại đạo xoa |
1.
CỐ Ý NÓI DỐI
Phật
ở Ca tỳ la vệ, trong vườn Ni câu luật (Nigrodha) Tỳ kheo
Trượng lực phạm. Ông thuộc dòng họ Thích ca, có tài biện
bác thường tranh luận với ngoại đạo. Mỗi khi người đối
thoại chứng minh ông nói sai thì ông quật lại rằng mình
chưa từng nói câu ấy. Mọi người chê bai Tỳ kheo gì mà
lại chuyên nói dối. Phật quở trách đương sự và chế giới.
2.
NHIẾC MẮNG THÀNH PHẦN
Phật
ở Xá vệ chế giới. Lục quần Tỳ kheo phạm. "Thành phần"
là như lôi nghề nghiệp, cố tật, thành phần xã hội của
người ta ra mà nhiếc móc, như nói "đồ con nhà thợ săn",
"hàng thịt" vân vân.
Kết
giới xong, Phật kể một câu chuyện ngụ ngô. Vào một thời
xa xưa, khi loài vật cũng biết nói, ở xứ này có người
bà la môn nuôi một con trâu đực chỉ có một sừng nhưng
sức mạnh phi thường. Bà la môn cho trâu ăn, săn sóc trâu
rất chu đáo. Một ngày kia trong nước có hội đấu trâu,
trâu ai kéo nặng đi nhanh nhất sẽ thắng cuộc một ngàn lượng
vàng. Con trâu nói với chủ: "Xin chủ hãy đem tôi ra đấu,
tôi sẽ làm cho chủ được cuộc". Bà la môn nghe lời trâu,
bỏ tiền ra dự cuộc.
Đến
ngày dự thi, lúc đem trâu ra trình làng, ông ta giới thiệu:
"Thưa bà con cô bác, đây thằng lõi một sừng của tôi đây,
xin bà con hãy xem sức mạnh của nó".
Trâu
nghe nhắc đến dị tật "một sừng" của mình, lấy làm hổ
thẹn buồn sầu, kéo xe không nổi. Người Bà la môn bị thua
cuộc tiu nghỉu dắt trâu về. Về đến nhà, ông bảo trâu:
"Bình thường mày mạnh lắm, sao hôm nay bỗng dưng mày trở
chứgn kéo xe không nổi, làm ta mất toi một ngàn cây?".
Trâu
nói: "Ai bảo chủ ở trước công chúng mà gọi tôi là thằng
lõi một sừng, nghe thế tôi hổ thẹn buồn sầu chẳng còn
chút sinh lực nào nữa. Nếu chủ muốn thắng cuộc, hãy đem
đặt tiền cuộc gấp đôi, rồi dùng lời êm tai vỗ về trước
khi đấu, tôi sẽ đem về cho chủ hai ngàn lượng cho coi".
Người
Bà la môn nghe vậy, hết lời xin lỗi trâu, rồi đem trâu ra
đấu nữa. Lần này trước khi đi ông dụ ngọt: "Con cưng
của ba ơi, hãy theo ba ra trường đấu, lần này con rán kéo
xe cho thắng cuộc, rồi ba sẽ bồi dưỡng cho con nhiều rượu
thịt và cho con đi xem cải lưởng hát bóng...".
Trâu
nghe bùi tai, hăng hái ra đi. Đến nơi, bà la môn lại vỗ về
trâu mà giới thiệu: "Thưa bà con cô bác, đây là anh chàng
Hoàng Ngưu báu vật số một của tôi. Hoàng Ngưu đẹp trai,
thông minh, lại khỏe mạnh, dẻo dai vô cùng...". Rồi ông nói
riêng với trâu: "Nào Hoàng Ngưu ra đi con, hãy làm cho mọi
người trông thấy tận mắt, thưởng thức cái sức mạnh
vô địch của con". Con trâu hùng dũng bước ra kéo dễ như
bỡn một chiếc xe nặng nhất trong trường đấu, chưa con
nào kéo nổi. Mọi người vỗ tay hoan nghênh, và người bà
la môn thắng cuộc hai ngàn vàng.
Nhân
đấy Phật dạy: "Con vật mà còn ưa nghe lời dịu ngọt như
thế, huống chi loài người".
3.
NÓI ĐỂ LY GIÁN
Lúc
Phật ở Xá vệ, Lục quần Tỳ kheo thường đem lời người
này nói sau lưng người kia đi nói lại cho người kia biết,
và ngược lại; làm cho những người chưa gây gỗ khởi sự
gây gỗ, còn những người đã ghét nhau thì hố ngăn cách
càng thêm sâu, không hàn gắn được. Phật nhóm tăng quở
trách Lục quần và chế giới.
Đức
Thế Tôn kể câu chuyện về tai họa của sự đâm thọc như
sau. Ở trong khu rừng nọ, có hai gia đình cọp và sư tử đều
là mẹ góa con côi, hang của chúng ở cách xa nhau. Hàng ngày
hai bà mẹ đi kiếm mồi, cả hai đều căn dặn con mình ở
nhà chơi quanh quẩn, chớ đi xa mà gặp chó sói. Hổ con vâng
lời mẹ không dám ra khỏi hang, nhưng chú bé con sư tử thường
ưa phiêu lưu mỗi khi mẹ đi vắng. Một hôm chú đi lạc đến
gần hang cọp, gặp ngay cọp mẹ vừa đi ra. Ban đầu hổ tính
vồ lấy hài nhi sư tử đem về hai mẹ con ăn thịt, nhưng
sau thấy chú bé kháu khỉnh thơ ngây, bà lại bắt sống đem
về hang chơi với cọp con cho có bạn. Cọp mẹ đang thích
thú ngồi xem hai chú nhỏ đùa giỡn làm quen nhau thì bổng
nhiên sư tử cái lừ lừ tiến đến. Hổ mẹ thất sắc toan
bỏ chạy, thì bà sư tử cái đã ôn tồn: "Chị đã có lòng
thương đến con tôi như thế, thí chúng ta hãy kết bạn với
nhau đi. Ta thay phiên nhau đi kiếm mồi cho cả hai cháu, chúng
ở nhà vừa được bạn chơi, vừa được mẹ săn sóc có
phải hơn không?". Cọp cái nghe có lý, từ đấy hai gia đình
ở chung một hang rất đầm ấm. Cọp mẹ đạt tên con là
Thiệt Bạt (Tát khỏe), sư tử cái đặt tên con là Thiện
Nha (Răng nhọn). Hai chú bé càng lớn càng đẹp trai, khỏe
mạnh sức địch muôn người, lại thương yêu nhau như ruột
thịt. Hai bà mẹ sung sướng thấy hai con thân thiện như thế.
Khi đã già gần kề cái chết, họ dặn lại hai con: "Các con
yêu dấu, bây giờ hai con đã thành những chúa tể trong rừng
sâu nhiều nguy hiểm này. Hai mẹ có chết cũng không lo sợ
gì khi thấy các con sống thương yêu hòa thuận. Nhưng các
con hãy đề phòng những lời nói xấu, đâm thọc sau lưng".
Sau
khi hai bà mẹ lần lượt qua đời, Thiện Nha và Thiện Bạt
trở thành một đôi tri kỷ chúa tể rừng sâu, làm cho tất
cả thú rừng đều kinh sợ, nể mặt. Chúng thường thay nhau
đi kiếm mồi về ăn chung, cũng như lúc còn sinh tiền hai bà
mẹ. Nhưng bỗng một ngày kia, xuất hiện một con chồn láu
cá. Nó mon men đến gần hang, thốt lời nịnh hót hổ Thiên
Bạt đang nằm một mình lúc sư tử Thiện Nha đi vắng. "Anh
Thiện Bạt ơi! Sao anh có vẻ buồn thế? Cho em vào đấm lưng,
bắt rận cho anh nhé?" Cọp đồng ý cho chồn vào hang chơi
trong lúc chờ sư tử đem mồi về. Khi Thiện Nha về vừa trông
thấy chồn, Thiện Bạt đã nói trước: "Anh Thiện Nha ạ,
nay ta hãy nuôi chú chồn này để sai vặt cũng hay đấy. Nó
sẽ hầu hạ anh lúc tôi đi vắng, cũng như vừa rồi nó đấm
lưng bắt rận cho tôi. Rồi chúng ta sẽ cho nó ăn những mẩu
xương thừa và dọn dẹp nhà cửa cho mát con mắt". Thiện
Nha đồng ý. Từ đó chồn bám theo đôi bạn để kiếm chác.
Một
hôm chồn sinh tật nói lời ly gian. Khi ở một mình với cọp,
chồn bảo: "Anh Thiệt Bạt à, anh biết anh Thiện Nha nói sao
với em không? Ảnh nói rằng Thiệt Bạt làm biếng, miệng
thối vì không chịu chà răng sau khi ăn, ở chung chán thấy
mồ". Thiện Bạt tin là thật, nên lúc Thiện Nha đem mồi về,
cọp thờ ơ không săn đón như thường lệ. Hôm sau lúc Thiện
Nha ở nhà một mình với chồn, chồn lại tỉ tê: "Anh Thiện
Nha ơi! Hôm qua anh Thiện Bạt ở nhà nói xấu anh thậm tệ.
Anh ấy bảo rằng, hổ mới là chúa tể sơn lâm; sư tử chỉ
nhờ hổ mà được tiếng thơm lây. Sở dĩ thiên hạ sợ hai
anh chính là sợ hổ chứ không phải sợ sự tử".
Thiện
Nha nghe thế, bán tín bán nghi. Lúc cọp về, sư tử hỏi "Có
phải anh nói như vậy với chồn hay không?".
Thiện
Bạt cũng hỏi lại sử tử: "Có phải anh chê tôi làm biếng,
miệng thối không?".
Cả
hai đều vỡ lẽ chỉ tại con chồn, và nhớ lại lời mẹ
dặn. Chúng bèn giết chồn ăn thịt.
4.
NGỦ CHUNG MỘT NHÀ
(với
người khác phái)
Phật
ở khoáng dã thành, giữa hai nước Ma kiệt (Magadha) và Câu
tát la (Kosala). Tôn giả A nâu lâu đà phạm đầu tiên.
Tôn
giả đi từ Xá vệ đế Câu tát la, giữa đường ngủ nhờ
trong chỗ nghỉ đêm của một cô gái làng chơi giàu có. Cô
này vừa muốn tạo phước vừa muốn câu khách, nên bỏ tiền
ra làm một cái nhà nghỉ đêm miễn phí dành cho khách lỡ
đường. Tăng tục đi qua đó đều nghỉ lại nhà cô. Hôm
ấy nhà ngủ đầy chật cả người. thấy tôn giả A nâu lâu
đà ngồi thiền trong một góc náo nhiệt, cô ái ngại đến
thưa: "Bạch đại đức, xin mời đại đức vào trong nhà riêng
của con cho được sạch sẽ, thanh tịnh". Tôn giả theo cô
ta vào nhà trong, trải tọa cụ trên giường để ngồi thiền
như trước. Nửa đêm nhìn thấy tôn giả đẹp trai cô bỗng
nảy ra ý xấu, muốn quyến rũ. Cô tới trước mặt tôn giả
mà khiêu khích, nhưng tôn giả vẫn bất động, cuối cùng
cô thoát y nhảy tót lên giường, ngồi bên cạnh. Tôn giả
vọt bay lên hư không. khi ấy cô gái hổ thẹn, mặc lại y
phục đảnh lễ tôn giả và bạch: "Xin ngài tha thứ, trở
xuống đây nói Pháp cho con nghe". Tôn giả trở xuống thuyết
pháp cho cô gái. Nghe xong ngay tại chỗ, cô được pháp nhãn
ly trần vô cấu, chứng quả Dự lưu (trừ được ba hạn phần
kiết sử là thân kiến, nghi và giới cấm thủ). Tôn giả
kể lại câu chuyện này khi về lại thành Xá vệ, nghe xong
chúng tăng bạch Phật. Đức Thế Tôn nhóm tăng chế giới
cấm ngủ cùng nhà với người khác phái, đề phòng người
chưa đắc đạo thì không những không hóa độ được kẻ
khác (điều mà tôn giả A nâu lâu đà đã làm được) mà
còn bị dụ dẫn cho đọa lạc, dù không đoạ cũng mang tai
tiếng.
5.
NGỦ QUÁ BA ĐÊM
Phật
ở Khoáng dã thành (nằm ở ranh giới Ma kiệt đà và Kiều
tát la) chế giới. Bấy giờ trong giảng đường có đông người
đến nghe Pháp ngủ lại đêm, tăng tục cùng ở trong một
ngôi nhà lớn. Lục quần Tỳ kheo trong lúc ngủ say thiếu uy
nghi, để lộ thân hình làm cho cư sĩ nhiều lần trông thấy
chê cười. Các Tỳ kheo bạch Phật. Phật chế giới, từ nay
không được ngủ chung nhà với người chưa thọ giới cụ
túc.
Sau
đó, đến một nơi khác, vì tuân lời Phật dạy, nên không
ai dám để cho Rahula ngủ chung phòng. Chú sa di bảy tuổi đến
đâu cũng bị đuổi, đứng ngoài trời ban đêm thì sợ rắn
cắn, chú bèn vào đứng suốt đêm trng phòng vệ sinh dành
riêng cho Phật. Nửa đêm khi Phật đi ra, thấy có ánh lửa
trong nhà cầu, ngài biết mà cố hỏi: "Ai trong đấy?".
Rahula
thưa: "Bạch Thế tôn, con là Rahula đây".
- Ngươi
đứng làm gì trong ấy?".
- "Bạch
Thế tôn, không ai cho con ngủ chung một phòng với các tôn
giả như trước nữa, ở ngoài sợ rắn nên con vào trong này".
Phật
đưa tay dắt chú bé Ruhula về phòng, cho ngủ một đêm. sáng
hôm sau, Phật chế giới cho phép sa di được phép ngủ cùng
phòng Tỳ kheo ba đêm.
6.
ĐỌC TỤNG ỒN NÁO
Phật
ở thành Khoáng dã như trên, chế giới này. Nhân vì Lục quần
Tỳ kheo cùng các trưởng giả nhóm họp đọc tụng ồn ào,
chướng ngại cho các vị đang tọa thiền, Phật quở trách
và chế giới không được cùng người cư sĩ đọc tụng kinh
luật.
Tụng
kinh lớn tiếng là cốt để gây một bầu khí trang nghiêm,
làm tăng tín tâm của người nghe. Nếu không thì đọc thầm
hay xem cũng được, cần gì phải lớn giọng? Do vậy, khi tụng
chung cần phải bổng trầm có tiết tấu, nhạc điệu hùng
tráng thanh thoát mới gây được cảm hứng cho người nghe.
Thoe tinh thần của sự tích thế giới, thì cấm sự đọc
tụng khi giọng điệu không hòa, mỗi người một kiểu, và
nhất là khi sự tụng đọc ấy làm rối loạn một số đông
người đang cần yên tĩnh.
7.
NÓI TỘI LỖI NẶNG
Phật
ở thành Vương Xá chế giới. Bấy giờ có một Tỳ kheo phạm
tội, bị tăng chúng xử phạt ở riêng và làm các công việc
trong nhà cầu. Khi cư sĩ tới chùa, Lục quần Tỳ kheo thóc
mách với họ: "Ông ấy có tội như vậy như vậy, nên phải
bị làm những việc như vậy như vậy". Cư sĩ đem những lời
ấy chuyền nhau bàn tán, làm cho vị đang hành sám phải xấu
hổ, và tăng chúng cũng khó chịu. Phật quở trách Lục quần
Tỳ kheo.
Tội
lỗi nặng là thuộc hai thiên đầu. Có trường hợp cần phải
nói cho cư sĩ biết, như khi Đề bà đạt đa phá tăng, Phật
cho phép tăng yết ma cử Xá lợi phất và Mục kiền liên đi
nói tội của Đề bà đạt da. Việc làm này không cố trừng
phạt, bêu xấu đương sự mà cốt để cho kẻ phá giới khỏi
lập thêm bè đảng xấu. Khi đi nói tội của một Tỳ kheo,
phải hội đủ một số điều kiện như:
- Do
tăng sai nói (người không được tăng sai thì không phép nói).
- Nơi
chốn và thời gian nên nói. Như khi người phạm giới lường
gạt sắp đến một nơi ở đấy có nhiều thí chủ dễ tin
hay cúng dường, thì chỉ nên đến những nơi ấy mà nói,
chứ không phải bạ đâu nói đó, vừa mất thì giờ vô ích,
mà có hại cho đoàn thể khi người nghe không phải phật tử
thuần thành, dễ vơ đũa cả nắm để báng bổ, mất lòng
tin.
- Người
nói phải vì tâm hộ trì chánh pháp chứ không phải vì thù
riêng và ác ý.
Có
những người không ưa đi nói tội lỗi người khác, nên khi
tăng yết ma đề cử, họ nói không kham năng. Trường hợp
ấy, tăng sẽ hỏi ai tình nguyện. Nếu đi một người sợ
bị trả thù, thì có thể sai hai người, hoặc tăng yết ma
cho phép ai cũng được nói, khi gặp thời gian và nơi chốn
thích hợp như trên.
8.
NÓI THẬT ĐẮC ĐẠO
Giới
này không có ai phạm, vì không ai thật đắc đạo mà đi nói
cho cư sĩ biết. Nhưng đây là một giới phụ vào giới trọng
thứ tư ở thiên đầu, là tội dối nói đắc đạo để được
cúng dường, phạm tội ba la di. Phật dạy, ngay cả khi thật
đắc đạo mà đi nói với cư sĩ cũng còn phạm giới nhẹ,
huống chi không thật. nguyên do vì cư sĩ thường không biết
gì hoặc biết sai lạc về chuyện tu hành của người xuất
gia, nên có nói cho họ nghe cũng vô ích, họ không hiểu gì,
và đôi khi còn sinh tâm hủy báng là "nói dóc".
Nếu
thật đắc đạo đi nói với cư sĩ hay kẻ chưa thụ giới,
ấy là sự khoe mình, phạm lỗi kiêu mạn. Nếu nói để được
cúng dường, là tham. Luật Tăng kỳ quyền 14 dẫn lời Phật
dạy: "Những người vì cái bụng và lỗ miệng mà đem chánh
pháp vi diệu nói cho người nghe, thì chẳng khác nào dâm nữ
bán mình".
9.
QUÁ NĂM SÁU LỜI
Phật
ở Xá vệ chế giới. Tôn giả Ca lưu đà di (Kaludhayi) phạm.
Tôn giả đi đến nhà hai dâu gia cùng ở góa, kề tai nói pháp
cho nàng dâu. Bà gia hỏi: "Ông ấy nói chuyện gì thế?"
Nàng
dâu đáp, "Nói pháp".
- "Nói
pháp thì cứ việc nói lớn lên, sao lại phải kề tai nói
thầm?".
Lần
khác cũng tôn gải này đến nhà ấy bảo nàng dâu khi bà gia
đi vắng: "Sở dĩ mẹ chồng cô nóng tính bẵn gắt, là vì
trong nách bà có nốt ruồi".
Khi
khác gặp bà gia một mình, thì ông nói: "Cô dâu của bà ngang
ngạnh khó dạy là vì giữa hai vú có nốt ruồi đen và sợi
lông xoăn".
Hai
dâu gia khi cùng tắm thì thấy quả thực như vậy, nên đêm
nghi ngờ nhau, sỉ vả nhau là tư thông với người, để cho
Tỳ kheo trông thấy ngực và chỗ kín. Kỳ thực chỉ vì Ca
lưu đà di thường coi sách tướng, lại ưa nói nhiều, nói
bậy. Phật chế giới không được nói ngoài đề tài phật
pháp như năm ấm sáu nhập (quá năm sáu lời). Hoặc cũng có
thể hiểu không được nói nhiều, dù nói pháp, với người
khác phái.
10.
ĐÀO CUỐC ĐẤT ĐAI
Phật
ở Khoáng dã thành chế giới. Lục quần Tỳ kheo đào đất
tu bổ giảng đường, bị cư sĩ chê bai vì hại nhiều mạng
sinh vật. (Ở Ấn Độ, có Kỳ na giáo giữ giới sát sinh rất
quá khích. Những tu sĩ này có lúc đi đường mang khẩu trang
đề phòng côn trùng bay vào miệng mũi, lại cầm theo cái chổi
để quét chỗ mình sắp đặt chân, để khỏi dẫm phải sâu
kiến. phật chế giới này là do Tỳ kheo gặp phải sự chê
bai của cư sĩ đệ tử những vị này).
11.
CHẶT PHÁ CÂY SỐNG
Lúc
Phật ở thành Khoáng dã, có một cây lớn bị Tỳ kheo chặt,
gia đình vị thần cây mất chỗ ở, bồng bế nhau đến khóc
với Phật. Phật gọi các thần cây khác đến để dàn xếp
cho vị này tạm trú, và chế giới cấm chặt phá cây sống
(khi muốn đốn cây lớn, phải nói trước ba ngày để các
phi nhân tìm chỗ khác ở). Nhân đấy Phật kể chuyện vua
rồng Y bát la xưa kia vì nổi sân khinh hủy giới pháp mà đọa
làm rồng.
Một
ngày nọ, đại chúng trông thấy cua Chuyển luân oai vệ đẹp
đẽ đang từ từ tiến đến ra mắt Phật, thâm tâm ai cũng
phát thèm địa vị ông ta. Nhưng khi ông đến, bị Phật quở:
"Người vì không giữ giới đã bị đọa, nay còn dối trá
hiện hình này nọ để gạt người. Hãy hiện nguyên hình
ngay lập tức!".
Rồng
nói: "Bạch Thế tôn, con có nhiều kẻ thù, nếu con hiện nguyên
hình thì sợ chúng hợp lực kéo đến tấn công, con trở tay
không kịp".
Phật
dạy, "Ta sẽ bảo Bồ Tát Kim Cương thủ bảo vệ cho ngươi".
Rồng
vâng lệnh Phật, ẩn mất thân vua Chuyển luân rồi đến sau
một ngọn núi lớn để hiện lại nguyên hình. Khi ấy một
con rồng khổng lồ bảy đầu, trên mỗi cái đầu mọc một
cây Y bát la to lớn cành lá sum sê, từ sau núi lừ lừ trườn
tới phía Phật và đại chúng. Cả thân hình rồng tuôn ra
máu mủ vì bị sâu dòi đục khoét, mùi hôi thối xông khắp.
Đại chúng thất kinh hồn vía thưa hỏi lai lịch con quái vật,
Phật dạy đó là Y bát la long vương, ban nãy vừa giả làm
vua Chuyển luân để lòe các ngươi đấy.
Nguyên
vào thời Phật Ca diếp, nó làm một Tỳ kheo tinh thông ba tạng.
