Tạng Luật
Vinayapitaka
Phân Tích Giới
Tỷ-Kheo - I
(Bhikkhuvibhanga I)
Tỳ kheo Indacanda Nguyệt Thiên
dịch
2004
---o0o---
V. CHƯƠNG
TĂNG TÀNG (SAṄGHĀDISESA)
[1]
Bạch chư
đại đức, mười ba điều Tăng tàng (Saṅghādisesa) này được đưa ra đọc tụng.
ĐIỀU
TĂNG TÀNG (SAṄGHĀDISESA) THỨ NHẤT:
[301] Lúc
bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi (Xá Vệ), Jetavana (Kỳ
Viên), tu viện của ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc). Vào lúc bấy giờ, đại
đức Seyyasaka không được thỏa thích[2]
thực hành Phạm hạnh. Vì thế, vị ấy trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có
vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân. Đại đức Udāyi[3]
đã nhìn thấy đại đức Seyyasaka ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao,
thân hình nổi đầy gân; sau khi nhìn thấy đã nói với đại đức Seyyasaka
điều này:
- Này đại
đức Seyyasaka, tại sao ngươi lại ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh
xao, thân hình nổi đầy gân? Này đại đức Seyyasaka, chẳng lẽ ngươi không
được thỏa thích thực hành Phạm hạnh?
- Này đại
đức, đúng vậy.
- Này đại
đức Seyyasaka, như thế thì ngươi hãy ăn theo như ý thích, hãy ngủ theo
như ý thích, hãy tắm theo như ý thích. Sau khi đã ăn theo như ý thích,
đã ngủ theo như ý thích, đã tắm theo như ý thích, khi nào sự không thỏa
thích sanh khởi ở ngươi, tham ái quấy rối tâm, khi ấy ngươi hãy dùng bàn
tay gắng sức làm xuất ra tinh dịch.
- Này đại
đức, có được phép làm như thế không?
- Này đại
đức, được chớ. Ta cũng làm như thế.
Sau đó,
đại đức Seyyasaka đã ăn theo như ý thích, đã ngủ theo như ý thích, đã
tắm theo như ý thích. Sau khi đã ăn theo như ý thích, đã ngủ theo như ý
thích, đã tắm theo như ý thích, khi nào sự không thỏa thích sanh khởi,
tham ái quấy rối tâm, khi ấy vị ấy đã dùng bàn tay gắng sức làm xuất ra
tinh dịch. Rồi một thời gian sau, đại đức Seyyasaka đã trở nên có tướng
mạo, căn quyền sung mãn, sắc mặt rạng rỡ, sắc thân an tịnh. Khi ấy, các
vị tỷ-kheo thân hữu của đại đức Seyyasaka đã nói với đại đức Seyyasaka
điều này:
- Này đại
đức Seyyasaka, trước đây đại đức thì ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ
xanh xao, thân hình nổi đầy gân. Bây giờ, trong lúc này, đại đức đây đã
trở nên có tướng mạo, căn quyền sung mãn, sắc mặt rạng rỡ, sắc thân an
tịnh. Này đại đức Seyyasaka, đại đức có sử dụng thuốc men gì không?
- Này các
đại đức, tôi không có sử dụng thuốc men. Tôi chỉ ăn theo như ý thích,
ngủ theo như ý thích, tắm theo như ý thích. Sau khi đã ăn theo như ý
thích, đã ngủ theo như ý thích, đã tắm theo như ý thích, khi nào sự
không thỏa thích sanh khởi ở tôi, tham ái quấy rối tâm, khi ấy tôi dùng
bàn tay gắng sức làm tinh dịch xuất ra.
- Này đại
đức Seyyasaka, có phải đại đức gắng sức làm tinh dịch xuất ra bằng chính
bàn tay đã thọ dụng vật tín thí không?
- Này các
đại đức, đúng vậy.
Các vị
tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai
rằng:
- Vì sao
đại đức Seyyasaka lại dùng bàn tay gắng sức làm tinh dịch xuất ra vậy?
Rồi sau
khi đã khiển trách đại đức Seyyasaka bằng nhiều phương thức, các vị
tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân
lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỷ-kheo lại rồi hỏi đại
đức Seyyasaka rằng:
- Này
Seyyasaka, nghe nói ngươi dùng bàn tay gắng sức làm tinh dịch xuất ra,
có đúng không vậy?
- Bạch Thế
Tôn, đúng vậy.
Đức Phật
Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ
rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng
pháp sa-môn, không được phép, không nên làm! Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi
lại dùng bàn tay gắng sức làm tinh dịch xuất ra? Này kẻ rồ dại, không
phải ta bằng nhiều phương thức đã thuyết giảng pháp để đưa đến sự không
còn tham ái chứ không phải để đưa đến tham ái, đã thuyết giảng pháp để
đưa đến sự không còn ràng buộc chứ không phải để đưa đến sự ràng buộc,
đã thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn chấp thủ chứ không phải để
đưa đến chấp thủ hay sao? Này kẻ rồ dại, thế mà ở đây trong khi ta
thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn tham ái thì ngươi lại nghĩ đến
tham ái, thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn ràng buộc thì ngươi
lại nghĩ đến sự ràng buộc, thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn
chấp thủ thì ngươi lại nghĩ đến sự chấp thủ. Này kẻ rồ dại, không phải
ta bằng nhiều phương thức đã thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn
tham ái trong các ái, để đưa đến sự không còn đam mê trong các nỗi đam
mê, để kềm chế sự khao khát, để trừ diệt sự vướng mắc, để cắt đứt vòng
tái sanh, để diệt tận ái, để ly tham, để đưa đến sự tịch diệt, để đưa
đến Niết Bàn hay sao? Này kẻ rồ dại, không phải ta bằng nhiều phương
thức đã đề cập đến sự từ bỏ các dục, đã đề cập đến sự hiểu rõ về các dục
tưởng, đã đề cập đến sự kềm chế các nỗi khao khát về dục, đã đề cập đến
sự trừ diệt các dục tầm, đã đề cập đến sự lắng dịu của các nỗi thôi thúc
do dục vọng hay sao? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin
cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người
đã có đức tin. Hơn nữa, này kẻ rồ dại, chính sự việc này đem lại sự
không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi (niềm tin)
của một số người đã có đức tin.
Khi ấy,
đức Thế Tôn đã khiển trách đại đức Seyyasaka bằng nhiều phương thức về
sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, sự khó khăn trong việc ăn uống,
...(như trên)... Và này các tỷ-kheo, các ngươi nên phổ biến điều học này
như vầy: “Việc xuất ra tinh do sự cố ý thì tội Tăng tàng
(Saṅghādisesa).”[4]
Và như thế, điều học này đã được đức Thế
Tôn quy định cho các tỷ-kheo.
[302] Vào
lúc bấy giờ, các vị tỷ-kheo sau khi thọ thực các loại vật thực hảo hạng
có niệm bị xao lãng, không tỉnh giác, rồi rơi vào giấc ngủ. Trong khi
các vị ấy có niệm bị xao lãng, không tỉnh giác, rồi rơi vào giấc ngủ,
tinh dịch đã bị xuất ra do chiêm bao. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Điều
học đã được đức Thế Tôn quy định rằng: “Việc xuất ra tinh do sự cố ý thì
tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).” Và tinh dịch của chúng ta đã bị
xuất ra do chiêm bao. Và có sự cố ý trong trường hợp này được tính đến;
phải chăng chúng ta đã phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa)?” Các vị đã
trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các
tỷ-kheo, sự cố ý ấy là có nhưng nó không đáng kể.
Rồi đức
Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các
tỷ-kheo rằng:
- ...(như
trên)... Và này các tỷ-kheo, các ngươi nên phổ biến điều học này như
vầy: “Việc xuất ra tinh dịch có sự cố ý thì tội Tăng tàng
(Saṅghādisesa), ngoại trừ chiêm bao.”
[303]
Sự cố ý: là sự vi phạm trong khi biết, trong khi nhận thức, khi đã
suy nghĩ rồi tiến hành.
Tinh:
có mười loại tinh: xanh, vàng, đỏ, trắng, màu sữa loãng, màu nước, màu
dầu ăn, màu sữa tươi, màu sữa đông, màu bơ lỏng.
Sự xuất
ra: sự làm di chuyển khỏi vị trí được gọi
là “Sự xuất ra.”
Ngoại
trừ chiêm bao: trừ ra trong giấc ngủ.
Tội
Tăng tàng (Saṅghādisesa): Chỉ có hội chúng
ban cho hành phạt parivāsa của tội đó, cho thực hành lại từ đầu,
ban cho hành phạt mānatta, cho giải tội, không phải một số vị,
không phải một cá nhân; vì thế được gọi là “tội Tăng tàng.” Là
việc định danh, tức là việc đặt tên cho cả nhóm tội giống như tội ấy; vì
thế được gọi là “tội Tăng tàng.”