Một hôm đang ngồi bất động giữa rừng, Tỳ kheo bị những
cành cây y la tạt vào mặt mỗi khi gió thổi; nhiều lần chịu
đựng như vậy ông tức mình đứng dậy kiếm cái mác chặt
hết cành lớn nhánh nhỏ, lại còn la lên: "Phật Ca diếp ơi!
Cái vật vô tri vô giác này, bứt nó đi thì có gì là hại,
mà ông chế giới cho tôi khổ thế này!". Do tâm sân hận,
khinh hủy giới luật như vậy mà Tỳ kheo bị đọa làm con
rồng từ đấy.
Y bát
la long vương hỏi Phật, "Bạch thế tôn, đến chừng nào con
mới thoát khỏi thân nghiệp báo này?".
Phật
dạy: "Khi nào Phật Di lặc xuất thế". Rồng khóc nức nở,
nước mắt chảy ra làm ngập mười bốn son sông lớn. Phật
bảo: "Ngươi hãy nín đi, kẻo thiên hạ ngập lục chết hết
bây giờ".
Rồng
bảo, "Bạch Thế tôn, từ khi quy y Phật, con đã nguyện không
làm hại chúng sinh, dù chỉ là một sinh vật nhỏ". Bèn nín
khóc.
12.
XÚC NÃO LỜI LẠ
(Nói
lời khó hiểu để xúc não người khác).
Phật
ở Câu diệm di (Kosambi). Xiển đà mỗi khi bị chúng cử tội
thì nói quanh co để xúc não, hoặc làm điều trái ngược;
dù im lặng hay nói phô đều để xúc não người.
13.
NHIẾC MẮNG TRI SỰ
Phật
ở thành Vương xá, Tỳ kheo Tư địa ghét tri sự Đáp bà ma
la, nên thường nói ông này có tham sân si sợ. Khi thì nói
tại chỗ có thể nghe mà không trong thấy (như cách vách),
khi thì nói tại chỗ có thể thấy mà không nghe rõ lời (như
trông thấy Đạp bà ma la từ xa đi tới, Tư địa bèn nói
với người khác). Các Tỳ kheo bạch Phật.
Tạp
bảo kinh kể chuyện, một hôm trên đường cùng đi với Anan,
thấy một bà lão nô tì đang múc nước giếng, Phật bảo
Anan đến xin nước cho ngài dùng. Bà trông thấy Phật bén
đến ôm chầm lấy, khóc gọi "Con ơi con!" Phật dạy Anan,
trong nhiều đời kiếp, bà đã từng làm mẹ của ngài. Rồi
Phật chuộc bà về cho theo Di mẫu xuất gia. Về sau, khi bà
đắc quả A la hán, ngài cho chúng tăng biết trong một đời
trước bà đã từng xuất gia làm ni chủ, nhưng do nghiệp mạ
lị một vị ni đã đắc quả là "dòng dõi nô tì hạ liệt"
mà phải rước quả báo làm nô tì. Bà cũng thuờng ngăn cản
người khác bố thí, nên nhiều kiếp phải sinh vào nhà nghèo
khó. Trong những đời kiếp làm con của bà, Phật cũng đã
thường bỏ tiền ra chuộc bà về mỗi khi bà bị giặc phá
tan gia sản và cướp bà đi.
14.
TRẢI ĐỒ CHỖ TRỐNG
Lúc
Phật ở Xá vệ, nhóm 17 Tỳ kheo nhỏ tuổi (Thập thất quần)
trải đồ nằm ra giữa đất trống rồi bỏ đi không dẹp,
bị gió thổi bay tứ tung.
15.
TRẢI ĐỒ TRONG PHÒNG
Phật
ở Xá vệ, một khách tăng đến xin ở lại, khi ra đi không
dẹp chiếu mền cũng không nhờ người ở lại dẹp, nên bị
hư hỏng. Phật nhóm tăng chế giới này.
16.
CƯỠNG CHIẾM CHỖ NẰM
Phật
ở Xá vệ. Nhóm 6 và Nhóm 17 đi đường; khi gần đến một
thôn ấp, Nhóm 17 nhường Nhóm 6 vào thôn trước để tìm chỗ
nghỉ, nhưng Lục quần bảo, cho các ngươi tự tiện tìm chỗ
trước đi, chúng ta ở đâu cũng được. Nhóm 17 đi trước
tìm được chỗ nghỉ, quét sạch sẽ trải đồ nằm xong thì
Nhó 6 đi vào giành chỗ, ỷ thế lớn đuổi Nhóm 17 ra. Các
chú nhỏ kêu khóc. Phật quở nhóm 6 và chế giới.
17.
LÔI RA KHỎI PHÒNG
Cũng
hai nhóm nói trên, nhưng lần này thì tại một ngôi chùa. Nhóm
6 đi đường nghỉ đêm, vào ngủ nhờ trong một ngôi chùa,
gặp Nhóm 17 đã trải đồ nằm tử tế trong một phòng dành
cho khách trú (tục lệ này rất phổ thông bên Phật giáo Nam
tông, chùa thường có chỗ dành cho người lỡ đường ở
lại một đêm, bất kể tăng hay tục). Lục quần Tỳ kheo
đến sau thấy chỗ tốt bèn đuổi Nhóm 17 đi ra. Trời đã
tối, Nhóm nhỏ không muốn đi tiếp nữa, đề nghị ở chung,
nhưng Nhóm 6 viện dẫn giới Phật chế, lôi các chú nhỏ ra
khỏi phòng.
18.
NẰM GIƯỜNG SÚT CHÂN
Phật
ở Xá vệ, các Tỳ kheo nằm ngồi trên một căn gác gỗ, ván
mục rớt xuống đụng nhằm đầu một Tỳ kheo ở tầng dưới,
xảy ra tai nạn lưu huyết. Phật chế giới, trước khi nằm
ngồi giường hay võng thì phải xem kỹ.
19.
DÙNG NƯỚC CÓ TRÙNG
Phật
ở Xá vệ, Tỳ kheo Xiển đà dùng nước ao để trộn hồ,
cư sĩ trông thấy chê bai Tỳ kheo làm tổn hại những sinh
vật trong nước. (Xem giới số 10 ở trên).
20.
LỢP NHÀ QUÁ HẠN
Phật
ở Xá vệ; Tỳ kheo Xiển đà làm một cái nhà ở bên bờ
ruộng, đi xin tranh để lợp. Vì lợp quá nhiều lớp tranh,
móng và vách yếu không chở nổi nên cái nhà đổ xuống trên
đám mạ mới cấy, làm hỏng ruộng mạ của dân. Cư sĩ chê
bai Tỳ kheo tham lam.
21.
ĂN QUÁ MỘT LẦN
Phật
ở Câu tát la chế giới. Tại một thôn xóm không có tinh xá,
một nhà giàu bỏ tiền ra làm một Nhà nghỉ đêm cho chư tăng
du hành ngang đấy muốn ở lại, sáng ra cúng dườngmột bữa
trước khi lên đường đi tiếp. Nhóm 6 đi qua ở lại một
đêm, sáng ra được dọn ăn ngon bèn ở tiếp, trở ngại cho
khách tăng khác. Cư sĩ chê bai, Phật chế giới. Sau đó Xá
lợi phất cũng đi đến một nhà nghỉ đêm, sáng ra bị ốm
nhưng cũng không dám lưu lại, cứ ra đi nên bệnh càng tăng.
Phật chế lại giới này, thêm câu "nếu không bệnh mà ăn
quá một bữa".
22.
ĂN THÀNH BIỆT CHÚNG
Phật
ở Xá vệ, Nhóm 6 phạm. Giới này là để phòng sự kết bè
đảng để lập tăng đoàn riêng, như Đề bà đạt đa (phá
tăng hòa hợp). Chỉ được ăn riêng một, hai hay ba người,
nếu không có việc gì mà tách ra 4 Tỳ kheo trở lên ăn riêng
thì phạm giới này.
23.
NHẬN ĂN QUÁ PHẦN
Phật
ở Xá vệ chế giới. Có một phụ nữ lấy chồng xa về thăm
quê mẹ ở Xá vệ; khi sắp khởi hành để trở lại nhà chồng,
cô làm nhiều bánh và lương khô để ăn dọc đường. Gặp
một Tỳ kheo đến khất thực, nàng đem những thức ăn này
ra cúng, các Tỳ kheo khác thấy vậy cũng đến xin. Cô gái
hảo tâm cứ làm bánh để cúng dường hết lớp này tới
lớp khác, người chồng chờ mãi không thấy cô trở lại,
cuối cùng bèn lấy vợ khác. Cha cô gái đến kể chuyện này
với Phật.
Lại
có một đoàn người đi buôn nghỉ tại một nơi, Tỳ kheo
đến xin ăn được đồ ngon, về mách, các vị khác cũng đến
xin. Thương khách tốt bụng vì phải đi mua sắm lại lương
thực nên bị trễ hẹn, phải đi sau một mình, bị giặc cướp
sạch sành sanh. Do vậy, Phật chế giới này, cấm ăn lương
thực của người đi đường.
24.
ĂN LÚC PHI THỜI
Phật
ở Xá vệ chế giới. Tỳ kheo Nan đà và Bạt nan đà vào thành
xem hát trở về tối mới đi xin ăn. Ca lưu đà di cũng đi
xin khi mặt trời đã lặn. Vào một nhà nọ, gặp một phụ
nữ mang thai đang đứng một mình sau bếp, thấy tôn giả lù
lù đi tới nhe răng cười, để lộ hàm răng trắng toát trong
bóng đêm không thấy thân hình (vì tôn giả da đen, nên có
biệt hiệu là Ưu đà di đen như quạ), phụ nữ sợ quá la
lên: "Ô con quỷ, con quỷ!"
Tôn
giả nói, "Không phải quỷ đâu, đây là Tỳ kheo đi khất
thức".
Bà
kia hoảng hồn mắng: "Cha Tỳ kheo hãy chết đi, mẹ Tỳ kheo
hãy chết đi! Thà lấy con dao bén mổ cái bụng của ngươi
đi, còn hơn là vì cái lỗ bụng mà đến nhà người ta xin
ăn vào buổi tối, làm cho người ta sợ hết hồn!".
Sau
đó người phụ nữ này do cơn kích động mà bị sẩy thai.
Phật nhân đấy chế giới quá ngọ không được đi khất
thực, và cấm ăn phi thời, nghĩa là ăn sau giờ ngọ.
25.
ĂN ĐỒ CÁCH ĐÊM
Phật
ở Vương xá. Bấy giờ có Tỳ kheo Ca la làm biếng khất thực
mỗi ngày, nên đi xin một lần để dành ăn nhiều ngày. Vào
giờ ăn sáng ăn trưa, không thấy Tỳ kheo Ca la vào nhà ăn
để cùng san sẻ đồ ăn khất thực, chúng Tỳ kheo hỏi nhau:
"Sư huynh ấy biến đâu mất, mà không vào nhà ăn? Bị bệnh,
hay đã hoàn tục, hay bị giặc bắt, bị cọp vồ?". Hỏi ra
mới biết ông ăn đồ cách đêm, vài ngày mới lại đi khất
thực một lần. Chúng Tỳ kheo bạch lên Đức Thế Tôn, Phật
chế giới.
26.
ĂN ĐỒ KHÔNG MỜI
Phật
ở Xá vệ. Có vị Tỳ kheo khổ hạnh, sống bằng y thực lượm
nhặt của người ta vứt. Trong thành có đám cúng cô hồn,
ông đến lấy những vật thực người ta đang bày cúng để
ăn, vì nghĩ rằng trước sau gì họ cũng vứt. Bị cư sĩ chê
bai.
Tôn
giả A na luật (Anurudha, còn dịch âm A nâu đạt) cũng theo
hạnh ấy, một hôm trông thấy một phụ nữ đem đồ cúng
ra tung vãi giữa đất trống cho chim thú ăn. Ngài đi theo bà
ấy bén gót, dùng thần lực khiến cho chim thú không dám lai
vảng, rồi đến thu nhặt. Phụ nữ thấy đồ ăn của mình
rải ra không được chim thú nào chiếu cố vì sự xuất hiện
của tôn giả, lấy làm tức giận. Trở về tôn giả kể lại
thành tích, bị Phật quở rồi chế giới: "Không được không
thọ thực mà bỏ đồ ăn thức uống vào miệng", nghĩa là
Tỳ kheo ăn uống gì phải do có người mời trước.
27.
ĐI KHÔNG DẶN LẠI
Phật
ở Xá vệ. Có một trưởng giả trong thành vốn là bạn thân
của tôn giả Bạt nan đà, nên ông ta vì tôn giả mà thỉnh
tất cả tăng chúng đến nhà ông thọ thực. Đến giờ ăn,
tất cả tăng chúng đều tụ họp đông đủ tại nhà trưởng
giả, chỉ thiếu Bạt nan đà, nên thí chủ vẫn chưa chịu
dọn thức ăn. Gần đến giờ ngọ tôn giả Bạt nan đà mới
xuất hiện nói "Chư hiền hãy cứ tự nhiên, tôi đã ăn trước
rồi". Phật biết chuyện, chế giới.
28.
NHÀ ĂN NGỒI DAI
Phật
ở Xá vệ chế giới. Tôn giả Ca lưu đà di lúc còn tại gia
đã quen một cô gái đẹp, hai người để ý nhau. Khi cô này
có chồng, tôn giả ôm bát đến nhà khất thực, người chồng
sai vợ đem thực phẩm cúng dường. Ăn xong tôn giả chưa chịu
đi mà còn ngồi lại cà kê dê ngỗng một hồi với "người
tình cũ". Thấy chướng tai gai mắt, người chồng mắng cho
một trận rồi bỏ nhà ra đi. Một Tỳ kheo đến khất thực
tình cờ trông thấy cảnh ấy, về bạch Phật. Phật quở
trách đương sự và chế giới: Tại nhà thí chủ, không được
ngồi dai, cũng không được ngồi cách xa cửa ra vào quá một
tầm tay.
29.
NHÀ ĂN NGỒI KHUẤT
Cũng
tôn giả Ca lưu đà di với nhà cư sĩ nói trên. Khi nghe Phật
cấm ngồi cách cửa quá xa, tôn giả lần này tìm cách ngồi
nói chuyện với vợ cư sĩ khuất sau cánh cửa, để khỏi
phạm giới. Một Tỳ kheo khác đến trông thấy, về bạch
Phật. Phật chế thêm giới cấm ngồi tại chỗ khuất.
Thập
tụng luật kể, có con chó bỏ nhà mình sang nhà khác xin ăn,
bị chủ nhà đánh đuổi. Khi cả hai đều chết xuống âm
phủ, con chó kiện với Diêm vương: "Ông ấy ỷ thế làm người
đã đánh đuổi tôi thậm tệ, trong khi tôi không vi phạm phép
tắc của loài chó".
Diêm
vương tò mò hỏi: "Thế nào là phép tắc của loài chó?".
Con
chó nói: "Tại nhà chủ, thì tôi đi khắp nơi bằng cả cái
đầu, bốn cẳng và sãi cái đuôi ra ve vẩy tự do. Nhưng đến
nhà lạ, bao giờ tôi cũng đứng thập thò để cái đuôi ngoài
cửa, chỉ đưa đầu vào trước đánh hơi, chủ có vui vẻ
cho phép thì tôi mới vào. Thế đấy là phép tắc của loài
chó". (Khi một bầy chó chơi đánh nhau cũng vậy, con nào cụp
đuôi xuống thì những con khác biết nó đã đầu hàng, không
quấy rầy nó nữa).
Diêm
vương hỏi: "Bây giờ ngươi muốn ta trừng phạt người kia
cách gì?".
Chó
thưa: "Xin cho ông ta đầu thai làm một người có quyền cao
chức trọng".
- "Tại
sao?".
- "Vì
có quyền thế địa vị thì dễ làm nhiều việc ác ôn thất
đức rồi phải đọa. Xưa kia tôi cũng là một kẻ có chức
quyền, vì làm nhiều sự ác mà phải đầu thai làm súc sinh".
Phật
dạy, chó còn biết phép tắc, giới hạn của mình, huống
chi con người.
30.
NGỒI CHUNG CHỖ TRƯỚC
Phật
ở Xá vệ chế giới, do tôn giả Ca lưu đà di phạm. Ông cùng
ngồi với vợ cư sĩ ở chỗ trống vắng. (Xem từ giới 28
trở đi).
31.
ĐUỔI NGƯỜI ĐI ĐI
Phật
ở Xá vệ. Bạt nan đà gây gổ với một Tỳ kheo khác bị
thua, ôm hận, sau đó trả đũa bằng cách rủ ông này cùng
đến một thôn xóm khất thực, hẹn sẽ có thực phẩm tốt.
Khi ông này đi theo, tôn giả đưa đến một nơi không ai cúng
thứ gì. Bạt nan đà bảo: "Thông thường ta đi khất thực
không bao giờ gặp xui như vậy. Thôi ngươi hãy đi riêng ra,
ta cũng đi chỗ khác kiếm thức ăn".
Tỳ
kheo kia một mình về đến tịnh xá thì đã quá giờ, phải
nhịn đói, trong lúc ấy Bạt nan đà đi đến nhà quen, bảo
dọn cơm ăn.
32.
QUÁ HẠN THỌ THUỐC
Phật
ở Thích sí sấu, vườn Ca tì la vệ. Bấy giờ Thích Ma ha
nam anh của tôn giả A na luật (em chú bác với Phật lúc còn
tại gia) thỉnh chúng tăng đến nhà thọ thực trong bốn tháng
an cư. Nhóm 6 Tỳ kheo ganh tị, bảo Ma ha nam chỉ cúng đồ
tốt cho những vị thượng tọa mà thôi, dành đồ xấu cho
hạ tọa. Cư sĩ nổi sân, đuổi nhóm 6, mất tín tâm, tuyên
bố không cúng dường nữa. Phật chế giới quá hạn bốn
tháng hạ an cấm tiếp tục đến nhà cư sĩ mà thọ thuốc
(kể luôn thực phẩm). Về sau Ma ha nam hối hận, đến thỉnh
chư tăng trở lại nhận đồ cúng, nhưng các Tỳ kheo không
dám đi, cũng không dám nhận phần thực phẩm người ta cúng.
Do đó phật đã chế lại giới này nhiều lần, thêm các trường
hợp "cánh thỉnh" (lại mời nữa), "phần thỉnh" (chia ra từng
phần cúng mỗi vị), "tận hình thọ thỉnh" (tình nguyện còn
sống là còn cúng cho tỳ kheo) vân vân.
33.
ĐI XEM QUÂN TRẬN
Phật
ở Xá vệ, Nhóm 6 nhân an cư xong, đi du hành trông thấy vau
Ba tư nặc đang bày binh bố trận, bèn đứng lại coi. Vui hỏi,
"Các đại đức có việc gì mà đến đây?".
- "Không
có việc gì, chúng tôi chỉ đứng coi chơi cho biết".
Vua
bất mãn, đuổi khéo bằng cách gửi vài món quà cho họ đem
về cúng dường Phât. Khi mang quà trở về hầu Phật, Phật
biết chuyện này quở trách và chế giới "Không được đi
xem quân trận".
Về
sau, có hai viên quan sắp đem quân ra trận, đến thỉnh tôn
giả A nan vào trại binh thuyết pháp cho quân sĩ. Tôn giả nghi
sợ phạm giới. Phật chế lại giới này, cho phép nếu có
việc cần thì được đi.
34.
TRONG QUÂN QUÁ HẠN
Phật
ở Xá vệ, nhân Phật cho phép vào trong trại quân, Nhóm 6 theo
tôn giả A nan đi vào trại. Trong khi tôn giả thuyết pháp thì
Nhóm 6 ba hoa với quân sĩ về binh trận chiến lược, và xong
việc cũng còn lưu lại trong quân. Cư sĩ chê bai, Phật chế
giới nếu có việc cũng không được ở quá ba đêm.
35.
XEM QUÂN GIAO CHIẾN
Lục
quần Tỳ kheo khi ở trong quân bèn đi coi binh lính tập trận.
Có một người bị tên bắn trúng, được đồng bạn băng
bó đặt trên cáng khiêng về chùa. Cư sĩ hỏi biết nguyên
do, đã không thương còn chê đáng kiếp. Phật chế giới,
khi có việc đến trong quân, cũng cấm coi binh lính tập dượt.
36.
UỐNG CÁC THỨ RƯỢU
Phật
ở Xá vệ. Một hôm nhân theo Phật và chúng Tỳ kheo đi qua
một thôn ấp, tôn giả Thiện lai (Sagata, Sa già đà) hàng phục
được một con độc long tại địa phương thường quấy phá
tàn hại dân lành. Sau khi cúng dường Phật và chúng tăng,
dân chúng xin phép Phật thỉnh "người hùng" lưu lại để
thết đãi. Họ dọn nhiều rượu, tôn giả quá chén, người
ta phải dìu ông về chùa, say tuý luý càn khôn. Phật và A
nan tắm rửa thay y phục cho Thiện lai và đặt ông lên giường.
Ông vẫn chưa tỉnh rượu, ú ớ quay chân về phía Đức Thế
Tôn. Thấy chúng Tỳ kheo xúm lại coi, Phật hỏi: "Này các
Tỳ kheo, giờ đây Thiện lai còn có khả năng hàng phục được
độc long chăng?".
- "Bạch
Thế tôn, bây giờ y không thể hàng phục cả đến một con
rắn nhỏ, nói gì đến rồng!". Nhân đấy Phật chế giới
cấm rượu.
37.
ĐÙA GIỠN TRONG NƯỚC
Phật
ở Xá vệ chế giới, Nhóm 17 Tỳ kheo phạm. Một hôm, khi cùng
với Mạt lợi phu nhân ngồi trên lầu cao, vua trông thấy nhóm
17 đang đùa giỡn tạt nước vào nhau trong lúc tắm. Vua Ba
tư nặc chưa tin Phật pháp, thấy vậy sinh tâm phỉ báng bèn
chỉ cho phu nhân xem mà nói: "Phu nhân hãy nhìn xem các ruộng
phước quý hóa của bà kia kìa!".
Bà
chống chế: "Các vị ấy tuổi còn trẻ, mới tập sự ấy
mà". Rồi phu nhân lẳng lặng cho người đến bạch Phật sự
vụ ấy. Trong Nhóm 17 có vị đã chứng đạo, biết tâm niệm
của vua và hoàng hậu bèn thăng lên hư không, làm các phép
thần biến.
Mạt
lợi phu nhân liền chỉ cho vua xem mà nói: "Bệ hạ hãy nhìn
xem những người bệ hạ báng bổ kìa!".
38.
THỌC LÉT NGƯỜI KHÁC
Phật
ở Xá vệ, Nhóm 6 phạm. Một vị trong Nhóm 6 nhân lúc chơi
đùa, đã thọc lét một vị trong Nhóm 17 cười tới nỗi chết
ngất. Phật nhân đấy chế giới.
39.
KHÔNG NGHE CAN GIÁN
Phật
ở Câu diệm di, trong vườn Cù sư la chế giới. Tỳ kheo Xiển
đà phạm.