[304] Làm
xuất ra ở sắc pháp thuộc nội phần, làm xuất ra ở sắc pháp thuộc ngoại
phần, làm xuất ra ở sắc pháp thuộc nội phần và ngoại phần, làm xuất ra
trong khi lắc hông ở khoảng không, làm xuất ra khi có sự tác động của
tham ái, làm xuất ra khi có sự tác động của phân, làm xuất ra khi có sự
tác động của nước tiểu, làm xuất ra khi có sự tác động của gió, làm xuất
ra khi có sự tác động của sâu bọ, làm xuất ra vì mục đích sức khoẻ, làm
xuất ra vì mục đích khoái lạc, làm xuất ra vì mục đích dược phẩm, làm
xuất ra vì mục đích bố thí, làm xuất ra vì mục đích phước thiện, làm
xuất ra vì mục đích tế lễ, làm xuất ra vì mục đích cõi trời, làm xuất ra
vì mục đích nòi giống, làm xuất ra vì mục đích nghiên cứu, làm xuất ra
vì mục đích đùa giỡn, làm xuất ra (tinh) xanh, làm xuất ra (tinh) vàng,
làm xuất ra (tinh) đỏ, làm xuất ra (tinh) trắng, làm xuất ra (tinh) màu
sữa loãng, làm xuất ra (tinh) màu nước, làm xuất ra (tinh) màu dầu ăn,
làm xuất ra (tinh) màu sữa tươi, làm xuất ra (tinh) màu sữa đông, làm
xuất ra (tinh) màu bơ lỏng.
[305] Ở
sắc pháp thuộc nội phần: là ở sắc pháp có liên quan đến bản thân.
Ở sắc
pháp thuộc ngoại phần: là ở sắc pháp có
liên quan hoặc không có liên quan đến người khác.
Ở sắc
pháp thuộc nội phần và ngoại phần: là ở cả
hai nơi.
Trong
khi lắc hông ở khoảng không: là
dương vật của vị đang nỗ lực ở khoảng không trở nên thích ứng.
Khi có
sự tác động của tham ái: là dương vật của
vị bị tham ái quấy rối trở nên thích ứng.
Khi có
sự tác động của phân: là dương vật của vị
bị phân quấy rối trở nên thích ứng.
Khi có
sự tác động của nước tiểu: là dương vật
của vị bị nước tiểu quấy rối trở nên thích ứng.
Khi có
sự tác động của gió: là dương vật của vị
bị gió quấy rối trở nên thích ứng.
Khi có
sự tác động của sâu bọ: là dương vật của
vị bị sâu bọ quấy rối trở nên thích ứng.
Vì mục
đích sức khoẻ: là (nghĩ rằng): “Ta sẽ
không có bệnh.”
Vì mục
đích khoái lạc: là (nghĩ rằng): “Ta sẽ
tạo ra cảm giác khoái lạc.”
Vì mục
đích dược phẩm: là (nghĩ rằng): “Sẽ có
được thuốc men.”
Vì mục
đích bố thí: là (nghĩ rằng): “Ta sẽ cho
vật thí.”
Vì mục
đích phước thiện: là (nghĩ rằng): “Sẽ
có được phước báu.”
Vì mục
đích tế lễ: là (nghĩ rằng): “Ta sẽ dâng
lên vật tế lễ.”
Vì mục
đích cõi trời: là (nghĩ rằng): “Ta sẽ
đi đến cõi trời.”
Vì mục
đích nòi giống: là (nghĩ rằng): “Sẽ có
được nòi giống.”
Vì mục
đích nghiên cứu: là (nghĩ rằng): “Ta sẽ
nghiên cứu. Sẽ có được (tinh) xanh, sẽ có được (tinh) vàng, sẽ có
được (tinh) đỏ, sẽ có được (tinh) trắng, ...(như trên)..., sẽ có được
(tinh) màu bơ lỏng.”
Vì mục
đích đùa giỡn: có ý định chơi giỡn.