40.
NHÁT CHO NGƯỜI SỢ
Lúc
Phật ở thành Ba tra lợi phất (Pataliputra) phía nam sông Hằng,
ngài được thị giả là Nagapala (Long hộ) hầu cận. Một
đêm nọ, Phật kinh hành giữa rừng cho đến quá nửa đêm,
làm tôn giả phải thức theo. Ông nảy ý nhát cho Phật sợ
mà đi ngủ, bèn lấy cái y trùm lên đầu ngồi thụp sau hốc
cây, đợi lúc Phật tới gần sẽ nhảy ra hù. Khi ông vừa
ngồi xuống thì Đức Thế Tôn đã đến bên hỏi nhỏ: "Này
Tỳ kheo Nagapala, ngươi định làm trò gì đấy?" Ông hoảng
hồn vía đứng lên bỏ chạy. Sáng hôm sau, Phật nhóm tăng
thuật lại chuyện này, và chế giới.
41.
TẮM DƯỚI NỬA THÁNG
Phật
ở thành Vương Xá, Nhóm 6 Tỳ kheo phạm. Bấy giờ vua Ba tư
nặc kính Phật trọng tăng nên để chúng Tỳ kheo được tự
do vào xử dụng hồ tắm trong cung. Nhóm 6 Tỳ kheo vào tắm
nhiều lần, trở ngại người khác. Nhân đấy Phật chế giới.
42.
ĐỐT LỬA ĐẤT TRỐNG
Phật
ở Khoáng dã thành, Nhóm 6 Tỳ kheo tụ tập đốt lửa lên
sưởi. Trong bọng cây có con rắn lớn chui ra, Nhóm 6 la lớn,
cầm các que lửa ném tứ tung, làm cháy nhà thiên hạ. Phật
chế giới.
43.
GIẤU CHƠI VẬT DỤNG
Phật
ở vườn Cấp cô độc, Nhóm 6 phạm. Một hôm, vào ngày tăng
chúng được mời ăn tại nhà cư sĩ, Nhóm 17 thu xếp y bát
để một góc rồi ra vườn đi bách bộ chờ giờ khởi hành.
Nhóm 6 Tỳ kheo muốn trêu chọc trẻ nhỏ nên giấu hết đồ
đạc của các vị này. Khi đến giờ, Nhóm 17 đi tìm kiếm
khắp nơi không thấy y bát, khóc um lên. Phật quở trách Nhóm
6 và chế giới.
44.
DÙNG KHÔNG HỎI CHỦ
Phật
ở Xá vệ, Nhóm 6 có quá nhiều y phải làm phép tịnh thí.
Sau khi tịnh thí, muốn mặc phải hỏi chủ (mặc dù các y
ấy mình vẫn giữ). Nhóm 6 không theo quy ước này, Phật chế
giới.
45.
DÙNG Y MỚI NGUYÊN
Phật
ở Xá vệ chế giới. Nhóm 6 mặc y mới màu trắng đi đường,
bị cư sĩ mỉa mai rằng trông giống các đại thần. Phật
chế giới không được mặc y trắng, phải nhuộm các màu
hoại sắc.
Ngũ
phần thì nói y mới cần phải làm dấu cho dễ nhận, gọi
là "điểm tịnh" ba chấm, như ngày nay ta thêu tên. Nguyên nhân
như sau. Một hôm có đoàn Tỳ kheo an cư xong, về Xá vệ đảnh
lễ Phật. Họ cùng với đoàn thương khách lúc đi qua một
khu rừng, bị giặc cướp hết hành lý và y phục mang trên
người (ngày nay gọi là trấn lột). Khi đoàn người đi ra
cổng rừng, các quân canh thấy Tỳ kheo mất hết y bát, hỏi
ra biết đã bị cướp. Biết vua Ba tư nặc mộ Phật, nếu
để các Tỳ kheo về nói đã bị cướp thì vua sẽ trị tội
họ không bảo vệ dân lành. Toán quan quân bèn nói cả đoàn
người hãy ngồi lại, đợi họ đi truy lùng bắt bọn cướp.
Sau một hồi săn tìm, bắt gặp bọn cướp giấu hàng trong
một khu rừng lân cận, họ tịch thu hết tang vật đem về.
Các thương gia đều mừng rỡ lấy lại được hàng hóa sau
khi khai báo cho quan quân. Còn một đống vải vóc và y phục
(tức những tấm vải để quấn quanh mình, tăng cũng như tục,
theo cách phục sức của Ấn Độ) thì họ để ưu tiên cho
các Tỳ kheo đến nhận. Tỳ kheo không thể phân biệt y của
mình với vải mới của đoàn thương gia lấy trước. Những
người buôn láu cá nhận hết các tấm y mới nhất, để lại
toàn đồ cũ rách cho các Tỳ kheo. Biết mình hố, nhưng trước
sự đã rồi các Tỳ kheo đành mang y rách tươm trở về vườn
Cấp cô độc. Các cư sĩ hỏi: "Mùa an cư vừa xong, tại trú
xứ an cư không có ai cúng gì hay sao mà chư đại đức ăn
mặt tồi tàn thế kia về hầu Phật?".
Các
Tỳ kheo thuật lại chuyện như trên. Những chư sĩ có người
cảm phục, song cũng có người bĩu môi chê trách: "Tỳ kheo
tự nhận là biết pháp biết luật, nhưng đến tấm y của
mình khoác trên người mà cũng không nhận ra, thì làm ăn nỗi
gì? Quả là những người chẳng được tích sự gì cả".
Nhân
đấy Phật chế giới phải "điểm tịnh" để dễ nhận ra
y của mình.
46.
CỐ GIẾT SÚC SINH
Phật
ở Xá vệ chế giới. Tôn giả Ca lưu đà di mỗi khi tọa thiền
thường bị quấy rầy vì bầy quạ bay đến kêu ỏm tỏi.
Tức mình, ông bèn thủ sẵn một cái ná và một đống hột
"bì lời" để bắn chim. Vốn có tài thiện xạ bá phát bá
trúng, ông làm chết vô số quạ đang bay. Khi cư sĩ vào vườn
thấy thây chim nằm ngỗn ngang hỏi ra mới biết do ngài bắn
chết, họ chê bai Tỳ kheo thiếu tâm từ.
47.
UỐNG NƯỚC CÓ TRÙNG
Phật
ở Xá vệ chế giới uống nước ao hồ phải lọc kẻo làm
chết nhiều chúng sinh. Có hai Tỳ kheo sau mùa an cư về hầu
Phật, đi đường quên đem đãy lọc nước. Một ông vâng
lời Phật dạy, thà chết không hủy phá giới Phật đã chế.
Do vậy ông chết khát, và ngay lúc đó được sinh lên trời.
Vừa tái sinh vào thiên giới, ông biết được do nhân giữ
giới mà được tái sinh thù thắng, nên vị trời này liền
bay xuống rừng Kỳ đà đảnh lễ Phật, nghe Phật thuyết
pháp và chứng quả. Tỳ kheo kia uống nước ao xong, chôn bạn
rồi tiếp tục lên đường. Khi đến nơi Phật, ông khoe. "Bạch
Thế tôn, con nhờ phương tiện uống nước ao mà được gặp
Phật. Tỳ kheo kia giữ chặt giới cấm nên chết mất".
Phật
dạy: "Tỳ kheo kia đã gặp ta từ lâu. Ngay lúc Tỳ kheo kia
chết, ông ấy đã được gặp Như lai do đức tinh thuần tịnh.
Còn ngươi tuy thấy ta mà kỳ thực, xa cách ta muôn trùng".
48.
LÀM BUỒN NGƯỜI KHÁC
Lục
quần Tỳ kheo phạm. Lúc Phật ở Xá vệ, Nhóm 17 đến hỏi
Nhóm 6 về cách làm thế nào để chứng các quả Dự lưu,
Nhất lai cho đến a la hán. Nhóm 6 bảo: "Chết chửa, sao các
ngươi dại thế? Hỏi như vậy là phạm giới tội rất nặng".
Nhóm
17 đâm lo sợ phiền não, bèn đi đến hỏi một vị khác:
"Chúng con đã hỏi như vậy, thì phạm tội gì, tội ấy thuộc
vào thiên thứ mấy trong Năm thiên?".
Trưởng
lão nói, "Không phạm gì cả. Ai bảo ngươi nói như thế là
phạm tội?" Khi biết chuyện, Phật chế giới.
49.
CHE GIẤU TỘI NẶNG
Phật
ở Xá vệ chế giới. Bạt nan đà chơi thân với một Tỳ
kheo, kể cho nghe vị này các tội tăng tàn mà ông đã phạm,
và dặn đừng cho ai biết. Về sau hai người giận nhau, Tỳ
kheo đem tội tăng tàn của Bạt nan đà nói giữa chúng tăng.
Tăng hỏi làm sao mà ông biết được, Tỳ kheo nói chính đương
sự cho biết, nhưng vì lúc ấy đang chơi thân nên giấu giùm.
Nay tức giận mới nói. Phật nhân đấy chế giới, biết người
ta phạm mà mình che giấu thì mình cũng phạm tội.
50.
KHƠI LẠI TRANH CÃI
Phật
ở Xá vệ. Nhóm 6 Tỳ kheo thường gợi lại những sự tranh
cãi đã được tăng giải quyết xong; làm cho ai chưa cãi nhau
khởi sự cãi, cãi rồi thì không chấm dứt được.
51.
HẸN ĐI VỚI GIẶC
Phật
ở Xá vệ, khi các Tỳ kheo từ Xá vệ đi Tỳ xá ly, có một
đoàn buôn lậu xin hẹn cùng đi để lọt qua các trạm kiểm
soát. Tỳ kheo nhận lời cho đi chung. Khi quan quân truy lùng
bọn buôn lậu để bắt, toàn bộ đoàn người đi cùng chuyến
đều bị giải về kinh trị tội. Quan tra hỏi các Tỳ kheo,
"Khi hẹn nhau cùng đi, các vị có biết đây là bọn người
buôn lậu không?"
Tỳ
kheo đáp "Biết mới cho đi, vì chúng hi vọng khỏi bị bắt".
Căn
cứ luật pháp, thì các Tỳ kheo ấy đáng tội tử hình, nhưng
nhờ uy thế của Phật mà họ được thả. Phật chế giới,
nếu biết là giặc thì không được cùng đi chung.
52.
CHỐNG CAN NÓI CÀN
Phật
ở Xá vệ, Tỳ kheo A lê tra (Arittha) phạm. Vị này có ác kiến,
cho rằng dâm dục không có hại gì cho đạo giải thoát. Các
Tỳ kheo quở trách, bạch Phật. Phật chế giới.
53.
THEO NGƯỜI CÓ TỘI
Tức
là tội nói bậy như trên. Phật ở Xá vệ chế giới. Nhóm
6 cung cấp vật thực cho A lê tra, bầu bạn với vị này trong
lúc ông bị tăng yết ma quở trách mà chưa sám hối.
54.
DUNG KẺ BỊ ĐUỔI
Phật
ở Xá vệ, Bạt nan đà có hai đệ tử sa di là Karma va Mahurja
có ác tà kiến như trên (số 52); bị đại chúng đuổi ra
khỏi chùa. Nhóm 6 biết vậy mà cứ dung túng hai sa di ấy.
Phật chế giới.
55.
CHỐNG CỰ KHUYÊN HỌC
Phật
ở Câu diệm di chế giới. Bấy giờ Tỳ kheo Xiển đà phạm
giới tội, được chúng tăng như pháp can gián mà không phục
tùng, lại bảo: "Tôi không học giới đó. Tôi sẽ chờ gặp
người giỏi Luật hỏi cho ra lẽ rồi mới học.
56.
HỦY BÁNG GIỚI LUẬT
Phật
ở Xá vệ. Nhóm 6 thấy chúng tăng tụng Giới luật thuộc
làu làu thì sợ họ y luật vạch rõ các tội mình đã phạm,
bèn nói: "Chư hiền, các vị cần gì phải tụng hết ngũ thiên
thất tụ, tất cả giới tội linh tinh? Chỉ nên nói 4 pháp
ba la di, 13 tăng tàn là đủ. Các giới tội khác không quan
trọng, nói lên chỉ tổ mất thì giờ, lại kiến cho người
ta phiền não hổ thẹn hoài nghi". Các Tỳ kheo bạch Phật,
Phật chế giới.
57.
SỢ NÊN NÓI TRƯỚC
Phật
ở Xá vệ, một vị trong Nhóm 6 sợ bị kết tội, nên đến
trước một vị thanh tịnh tăng mà nói: "Hiền giả, nay tôi
mới biết đó là một giới tội Phật đã chế. Phật cũng
thường dạy rằng không biết thì không phạm tội". Tỳ kheo
bạch Phật, Phật dạy nói như vậy còn phạm nặng hơn, chồng
thêm một tội vô tri, vì lâu nay vào các thời tụng giới
không dụng tâm nghe kỹ.
58.
YẾT MA RỒI HỐI
Phật
ở thành La duyệt, vào một mùa an cư, Đạp bà ma la làm tri
sự giỏi, tận tâm với chúng tăng, y phục ông ta lại rách
nát, nên chúng tăng yết ma để thưởng cho Đạp bà ma la tấm
y đẹp (y công đức) mà cư sĩ đem đến cúng. Yết ma xong,
Nhóm 6 lại bảo chúng tăng thiên vị, đem y cúng chung mà thưởng
riêng cho một người. Phật chế giới, nếu khi tăng yết ma
mình không phát biểu thì coi như đã chấp thuận, về sau cấm
bàn.
59.
KHÔNG NÓI GỬI DỤC
Phật
ở Xá vệ. Nhóm 6 phạm. Khi chúng răng sắp nhóm họp để
bàn luận về giới, Nhóm 6 sợ bị cử tội nên cứ tìm cớ
bỏ đi trước, chúng mời ở lại cũng không ở. Phật chế
giới, muốn đi phải gởi dục (bày tỏ sự hoàn toàn đồng
ý với cách xử đoán của chúng tăng, về sau sẽ không khiếu
nại).
60.
GỬI DỤC RỒI HỐI
Phật
ở Xá vệ. Nhóm 6 có người phạm giới tội, họ sợ bị
cử nên theo nhau không rời (để bênh vực cho nhau).
Chúng
tăng nhóm họp lúc họ đông đủ để yết ma. Họ viện cớ
bận may y không đến, tăng bảo họ không tới thì hãy cử
một đại diện, những vị khác gởi dục cũng được. Một
vị trong Nhóm 6 được cử đi dự yết ma, khi về mặt buồn
sầu nói: "Tăng yết ma chính là để cử tội tôi". Nhóm 6
nghe vậy, mặc dù đã gửi dục mà vẫn la oai oái lên rằng
yết ma không thành, chúng tôi không đồng ý. Phật chế giới,
đã gửi dục rồi thì phải rán chịu.
61.
NGHE LÉN MÁCH LẺO
Phật
ở Xá vệ, Nhóm 6 phạm. Họ nghe lén, đem lời người này
đi nói với người kia và ngược lại; làm cho tăng chúng rối
loạn, bất hòa.
62.
ĐÁNH TỲ KHEO NI
Phật
ở Xá vệ, Nhóm 6 giận đánh đập một vị trong Nhóm 17, làm
cho vị này la khóc om sòm.
63.
TÁT TỲ KHEO NI
Phật
ở Xá vệ, Nhóm 6 nắm tay lại để hăm dọa một chú nhỏ
trong Nhóm 17, làm như sắp giáng một cú đấm. Vị này sợ
hãi la khóc.
64.
VU KHỐNG TỘI NẶNG
Phật
ở Xá vệ, Nhóm 6 vu cho Nhóm 17 phạm tội tăng tàn (mai mối,
v.v...)
65.
VÀO CỬA CUNG VUA
Phật
ở Xá vệ, Tỳ kheo Ca lưu đà di một hôm vào cung vua sớm,
trông thấy Mạt lợi hu nhân bị rớt y phục, về khoe ầm
lên là "Tôi đã trông thấy tận mắt vật báu của vua Ba tư
nặc". Chúng Tỳ kheo không hiểu đó là vật gì, nghe Ca lưu
đà di kể mới hiểu ra, liền bạch Phật. Phật chế Tỳ kheo
không được đi vào nội cung.
Phật
dạy Tỳ kheo vào nội cung có mười điều hại.
1.
Khi Hoàng hậu cười với Tỳ kheo, vua nghi giữa hai bên có
tình ý.
2.
Nếu sau đó Hoàng hậu có bầu vua sẽ nghi không phải con mình.
3.
Nếu trong cung có mất vật gì quý báu, cũng nghi Tỳ kheo lấy.
4.
Việc bí mật trong cung bị tiết lộ ra ngoài cũng nghi cho Tỳ
kheo.
5.
Khi vua bỏ con trưởng lập con thứ, thái tử sẽ nghi do Tỳ
kheo xúi.
6.
Khi thái tử giết cha để cướp ngôi, người ta sẽ nghi Tỳ
kheo chủ mưu
7.
Đại thần mất chức cũng nghi vì Tỳ kheo mà ra nông nỗi.
8.
Quan nhỏ thành quan lớn (tàn ác) chúng sẽ nghi là do Tỳ kheo
tiến cử.
9.
Vua có đi chinh phạt nơi nào, người ta cũng nghi do ông Tỳ
kheo thân cận vua bày đặt để làm khổ dân.
10.
Vinh hoa phú quý dễ làm cho Tỳ kheo hoàn tục.
Phật
kể xưa có Tỳ kheo bị tẩn xuất, sầu khổ đi lang thang gặp
một con quỷ cũng đang bị Tỳ sa môn thiên vương trục xuất
khỏi thiên giới, đang bay lơ lửng tìm cái ăn. Quỷ dụ tỳ
kheo leo lên lưng mình, để thiên hạ ch3 thấy người không
thấy quỷ, sẽ tưởng Tỳ kheo có thần thông, cúng dường
trọng hậu. Rồi khi được đồ cúng, Tỳ kheo cùng quỷ chia
nhau. Tỳ kheo bằng lòng, leo lên vai cho quỷ mang đi. Trông thấy
Tỳ kheo ngồi ngất ngưỡng giữa hư không, thiên hạ cho là
thần thánh, đem phẩm vật cúng dường. Quỷ chở Tỳ kheo
về lại chùa cũ, nơi ông ta bị tẩn xuất. Dân chúng thấy
vật trách chúng tăng không có mắt, nhè trục xuất một người
đắc đạo như thế. Họ rước ông trở về chùa để lễ
bái cúng dường. Sau đó đó mang Tỳ kheo lên vai đi ra gặp
ngay Tỳ sa môn thiên vương cùng đoàn tùy tùng đang tuần hành
trên không, quỷ hoảng hồn ù té chạy, hất Tỳ kheo té nhào
xuống đất, bất tỉnh.
Do
vậy, Phật dạy Tỳ kheo không nên dựa thế lực thần quyền
vì khi quyền lực ấy trúc đổ hay bị hạ bệ, Tỳ kheo cũng
trúc theo.
66.
CẦM LẤY BÁU VẬT
Phật
ở Xá vệ, có cư sĩ đi đường ngủ lại, sáng sớm ra đi
bỏ quên một bao vàng. Tỳ kheo đến sau trông thấy giữ giùm,
với ý định sẽ trả lại khổ chủ. Đang cầm thì chủ trở
lui tìm, Tỳ kheo đưa ra. Ông ta kiểm lại số vàng và hô hoán
lên là đã mất bớt một nửa. Tỳ kheo nói chưa hề động
tới số vàng trong bao. Người kia vẫn khăng khăng bảo Tỳ
kheo lấy trộm, đưa nhau đến quan xử. Việc đưa lên thấu
vua Ba tư nặc, vua nói: "Nếu Tỳ kheo có làm mất của ngươi
bao nhiêu vàng, cứ khai ra, ta sẽ cho lấy vàng trong kho hoàn
lại cho ngươi, chớ có làm ồn náo não loạn vị ấy".
Người
kia thấy vậy khai trong bao của y khi trước có đến hai ngàn
lượng. Vua cho người vào lấy đủ số bỏ vào bao thì thấy
cái bao của y không thể nào chứa nổi chừng ấy vàng. Có
chứng cớ rõ ràng người ấy khai gian, vua bèn tịch biên tấc
cả vàng và gia sản của y, vì tội đã vô ơn, lại còn khai
man và vu khống.
Cư
sĩ chê bai Tỳ kheo gây chuyện khiến cho kẻ kia bị phá sản.
Do đó Phật chế giới cấm cầm bảo vật.
Một
hôm, Mạt lợi phu nhân treo nơi gốc cây chuỗi trang sức quý
giá bà đang đeo trước khi vào vườn Cấp cô độc đảnh
lễ Phật. Khi về tới nội cung bà mới nhớ ra đã quên lấy
lại xâu chuỗi; toan sai người đến tìm, nhưng nghĩ lại sợ
nếu tìm không có, người ấy sẽ nghi là chúng tăng lấy,
mang tội hủy báng tam bảo. Trong lúc ấy một Tỳ kheo đi dạo
vườn trông thấy chuỗi ngọc, đâm nghi không dám cầm. Phật
bảo lấy giữ giùm cho bà vợ vua, và chế lại giới này:
"Trừ khi trông thấy của báu có chủ bỏ quên trong chùa, thì
nên giữ giùm cho họ".
Lại
có Tỳ kheo đến nghỉ nhờ tại một nhà thợ kim hoàn, chủ
nhà quên cất vào tủ, cứ để vàng bạc la liệt mà giao phòng
cho Tỳ kheo. Tỳ kheo không dám động đến của báu vì sợ
phạm giới Phật chế, mà cũng không dám ngủ vì sợ trộm
vào lấy mất. Ông ngồi thức suốt đêm để canh vàng cho
chủ nhà. Về bạch Phật, Phật lại chế giới này, thêm câu
"trừ tại chỗ mình ở nhờ" (ký túc xứ) nếu thấy báu vật
mình biết có chủ, mà có thể bị trộm, thì nên lấy cất
vào một nơi an toàn trước khi đi ngủ.
67.
VÀO XÓM PHI THỜI
Phật
ở Xá vệ chế giới. Bạt nan đà vào xóm ngoài giờ khất
thực để đánh cờ, bị cư sĩ chê bai.
68.
LÀM GIƯỜNG QUÁ HẠN
Phật
ở Xá vệ chế giới. Ca lưu đà di làm một cái giường cao
lớn, biết Phật sắp đi qua ông bày ra giữa đường chờ
ngài đến để khoe: "Bạch Thế tôn, xem con có giường cao
tốt". Phật quở, và cấm làm giường cao quá.
69.
DỒN BÔNG ĐỘN NỆM
Phật
ở Xá vệ, Nhóm 6 đi xin bông tơ tằm về độn gối, nệm
lớn nhỏ đủ cỡ, phải mất thì giờ hong phơi, đập giũ
bụi bặm. Phật cấm dùng tơ tằm và lông thú để dồn bông
độn nệm, vì xa xỉ, thiếu từ tâm, mất vệ sinh và chướng
ngại sự tọa thiến, hành đạo.
70.
ĂN CÁC THỨ TỎI
Phật
ở thành Tỳ xá ly (Vaisali) chế giới. Tỳ kheo ni Thâu la nan
đà đến xin tỏi tại vườn tỏi của một thương gia. Sau
khi nhổ cho ni cô đủ số tỏi cần dùng, ông chủ ra đi, giao
vườn tỏi cho người trông giữ. Thâu la nan đà về chùa,
các đệ tử xúm lại xin tỏi, cô chỉ họ tới vườn kia
mà nhổ. Chủ vườn tỏi chưa về, gia nhân không cho. Các ni
cô về thưa lại, Thâu la nan đà cùng đám đệ tử kéo đến
vườn. Cô bảo người giữ vườn, hãy để cho chúng ta nhổ
tỏi vì chủ nhà ngươi là chỗ thân tình, đã bảo ta cần
bao nhiêu cứ việc lấy đem về. Rồi cô cùng đám đệ tử
thi nhau nhổ tỏi, bảo cái này nhổ cho Thượng tọa này, đại
đức nọ, Ni bà kia... cuối cùng họ nhổ sạch cả vườn
tỏi. Các cư sĩ dị nghị, chê bai. Phật chế giới cấm dùng
các thứ tỏi, nếu bị bệnh cần trị bằng tỏi thì phải
bạch
chúng mà ra ở riêng. Trong thời gian ăn tỏi không được tụng
kinh lễ bái, ngồi nằm giường chúng tăng và xử dụng phòng
vệ sinh của chúng.
Nhân
đấy Phật kể, quá khứ xa xưa có một gia đình vợ chồng
con cái thương yêu nhau da diết. Chẳng may người chồng chết
sớm, để lại bà vợ và một bầy con túng thiếu. Vì quá
yêu thương vợ con, người chồng hóa làm con chim nhạn toàn
thân bao phủ bằng những cọng lông bằng vàng, bay đến nhà
cũ, mỗi ngày nhả xuống một cọng lông cho bà vợ bán nuôi
con. Bà vợ sinh lòng tham, bắt con chim nhạn nhổ hết lông
vàng. Sau vì hết vàng nên nó tái sinh thành chim nhạn lông
trắng. Ân ái theo nhau nhiều đời như thế cho đến ngày nay,
người chồng tái sinh làm chủ vườn tỏi và Thâu la nan đà
là tái sinh của bà vợ ngày xưa, với bầy con là những đệ
tử hiện nay của cô ấy.
71.
CẠO LÔNG BA CHỖ
Phật
ở Xá vệ. Thâu la nan đà đi khất thực, trông thấy phụ
nữ tại gia nhổ lông nơi hai nách và chỗ kín, trở về bắt
chước. Các vị thiểu dục quở trách và trình lên Phật.
Phật chế giới.
72.
TẨY TỊNH QUÁ HẠN
Phật
ở Thích sí sấu, Ca duy la vệ quốc chế giới. Ni chủ Đại
Ái đạo nghe thân thể phụ nữ hôi dơ, xin cho ni được dùng
nước tẩy tịnh, làm vệ sinh phụ nữ. Thâu la nan đà tẩy
tịnh đến nỗi xuất huyết. Phật chế giới cấm tẩy tịnh
quá sâu.
73.
CHẾ RA NAM CĂN
Phật
ở Xá vệ. Nhóm 6 Tỳ kheo ni đi khất thực, trông thấy các
cung nữ, về bắt chước.
74.
CÙNG VỖ VỚI NHAU
Phật
ở Xá vệ, Nhóm 6 Tỳ kheo ni vào cung vua, các cung nữ bày cho
cách đồng tính luyến ái. Phật chế giới cấm.
75.
BƯNG NƯỚC HẦU QUẠT (cho Tỳ kheo)
Phật
ở Xá vệ chế giới. Có hai vợ chồng cùng xuất gia; người
chồng trở thành đại đức Tỳ kheo ôm bát đi khất thực
một hôm ghé vào một chùa ni để ngồi ăn vì sắp trễ giờ
ngọ trai, không về chùa mình kịp. Gặp đúng cái chùa trong
đó co ni cô vốn là vợ cũ của ông. Ni cô đem nước ra cho
đại đức, cầm quạt quạt cho ổng. Đại đức hổ thẹn
cúi gầm mặt mà nói nhỏ: "Bà đừng có làm như vậy, người
ta cười".
Bà
vợ cũ nỗi tam bành la lên: "Hồi còn ở nhà, ông làm vậy
vậy sao không xấu hổ, bây giờ lại làm bộ làm tịch? Vậy
nè, vậy nè...".
Bà
trở cán quạt đánh vào đầu ông chồng cũ túi bụi, rồi
cầm ly nước đổ hắt lên người ông. Xong xuôi mới bỏ
đi vào. Các vị khác trông thấy cảnh ấy, bạch Phật. Phật
chế giới cấm bưng nc hầu quạt cho Tỳ kheo, để đề phòng
cái sự hắt nước và trở cán quạt đánh; lại cũng đề
phòng nhiễm tâm sinh khởi hoặc chuốc sự hiềm nghi của người
đời.
76.
ĐI XIN LÚA SỐNG
Phật
ở Xá vệ. Nhóm 6 Tỳ kheo đi xin ngũ cốc bị cư sĩ chê bai.
Phật cấm xin ngũ cốc lúa gạo nơi cư sĩ không thân.
77.
ĐẠI TIỂU CỎ TƯƠI
Phật
ở Xá vệ. Gần tinh xá ni chúng có một đám cỏ tươi, nam
nữ thanh niên ưa tụ tập cắm trại chơi đùa ở đấy, gây
huyên náo mất thanh tịnh. Các Tỳ kheo ni chờ họ ra về, đem
đổ đại tiểu tiện trên cỏ, với ý định để họ khỏi
tiếp tục đến chơi tại chỗ ấy. Hôm sau họ vẫn đến
ngồi, vì không để ý nên y phục bị lấm bẩn, hôi hơ. Phật
chế giới.
78.
ĐỔ BẬY ĐỒ DƠ
Phật
ở Vương xá thành. Một buổi sáng sớm, Nhóm 6 Tỳ kheo ni
không xem trước mà đổ đồ đại tiểu ban đêm ta ngoài tường,
trúng đầu một đại thần đang đi bách bộ. Ông này định
đi kiện, nhưng một người ba la môn khuyên can ông ta rồi
đến bạch Phật.
79.
XEM NGHE MÚA HÁT
Phật
ở Vương cá, Nhóm 6 Ni đi dự xem hội ca vũ nhạc, cư sĩ trông
thấy chê bai. Phật chế giới cấm.
80.
VÀO XÓM ĐỨNG KHUẤT
Phật
ở Xá vệ, Nhóm 6 Ni cùng người nam đứng chỗ khuất nẻo
trong xóm, bị cư sĩ chê.
81.
CÙNG VÀO CHỖ KHUẤT
(Như
số 80 ở trên). Xem số 29.
82.
KỀ TAI NÓI THẦM
(Như
trên. Xem thêm số 29)
83.
KHÔNG NÓI MÀ ĐI
Phật
ở Xá vệ, có ni cô đến nhà cư sĩ ngồi. Cư sĩ có việc
đi ra, ni cô sau đó không chờ chủ về mà lại bỏ đi, để
nhà trống khiến chủ nhà bị mất trộm nhiều đồ đạc.
84.
KHÔNG MỜI MÀ NGỒI
Phật
ở Vương xá, Thâu la nan đà đến nhà một ông đại thần
chưa tin Phật pháp, ngồi trên ghế riêng của ông, rủi để
bất tịnh chảy dơ bẩn, bị chê bai sỉ vả.
85.
NẰM NHÀ CƯ SĨ
Phật
ở Xá vệ. Nhiều Tỳ kheo ni đến một trú xứ, thấy không
có người bèn trải đồ nằm ra nghỉ. Sau cư sĩ tới hỏi
ai cho phép, Tỳ kheo ni bảo không ai cho cả. Cư sĩ chê trách.
Phật chế giới.
Tỳ
nại da quyền 18 kể, một ni cô tới ngủ nhờ nhà thợ dệt,
nằm trên giường bà vợ trong lúc bà này ra ngoài. Nửa đêm
người chồng về, vào nhà tưởng người nằm trên giường
là vợ, khi thấy đầu trọc ông ta nổi sân mắng nhiếc.
86.
CÙNG VÀO CHỖ TỐI
Phật
ở Xá vệ chế giới; Nhóm 6 Tỳ kheo ni ở trong xóm làng cùng
với nam tử vào chỗ tối, bị cư sĩ chê trách.
87.
KHÔNG NGHE CHO KỸ
Phật
ở Xá vệ. Tỳ kheo ni Đề xá nan đa chưa nghe kỹ lời thầy
đã vội đi nói với người khác. Bà thầy là Sám ma, sai ni
cô đi lấy ống đựng kim và các vật dụng khác. Cô này đi
nói: "Thầy tôi bảo tôi đi ăn cắp những thứ ấy về cho
thầy". Các Tỳ kheo nghe, hỏi lại mới biết cô đệ tử nghe
nhầm. Phật chế giới.
88.
VIỆC NHỎ THỀ BỒI
Phật
ở Xá vệ, Nhóm 6 Ni giận nhau thốt lời thề độc: "Nếu
tôi có như vậy, tôi sẽ bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ,
súc sinh, không được sinh vào trong gia đình Phật pháp..."
Phật chế giới cấm thề.
89.
ĐẤM NGỰC KHÓC LA
Phật
ở Câu diệm di (Kosambi), trong vườn trưởng giả Cù sư la
(Kosila, dịch là Mỹ âm, là một loài chim hót tiếng rất hay.
Trong một tiền kiếp, ông làm một con chó sủa mời một vị
Bích chi phật vào nhà chủ, do nhân ấy mà đời kiếp nào
cũng được âm thanh tốt). Ni cô Ca La cãi nhau với cô khác,
đấm ngực la khóc. Phật chế giới.
90.
KHÔNG BỆNH CHUNG GIƯỜNG
Phật
ở Bà kỳ đà. Nhóm 6 Ni có hai vị ngủ chung giường với
nhau, các ni khác trông thấy tưởng là nam tử, sau mới biết
không phải. Phật chế giới cấm hai ni ngủ chung giường.
Lại
có một viên đại tướng mới cưới vợ sắ đi viễn chinh,
đưa bà vợ trẻ đến chùa gửi cho ni cô Đạt đề Ca Tỳ
la cho chắc. Ni cô bảo vệ bà này bằng cách săn sóc tử tế,
cho ngủ chung giường. Bà đem tâm ái luyến ni cô, khi đi đánh
giặc về chồng cho người tới chùa đón, bà không chịu về,
đòi ở luôn với ni cô. Ông chồng đau khổ buồn phiền vì
thấy thiện ý ban đầu của mình lại biến thành tai họa.
Các vị khác bạch Phật, Phật chế giới hai ni không được
ngủ chung, cũng không được ngủ chung với phụ nữ.
91.
CHUNG MỀN CHUNG NỆM
Phật
ở Xá vệ chế giới. Nhóm 6 Ni nằm chung một nệm, đắp chung
mền. Phật chế, thiếu giường thì cho ngủ chung giường,
nhưng phải riêng đồ đắp (mền, ra...). Khi không có mền
riêng thì phải mặc y phục kín đáo, có mặc áo lót mình.
92.
HỎI ĐỂ QUẤY RỐI
Phật
ở Xá vệ, Nhóm 6 ni đến một trú xứ, có người ở chung
trong phòng. Muốn đuổi khéo, họ bày ra hỏi nhau nghĩa lý
kinh luật để xúc não. Phật chế giới.
93.
KHÔNG THĂM NOM BỆNH
Phật
ở Xá vệ, ni Thâu la nan đà có bạn đồng phòng đau ốm mà
không săn sóc thăm hỏi, đến nỗi cô này bệnh thêm nặng,
chết.
94.
AN CƯ ĐUỔI NGƯỜI
Phật
ở Xá vệ. Vào một mùa an cư, Ni Thâu la nan đà lúc đầu
cho một cô khác ở chung, nửa chừng xích mích đuổi đi.
95.
BA MÙA DU HÀNH
Phật
ở Xá vệ, ni Thâu la nan đà phạm, bị cư sĩ chê bai: "Chim
còn có tổ, ngoại đạo cũng an cư ba tháng mùa mưa vì sợ
dẫm phải côn trùng đang mùa sinh sản. Vậy mà các Tỳ kheo
ni thì cả ba mùa xuân hạ đông, lúc nào cũng thấy đi ta bà".
Phật chế giới.
96.
GIẢI HẠ Ở LỲ
Phật
ở Xá vệ, trong thành có những cư sĩ chỉ phát nguyện cúng
dường ẩm thực cho các tu sĩ trong bốn tháng mùa mưa. Tỳ
kheo ni Sám ma an cư xong vẫn lại tiếp tục đến xin tại nhà
ấy, bị cư sĩ chê trách.
97.
ĐI CHỖ BIÊN GIỚI
Phật
ở Xá vệ; Nhóm 6 Ni đi đến những chỗ biên giới đang có
giặc làm phản. Biết vau Ba tư nặc thường ưu đãi tu sĩ
đệ tử Phật, vì giận lây, bọn giặc quấy phá Nhóm 6 Ni
cho bõ ghét.
98.
ĐI CHỖ NGUY HIỂM (ở trong biên giới)
Phật
ở Xá vệ, Nhóm 6 Ni đi đến những vùng ở trong biên giới
đã rơi vào tay bọn phản tặc bị giặc quấy phá (như trên).
99.
THÂN CẬN CƯ SĨ (can ba lần không bỏ)
Phật
ở Xá vệ, một Tỳ kheo ni phạm tội ở chung với cư sĩ làm
hạnh xấu, mang tiếng, tăng yết ma can ba lần không chịu bỏ.
Phật chế giới.
100.
ĐI XEM HOÀNG CUNG
Phật
ở Xá vệ chế giới, Nhóm 6 Ni ưa vãn cảnh xem các nơi danh
tiếng, bị cư sĩ chê bai.
101.
LỘ HÌNH TẮM SÔNG
Phật
ở xá vệ chế giới. Lục quần Tỳ kheo ni lộ hình tắm sông
suối, dâm nữ trông thấy phẩm bình thân hình cô kia xấu,
cô này đẹp, đi tu quá uổng v.v. người thì chê rằng giống
như tặc nữ, dâm nữ, không biết xấu hổ. Mạt lợi phu nhân
nghe thế, xin phép Phật để cho chư ni được mặc áo tắm,
và may áo tắm cúng dường.
102.
KHĂN TẮM QUÁ LƯỢNG
Khi
Phật cho phép ni dùng khăn (áo) tắm, Nhóm 6 Tỳ kheo ni dùng
khăn quá dài rộng tốn vải, tha thướt giống như phụ nữ
thế tục. Phật chế giới.
103.
MAY Y QUÁ LÂU
Phật
ở xá vế; Thâu la nan đà khéo tay may cắt, nhận vải cắt
ra để may y tăng già lê giùm cho một ni cô. Cắt xong chưa
chịu may, có ý để cho cô này lui tới nhiều lần, đem theo
đồ cúng dường cho mình. Sau đó có hỏa hoạn xảy ra, vải
bay tứ tán. Cư sĩ thấy chê bai. Phật chế giới không được
để vải quá lâu không may thành y phục.
104.
NĂM NGÀY KHÔNG ĐOÁI (xem y tăng già lê)
Phật
ở Vaisali; Lục quần ni để y tăng già lê (đại y) lâu ngày
không ngó ngàng tới, bị chuột, trùng gậm. Phật chế giới
trong vòng năm ngày phải xem xét lại y phục.
105.
NGĂN CÚNG TĂNG Y
Phật
ở Xá vệ, Thâu la nan đà biết cư sĩ sắp cúng dường y cho
chúng, bèn đến nhà cư sĩ bảo, tăng đã có đủ y, không
cần cúng thêm nữa. Cư sĩ nghe theo, chỉ cúng ẩm thực.
106.
MẶC Y NGƯỜI KHÁC Phật ở Xá vệ chế giới. Một ni cô lấy
y cô khác vận mà không hỏi chủ, khổ chủ tìm khắp không
ra tưởng là mất trộm, sau gặp bạn đang mặc đi giữa đường.
107.
CHO Y NGOẠI ĐẠO
Phật
ở Xá vệ. Có hai sa di đệ tử của Bạt nan đà đã thôi
tu, một người hoàn tục một người theo ngoại đạo, nhưng
vẫn lui tới Nhóm 6 Tỳ kheo ni. Những vị này đem y sa môn
mà cho họ; học mặc ra đường làm những việc phi pháp khiến
cho người ta nghĩ xấu về tăng đoàn của Phật. Phật chế
giới.
108.
NGĂN TĂNG CHIA VẢI
Phật
ở Xá vệ. Thâu là nan đà có nhiều đệ tử đang ở xa chưa
về kịp; gặp lúc chúng tăng sắp chia vải, cô bèn ngăn cản
vì sợ đệ tử mất phần.
109.
XÚI KHOAN XUẤT Y:
Phật
ở Xá vệ, Nhóm 6 Tỳ kheo ni đề nghị chúng tăng hay khoan
làm phép xuất công đức y, để được hưởng lâu năm sự
phóng xả. Phật chế giới.
110.
CÚI ĐỪNG XUẤT Y
Phật
ở Xá vệ, Nhóm 6 Ni phạm, như trên.
111.
KHÔNG DIỆT TRANH CÃI
Phật
ở Xá vệ. Ni Thâu la nan đà có tài ăn nói, khéo hòa giải
các vụ cãi nhau. Các ni cô khác đến nhờ Thâu La Nan Đà giải
quyết giùm một cuộc tranh chấp, nhưng cô này không làm, khiến
về sau tất cả họ đều hoàn tục vì chán cái sự tiếp
tục cãi nhau.
112.
CHO NGOẠI ĐẠO ĂN
Phật
ở Xá vệ chế giới.
Nhóm
6 Ni tự tay đem thực phẩm cho hai sa di đệ tử của Bạt nan
đà một đã theo ngoại đạo, một hoàn tục.
Một
lần nọ, Phật và tăng chúng được quá nhiều thực phẩm
do tín đầ dâng cúng; Đức Thế Tôn bảo A nan đem chia bớt
cho các hành khất và lõa thể ngoại đạo đang đi theo sau
tăng đoàn. Tình cờ một cô gái lõa thể ngoại đạo được
tôn giả chia phần bánh gấp đôi kẻ khác. Bọn này la lên:
"A con nhỏ xinh đẹp đã lọt vào mắt xanh của sa môn đẹp
trai rồi. Nó được chia phần nhiều hơn chúng ta!".
Ngoại
đạo thường theo đoàn đệ tử Phật để ăn thực phẩm
dư thừa, vì họ không được đồ cúng. Một ni cô thấy một
ông lõa thể ngoại đạo ốm đói, sớt bớt phần ăn của
mình cho ông ta. Khi được hỏi ai cho đồ ăn, người này nói,
"Nữ sa môn trọc đầu". Một lõa thể khác nghe thế bất bình,
chê kẻ đồng đạo ấy không bằng con chó còn biết ơn người
cho mình ăn.
Nhân
những việc gây tai tiếng kể trên, Phật chế giới cấm Tỳ
kheo ni tự tay đem thức ăn cho ngoại đạo, nếu cần thì để
một nơi cho họ đến lấy.
113.
ĐỂ NGƯỜI SAI SỬ
Phật
ở Xá vệ, Nhóm 6 Ni phạm. Thâu la nan đà đến khất thực
tại nhà một phụ nữ có con nhỏ đang khóc dai, mẹ dỗ hoài
không nín. Thấy Tỳ kheo ni tới khất thực, bà ấy bảo: "Nếu
cô có cách gì làm trẻ nín khóc, tôi sẽ cho đồ ăn. "Thâu
la nan đà bế đứa trẻ vỗ về ầu ơ một lát, đứa bé
nín khóc thật, khi ấy bà mẹ mới đem thực phẩm ra cúng.
Lần
khác Ni chủ Đại Ái đạo đi qua, bà mẹ cũng đang gặp nạn
con khóc, bèn gọi bà vào nhờ dỗ giùm. Ni chủ nói, "Đó không
phải việc làm của sa môn".
Bà
mẹ nói, "Thế sao hôm kia có người nữa sa môn như bà đã
dỗ được thằng bé nín khóc?" Ni chủ trở về bạch Phật,
Đức Thế Tôn chế giới.
114.
XE CHỈ ĐÁNH SỢI
Phật
ở Xá vệ; Nhóm 6 Ni tự tay xe chỉ đánh sợi, cư sĩ trông
thấy phẩm bình: "Các cô sa môn Thích nữ sinh hoạt giống
như những phụ nữ tề gia nội trợ". Phật chế giới.
115.
KHÔNG HỎI NẰM, NGỒI (trên giường, ghế nhà cư sĩ)
Phật
ở Xá vệ; Thâu la nan đà đi đến nhà một phụ nữ quen biết,
mặc y phục đeo nữ trang của bà ấy rồi nằm trên giường
trong lúc bà bỏ ra vườn sau. Người chồng về tưởng là
vợ, khi biết là ni cô ông ta mắng cho một trận đuổi ra.
Phật chế giới. (Khác giới số 85 ở trên, "Tỳ kheo ni tới
chỗ lạ tự trải đồ nằ", giới này là "đến nhà cư sĩ
quen biết mà tự tiện nằm").
116.
KHÔNG TỪ MÀ ĐI
Lúc
Phật ở Xá vệ, nhiều ni đi đến thành Câu tát la ngủ đêm
trong nhà cư sĩ xong, sáng sớm không nói mà bỏ đi. Sau đó
hỏa hoạn xảy ra, nhà bị cháy lây không ai cứu, vì cư sĩ
cứ tưởng còn các Tỳ kheo ni ở lại. (Tương tự giới điều
số 83 ở trên, Tỳ kheo ni bỏ đi không nói, để trộm vào
khiên đồ đạc trong nhà cư sĩ hảo tâm).
117.
TÀ MẠNG CHÚ THUẬT
Phật
ở Xá vệ, Nhóm 6 Ni học các chú thuật của thế gian, tỉ
như các loại bùa ngãi, thư phù yểm đảo... Phật cấm.
118.
DẠY NGƯỜI CHÚ THUẬT
Như
trên, Nhóm 6 Ni đem chú thuật thế gian và ngoại đạo mà dạy
cho cư sĩ. Phật cấm.
119.