[306] Ở
sắc pháp thuộc nội phần, vị có ý định rồi gắng sức và làm xuất ra thì
phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Ở sắc pháp
thuộc ngoại phần, vị có ý định rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội
Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Ở sắc pháp
thuộc nội phần và ngoại phần, vị có ý định rồi gắng sức và làm xuất ra
thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Trong khi
lắc hông ở khoảng không, vị có ý định rồi gắng sức và làm xuất ra thì
phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Khi có sự
tác động của tham ái, vị có ý định rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm
tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Khi có sự
tác động của phân, vị có ý định rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội
Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Khi có sự
tác động của nước tiểu, vị có ý định rồi gắng sức và làm xuất ra thì
phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Khi có sự
tác động của gió, vị có ý định rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội
Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Khi có sự
tác động của sâu bọ, vị có ý định rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm
tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vì mục
đích sức khoẻ, vị có ý định rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội
Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vì mục
đích khoái lạc, ...(như trên)... vì mục đích dược phẩm, vì mục đích bố
thí, vì mục đích phước thiện, vì mục đích tế lễ, vì mục đích cõi trời,
vì mục đích nòi giống, vì mục đích nghiên cứu, vì mục đích đùa giỡn, vị
có ý định rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội Tăng tàng
(Saṅghādisesa).
Vị tác ý
đến (tinh) xanh rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội Tăng tàng
(Saṅghādisesa).
Vị tác ý
đến (tinh) vàng, (tinh) đỏ, (tinh) trắng, (tinh) màu sữa loãng, (tinh)
màu nước, (tinh) màu dầu ăn, (tinh) màu sữa tươi, (tinh) màu sữa đông,
(tinh) màu bơ lỏng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội Tăng tàng
(Saṅghādisesa).
Dứt
phần “Liên quan đến sự trong sạch.”
[307] Vị
tác ý đến mục đích sức khoẻ và mục đích khoái lạc rồi gắng sức và làm
xuất ra thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
đến mục đích sức khoẻ và mục đích dược phẩm, mục đích sức khoẻ và mục
đích bố thí, mục đích sức khoẻ và mục đích phước thiện, mục đích sức
khoẻ và mục đích tế lễ, mục đích sức khoẻ và mục đích cõi trời, mục đích
sức khoẻ và mục đích nòi giống, mục đích sức khoẻ và mục đích nghiên
cứu, mục đích sức khoẻ và mục đích đùa giỡn rồi gắng sức và làm xuất ra
thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Dứt
phần “Phân tích theo sự xoay vòng có liên quan đến một nhân tố.”
[308] Vị
tác ý đến mục đích khoái lạc và mục đích dược phẩm rồi gắng sức và làm
xuất ra thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
đến mục đích khoái lạc và mục đích bố thí, mục đích khoái lạc và mục
đích phước thiện, mục đích khoái lạc và mục đích tế lễ, mục đích khoái
lạc và mục đích cõi trời, mục đích khoái lạc và mục đích nòi giống, mục
đích khoái lạc và mục đích nghiên cứu, mục đích khoái lạc và mục đích
đùa giỡn rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội Tăng tàng
(Saṅghādisesa).
Vị tác ý
đến mục đích khoái lạc và mục đích sức khoẻ rồi gắng sức và làm xuất ra
thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
[309] Vị
tác ý đến mục đích dược phẩm và mục đích bố thí rồi gắng sức và làm xuất
ra thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
đến mục đích dược phẩm và mục đích phước thiện, mục đích dược phẩm và
mục đích tế lễ, mục đích dược phẩm và mục đích cõi trời, mục đích dược
phẩm và mục đích nòi giống, mục đích dược phẩm và mục đích nghiên cứu,
mục đích dược phẩm và mục đích đùa giỡn, mục đích dược phẩm và mục đích
sức khoẻ, mục đích dược phẩm và mục đích khoái lạc rồi gắng sức và làm
xuất ra thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
[310] Vị
tác ý đến mục đích bố thí và mục đích phước thiện rồi gắng sức và làm
xuất ra thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
đến mục đích bố thí và mục đích tế lễ, mục đích bố thí và mục đích cõi
trời, mục đích bố thí và mục đích nòi giống, mục đích bố thí và mục đích
nghiên cứu, mục đích bố thí và mục đích đùa giỡn, mục đích bố thí và mục
đích sức khoẻ, mục đích bố thí và mục đích khoái lạc, mục đích bố thí và
mục đích dược phẩm rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội Tăng tàng
(Saṅghādisesa).