ĐỘ NGƯỜI CÓ THAI
Phật
ở Xá vệ, Tỳ kheo ni Bà La độ nhằm một phụ nữ đã có
bầu, cho thọ giới cụ túc xong, ni cô sinh ra một đứa bé
và ẵm nó theo để khất thực, bị cư sĩ chê bai.
120.
ĐỘ NGƯỜI CON BÚ
Phật
ở Xá vệ. Có Tỳ kheo ni độ cho một phụ nữ có con còn
bú, để lại nhà. Bà mẹ thọ cụ túc giới xong, đứa con
ở nhà khóc lóc vì khát sữa, gia đình chồng bèn đem tới
chùa để mẹ nó cho bú. Phật chế giới.
121.
ĐỘ CHƯA ĐỦ TUỔI
Lúc
Phật ở Xá vệ, các Tỳ kheo ni độ cho những thiếu nữ dưới
18 chưa biết gì đã cho cạo tóc thọ giới. Khi đi ra, những
vị này không có uy nghi, xử sự không khác gì thế tục, bị
cư sĩ chê bai. Phật chế giới không được cho thiếu nữ
duới 18 thọ giới cụ túc.
122.
KHÔNG HAI NĂM HỌC
Phật
ở Xá vệ; các Tỳ kheo ni độ cho thiếu nữ cứ đúng 20 tuổi
bèn cho thọ cụ túc giới. Vì họ không được dạy về uy
nghi, v.v. nên cũng không khác gì người thế tục. Phật chế
giới phải đủ 20 tuổi, và phải dạy uy nghi giới pháp rồi
mới được cho thọ cụ túc.
123.
KHÔNG HỌC SÁU PHÁP
Phật
ở Xá vệ nhóm tăng chế giới: Tỳ kheo ni độ gái 18 tuổi
phải cho học giới (sa di ni), và hai năm học sáu pháp (thức
xoa ma na) để xét nghiệm về thân và tâm họ, coi có đủ
tư cách để thọ giới cụ túc không cái đã.
124.
ĐỘ KHÔNG HỎI TĂNG
Phật
ở Xá vệ; có Tỳ kheo ni độ gái đủ tuổi thọ cụ túc,
có cho học giới và sáu pháp, nhưng khi trình ra trước chúng
tăng thì những người này bị thọt chân, chột mắt, điếc,
què... không đủ thân tướng, làm mất mặt đoàn thể. (nếu
những vị này ham tu, chỉ nên cho thọ giới bồ tát xuất
gia thì những vị thầy khỏi phạm giới).
125.
ĐỘ GÁI CÓ CHỒNG
Phật
ở Xá vệ; các Tỳ kheo ni độ cho phụ nữ đã kết hôn, vội
cho thọ cụ túc, trong khi họ còn mang nhiều tập tục xấu
của thời còn tại gia. Do vậy Phật chế giới, phụ nữ đã
kết hôn thì phải đợi đến 12 năm học pháp để "đoạn
tâm tương tục" mới được thọ cụ túc.
126.
ĐỦ NĂM THIẾU PHÉP
Cũng
như giới 124, chỉ khác trường hợp này là độ cho gái có
chồng; dù đã ở chùa đủ 12 năm nhưng thiếu khả năng về
nhiều mặt. Do vậy phải trình cho chúng tăng khi muốn độ
người nào, để khỏi vì "tình cảm riêng" và "quen con mắt"
mà độ cho những người không đủ tiêu chuẩn, và cho thọ
giớ cụ túc.
127.
ĐỘ CHO NGƯỜI XẤU (dâm nữ, tặc nữ)
Phật
ở Xá vệ; có Tỳ kheo ni độ cho dâm nữ xuất gia. Những
người trước kia từng ra vào xóm điếm quen biết cô này,
trông thấy "nàng" đã cạo tóc thành ni cô bèn tưởng rằng
nữ xuất gia toàn là người như vậy.
128.
ĐỘ KHÔNG NUÔI DẠY
Phật
ở Xá vệ; Ni bà An độ nhiều đệ tử không dạy dỗ, các
cô này đi ra mất uy nghi, thiếu tư cách, hỏi các cô đệ
tử ai, họ xưng tên thầy mình là "Ni bà An ổn". Phật chế
giới muốn độ người, thầy phải đủ khả năng nuôi đệ
tử bằng tài thí pháp thí.
129.
KHÔNG NƯƠNG TỰA THẦY
Phật
ở Xá vệ; Tỳ kheo ni độ nhiều đệ tử cho thọ cụ túc
giới xong thả cho đi khắp không học giới pháp, uy nghi...
bị đời chê trách. Phật chế giới Tỳ kheo ni sau khi thọ
giới phải nương thầy hai năm.
130.
KHÔNG PHÉP, LÀM THẦY
Phật
ở Xá vệ, có những Tỳ kheo ni không biết gì cũng độ đệ
tử nên thầy trò cùng dốt nát, thiếu uy nghi. Phật chế giới,
Tỳ kheo ni muốn độ đệ tử phải đảnh lễ tăng chúng,
xin phép; tăng cho mới được độ. Tăng xét thấy vị ấy
có đủ khả năng nuôi và dạy đệ tử thì mới yết ma cho
độ chúng.
131.
THIẾU HẠ LÀM THẦY
Phật
ở Xá vệ. Có nhiều ni mới thọ cụ túc giới không lâu đã
độ đệ tử, nên không biết dạy dỗ. Phật chế giới, Tỳ
kheo ni phải đủ 12 hạ mới được làm thầy độ chúng.
132.
ĐỦ HẠ, TĂNG KHÔNG CHO
Phật
ở Xá vệ, có Tỳ kheo ni tu lâu, đủ hạ nhưng tăng xét thấy
vị ấy không đủ khả năng để độ người, nên không cho
nhận đệ tử. Phật chế giới, dù đã đủ hoặc trên 12
hạ, cũng phải có phép tăng mới được độ người. (Giới
này tương tự giới số 130 trên kia. Giới 130 cấm độ người
là nhắm hạng thầy dốt nói chung, bất kể đủ tuổi hạ
hay không. Giới này nhắm hạng thầy tự cho mình đã tu lâu,
dư tuổi hạ nhưng thiếu năng lực mà vẫn tự tiện độ
chúng).
133.
HỦY BÁNG KHÔNG CHO
Phật
ở Xá vệ. Sau khi Phật chế giới muốn độ người phải
xin tăng cho phép. Có những vị khi tăng làm yết ma tuyên bố
không cho phép họ độ đệ tử, bèn hủy báng chúng tăng,
nói có tham sân si sợ, kẻ cho người không. Phật chế giới
không được hủy báng.
134.
ĐỘ KẺ CÓ CHỦ
Phật
ở Xá vệ; có Tỳ kheo ni độ cho những cô gái đang ở dưới
sự giám hộ của cha mẹ, hoặc chồng, hoặc chủ... của họ.
Khi những người này trốn đi xuất gia, thì chồng, chủ, cha
mẹ họ đến bắt về, gây sự huyên náo. Phật chế giới
cấm độ cho những người không có phép cha mẹ, chồng, chủ...
cho xuất gia.
135.
ĐỘ KẺ ĐANG YÊU
Phật
ở Xá vệ, có Tỳ kheo ni độ nhằm gái đang thất tình, vào
chùa hay cáu kỉnh sầu muộn. Phật chế giới này bắt buộc
trước khi độ người, phải biết rõ lai lịch họ, tìm hiểu
nguyên nhân gì khiến họ muốn xuất gia.
136.
GẠT THỨC XOA HỌC
Phật
ở Xá vệ. Thâu la nan đà bảo một thức xoa hãy bỏ cái này
học cái này, rồi ta sẽ độ cho thọ giới. Kẻ kia nghe lời,
nhưng rốt cuộc Thâu la nan đà cứ lần lửa không độ cho
thọ cụ túc giới, cốt để cô này lui tới cúng dường cho
lâu. Cô phiền não, oán trách Thâu la nan đà. Phật chế giới.
(Nếu không vì y thực, mà chỉ vì muốn thử tâm kiên cố
của người ấy đối với đạo, thì chắc không phạm giới
này).
137.
GẠT THỨC XOA Y
Phật
ở Xá vệ; cũng cô Thâu la nan đà bảo một ni cô đem y cúng
ta, ta sẽ cho thọ giới, rốt cuộc Thâu la nan đà nhận y mà
không cho thọ. Phật chế giới.
138.
DƯỚI MƯỜI HAI THÁNG
Phật
ở Xá vệ, Ni bà An ổn độ đệ tử thật nhiều mà không
dạy xuể, họ đi ra thiếu tư cách, mất uy nghi... Phật chế
giới, độ người này sau mười hai tháng mới được độ
người khác. (mỗi năm chỉ được độ một người).
139.
ĐỂ CÁCH MỘT ĐÊM
Phật
ở Xá vệ; Ni chúng độ người thọ cụ túc xong, cách đêm
mới qua bạch Tỳ kheo tăng. Phật chế giới cho ni thọ cụ
túc xong phải qua bạch chúng tăng cùng trong ngày ấy, không
được để cách đêm. (thiếu cung kỉnh).
140.
KHÔNG THỌ GIÁO THỌ
Phật
ở Xá vệ; có nhiều Tỳ kheo ni vào ngày bồ tát không đến
Tỳ kheo tăng nhận sự chỉ giáo. Phật chế giới này.
141.
KHÔNG CẦU GIÁO THỌ
Phật
ở Xá vệ; có nhiều ni không đến tăng cầu sự chỉ giáo
vào ngày bố tát. (Phạm điều 6 trong 8 kỉnh pháp).
142.
KHÔNG CẦU TỰ TỨ
Lúc
ở Xá vệ, Phật đã dạy Tỳ kheo ni xong hạ phải sang bạch
tăng cầu ba sự tự tứ, song có nhiều vị không chịu sang.
Phật chế giới này.
143.
AN CƯ KHÔNG TĂNG
Phật
ở Xá vệ; có Tỳ kheo ni an cư ở chỗ không có chùa tăng
nên không có chỗ y chỉ cầu giáo thọ, xong hạ cũng không
có thầy để trình bày ba việc tự tứ thấy nghe nghi. Phật
cấm ni an cư một nơi cách quá xa xhùa tăng (nhưng quá gần
thì cũng không tốt lắm).
144.
KHÔNG THƯA MÀ VÀO
Phật
ở Xá vệ; có một Tỳ kheo ni giao thiệp rộng qua đời, ni
chúng thiêu xác xong đem di cốt vào trong vườn Cấp cô độc
mà xây tháp, ngày ngày thay phiên nhau đến thắp hương đốt
trầm dâng hoa cúng nước, khóc lóc làm cho chúng tăng tọa
thiền mất thanh tịnh. Cư sĩ các nơi trông thấy chỗ thờ
trang nghiêm, không hay biết gì cũng bắt chước kéo nhau tới
cúng dường lễ bái như lễ tháp phật. Một hôm một vị
la hán khách tăng dẫn đồ chúng đi ngang vườn Cấp cô độc,
trông thấy cảnh dập dìu ấy cũng tưởng là tháp thờ Răng
Phật hay Móng tay Phật gì ấy, nên sì sụp lễ bái. Tôn gải
Ưu ba li đang tạo thiền gần đấy thấy vậy lên tiếng: "Huynh
có biết tháp ai đấy không mà lạy?".
Vị
La hán vỡ lẽ ra là tháp của một ni cô, bèn bảo đệ tử
tới đập phá, liệng ra ngoài cổng chùa. Trước khi cùng đồ
đệ ra đi, ông đến bảo tôn giả Ưu ba ly hãy đề phòng,
sắp có đại nạn. Quả nhiên lúc các ni cô canh giữ chạy
về chùa ni trình bày tự sự, toàn thể ni chúng mang gậy gộc
kéo đến. Tôn giả Ưu ba ly đang nhập định Diệt thọ tưởng,
ngồi bất động như cái thây chết. Được các ni canh tháp
cho biết do ông này mà tháp bị đập phá, các Tỳ kheo ni lấy
đá chọi, gậy gộc quất túi bụi vào người tôn giả, nhưng
ngài không hề hấn gì, vì đã dứt hết cảm giác trong lúc
nhập định. Tỳ kheo ni hành hung tôn giả cho hả giận xong,
kéo nhau về chùa. Khi tôn giả xuất định trở về trú xứ,
các Tỳ kheo trông thấy y trên người ngài rách như xơ mướp,
thân tàn ma dại, hỏi ra biết ngài đã bị các ni cô hành
hung, họ tức giận bảo nhau: "Bất quá thì đừng cúng dường
cung kính chúng ta cũng được rồi, làm gì mà đánh anh em một
cách tàn nhẫn đến thế?"
Họ
quyết định từ nay cấm cổng không cho bất cứ bà ni nào
bén mảng vào vườn Cấp cô độc. Ni chủ Đại ái đạo đến
thăm Phật cũng bị từ chối không cho vào vườn. Nhiều ngày
không thấy bà di mẫu đến thăm, Đức Thế Tôn hỏi tôn giả
A nan mới biết đã xảy ra cợ sự. Ngài bèn nhóm tăng chế
giới: Từ nay chư ni muốn vào chùa tăng phải bạch trước
để xin phép. Vị tăng giữ cổng nên hỏi, "Các cô không mang
theo dao búa gậy gọc đấy chứ?". Khi họ trả lời là "không"
mới cho vào.
145.
MẮNG TỲ KHEO TĂNG
Các
ni cô như trên, hôm sau vào thành khất thực, gặp tôn giả
Ưu ba ly đang ôm bát đi, họ mắng nhiếc: "Chính lão thầy
chùa kia là kẻ đã xúi giục phá tháp chúng ta. Thật là kẻ
dã man tàn nhẫn vô nhân đạo". Các kth về bạch Phật, Phật
chế giới.
146.
TRÁCH MẮNG NI CHÚNG
Phật
ở Câu diêm di. Tỳ kheo ni Ca La ưa cãi nhau với người, ai
can cô còn mắng lại.
147.
MỔ NHỌT KHÔNG THƯA
Phật
ở Thích sí sấu, vườn Ni câu luật. Tỳ kheo Đạt đà Ca
tì la nhờ người nam mổ xẻ ung nhọt, khi chạm xúc thân thể
mềm mại của cô, người ấy nổi tâm xấu toan phá phạm
hạnh. Ni cô hô hoán lên. Các vị ni khác quở trách Ca tì la
rồi bạch Đức Thế Tôn. Phật dạy, phải bạch chúng trước
mới được để cho nam y sĩ mổ xẻ băng bó ung nhọt trên
người.
148.
ĂN XONG ĂN NỮA
Phật
ở Xá vệ, có cư sĩ đến thỉnh ni chúng hôm sau về nhà thọ
trai. Đêm ấy cả nhà cư sĩ thức để làm các thứ cúng dường.
Hôm sau gặp ngày lễ hội, chùa được thập phương mang nhiều
đồ đến cúng, chư ni ăn trước ở chùa xong mới ôm bát
đến nhà cư sĩ thọ thực. Vì đã no bụng nên họ không thể
ăn thêm gì nhiều; cư sĩ thấy họ ăn một cách thờ ơ nên
lấy làm buồn bã. Những vị thiểu dục quở trách và bạch
Phật. Phật chế giới, đã nhận mời ăn thì không được
ăn trước.
149.
GANH TỊ VỚI THẦY
Ni
An ổn đến nhà một cư sĩ được nhiều đồ cúng trở về
khen với đệ tử Đề xá: "Cư sĩ ấy thật là tốt bụng,
nhiệt tâm".
Ni
đệ tử bảo: "Họ chỉ tốt bụng, nhiệt tâm đối với thầy
mà thôi; đâu có đạo tâm gì".
150.
HƯƠNG LIỆU XOA THÂN
Phật
ở Xá vệ; Nhóm 6 Ni phạm; cư sĩ nghe mùi thơm của hương
liệu (nước hoa, v.v.) toát ra từ thân thể các ni cô, chê
bai là "giống như dâm nữ". Vì ở đời, kẻ xức nước hoa
là cốt để dụ cho người khác phái ngửi mùi thơm mà bị
thu hút đến nơi mình; đôi khi vì thế mà họ nổi tâm xấu
và có phản ứng bất lương. Phật cấm.
151.
DẦU MÈ XOA THÂN
Phật
ở Xá vệ. Nhóm 6 Ni phạm. Thoa "Dầu mè" cũng như ngày nay
xức kem dưỡng da vậy; đều là những kiểu cách làm dáng
của bọn ăn không ngồi rồi, dư tiền lắm của xưa cũng
như nay, luôn nghĩ cách trau chuốt cái thây xú uế.
152.
BẢO ĐỒNG GIỚI XOA
Phật
ở Xá vệ; Nhóm 6 Ni phạm, như trên, nhưng thay vì tự mình
làm thì lại nhờ Tỳ kheo ni khác xoa, còn tệ hơn nữa vì
làm cho hai người mất thì giờ. (Hoặc có thể không thoa dầu
mè để trang điểm mà xức dầu cạo gió thường thì giờ,
tạo cho cơ thể có thói quen xấu. Trừ phi trúng gió quá nặng).
153.
BẢO THỨC XOA XAO
Như
trên, nhưng sai thức xoa là kẻ dưới mình về khía cạnh "thâm
niên" trong đạo. Họ có thể vì nể mà phải giúp, nhưng không
vui vẻ lắm.
154.
SADI NI XOA
Như
trên, xem từ số 151.
155.
BẢO PHỤ NỮ XOA
Như
trên, xem từ số 151.
156.
MẶC QUẦN LÓT ĐỘN
Phật
ở Xá vệ chế giới. Thâu la nan đà đi khất thức thấy các
phụ nữ mặc quần độn cho mông nở, eo thắt... về bắt
chước. Phật cấm chỉ.
157.
SẮM ĐỒ TRANG ĐIỂM
Phật
ở Xá vệ; Nhóm 6 Tỳ kheo ni phạm bị cư sĩ chê bai "giống
dâm nữ".
158.
MANG GIÀY CẦM DÙ
Phật
ở Xá vệ; Nhóm 6 Ni phạm, bị đời mai mỉa. Phật chế giới
cấm.
159.
KHÔNG BỆNH NGỒI XE
Phật
ở Xá vệ, Nhóm 6 Ni phạm, bị cư sĩ chê bai "giống như dâm
nữ". (Ngày xưa, xe cũng như kiệu, đều do người kéo. Phần
nhiều chỉ có hạng quan quyền, trưởng giả và gái mãi dâm
giàu có mới sử dụng phương tiện giao thông đắt tiền và
phong kiến này). Do vậy Phật chế giới cấm ngồi xe.
160.
KHÔNG MẶC ÁO LÓT
Phật
ở Xá vệ chế giới. "Tăng kỳ chi" là áo che ngực, nách,
eo của phụ nữ. Nhóm 6 Ni vào thôn xóm, không mặc tăng kỳ
chi, y ngoài bị gío bay để lộ nách, ngực. Cư sĩ chê cười.
Phật chế giới, vào xóm phải mặc tăng kỳ chi bên trong đại
y (tăng già lê).
161.
TỐI ĐẾN NHÀ NGƯỜI
Phật
ở Xá vệ chế giới. Nguyên do vì Thâu la nan đà tới nhà
một cư sĩ vào buổi tối, lúc về lẻn vào lấy đồ đạc
mang đi.
162.
TỐI MỞ CỔNG CHÙA
Lúc
Phật ở Xá vệ, Nhóm 6 Ni tối mở cổng chùa đi ra không dặn,
để trộm vào vơ vét tài sản của ni.
163.
TRỜI LẶN ĐỂ CỔNG
Phật
ở Xá vệ; Nhóm 6 Ni vào lúc mặt trời lặn mở cổng đi ra,
đúng vào lúc một kẻ cướp vượt ngục đang tìm đường
thoát, gặp cửa mở bèn lẻn vào. Khi quan quân truy lùng hỏi,
các ni đều không thấy ai vào chùa. Họ vẫn nghi, lục soát
một hồi quả nhiên bắt được tên cướp đang trốn trong
chùa, bèn chê trách chùa dung chứa giặc. Hỏi ra là do Nhóm
6 Ni trời lặn đã ra đi để cổng mở. Phật chế giới.
164.
KHÔNG CÓ AN CƯ
Phật
ở Xá vệ chế giới. Nhiều ni cô du hành cả bốn mùa, bị
cư sĩ chê trách đến tai Phật. Phật chế, ni phải an cư ba
tháng mùa mưa phần trước (tiền an cư, tức từ ngày rằm)
hoặc phần sau (hậu an cư, tức từ 16 trở đi). Xem giới số
95.
165.
ĐỘ NGƯỜI THƯỜNG XUẤT
Phật
ở Xá vệ; có Tỳ kheo ni độ cho những người bị chứng
bệnh thường rỉ chảy đại tiểu tiện, mũi dãi... thọ cụ
túc giới, Phật cấm.
166.
ĐỘ NGƯỜI HAI HÌNH
Phật
ở Xá vệ. Có Tỳ kheo ni độ cho kẻ có hai căn (bán nam bán
nữ), nghĩa là lúc giao thiệp với nữ thì họ giống nam, lúc
giao thiệp với nam thì họ giống nữ. Phật cấm.
167.
ĐỘ NGƯỜI NHẬP MỘT
Phật
ở Xá vệ; Tỳ kheo ni độ cho kẻ hai đường đại, tiểu
nhập một. Phật cấm.
Dị
tật này có ba trường hợp như sau:
Một
là âm đạo nhập một với trực tràng, thì kinh nguyệt và
phân cùng xuất từ một chỗ.
Hai
là âm đạo và đường tiểu tiện nhập một; thì kinh nguyệt
và tiểu tiện chảy theo một đường. Hai trường hợp này
thường do bẩm sinh.
Ba
là đối với những phụ nữ đã sinh con, thì ngày xưa lúc
chưa có phẫu thuật khâu vá, có thể có trường hợp lúc
sinh nở âm đạo bị rách thông lên trên là đường tiểu
và dưới là hậu môn, trở thành cả ba đường nhập một,
khiến cho đại, tiểu và bất tịnh cùng xuất từ một chỗ.
168.
ĐỘ NGƯỜI NỢ, BỆNH
Phật
ở Xá vệ. Bấy giờ có Tỳ kheo ni độ người đang mắc nợ,
bị chủ nợ tới đòi, kêu réo chửi rủa, mắng lây cả ni
chúng, gây huyên náo trong chùa. Lại có người độ cho kẻ
có bệnh kinh niên, các cô khác phải săn sóc bệnh nhân tối
ngày không có thì giờ hành đạo. Phật chế giới cấm độ
cho những người đang mắc nợ và có bệnh khó dứt.
Xuất
phát là việc của bậc thượng nhân, cốt để kế thừa Phật
pháp chứ không phải để trốn nợ, tìm chốn an thân, hoặc
mượn đạo tạo đời. Công việc cao cả ấy không thể được
đảm nhiệm bởi những thành phần bất túc. Bởi vậy nếu
muốn chánh pháp được truyền thừa, thì phẩm chất của
người xuất gia cần được chú trọng hơn là số lượng.
169.
HỌC NGHỀ BÓI TOÁN
Phật
ở Xá vệ chế giới; Nhóm 6 Ni phạm. "Thuật số" là một
trong những tà mạng Phật cấm. Ngay cả phật tử tại gia
còn không được sống bằng nghề bói toán, huống chi xuất
gia.
170.
DẠY NGHỀ BÓI TOÁN
Như
trên. Lục quần Tỳ kheo ni dạy cho cư sĩ cách coi hướng đất,
ngày giờ tốt xấu, v.v., bị Phật cấm.
"Chánh
pháp niệm xứ" quyển 48 nói xuất gia có 13 việc chướng ngại
hành đạo.
1.
Nói nhiều.
2.
Chữa bệnh.
3.
Hội họa.
4.
Đờn ca xướng hát làm thơ ngâm vịnh.
5.
Chiêm tinh (xem thiên văn).
6.
Đoán điềm triệu (bói toán).
7.
Tham ăn ngon.
8.
Ưa của báu (vàng bạc, đá quý, chơi đồ cổ, sưu tập tem
cò, v.v.).
9.
Thân cận quyền quý.
10.
Hi vọng được mời.
11.
Không cầu học chánh pháp.
12.
Xã giao rộng.
13.
Ở chung với người xấu.
171.
BỊ ĐUỔI KHÔNG ĐI
Phật
ở Xá vệ chế giới. Nhóm 6 Tỳ kheo phạm.
172.
HỎI KHÔNG XIN TRƯỚC
Phật
ở Xá vệ; Ni An ổn đến một Tỳ kheo hỏi nghĩa kinh luật,
vị này không đáp ngay được, đâm ra hổ thẹn. Phật chế
giới muốn hỏi Tỳ kheo nghĩa lý cần phải bạch trước.
Pháp
không phải lúc nào cũng nói được và bạ đâu nói đó. người
hỏi pháp cần có tâm khiêm hạ cầu thỉnh, để thầy tùy
thời, tùy chỗ, tùy người và tùy pháp mà giải thích.
173.
ĐI ĐỨNG XÚC NÃO
Phật
ở Xá vệ chế giới này. Do Nhóm 6 Tỳ kheo phạm. Những vị
này muốn xúc não người đang ở chung, bèn ở trước mặt
họ mà đi đứng nằm ngồi để quấy rối. Xem thêm giời
số 92 ở trên, quấy rối người ở chung bằng cách hỏi nhau
nghĩa lý kinh luật.
174.
XÂY THÁP CHÙA TĂNG
Xem
sự tích ở giới 144.
175.
KHINH TÂN TỲ KHEO
Phật
ở Xá vệ chế giới; vì có nhiều ni không cung kính tân Tỳ
kheo.
176.
ĐI MÀ LẮC MÌNH
Phật
ở Xá vệ chế giới. Nhóm 6 Ni phạm, bắt chước các phụ
nữ ở đời, làm dáng lúc đi Phật cấm.
177.
DÙNG ĐỒ TRANG SỨC
Phật
ở Xá vệ chế giới; Nhóm 6 Ni phạm (đeo đồ trang sức của
phụ
nữ).
178.
BẢO NGOẠI ĐẠO XOA
Phật
ở Xá vệ chế giới; khi một Tỳ kheo ni có em gái đang tu
theo ngoại đạo đến thăm, cô này nhờ xoa bóp vì Phật đã
cấm ni và nữ phật tử xoa. (Xem các giới từ số 150 đến
155).
Phần
năm
TÁM
PHÁP HỐI QUÁ
Tám
pháp "hối quá" dịch âm là Ba la đề đề xá ni, dịch nghĩa
là "Đối tha thuyết" hay "Hướng bỉ hối" là khi phạm thì
cần đối trước một vị khác mà sám hối về việc quấy
mình đã làm để được thanh tịnh. Tám pháp ấy là không
bệnh mà do lòng tham ăn, đi xin một trong tám thứ: Tô, dầu,
mật, đường tán, sữa, lạc, cá, thịt.
Cả
tám pháp đều do Lục quần Ni phạm đầu tiên, bị cư sĩ
chê bai, Phật chế giới.
Trong
tám thứ, ba thứ tô, sữa, lạc đều là những thực phẩm
chế biến từ sữa. (Sữa tươi từ bò cái gọi là nhũ, từ
nhũ có lạc, từ lạc có sinh tô, từ sinh tô có thục tô,
từ thục tô có đề hồ). Cùng với đường, mật, dầu thành
sáu thức ăn có tính chất dinh dưỡng cao, người xuất gia
chỉ nên xem như thuốc chữa bệnh. Cá, thịt thì liên hệ
đến sinh mạng của loài khác, dù nói gì đi nữa (như nói
nguyên thủy Phật cho phép ăn năm thứ tịnh nhục, vân vân)
thì ăn vào cũng thương tổn tâm từ, mắc nợ máu thịt khó
mà giải thoát. Trừ phi bị bệnh kinh niên cần phải ăn, hoặc
không có thực phẩm nào khác, thì không nói. (Như ở Tây tạng,
trên núi cao rất ít rau cỏ mọc được, tu sĩ hầu hết theo
đại thừa giáo mà không ăn chay. Khi sang Tây phương, ngài
Dalai Lama, vị Phật vương xứ Tây tạng lưu vong, một hôm
trông thấy người ta đang cắt cổ gà để thết đãi, ngài
từ chối dùng dĩa thịt gà hôm ấy mặc dù không có món ăn
nào khác ngon hơn. Từ đấy ngài ăn chay hoàn toàn như người
Trung Quốc và Việt Nam, nhưng sau 12 tháng ngày lâm bệnh vàng
da rất nặng, bác sĩ bảo ngài phải kiêng sữa, đậu phụng
và phải trở lại ăn cá thịt mới khỏi bệnh. Tuy không trường
trai được, mà ngài vẫn luôn tán thán việc ăn chay là hoàn
toàn hợp lý, và cứ đến mỗi kỳ đại lễ của Tây tạng
và khi nhập thất thì ngài lại dùng chay).
Nếu
không bệnh mà ăn các thứ trên, thì có thể sinh bệnh thừa
chất đường, chất mỡ (gọi là chứng thừa cholestérol trong
máu, gây ra nhiều chứng khó chữa như xơ cứng động mạch,
tiểu đường, v.v...). Hoặc nếu may mắn không bệnh (vì lá
gan còn hoạt động tốt) thì người cũng mập phì rất khó
coi. Thứ nữa là ăn quen chất béo ngọt thì sinh cái tật tham
vị ngon, đưa đến tình trạng đọa lạc biết ngày nào mới
ra khỏi biển khổ sinh tử?
Phần
sáu
MỘT
TRĂM PHÁP CHÚNG HỌC
Phần
này thuộc về uy nghi chánh hạnh, thuộc loại tội nhẹ nhất
trong năm thiên, nhưng bản chất cũng đưa đến phiền não.
Lại nữa những giới này thuộc về "già tội" không phải
"Tánh tội" như sát đạo dâm vọng. Trong khi các tội trọng
thuộc hai thiên đầu khó phạm mà dễ giữ, thì trái lại
các tội thuộc thiên này rất dễ phạm, khó giữ.
Trong
100 pháp chúng học, điều thứ 14 (lắc thân mà đi) trùng với
Ba dật đề 176; số 49 (đại tiểu trên cỏ tươi) trùng với
Ba dật đề 77. Còn lại 98 điều giống như giới bản của
Tỳ kheo.
Các
giới điều trong thiên này đều do Lục quần phạm trước,
bị cư sĩ chê trách nên Phật chế giới. Có thể tóm thâu
vào bảy mục:
1.
Về y phục
Gồm
8 giới, từ số 1 đến số 8 như sau
Nội
y tề chỉnh, năm y tề chỉnh, không vắt trái y mà đi, và
ngồi; quấn y nơi cổ mà đi, và ngồi, trùm đầu mà đi, ngồi
nhà cư sĩ.
2.
Uy nghi đi đường
Gồm
12 điều, từ 9-17 và 93-95 như sau:
Không
lò cò vào, ngồi nhà cư sĩ, không ngồi xoạc đùi; không chống
nạnh vào, ngồi nhà cư sĩ, không lắc thân vào, ngồi nhà
cư sĩ, dặt tay nhau, trèo cao quá đầu, xâu đãy y vào đầy
gậy mà vác.
3.
Tác phong lúc đến nhà cư sĩ
Gồ
8 điều, từ 18-25 như sau:
Khéo
che mình vào, ngồi nhà cư sĩ, không liếc ngó vào, ngồi nhà
cư sĩ, yên lặng mà vào, ngồi nhà cư sĩ, không giỡn cười
vào, ngồi nhà cư sĩ.
4.
Tác phong khi ăn uống
Gồm
23 điều, từ 26-48 như sau:
Chú
ý khi ăn, cơm ngang miệng bát, đồ ăn ngang bát, cơm canh tương
đương, phải ăn tuần tự, không moi giữa bát, không tự đòi
cơm (canh nếu không bệnh), không lấy cơm lấp, liếc bát bên
cạnh. Để ý nơi bát, không dồn lớn miếng, há miệng đợi
cơm, không ngậm cơm nói, xa ném vào miệng, ăn cón sót cơm,
phồng má mà ăn, nhai cơm lớn tiếng, hớp cơm mà ăn, le lưỡi
mà liếm, rảy tay mà mà ăn, lượm cơm rơi ăn, tay dơ cầm
bát, tạt nước rửa chén (vào nhà cư sĩ).
5.
Đại tiểu tiện
Gồm
3 điều cấm, từ 49-51, như sau:
Đại
tiểu hỉ nhổ trên cỏ, nước sạch, đứng mà đại tiểu.
6.
Tác phong thuyết pháp
Gồm
20 điều, từ 52-59 và 86-92
Từ
52-59 là tám trường hợp không được nói phá cho những người
không bệnh mà có tác phong thiếu cung kính như sau:
Vắt
áo lên vai, quấn áo nơi cổ, người đang che đầu, người
đang trùm đầu, hai tay chống nạnh, chân mang dép da, chân mang
guốc gỗ, người đang cưỡi ngựa.
Từ
86-92 là bảy trường hợp nói pháp không đúng phép tắc, khi
người nghe không bị bệnh hoạn gì:
Người
ngồi mình đứng, người nằm mình ngồi; người ghế mình
không, ngồi cao ngồi thấp, đi trước đi sau, kinh hành cao
thấp, đạo và phi đạo.
Từ
96-100 là năm trường hợp cấm thuyết pháp vì người nghe
thiếu cung kính không bỏ xuống những khí giới đang mang như
sau: Cầm gậy, cầm kiếm, cầm mâu, cầm dao, che dù.
7.
Kính tháp và tượng Phật
Gồm
26 điều cấm, từ 60-85 như sau:
Ngủ
trong tháp Phật, cất giấu của cải, mang dép da vào, cầm
dép da vào, dép da nhiễu tháp, đi ủng vào tháp, mang giày ủng
vào, cầm giày ủng vào, ăn uống xả rác, khiêng thây đi qua,
chôn thây nơi tháp, đốt thây nơi tháp, hướng tháp đốt
thây, bốn phía hôi tháp, giường áo người chết, đại tiểu
gần tháp, hướng tháp mà tiểu, bốn phía xông hơi, ảnh Phật
vào cầu, tháp Phât xỉa răng, hướng tháp xỉa răng, nhiễu
tháp xỉa răng, khạc nhổ hỉ mũi, hướng tháp hỉ khạc,
duỗi chân trước tháp. Tượng Phật phòng dưới mình ở phòng
trên.
Phần
bảy
BẢY
PHÁP DIỆT TRÁNH
Phần
này là bảy phương pháp Phật dạy dùng để giải quyết những
tranh chấp trong tăng chúng, thuộc bốn phạm vi là ngôn, sự,
mích, phạm.
"Ngôn
tránh" là cãi nhau về pháp và luật.
"Sự
tránh" là cãi nhau về công việc.
"Mích
tránh" là cãi nhau trong lúc tìm lỗi.
"Phạm
tránh" là cãi nhau về phạm tội nặng nhẹ.
Bảy
phương pháp đó là:
1.
Hiện tiền tì ni
Đáng
cho hiện tiền tì ni, phải cho hiện tiền tì ni.
Phật
ở Xá vệ dạy pháp này. Nhân tôn gải Ca lưu đà di, một
trong Nhóm 6 Tỳ kheo, cùng nhiều vị đi tắm sông Aciravati.
Tôn giả lên trước, lấy lộn y của vị khác mặc đi về.
Vị kia lên sau tìm không thấy y mình mà thấy y của Ca lưu
đà di bỏ lại, bèn kết cho vị này tội ăn trộm, làm yết
ma diệt tẩn vắng mặt. Tôn giả Ca lưu đà di đến bạch
Phật. Phật hỏi tôn giả Ca lưu đà di đến bạch Phật. Phật
hỏi tôn giả khi lấy y mặc thì tâm nghĩ gì? Tôn giả đáp
tưởng là của mình nên lấy mặc, thế thôi. Phật dạy thế
thì không phạm tội, nhưng lần sau phải xem kỹ trước khi
mặc. Và đại chúng cũng không được phép làm yết ma kết
tội kẻ vắng mặt. Khi làm các yết ma y chỉ, diệt tẩn,
quở trách, ngăn đến nhà cư sĩ, yết ma cử tội, v.v cần
phải có mặt đương sự, gọi là "hiện tiền tì ni". Pháp
diệt tránh này gọi là "hiện tiền tì ni diệt tránh", nghĩa
là phương pháp dứt tranh cãi trong đó cần có mặt đương
sự.
2.
Pháp diệt tránh "Ức niệm tì ni"
Đáng
cho ức niệm tì ni, phải cho ức niệm tì ni.
Phật
ở Xá vệ, Đạp bà ma la làm tri sự, chia mền chiếu xấu
cho một vị trong Lục quần Tỳ kheo, vị này tức giận vu
khống tôn giả phạm giới dâm dục. Phật hỏi tôn giả có
như vậy không. Tôn giả đáp từ khi xuất gia ông chưa từng
có tâm niệm ấy dù trong giấc mộng. Lục quần cũng xác nhận
tôn giả thanh tịnh. Phật tuyên bố Đạp bà ma la là bậc
a la hán vô trước, không còn ý tưởng dâm dục. Nhưng các
Tỳ kheo cứ tiếp tục quấy nhiễu tôn giả bằng cách đi
theo mà cật vấn: "Ông có nhớ ông phạm tội ba la di, tăng
tàn... nào không" và tôn giả cứ phải trả lời: "Trưởng
lão, tôi không phạm, chớ có cật vấn tôi mãi. Các Tỳ kheo
vẫn theo hỏi dai, tôn giả bạch Phật. Phật cho tăng bạch
tứ yết ma làm pháp "ức niệm tì ni". Yết ma xong thì phải
để cho đương sự yên ổn, không được theo hỏi lần đân.
Đương
sự đủ uy ngh tác bạch:
"Xin
đại đức tăng nghe cho. Tôi tên Đạp bà ma la không phạm
trọng, các Tỳ kheo lại bảo tôi phạm, và cứ theo hỏi tôi:
"Ông có nhớ ông phạm trọng không?". Tôi đã nhớ mình không
phạm tội, và đã xin các trưởng lão chớ thường xuyên cật
vấn tôi. Thế mà các vị ấy vẫn theo vấn nạn không thôi.
Nay xin tăng cho tôi pháp "ức niệm tì ni". Xin tăng thương xót".
(nói ba lần).
Tăng
sai một vị làm yết ma nói như trên để hỏi ý kiến đại
chúng, nếu bằng lòng thì im lặng. Hỏi ba lần đều im lặng
có nghĩa là yết ma đã thành,
Sau
khi yết ma, thì tội ấy không được cử lại.
Nếu
đương sự thực có phạm giới mà làm yết ma như trên, thì
đó là yết ma phi pháp.
3.
Pháp diệt tránh "Bất si tì ni"
Đáng
cho bất si tì ni, thì cho bất si tì ni.
Phật
ở Xá vệ;Tỳ kheo Nan đề trong thời gian bị bệnh điên cuồng
tâm loạn đã phạm nhiều tội, mất uy nghi. Về sau khi ông
ấy hết bệnh, các vị khác vẫn theo hỏi, "Ông có nhớ ông
đã làm vậy vậy hay không?". Nan đề xấu hổ nói: "Trước
đây tôi đã phạm nhiều tội vì điên cuồng tâm loạn chứ
không cố ý. Xin chư vị đừng theo hỏi tôi hoài". Các vị
khác cứ lần đân theo hỏi, đương sự bạch Phật. Phật
cho bạch tứ yết ma làm pháp "Bất si tì ni" nghĩa là xác nhận
đương sự đã hết điên, từ nay không được nhắc lại
những chuyện đương sự đã làm trong lúc điên.
4.
Pháp diệt tránh "Tự ngôn trị"
Phật
ở Chiêm bặc, vào một ngày rằm bố tát, tăng chúng nhóm
họp đông đủ nhưng Đức Thế Tôn vẫn không thuyết giới.
Mãi cho đến nửa đêm, Phật vẫn ngồi bất động. Tôn giả
A nan đến nhắc mấy lần, Đức Thế Tôn vẫn im lặng. Cuối
cùng ngài mới dạy rằng, đức Như Lai không thể nói giới
khi mà trong chúng có Tỳ kheo không thanh tịnh. Khi ấy tôn giả
Mục Kiền Kiên dùng thiên nhãn quán sát và biết kẻ phạm
giới đang ngồi cách Thế tôn không xa. Tôn giả bèn đến
túm y vị ấy mà lôi ra khổi pháp đường. Đức Thế Tôn
dạy: "Mục Liên, lần sau ông không được làm như vậy, mà
phải làm yết ma cử tội". Từ nay về sau, hãy làm pháp "tự
ngôn trị" để diệt tranh cão/
Luật
Tứ phần quyển 48 nói: Phật dạy A nan, khi tranh cãi về sự
phạm giới tội, thì phải dùng ba pháp là "hiện tiền", "tự
ngôn" và "như thảo phú địa" để giải quyết, không được
dùng vũ lực mà trị tội. "Tự ngôn" là để cho đương sự
tự phát lộ tội lỗi của mình rồi mới xử.
5.
"Đa nhân ngữ tì ni"
Khi
một cuộc tranh chấp trong đó tăng chúng chia thành hai phe,
thì nên bốc thăm để xem bên nào thắng, gọi là đa nhân
ngữ. Nếu bên đúng pháp số thăm lại ít hơn bên phi pháp,
thì tăng nên tìm cớ giải tán cuộc họp; nếu bên phi pháp
biết mình thắng thế cứ ngồi lì, thì nên sang chùa bên cạnh
mời thêm những vị như pháp vào họp.
6.
Pháp diệt tránh "Mích tội tướng tì ni"
Phật
ở Thích Sí sấu, Tỳ kheo Tượng lực ưa tranh luận, khi thua
bèn nói ngược lại những gì đã nói. Các Tỳ kheo bạch Phật,
Phật dạy tăng hãy bạch tứ yết ma làm pháp "mích tội tướng"
đối với Tỳ kheo ấy. Nghĩa là khi một người phạm tội
nặng (ba la di) mà nói dối, thì tăng cứ bạch tứ yết ma
kết tội ba la di, chờ đến khi họ thú tội mới giải yết
ma.
7.
Pháp diệt tránh "Như thảo phú địa tì ni"
Phật
ở Xá vệ, các Tỳ kheo nhân một việc nhỏ mà gây gổ chia
thành hai phe cãi nhau không dứt (một bên là phe của một thượng
tọa luật sư, phe kia của Luật sư), Phật can không được
cuối cùng ngài phải bỏ vào rừng an cư với một con voi chúa,
có bầy khỉ dâng trái cây mỗi ngày. Cư sĩ sau đó không đến
vườn Cấp cô độc để cúng dường nữa vì vắng Phật,
chúng tăng bèn lên rừng thỉnh Phật trở về. Phật dạy hai
phe hãy giảng hòa bằng pháp "Như thảo phú địa" (trải cỏ
che lấp) là một cách xí xóa tất cả cho nhau, vì hai bên đều
có lỗi.
Nhân
đấy Phật kể câu chuyện để chứng minh những kẻ oan gia
nhiều đời mà cuối cùng còn sống với nhau được, tại
sao Tỳ kheo lại không hòa nhau để tu học.
Ngày
xưa giữa vua Phạm Chí và vua Trường Sinh có mối thù từ
nhiều đời kiếp. Vua Phạm Chí cất quân sang đánh chiếm
nuớc của vua Trường sinh, bắt vua và hoàng hậu đem đi xử
trảm. Thái tử còn nhỏ được người trung thần ẵm mang
đi thoát được, mai danh ẩn tích trở thành một trẻ bụi
đời kiếm sống bằng nghề hát rong. Một hôm đi ngang hoàng
cung bấy giờ đã bị vua Phạm Chí chiếm đoạt, nghe giọng
hát hay, hoàng hậu của vua Phạm Chí bèn gọi đứa trẻ vào
cung để mua vui. Đứa trẻ được hoàng hậu yêu mến, cho
ở luôn trong cung cấm. Một hôm xâu ngọc quý của hoàng hậu
không cánh mà bay mất. Nhà vua, hoàng và đình thần đều nghi
đứa bé ăn cắp, vì ngoài nó ra không người nào được vào
ra trong cung. Khi bị bắt, đứa trẻ bèn nhận tội ngay không
chối cãi. Hỏi cung, nó khai ra thêm bốn người liên lụy trong
vụ này là thái tử, quan tể tướng, ông tỷ phú trong thành,
và nữ danh ca được yêu chuộng nhất. Cả bốn người đều
bị bắt vào tù. Quản tể tướng hỏi: "Này con, tại sao con
biết rõ là ta không lấy, mà lại khai ẩu?".
Nó
bảo: "Vì quan thông minh, đa mưu túc trí, thế nào cũng tìm
ra manh mối vụ này".
Thái
tử cũng hỏi nó một câu tương tự, nó đáp, "Tại vì ngài
là con vua, vua sẽ không nỡ giết. Không lẽ cha mà lại đi
giết con?".
Ông
tỷ phú vào tù gặp nó, bứt đầu bứt tai bảo: "Trời đất
quỷ thần ơi, sao cháu nỡ nào khai oan cho bác vậy?"
Thì
nó tỉnh bơ đáp rằng: "Tại vì bác có thể bỏ tiền ra chuộc
mạng để khỏi ở tù".
Và
khi cô ca sĩ khóc lóc hỏi nó, "Em ơi, tại sao em nỡ vu khống
cho chị lấy xâu chuỗi ngọc trong khi chị chẳng biết ất
giám gì?"
Nó
trả lời: "Vì thiên hạ đều hâm mộ chị, nên thế nào người
ta cũng tìm cách đưa vụ này ra ánh sáng càng sớm càng tốt,
để cứu chị thoát nạn lao tù".