[311] Vị
tác ý đến mục đích phước thiện và mục đích tế lễ rồi gắng sức và làm
xuất ra thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
đến mục đích phước thiện và mục đích cõi trời, mục đích phước thiện và
mục đích nòi giống, mục đích phước thiện và mục đích nghiên cứu, mục
đích phước thiện và mục đích đùa giỡn, mục đích phước thiện và mục đích
sức khoẻ, mục đích phước thiện và mục đích khoái lạc, mục đích phước
thiện và mục đích dược phẩm, mục đích phước thiện và mục đích bố thí rồi
gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
[312] Vị
tác ý đến mục đích tế lễ và mục đích cõi trời rồi gắng sức và làm xuất
ra thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
đến mục đích tế lễ và mục đích nòi giống, mục đích tế lễ và mục đích
nghiên cứu, mục đích tế lễ và mục đích đùa giỡn, mục đích tế lễ và mục
đích sức khoẻ, mục đích tế lễ và mục đích khoái lạc, mục đích tế lễ và
mục đích dược phẩm, mục đích tế lễ và mục đích bố thí, mục đích tế lễ và
mục đích phước thiện rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội Tăng tàng
(Saṅghādisesa).
[313] Vị
tác ý đến mục đích cõi trời và mục đích nòi giống, mục đích cõi trời và
mục đích nghiên cứu, mục đích cõi trời và mục đích đùa giỡn, mục đích
cõi trời và mục đích sức khoẻ, mục đích cõi trời và mục đích khoái lạc,
mục đích cõi trời và mục đích dược phẩm, mục đích cõi trời và mục đích
bố thí, mục đích cõi trời và mục đích phước thiện, mục đích cõi trời và
mục đích tế lễ rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội Tăng tàng
(Saṅghādisesa).
[314] Vị
tác ý đến mục đích nòi giống và mục đích nghiên cứu, mục đích nòi giống
và mục đích đùa giỡn, mục đích nòi giống và mục đích sức khoẻ, mục đích
nòi giống và mục đích khoái lạc, mục đích nòi giống và mục đích dược
phẩm, mục đích nòi giống và mục đích bố thí, mục đích nòi giống và mục
đích phước thiện, mục đích nòi giống và mục đích tế lễ, mục đích nòi
giống và mục đích cõi trời rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội Tăng
tàng (Saṅghādisesa).
[315] Vị
tác ý đến mục đích nghiên cứu và mục đích đùa giỡn, mục đích nghiên cứu
và mục đích sức khoẻ, mục đích nghiên cứu và mục đích khoái lạc, mục
đích nghiên cứu và mục đích dược phẩm, mục đích nghiên cứu và mục đích
bố thí, mục đích nghiên cứu và mục đích phước thiện, mục đích nghiên cứu
và mục đích tế lễ, mục đích nghiên cứu và mục đích cõi trời, mục đích
nghiên cứu và mục đích nòi giống rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm
tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
[316] Vị
tác ý đến mục đích đùa giỡn và mục đích sức khoẻ rồi gắng sức và làm
xuất ra thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
đến mục đích đùa giỡn và mục đích khoái lạc, mục đích đùa giỡn và mục
đích dược phẩm, mục đích đùa giỡn và mục đích bố thí, mục đích đùa giỡn
và mục đích phước thiện, mục đích đùa giỡn và mục đích tế lễ, mục đích
đùa giỡn và mục đích cõi trời, mục đích đùa giỡn và mục đích nòi giống,
mục đích đùa giỡn và mục đích nghiên cứu rồi gắng sức và làm xuất ra thì
phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Dứt
“Phần tổng hợp theo sự xoay vòng có liên quan đến một nhân tố.”
Phần có
liên quan đến hai nhân tố nên được hướng dẫn y như thế.
[317] Vị
tác ý đến mục đích sức khoẻ, mục đích khoái lạc, và mục đích dược phẩm
rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
...(như trên)...
Vị tác ý
đến mục đích sức khoẻ, mục đích khoái lạc, và mục đích đùa giỡn rồi gắng
sức và làm xuất ra thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Phần
phân tích theo sự xoay vòng có liên quan đến hai nhân tố.
[318] Vị
tác ý đến mục đích khoái lạc, mục đích dược phẩm, và mục đích bố thí rồi
gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa). ...(như
trên)... mục đích khoái lạc, mục đích dược phẩm, và mục đích đùa giỡn,
...(như trên)...