Quả
nhiên sau đó một người đầu đảng khét tiếng tài danh về
nghề trộm cướp được đưa vào khám đường đối chất.
Gặp nó, người chuyên nghề trộm cướp hỏi: "Trong cung, ngoài
đức vua, hoàng hậu và bé ra, còn có con vật nào được ra
vào không?"
- "Có
một con khỉ thường theo chơi với hoàng hậu".
Kẻ
trộm nổi danh đi về, rồi trở lại đem theo vào nội cung
một bầy khỉ. Ông cũng xin cho đem con khỉ của hoàng hậu
đến. Sau khi mượn tạm những xâu chuỗi của các cung nữ
đang đeo, y phân phát cho mỗi con khỉ một chuỗi, rồi tự
đeo vào cổ một xâu. Cả bầy khỉ đềm làm theo y, con nào
cũng tròng chuỗi trang sức vào cổ. Con khỉ của hoàng hậu
trông thấy liền bắt chước đi lấy xâu chuỗi ngọc quý
nó đã ăn cắp ra đeo. Thế là nội vụ đã ra manh mối.
Khi
nhà vua hỏi tại sao nó không lấy cắp mà chịu nhận tội,
lại khai thêm những người vô tội khác. Nó trả lời, "Con
chỉ là một tên bụi đời, dù con có nói mình không lấy
cũng chẳng ai tin. Con không có chứng cớ gì để minh oan nếu
không nhận tội sẽ bị vua trừng trị. Do vậy con cứ nhận
đại, rồi khai thêm mấy người mà con biết có bị tống
vào ngục cũng không sao. Họ là những người danh tiếng, có
thể nhờ họ mà người ta sẽ ra công điều tra vụ án này".
Vua công nhận thằng bé thông minh, và từ đấy càng thêm yêu
mến, cho hầu cận luôn bên mình.
Một
hôm theo vua đi săn lạc giữa rừng sâu, cậu bé bây giờ tuổi
đã thành niên, đang canh cho vua ngủ. Thấy nhà vua ngủ say
li bì, cậu tuốt gươm khỏi vỏ toan giết để báo thù cho
cha, nhưng bỗng nhớ lời cha dặn: "Lấy oán báo oán, oán ấy
chất chồng; lấy ân báo oán, oán ấy tiêu tan" cậu tra gươm
vào vỏ. Đúng lúc ấy, nhà vua trở dậy kể lại giấc chiêm
bao: "Vừa rồi ta mộng thấy con vua Trường Sinh đến báo mối
thù giết cha ngày trước". Cậu bé liền thú thực với vua
tông tích của mình, vốn là thái tử. Nhà vua cảm động,
trả lại ngai vàng cho thái tử con vua Trường Sinh, lại gả
con gái cho chàng. Mối thù giữa hai nhà từ đấy chấm dứt,
hai nước láng giềng trở thành bạn hữu.
Phụ
lục:
NGUỒN
GỐC CÁC GIỚI ĐƠN ĐỀ
(GIỚI
BẢN TỲ KHEO)
Muốn
hiểu rõ mỗi giới, ta cần hiểu các dữ kiện lịch sử làm
căn bản cho giới luật. Sau đây xin trích dẫn một số tài
liệu về các nguồn gốc ấy, rút từ Tứ Phần Giới Bổn
Duyên Khởi sự nghĩa của ngài Quảng Mạc đời nhà Minh (thế
kỷ thứ 14).
1.
Giới tiểu vọng ngữ:
Do
tôn giả Tượng lực phạm đầu tiên. Ông có tài biện luận
mỗi khi thua thì nói ngược lại, chối phăng những điều
đã nói. Các Tỳ kheo bất mãn bạch Phật. Phật chế giới
này.
2.
Mắng nhiếc (hủy tỷ ngữ):
Do
Lục quần Tỳ kheo phạm. Phật kể truyện thú vật cũng không
ưa nói lời mếch lòng nó, để khuyến cáo các Tỳ kheo.
3.
Lưỡng thiệt:
Lục
quần Tỳ kheo phạm, chuyên môn gây xáo trộn trong chúng bằng
những lời thất thiệt. Phật kể chuyện sư tử và cọm mất
tình thân thiện do sự đâm thọc của anh chồn, để khuyên
răn các Tỳ kheo và chế giới.
4.
Ngủ đêm cùng nhà với nữ:
Tôn
giả A na luật hôm lỡ đường, ghé vào nhà một dâm nữ tá
túc. Gặp lúc nguy hiến tôn giả phải vận thần thông bay
lên hư không để thoát. Trở về, tôn giả thuật lại, Đức
Thế Tôn nhân đấy chế giới để bảo vệ danh dự cho tăng
đoàn.
5.
Ngủ quá 3 đêm với người chưa thọ cụ:
Lục
quần tỳ kheo ngủ thiếu uy nghi, để cư sĩ trông thấy, chê
bai. Các Tỳ kheo bạch Phật, Phật chế giới cấm ngủ chung
phòng với cư sĩ. Một hôm, trên đường du hóa của Ngài,
sa di La hầu la phải đứng trong cầu vệ sinh suốt đêm, vì
không đại đức nào dám chứa người chưa thọ cụ túc, sau
khi Phật chế giới. Phật bèn dẫn vào cho ở với Ngài một
đêm, và nhóm tăng quở trách không có lòng từ ái đối với
trẻ nhỏ. Rồi Ngài chế lại giới này, cho phép người chưa
thọ cụ túc được ở chung với Tỳ kheo dưới 3 đêm, khi
gặp trường hợp đặc biệt.
6.
Tụng giới với người chưa thọ cụ túc:
Lục
quần Tỳ kheo bắt chước kiểu tụng đọc của bà la môn,
làm cho những vị ưa thanh tịnh trầm tư phải khó chịu. Phật
chế giới cấm.
7.
Nói tội thô ác của Tỳ kheo cho người chưa thọ cụ túc:
(khi chúng tăng chưa yết ma cho nói).
Lúc
Phật ở Linh thứu, có vị Tỳ kheo đang hành sám, phải đi
sau chót. Lục quần chỉ cho cư sĩ xem và kể vị ấy phạm
tội như vậy như kia, phải làm như vậy như kia. Tỳ kheo có
tội lấy làm sỉ nhục, hiền trách Lục quần. Phật chế
giới. Về sau, khi được tăng sai đi nói tội phá tăng của
Đề bà đạt đa cho cư sĩ biết, tôn giả Xá lợi phất sợ
phạm giới. Phật thêm "trừ khi tăng sai".
8.
Thật đắc đạo, cho người chưa thọ cụ túc biết:
Một
Tỳ kheo ở Bà lý nói cho sa di và cư sĩ biết những gì mình
đã chứng đắc vượt con người. Phật biết được, chế
giới cấm nói.
9.
Nói pháp cho nữ nhân quá năm, sáu lời:
Tôn
giả Ca lưu đà di kề tai cô dâu mà nói trước mặt bà mẹ
chồng, bà hỏi: "Ông ta nói cái gì thế?".
Cô
dâu bảo, "Nói pháp".
- "Nói
pháp thì sao không nói lớn cho ta nghe với, lại đi nói thầm?"
Câu
chuyện tới tai Phật, Ngài bèn chế giới cấm nói pháp cho
phụ nữ. Phụ nữ khiếu nại, Ngài bèn cho nói (pháp) nhưng
không được quá 5, 6 câu nếu không có nam nhân biết điều
(có đủ trí khôn để phân biệt phải trái, thanh thô) cùng
ở đấy. Nếu có, thì cho nói nhiều hơn cũng được.
10.
Đào đất:
Lục
quần Tỳ kheo tu bổ nhà giảng, đào đất, bị cư sĩ chê
vì làm chết côn trùng. Phật bèn chế giới. (Các giáo phái
ở Ấn độ trước Phật giáo cũng kiêng sát sinh còn quá khích
hơn đạo Phật, như Kỳ na giáo. Giới cấm này một phần
vì từ bi, nhưng phần lớn hơn là để tránh cơ hiềm của
ngoại đạo).
11.
Hoại quỷ thần thôn:
Một
Tỳ kheo ở đồng trống tự phá cây. Tất cả cây đều có
quỷ thần và sinh vật ở, nếu phá thì các sinh vật ấy không
có chỗ nương. Do thần cây khiếu nại, Phật chế giới.
12.
Dư ngữ não xuất:
(Chọc
tức người với những lời lẽ ngang bướng, không đúng vào
đề tài, đánh trống lấp). Khởi từ Xiển đà Tỳ kheo có
tội, bị cử, bèn hỏi vặn lại để xúc não.
13.
Hiềm mạ tri sự: tự địa Tỳ kheo chê tri sự tăng là tôn
giả Đáp-bà-ma-la lo về chỗ nằm, mền gối cho chúng, nói
sau lưng tôn giả là "còn có thương, giận, sợ, si" (hiềm:
chê sau lưng). Các Tỳ kheo trách cứ, Từ địa nói: "Tôi không
chê, chỉ mắng thôi" (mạ: mắng, người kia nghe được). Đức
Phật chế giới cấm cả hai lối nói.
14.
Trải đồ nằm chúng tăng ở chỗ trống:
Nhóm
17 Tỳ kheo nhỏ tuổi, được thâu vào tăng đoàn một cách
sơ suất, đ4 để bừa bãi đồ nằm của tăng chúng ngoài
trời, khiến chim phá chuộc gặm. Phật nhân đấy chế giới.
("Thập thất quần Tỳ kheo" là nhóm 17 vị, lớn nhất 17 tuổi,
nhỏ nhất 12 tuổi, gốc ở La duyệt thành, chơi với nhau từ
bé được cha mẹ cưng chiều. Upàli đầu đàn, vốn là con
một, cha mẹ mong cho cậu làm một nghề gì không nhọc mệt
được sung sướng. Thấy tăng đoàn nhờ nấp bóng Phật được
trọng nể, nên cả hai ông bà đều muốn cho con xuất gia.
Cậu bé cũng thích ý ấy, rồi cả bọn bạn bè của cậu
thấy cậu xuất gia cũng đi theo luôn. Các Tỳ kheo thâu nạp
cho cả 17 trẻ làm Tỳ kheo ngay. Nửa đêm cả bọn khóc la
kêu đói, đòi ăn đủ thứ. Từ am thất, Đức Phật nghe biết,
quở trách ra lệnh cấm từ nay không được nhận kẻ dưới
20 tuổi vào làm Tỳ kheo. Vì làm sao bọn nhỏ chịu đựng
được đói rét, ăn ngày một bữa, sức nắng mặt trời,
các loài bò sát, các lời mạ lỵ phỉ báng trong lúc đi xin
ăn? Nhưng đối với 17 vị đã lỡ nhận thì đành phải chịu,
cũng như đối với Lục quần. Tăng đoàn thường gặp rắc
rối do hai "băng" này gây ra).
15.
Trải đồ nằm chúng tăng ở chỗ vắng:
Do
một khách tăng đi vân thủy ghé Kỳ viên xin trọ, sáng ra
đi không cáo từ, cũng không xếp trả đồ nằm, làm cho mối
mọt ăn rách nát sau một thời gian bị bỏ quên. Chính Phật
tìm thấy trong lúc ngài tuần hành qua các trú xứ của chư
tăng khi họ đi phó trai, một mình Ngài ở nhà. Khi chư tăng
trở về, ngào nhóm tăng chế ra giới này.
16.
Trải đồ nằm lấn chỗ của người đến trước:
Lục
quần Tỳ kheo cùng với đám 17 thiếu niên Tỳ kheo đi đường
xa, đến một chùa xin trọ. Lục quần để cho các Tỳ kheo
nhỏ đi trước xin chỗ xong, đến sau, cậy thế lớn cưỡng
bức, trải đồ nằm ra choán chỗ. Các Tỳ kheo khác trông
thấy, chê trách, bạch Phật.
17.
Đuổi người khác ra khỏi phòng:
Cấm
đuổi người khác ra khỏi phòng khi sân giận, không ưa. Cũng
một lần khác, trên đường du hành 17 Tỳ kheo nhỏ đến một
nơi xin được chỗ tốt, vừa trải đồ ra nằm, thì Lục
quần đến sau đuổi ra dành chỗ. 17 Tỳ kheo nhỏ khóc la làm
kẻ bàng quan cảm động, chê cười.
18.
Ngồi ghế giường sút chân:
Tài
Kỳ viên, các Tỳ kheo ở trên gác, ngồi giường sút chân,
chưa an chỗ thì chân giường bị sút, và bởi ván gác mục,
rớt trúng các Tỳ kheo ở dưới, gây thương tích.
19.
Dùng nước có trùng tưới trên bùn, cỏ:
Xiển
đà Tỳ kheo làm nhà ở, lấy nước có trùng hòa với bùn
để trét vách, bị cư sĩ chê. (Xem giới thứ 10 ở trên).
20.
Lợp nhà quá hạn:
Cấm
chồng chất quá nhiều đồ lợp mái. Xiển đà làm chỗ trú,
còn thừa nhiều tranh, tự nhủ, tranh này khó kiếm, bèn chồng
nhiều lớp lên mái, làm nhà sụp vì không chịu nổi sức
nặng. Cư sĩ chê cười, đến tai Phật.
21.
Giáo thọ ni:
Đại
ái đạo xin Phật cho Tỳ kheo đến chùa ni giáo thọ cho ni.
Phật sai chư thượng tọa thứ đệ sai tăng giáo thọ ni. Lục
quần Tỳ kheo không được chư tăng sai, cũng tự tiện đến
chùa ni để giáo giới, chỉ nói toàn chuyện thế tục. Bà
dì lại đến kiện Phật, Phật ra lệnh, cấm đi giáo thọ
cho ni chúng, trừ tăng sai.
22.
Nói pháp đến tối mịt:
Cấm
giáo giới ni sau khi mặt trời lặn. Tôn giả Nanda được tăng
sai giáo thọ ni, dạy tới tối mới xong. Khi ni trở về chùa
trong thành Xá vệ, thì cổng thành đã đóng, phải nghỉ đêm
ở ngoài thành. Sáng sớm, ni trở về, bị cư sĩ đàm tiếu.
Phật nhân đây chế giới.
23.
Nhạo báng người giáo thọ ni:
Lục
quần Tỳ kheo không được tăng sai giáo thọ ni, bè hủy báng
những vị được tăng sai rằng: những vị này vì muốn ăn
ngon nên thuyết pháp. Phật chế giới cấm nói vậy.
24.
Tặng y cho ni:
Một
Tỳ kheo trong chùa Kỳ viên khi vào thành khất thực, ni chúng
thấy uy nghi khả kính nên thường cúng dường. Tỳ kheo không
nhận. Một hôm được chúng chia y, vị Tỳ kheo bèn nghĩ, đem
y này tặng cho ni cô thường cho mình vật thực, chắc cô ấy
sẽ từ chối và như vậy từ nay ta khỏi bị quấy nhiễu.
Nào nhè cô kia nhận liền, Tỳ kheo đi rêu rao hành vi kém tế
nhị của cô kia. Câu chuyện đến Phật, Phật chế giới.
25.
May y cho ni:
Ngoài
những tài năng khác, tôn giả Ca lưu đà di còn là thợ may.
Ông may giùm cho một ni cô thứ y phục giống phụ nữ thế
gian. Mặc vào, ni bị cư sĩ chế nhạo. Bà gì tới kiện Phật,
phật chế giới cấm may y cho ni.
26.
Ngồi với ni:
Ca
lưu đà di ngồi nói chuyện với Thâu la nan đà trước cổng,
mọi người trông thấy, chê bai.
27.
Hẹn ni cùng đi:
Lục
quần Tỳ kheo cùng du hành với ni, cư sĩ chê. Phật chế giới
cấm. Về sau, ni đi riêng bị giặc cướp, Phật chế lại
giới này, là trừ lúc nguy hiểm.
28.
Cùng ni ngồi một thuyền:
Lục
quần Tỳ kheo cùng ngồi thuyền với ni để sang sông bị chê
cười nên Phật cấm. Về sau, khi sông Hằng bị lụt, trời
tối, các Tỳ kheo qua sông trước, ni ở lại bị giặc bắt.
Phật chế giới lại, trừ trường hợp đặc biệt, và trừ
khi thuyền lớn.
29.
Ăn đồ cúng dường do ni ca tụng mình:
Ở
Xá vệ, một cư sĩ mời Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên thọ
thực, đang sửa soạn, thì ni Thâu la nan đà đến, hỏi cúng
dường ai đó, đáp hai tôn giả Xá Lợi Phất, và Mục Kiền
Liên. Ni bảo: "Sao lại mời mấy người hạ tiện đó, nếu
nói cho tôi biết tôi sẽ mời dùm bậc đại long tượng".
Cư
sĩ hỏi: "Cô muốn nói ai vậy?"
Ni
nói: "Đề bà đạt đa".
Vừa
lúc ấy hai tôn giả đến, ni bèn đổi giọng: "Đây, bậc
đại long tượng đã đến".
Cư
sĩ nói: "Tại sao cô vừa nói "hạ tiện", bây giờ lại nói
"long tượng"? Từ nay đừng tới nhà tôi nữa".
Xá
Lợi Phất về bạch Phật, Phật chế giới cấmăn một bữa
do ni ca tụng mình mà được.
Sau
đó, ở thành La duyệt, một cư sĩ muốn mời tôn giả Lê
sư đạt. Một ni cô biết chuyện này, khi tôn giả đến thành,
cô bèn tới nhà cư sĩ để báo tin. Cư sĩ thiết trai xong đi
mời tôn giả đến thọ, tôn giả hỏi, sao biết tôi đến
thành này, cư sĩ đáp, nhờ ni cô cho hay. Tôn giả cẩn thận
sợ phạm giới nên không ăn. Phật bèn chế lại giới, thêm
câu "Trừ trường hợp thí chủ đã có ý muốn mời trước".
30.
Hẹn cùng nữ nhân đi chung:
Một
cô gái người Tỳ xá li làm dâu người ở Xá vệ, gây lộn
với mẹ chồng nên bỏ về lại nhà cha mẹ ở Tỳ xá li đúng
vào lúc tôn giả A na luật (Anurudha) cũng đi từ Xá vệ đến
Tỳ xá li. Cô gái xin quá giang theo Ngài, tôn giả bằng lòng.
Dè đâu nửa đường, chồng cô ta đuổi kịp trông thấy tôn
giả, tưởng ông rủ rê vợ mình, nên đánh tôn giả gần
chết. Tôn giả nhẫn thọ, ngồi kiết già bên đường, nhập
"hỏa quang tam muội" người kia thấy sám hối. Tôn giả tha
thứ bỏ đi, trợ về Kỳ viên thuật lại chuyện, Phật bèn
chế giới. (so sánh với số 4 ở trên).
31.
Ăn quá một bữa ăn:
Ở
nước Câu tát la, có một cư sĩ nguyện cho ở lại một đêm,
và cúng dường một bữa ăn cho các tu sĩ khi lỡ đường ngang
đấy, vì ở đấy không có tăng xá. Lục quần Tỳ kheo đến
thấy được tiếp đãi nồng hậu nên cố ở luôn, không chịu
đi. Cư sĩ chê cười, các Tỳ kheo bạch Phật chế giới cấm
quá một bữa. Sau, tôn giả Xá Lợi Phất đi qua đấy, nhuốm
bệnh mà cũng không dám ở lại vì sợ phạm giới, do đó
bệnh càng tăng. Phật bèn sửa lại, là trừ trường hợp
bị bệnh.
32.
Nhận ăn tại nhiều nhà (1 lần):
Phật
cùng 1250 Tỳ kheo du hành đến nước A na tần lâu có một
bà la môn chở nhiều xe thực phẩm để cúng dường, khi nào
chư tăng không xin được gì, vì họ đang đi qua một vùng
đói kém. Khi đoàn lữ hành đến biên giới nước A na tần
lâu, thì dân chúng ồ ạt thiết cúng. Bà la môn Sa nâu không
biết làm gì với thực phẩm còn lại, xin đổ giữa đường
cho Đức Phật và tăng chúng dẫm lên để chứng cho lòng thành
của ông, trước khi ông từ giã (vì sự đi theo không cần
nữa). Phật bảo ông nấu tất cả đồ khô còn lại ấy,
thành một thứ cháo thập cẩm, cúng dường chư tăng dùng
sáng trc khi đi khất thực. Từ đấy, dân mộ đạo khi được
biết Phật cho phép ăn cháo trước khi đi khất thực, bèn
chia nhau nấu các thứ cháo nêm ngon lành để cúng. Một vị
đại thần cũng thi đua cầu phước, làm một bữa ăn thịnh
soạn để cúng tăng. Vì chư Tỳ kheo trước đã dùng cháo,
nên lúc đến phó trai tại nhà vị đại thần, không thể
nào ăn thêm được. Gia chủ rất phiền não vì cớ ấy, bạch
Phật. Phật chế giới cấm ăn trước khi đến nhà cư sĩ
thọ thực. Về sau có người bị bệnh đến nhà một cư sĩ
thọ trai nhưng không ăn được một thứ gì, mà cũng không
dám nhận thực phẩm tại nhà khác sau đó. lại có khi một
nhà cho ăn không no. Rồi lại có khi, đã nhận lời mời ăn
tại một nhà, sau đó lại có nhà vừa cúng thực phẩm, vừa
cúng y. Nếu giữ lời hứa ăn tại nhà đầu tiên thì không
có y. Phật bèn chế thêm là trừ những trường hợp đặc
biệt ấy.
33.
Biệt chúng thực:
Cấm
vắng mặt trong các bữa ăn đông chúng. Để bà đạt đa là
kẻ đầu tiên phạm điều này. Sau khi mưu hại Phật, tiếng
ác đồn khắp. Lợi dưỡng không còn, Đề bà dùng dư đảng
đi khất thực từng nhà, gọi là "biệt chúng thực". Việc
khất thực riêng nhóm như vậy trở thành một dấu hiệu muốn
ly khai với đại chúng (Đoàn thể), nên Phật cấm ăn biệt
chúng, nghĩa là tụ họp nhau 4 người trở lên mà ăn. Về
sau có người bị bệnh, được mời ăn riêng, không dám. Có
thí chủ thiết trai và dâng y sau mùa an cư, cũng không dám.
Có người đi đường, bạn đồng hành mời ăn, cũng không
dám, để đi một mình đằng sau bị cướp... Phật nhân đây
chế thêm, trừ trường hợp đặc biệt như vậy, đi đường,
đi phó trai... thì có thể ăn biệt chúng.
34.
Nhận ăn quá hạn:
Một
cô gái ở Xá vệ lấy chồng xa về nhà thăm cha mẹ, đã khuyên
mẹ quy y tam bảo, cúng dường chư tăng. Cô mải nấu ăn cúng
dường, khi người chồng đến tìm, đợi mãi, nổi sân, bỏ
đi cưới vợ khác. Gia đình cô vì thế mà phải tan nát. Một
thương khách mộ đạo vì ham thí thực cho chư tăng, bị bỏ
lại sau đoàn, bị giặc cướp. Phật nhân đấy chế giới,
cấm lạm dụng hảo tâm của thí chủ (cấm ăn bữa ăn của
cô dâu về nhà cha mẹ và ăn của người đi đường).
35.
Ăn thêm trái phép:
Phật
ở Kỳ viên, ca ngợi phương pháp "Nhất tọa thực" (chỉ ăn
ngày một lần). Chư Tỳ kheo tuân theo, chỉ ăn một lần. Sau
đó nhiều vị gầy ốm xanh xao, Phật hỏi A nan, tôn giả đáp
vì Phật dạy chỉ nên ăn một lần, những người ấy hoặc
ăn không đủ, hoặc gặp món ăn không được, mà vẫn không
dám ăn lần khác. Phật cho làm phép Dư thực mà ăn thêm. Pháp
này nghĩa là, một vị ăn đã no, nhận đồ ăn từ thí chủ,
hãy ăn một ít, rồi bảo vị kia cứ tùy tiện mà dùng.
36.
Mời ăn thêm trái phép:
Tỳ-kheo
nào, biết Tỳ-kheo kia ăn đã đủ, hoặc khi thọ thỉnh, không
làm phép dư thực mà ân cần mời vị kia ăn, nói rằng: "Trưởng
lão, hãy dùng món ăn này". Chỉ với mục đích này chứ không
có gì khác, tức là muốn người khác phạm giới, phạm Ba-dật-đề.
37.
Ăn phi thời:
Nhằm
tiết Trung thu có hội chợ, hai Tỳ kheo Nan đà và Bạt nan
đà cố đi khất thực thật muộn, để tiện dịp xem hội,
khi về chùa thì đã tối mịt. Các Tỳ kheo tra hỏi biệt được
liền bạch Phật. Lại thêm tôn giả Ca lưu đà di chờ trời
tối mới khi khất thực, vào một nhà nọ phụ nữ có thai
đi ra tưởng là con quỷ, sợ quá, té ngửa mà truỵ thai. Phật
bèn cấm đi khất thực phi thời. Các Tỳ kheo phải đi xin
sáng sớm, và ăn trước ngọ.
38.
Ăn đồ cách đêm:
Tôn
giả Ca na ở núi Linh Thứu, một hôm nảy ra ý kiến, tội
gì đi khất thực hàng ngày cho nhọc xác. Đồ ăn còn hôm
nay, để tới mới mốt ăn. Chư Tỳ kheo thấy vắng tôn giả
vào các bữa tiểu thực, hỏi, biết lý do, bèn bạch Phật
chế giới cấm để dành.
39.
Cấm ăn đồ không ai mời:
Một
Tỳ kheo ở Kỳ viên nảy ra ý, nay ta hãy thực hành hạnh mặc
y phấn tảo và xin ăn để sống. Bèn hành hạnh ấy. Khi đi
trông thấy các gia chủ cúng thí thực cho người quá cố bên
bờ sông hoặc dưới bức thành, Tỳ kheo bèn lấy đồ thí
thực để ăn, khỏi đi xin. Các gia chủ chê bai, Tỳ kheo gì
mà người ta không cho, lại cứ lấy ăn. Phật nghe, bèn chế
giới Tỳ kheo không được bỏ vào miệng bất cứ cái gì
không do người ta cúng. Sau đó có người sợ phạm giới,
lại còn không dám uống nước và xỉa răng. Phật lại thêm:
trừ tăm và nước thì được bỏ vào miệng.
40.
Xin ăn đồ ngon:
Tôn
giả Bạt nan đà đến một thương gia thí chủ, xin ăn đồ
ngon. Cư sĩ hỏi: "Đại đức có bệnh gì không".
Đáp:
"Không".
Cư
sĩ bảo: "Không bệnh mà đòi ăn ngon cái gì? Chúng tôi đây
làm việc cực nhọc, không có đồ ngon mà ăn, sao Tỳ kheo
lại đòi ăn ngon?"
Các
Tỳ kheo bạch Phật, Phật chế giới.
41.Cho
ngoại đạo ăn:
Phật
và đại chúng đi từ Câu tát la đến Xá vệ, giữa đường,
cư sĩ cũng rất nhiều bánh đa (bánh tráng). Phật bảo A nan
chia cho chúng tăng, còn thừa thì cho hành khất (thường đi
từng đoàn theo sau đoàn khất sĩ, cốt chờ những dịp như
vậy). Trong đám hành khất có một cô gái ngoại đạo lõa
thể, dung mạo dễ coi, chìa tay ra xin bánh. Tôn giả A nan vô
tình phát cho cô ta 1 cái bánh kép (2 cái dính liền). Những
kẻ bàng quan bảo nhau, cô gái đã lọt mắt xanh của tôn giả
rồi đó. Tôn giả nghe, lấy làm bực. Các Tỳ kheo bạch Phật,
Phật chế giới cấm cho ngoại đạo ăn. Sau ngoại đạo khiếu
nại, Phật thấy có lý, nên chế lại, rằng "Cấm cho ngoại
đạo ăn, bằng cách cho tận tay".
42.
Ăn rồi mới vào chỗ mới:
Không
được làm cho người khác hụt nhận sự cúng dường bằng
cách để họ đợi hoặc bằng cách khác.
Một
thí chủ ở Xá vệ mời tôn giả Bạt nan đà cùng một số
Tỳ kheo đến nhà thọ trai. Chư tăng đều tề tựu sốt ruột
đợi nhân vật chính thế mà tôn giả Bạt nan đà còn ở
mãi nơi nao? Trời gần đứng bóng, chư tăng đành phải yêu
cầu khổ chủ cho ăn trước, sợ quá giờ ngọ. Đương sự
lúc ấy đang thọ trai ở nhà khác.
Lần
khác, người ta cúng dường trái cây cho tôn giả lúc ấy lại
đang vắng mặt nên chư Tăng không dám chia. Đương sự lại
về trễ, khiến chúng tăng bị phạm giới ăn phi thời và
tích trữ đồ ăn.
43.
Ngồi nán lại ở nhà ăn:
Ăn
xong không được nấn ná ở nơi có đàn bà đẹp. Trường
hợp tôn giả Ca lưu đà di cứ dùng dằng ở nhà người bạn
gái cũ, mặc chồng cô ta đuổi khéo nhiều lần.
44.
Chỗ vắng cùng nữ giới:
Tôn
giả trở lại ngồi nói chuyện với cô ta sau cánh cửa. Phật
chế giới.
45.
Ngồi với nữ chỗ trống:
Lần
sau tôn giả ngồi ngay ngưỡng cửa nói chuyện với người
đẹp. Phật thêm điều này.
46.
Đuổi bạn ra khỏi làng:
Không
được bỏ đói một Tỳ kheo khác để trả thù.
Tôn
giả Bạt nan đà rủ một Tỳ kheo mà ông ta thù hận đi theo
mình đến trưa rồi bỏ rơi vị này, khiến đương sự phải
nhịn đói luôn cho đến sáng mai. Phật chế giới.
47.
Nhận thuốc quá thời gian thí chủ cúng:
Không
được nhận thuốc nhiều hơn số cần dùng trong 4 tháng. Thí
chủ Ma ha nam dòng họ Thích ở Ca tỳ la vệ xin cúng dường
thuốc cần dùng cho chư Tăng. Rủi thay khi Lục quần Tỳ kheo
đến thì kho thuốc đã cạn. Lục quần Tỳ kheo không tin và
chê Thích Ma ha nam là nói láo. Bất mãn, vị khổ chủ này
ngưng cúng dường Tăng. Đức Phật quở trách Lục quần Tỳ
kheo và chế giới chỉ cho thọ thuốc trong bốn tháng. Về
sau, nhiều thí chủ khác cúng dường dài hạn đủ loại thuốc
cho chư tăng, có vị không dám nhận quá giới hạn bốn tháng,
Phật chế lại giới, thêm: "Trừ khi thí chủ cúng dài hạn".
48.
Xem quân đội:
Cấm
tham dự những buổi duyệt binh, kiến người ta phải đuổi
khéo (trường hợp Lục quần Tỳ kheo). Vua Ba Tư Nặc phải
nhờ đem đường đến cúng dường Thế Tôn, kèm theo lời
tán thán để được rảnh nợ với Lục quần.
49.
Ở lại trong quân trại quá ba đêm:
Không
được ở lại trong quân đội quá 2 hoặc 3 ngày. Lại cũng
là trường hợp Lục quần.
50.
Xem quân tập trận:
Không
được quá chú ý đến những cuộc tập trận. Cũng lại là
Lục quần Tỳ kheo. Một trong những vị này nghịch ngợm bị
một mũi tên vào người.
51.
Uống rượu:
Không
được uống bất cứ thứ nước nào có men.
Tôn
giả Sa gia đà xin ngủ nhờ nhà một bà la môn. Ông này chỉ
còn căn phòng thường bị một con rồng quấy phá. Tôn giả
nói không sao.
Nửa
đêm, con rồng xuất hiện, nổi giận thổi tắt hết đèn.
Tôn giả lúc ấy đang nhập định bèn thổi mạnh hơn. Rồng
hết hơi chịu thua. Tôn giả thâu kẻ chiến bại vào bình
bát đưa cho chủ nhà.
Vua
Kausambi hay tin, dặn người bà la môn mời tôn giả đến thọ
trai tại hoàng cung khi vị này trở lại. Nhà vua cho thiết
những món ăn và ngay cả rượu - cái mà chư tăng chưa bao
giờ khất thực được. Kết quả là tôn giả chập choạng
trở về Tinh xá nôn oẹ tùm lum, chim và quạ tranh nhau mổ
những đồ thổ ra đó, chúng làm ồn đến nỗi Đức Phật
phải quở "Đồ ngu! Thắng con rồng lớn mà thua con rắng nhỏ!"
và chế giới cấm nếm rượu.
52.
Đùa giỡn trong nước:
Vua
Ba tư nặc và hoàng hậu Mallikà đứng trên lầu cao nhìn xuống
sông Aciravati thấy Thập thất quần Tỳ kheo nhào lộn đùa
giỡn. Vốn là Phật tử thuần thành, luôn luôn thấy khía
cạnh tốt, hai vị vương giả cười khoan hồng đám Tỳ kheo
nhi đồng chưa được hoàn toàn vào khuôn phép. Nhưng sau đó,
Hoàng hậu phái một Bà la môn đến tán dương Phật và cúng
dường đường rồi thuật lại chuyện trên cho Phật nghe.
Phật chế giới.
53.
Thọc lét người khác:
Một
vị trong Lục quần Tỳ kheo thọc lét một trong nhóm Thập
thất quần Tỳ kheo làm chết người. Do đó Phật chế giới.
54.
Không nghe can:
Tỳ
kheo Đơn đà muốn phá giới, các Tỳ kheo can không nghe, bạch
Phật.
55.
Nhát Tỳ kheo khác:
Không
được làm người khác sợ hãi.
Tôn
giả Na ca la muốn Đức Phật bỏ những cuộc đi kinh hành
ban đêm nên hóa trang làm ma để dọa ngài. Phật chế giới.
56.
Nửa tháng tắm:
Trừ
trường hợp đặc biệt, 15 ngày mới được tắm một lần.
Vua
xứ Ma kiệt đà cho phép chư tăng tắm trong dòng suối ấm
dành riêng cho hoàng gia. Chư tăng lạm dụng phép đặc biệt
này, nhất là Lục quần Tỳ kheo còn ra suối cả ban đêm,
khiến nhà vua và các cung phi không còn biết tắm vào lúc nào.
Phật chế giới.
57.
Đốt lửa chỗ trống:
Cấm
nhóm lửa ở bất cứ chỗ nào, trừ trường hợp đặc biệt.
Lục
quần Tỳ kheo trốn ra ngoài tinh xá, gặp trời đông lạnh
nhóm lửa dưới gốc cây rỗng. Khó từ trong cây tỏa ra, làm
một con rắn độc đang trú ngụ ở đó bò ra. Hoảng sợ,
Lục quần Tỳ kheo bỏ chạy, để lửa lan đến tinh xá cháy
tiêu giảng đường. Cư sĩ bàn tán nhà cháy làm chết côn
trùng. Phật chế giới.
58.
Giấu đồ người khác:
Không
được tinh nghịch giấu đồ vật của người khác. Trường
hợp Lục quần Tỳ kheo giấu y của Thập thất quần làm họ
không đi dự trai tăng được.
59.
Chân thật tịnh thí:
Không
được lén lấy lại y đã cho người khác. Cũng là trường
hợp Lục quần chơi xấu với Thập thất quần.
60.
Mặc y mới:
Chư
tăng phải mặc áo nhuộm, không được mặc áo dành cho cư
sĩ, gọi là bạch y. Phật cho nhuộm ba màu hòa lại: xanh lá
cây, đen, vàng nghệ, vừa dễ nhuộm vừa ít tốn. Các nhà
luận sư Trung Hoa nói: lấy đồng nhuộm xanh, lấy bùn nhuộm
đen, lấy tinh chất của lá cây rubia cordifolia mà nhuộm vàng.
Những thứ thuốc này dễ nhuộm nên mỗi lần giặt đều
có thể nhuộm lại.
61.
Hại mạng súc sinh:
Không
được uống nước có trùng mà phải lọc trước. Việc lọc
nước bằng đãy lọc đã được thi hành trước khi Phật
chế giới. Chư tăng vì lòng từ đối với chúng sinh bé nhỏ
phải luôn luôn mang đãy lọc theo mình.
63.
Làm người ta nghi và buồn:
Không
được làm các bạn đồng tu lo lắng, nghi ngờ.
Thập
thất quần hỏi Lục quần Tỳ kheo về những pháp để đắc
bốn thiền và bốn quả. Lục quần bảo: "Hỏi như thế là
phạm tội đại vọng ngữ". Nghi ngờ, Thập thất quần đến
hỏi các vị trưởng lão, chư vị này đáp: "Không phạm" và
bạch Phật chế giới.
64.
Che giấu tội thô của người khác:
không
được che giấu tội thô của người khác. Tôn giả Bạt nan
đà chơi thân với một Tỳ kheo và tâm sự cho vị này nghe
vài chuyện bậy của mình, không quên dặn người bạn cố
tri đừng kể lại cho người thứ ba. Về sau, hai vị giận
nhau, người bạn đem kể hết cho mọi người. Phật chế giới.
65.
Trao giới cho người chưa đủ tuổi:
Không
được trao giới cho sa di dưới 20 tuổi thọ cụ túc giới.
Đây là trường hợp nổi tiếng của Thập thất quần một
nhóm trẻ con từ 12 đến 17 tuổi. Đức Phật vừa cho phép
tăng đoàn nhận thêm thì các vị trưởng lão vội cho 17 vị
này thọ giới. Các chuyện phiền phức xảy ra ngay trong đêm
sau. Phật quở và chế giới, nhưng không nỡ đuổi các vị
tân Tỳ kheo này.
66.
Gợi lại việc tranh cãi:
Không
được nhắc lại chuyệt bất hòa đã qua. Lục quần Tỳ kheo
phạm.
67.
Đi với giặc:
Không
được tháp tùng đoàn lữ hành bất chánh. Chư tăng ở Xá
vệ, trên đường đến Vaisali, nhập bọn với một băng cướp.
Rủi tahy, cả đoãn lữ hành bị bắt. Chư tăng bị ghép tội
đồng lõa. Bọn cướp bị xử tử. còn chư tăng được vau
Ba Tư Nặc ân xá. Phật chế giới.
68.
Có ác kiến không nghe can:
Tỳ
kheo A lê tra ở tinh xá Kỳ viên có ác kiến rằng: dâm dục
không trở ngại đạo. Các vị khác can ba lần mà ông vẫn
không bỏ. Phật chế giới.
69.
Theo Tỳ kheo bị cử tội:
A lê
tra đã bị khai trừ mà Lục quần vẫn chấp chứa ông ta.
Phật chế giới.
70.
Theo Sa di bị đuổi:
Không
được nhận, giữ một sa di đã bị đuổi. Ở tinh xá Jetavana,
hai sa di của Bạt nan đà phạm giới bị đuổi. Lục quần
chứa chấp. Phật chế giới.
71.
Cự khuyến học giới:
Không
được bất tuân giới cấm mà biện hộ là "tôi không biết
trước" như Tỳ kheo Xiển đà.
72.
Chê luật:
Không
được coi thường luật, chỉ trích giới bổn. Lục quần
tuyên bố rằng: vào thời tụng giới mỗi tháng, chỉ nên
tụng bốn giới trọng và 13 tăng tàn, những giới còn lại
chỉ tổ làm rối đầu và làm những kẻ cả lo thêm hoang
mang. Phật quở và chế giới.
73.
Sợ bị cử tội, nói chận:
Không
biết giới thì tội nặng gấp hai. Một trong số Lục quần
cãi mình không biết việt đã làm thuộc một điều cấm trong
giới bổn. Đức Phật tuyên bố "vừa phạm tội, vừa không
biết tội là phạt gấp đôi".
74.
Dự yết ma rồi hối:
Không
được vu khống vị yết ma là thiên vị hoặc bất công.
Tôn
giả Đạp bà ma la hết lòng xả thân lo cho chúng, không hề
nghĩ đến tư lợi. Thấy y tôn giả quá rách nát, đại chúng
vừa được chúng dường một y tốt, đem tặng cho tôn giả
theo đúng luật. Lục quần vốn ghét Đạp bà ma la, vu khống
tăng chúng là thiên vị và đặt đủ điều nói xấu. Phật
biết chuyện chế giới.
75.
Không gởi dục:
Không
được cản trở đại chúng nhóm họp.
Ở
tinh xá Jetavana, chư tăng sửa soạn nhóm chúng. Lục quần Tỳ
kheo bảo nhau: "Thế nào chúng ta cũng bị cử tội, bây giờ
chúng ta đi ra, họ sẽ chẳng làm gì được" Chư tăng thiếu
mặt họ nên buổi nhóm chúng bất thành. Phật chế giới không
họp phải gởi dục.
76.
Gởi dục sau hối:
Không
được ngăn trở chúng tăng thi hành các quyết định.
Vì
sợ bị cử tội, Lục quần đã ngăn cản tăng nhóm họp.
Một hôm, khi đại chúng gọi đến, họ viện cớ đang bận
vá áo không đi được. Đại chúng bắt phải có một vị
trong nhóm đi họp thay cho cả bọn. Chính vị này bị cử tội,
Lục quần nghe vậy bảo rằng quyết định của chúng tăng
là vô hiệu quả vì họ không đồng ý. Phật chế giới.
77.
Nghe lỏm bốn việc tranh chấp:
Không
được kể lại những chuyện cãi nhau giữa tăng chúng.
Lục
quần nhắc lại những chuyện cãi vã, làm tăng thêm các mối
bất hòa.
78.
Nổi sân đánh Tỳ kheo:
Không
được đánh đập, đối xử tàn nhẫn như trường hợp Lục
quần hành hạ Thập thất quần.
79.
Nắm tay dọa Tỳ kheo:
Cũng
nhân trường hợp Lục quần.
80.
Vu khống tàn tệ:
Không
được gây buồn phiền người khác bằng những lời xỉ vả
vu khống. Trường hợp Lục quần đối với nhóm Tỳ kheo Thập
thất quần.
81.
Đột nhập vương cung:
Không
được đột nhập vào cung vua.
Trường
hợp tôn giả Ca lưu đa di đột nhập cung vua Ba tư nặc, lúc
đó đang nghỉ trưa cùng hoàng hậu Mallika. Tình thế xảy ra
rất lúng túng, vì hoàng hậu không kịp sửa y phục cho tề
chỉnh. Tôn giả vội thối lui.
82.
Lượm châu báu:
Không
được nhặt cất tiền bạc, nữ trang, đồ quý giá, trừ
ở trong tinh xá hay trong chỗ nghỉ đêm.
Một
du khách mất túi tiền, chư tăng nhặt được đưa lại cho
ông. Ông vu khống chư tăng lấy bớt một phần. Phật dạy:
"Đáng lẽ cứ để yên túi vàng ở giữa đường. Trừ khi
người ta vào viếng tinh xá làm rớt nữ trang thì được nhặt
giữ giùm, hoặc khi đến ngủ nhà thợ vàng thì được lấy
đồ trang sức đang để bừa bãi cất vào tủ cho người ta".
83.
Vào làng trái thời:
Không
được vào làng không phải lúc.
Tôn
giả Bạt nan đà buổi tối hay vào làng đánh bài với cư
sĩ. Tôn giả được bài mãi, khiến họ tức giận đi tố
cáo. Phật chế giới.
84.
Giường cao quá lượng:
Chân
ghế và giường không được cao quá 8 ngón tay Phật như trường
hợp tôn giả Ca lưu đà di làm. Phật chế giới.
85.
Nằm nệm bông tơ:
Không
được làm nệm ghế và giường bằng lông mịn màng. Trường
hợp Lục quần.
86.
Ống kim bằng xương, răng, sừng:
Không
được có hộp đựng kim chỉ bằng trân bảo, khắc hoặc
mài.
Một
nhà thủ công nghệ ở Vương xá muốn tỏ lòng thành với
tăng đoàn, nên cúng dường tăng chúng những sản phẩm của
mình làm ra. Chư tăng xin quá nhiều, tới nỗi thí chủ bị
sạt nghiệp.
87.
Quá lượng ngọa cụ:
Vải
bao ngọa cụ không được quá kích thước ấn định.
Một
hôm chư tăng đi khất thực. Phật đi kiểm soát tinh xá Kỳ
viên thấy các ngọa cụ bị ướt sũng nước mưa và dính
đầy bùn (trời nóng chư tăng ra ngủ ngoài vườn). Ngài chế
cách xử dụng vải bao và ấn định kích thước.
88.
Vải băng ghẻ quá lượng:
Cho
phép sử dụng miếng vải với kích thước ấn định để
băng bó vết thương, vết phỏng. Chư tăng bị các ung nhọt
mà không băng bó nên rất đau đớn và bẩn thỉu. Phật cho
họ xử dụng loại vải mềm và nhẹ. Phật phải ấn định
kích thước mới được cất giữ.
89.
Áo tắm mưa quá lượng:
Cũng
vì lý do trên, ngài ấn định kích thước áo tắm mưa.
90.
Ba y quá lượng:
Tất
cả chư tăng dù vóc dáng thế nào, đều không được đắp
y dài hơn y của Phật, để tỏ lòng tôn kính. Người ta kể
là tôn giả Sunanda có vóc dáng hơi giống Thế tôn nên hay
bị chư tăng nhìn lầm. Phật bắt tôn giả luôn luôn đắp
y đen, còn Ngài thì đắp y vàng.
--- o0o ---
Nguồn: Thư viện hoa sen
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-2
-2007