Vị tác ý
đến mục đích khoái lạc, mục đích dược phẩm, và mục đích sức khoẻ rồi
gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa). ...(như
trên)...
Vị tác ý
đến mục đích nghiên cứu, mục đích đùa giỡn, và mục đích sức khoẻ rồi
gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa). ...(như
trên)...
Vị tác ý
đến mục đích nghiên cứu, mục đích đùa giỡn, và mục đích nòi giống rồi
gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Dứt
“Phần tổng hợp theo sự xoay vòng có liên quan đến hai nhân tố.”
[319] Phần
liên quan đến ba nhân tố, phần liên quan đến bốn nhân tố, phần liên quan
đến năm nhân tố, phần liên quan đến sáu nhân tố, phần liên quan đến bảy
nhân tố, phần liên quan đến tám nhân tố, phần liên quan đến chín nhân tố
nên được thực hiện y như thế.
Đây là
phần có liên quan đến tất cả các nhân tố.
[320] Vị
tác ý đến mục đích sức khoẻ và mục đích khoái lạc, mục đích dược phẩm và
mục đích bố thí, mục đích phước thiện và mục đích tế lễ, mục đích cõi
trời và mục đích nòi giống, mục đích nghiên cứu và mục đích đùa giỡn rồi
gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Dứt
“Phần có liên quan đến tất cả các nhân tố.”
[321] Vị
tác ý đến (tinh) xanh và (tinh) vàng rồi gắng sức và làm xuất ra thì
phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
đến (tinh) xanh và (tinh) đỏ, ...(như trên)..., (tinh) xanh và (tinh)
trắng, (tinh) xanh và (tinh) màu sữa loãng, (tinh) xanh và (tinh) màu
nước, (tinh) xanh và (tinh) màu dầu ăn, (tinh) xanh và (tinh) màu sữa
tươi, (tinh) xanh và (tinh) màu sữa đông, (tinh) xanh và (tinh) màu bơ
lỏng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Dứt
“Phần phân tích theo sự xoay vòng có liên quan đến một nhân tố.”
[322] Vị
tác ý đến (tinh) vàng và (tinh) đỏ rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm
tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
đến (tinh) vàng và (tinh) trắng, ...(như trên)..., (tinh) vàng và (tinh)
màu sữa loãng, (tinh) vàng và (tinh) màu nước, (tinh) vàng và (tinh) màu
dầu ăn, (tinh) vàng và (tinh) màu sữa tươi, (tinh) vàng và (tinh) màu
sữa đông, (tinh) vàng và (tinh) màu bơ lỏng, (tinh) vàng và (tinh) xanh
rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
đến (tinh) đỏ và (tinh) trắng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội
Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
đến (tinh) đỏ và (tinh) màu sữa loãng, (tinh) đỏ và (tinh) màu nước,
(tinh) đỏ và (tinh) màu dầu ăn, (tinh) đỏ và (tinh) màu sữa tươi, (tinh)
đỏ và (tinh) màu sữa đông, (tinh) đỏ và (tinh) màu bơ lỏng, (tinh) đỏ và
(tinh) xanh, (tinh) đỏ và (tinh) vàng rồi gắng sức và làm xuất ra thì
phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
đến (tinh) trắng và (tinh) màu sữa loãng, (tinh) trắng và (tinh) màu
nước, (tinh) trắng và (tinh) màu dầu ăn, (tinh) trắng và (tinh) màu sữa
tươi, (tinh) trắng và (tinh) màu sữa đông, (tinh) trắng và (tinh) màu bơ
lỏng, (tinh) trắng và (tinh) xanh, (tinh) trắng và (tinh) vàng, (tinh)
trắng và (tinh) đỏ rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội Tăng tàng
(Saṅghādisesa).
Vị tác ý
đến (tinh) màu sữa loãng và (tinh) màu nước, (tinh) màu sữa loãng và
(tinh) màu dầu ăn, (tinh) màu sữa loãng và (tinh) màu sữa tươi, (tinh)
màu sữa loãng và (tinh) màu sữa đông, (tinh) màu sữa loãng và (tinh) màu
bơ lỏng, (tinh) màu sữa loãng và (tinh) xanh, (tinh) màu sữa loãng và
(tinh) vàng, (tinh) màu sữa loãng và (tinh) đỏ, (tinh) màu sữa loãng và
(tinh) trắng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội Tăng tàng
(Saṅghādisesa).
Vị tác ý
đến (tinh) màu nước và (tinh) màu dầu ăn, (tinh) màu nước và (tinh) màu
sữa tươi, (tinh) màu nước và (tinh) màu sữa đông, (tinh) màu nước và
(tinh) màu bơ lỏng, (tinh) màu nước và (tinh) xanh, (tinh) màu nước và
(tinh) vàng, (tinh) màu nước và (tinh) đỏ, (tinh) màu nước và (tinh)
trắng, (tinh) màu nước và (tinh) màu sữa loãng rồi gắng sức và làm xuất
ra thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
đến (tinh) màu dầu ăn và (tinh) màu sữa tươi, (tinh) màu dầu ăn và
(tinh) màu sữa đông, (tinh) màu dầu ăn và (tinh) màu bơ lỏng, (tinh) màu
dầu ăn và (tinh) xanh, (tinh) màu dầu ăn và (tinh) vàng, (tinh) màu dầu
ăn và (tinh) đỏ, (tinh) màu dầu ăn và (tinh) trắng, (tinh) màu dầu ăn và
(tinh) màu sữa loãng, (tinh) màu dầu ăn và (tinh) màu nước rồi gắng sức
và làm xuất ra thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
đến (tinh) màu sữa tươi và (tinh) màu sữa đông, (tinh) màu sữa tươi và
(tinh) màu bơ lỏng, (tinh) màu sữa tươi và (tinh) xanh, (tinh) màu sữa
tươi và (tinh) vàng, (tinh) màu sữa tươi và (tinh) đỏ, (tinh) màu sữa
tươi và (tinh) trắng, (tinh) màu sữa tươi và (tinh) màu sữa loãng,
(tinh) màu sữa tươi và (tinh) màu nước, (tinh) màu sữa tươi và (tinh)
màu dầu ăn rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội Tăng tàng
(Saṅghādisesa).
Vị tác ý
đến (tinh) màu sữa đông và (tinh) màu bơ lỏng, (tinh) màu sữa đông và
(tinh) xanh, (tinh) màu sữa đông và (tinh) vàng, (tinh) màu sữa đông và
(tinh) đỏ, (tinh) màu sữa đông và (tinh) trắng, (tinh) màu sữa đông và
(tinh) màu sữa loãng, (tinh) màu sữa đông và (tinh) màu nước, (tinh) màu
sữa đông và (tinh) màu dầu ăn, (tinh) màu sữa đông và (tinh) màu sữa
tươi rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
đến (tinh) màu bơ lỏng và (tinh) xanh rồi gắng sức và làm xuất ra thì
phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
đến (tinh) màu bơ lỏng và (tinh) vàng, (tinh) màu bơ lỏng và (tinh) đỏ,
(tinh) màu bơ lỏng và (tinh) trắng, (tinh) màu bơ lỏng và (tinh) màu sữa
loãng, (tinh) màu bơ lỏng và (tinh) màu nước, (tinh) màu bơ lỏng và
(tinh) màu dầu ăn, (tinh) màu bơ lỏng và (tinh) màu sữa tươi, (tinh) màu
bơ lỏng và (tinh) màu sữa đông rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội
Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Dứt
“Phần tổng hợp theo sự xoay vòng có liên quan đến một nhân tố.”
Phần có
liên quan đến hai nhân tố được hướng dẫn y như thế.
[323] Vị
tác ý đến (tinh) xanh, (tinh) vàng, và (tinh) đỏ rồi gắng sức và làm
xuất ra thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
đến (tinh) xanh, (tinh) vàng, và (tinh) trắng rồi gắng sức và làm xuất
ra thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa). ...(như trên)...
Vị tác ý
đến (tinh) xanh, (tinh) vàng, và (tinh) màu bơ lỏng rồi gắng sức và làm
xuất ra thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Dứt
“Phần phân tích theo sự xoay vòng có liên quan đến hai nhân tố.”
[324] Vị
tác ý đến (tinh) vàng, (tinh) đỏ, và (tinh) trắng rồi gắng sức và làm
xuất ra thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa). ...(như trên)...
Vị tác ý
đến (tinh) vàng, (tinh) đỏ, và (tinh) xanh rồi gắng sức và làm xuất ra
thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa). ...(như trên)...
Vị tác ý
đến (tinh) màu sữa đông, (tinh) màu bơ lỏng, và (tinh) xanh rồi gắng sức
và làm xuất ra thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa). ...(như trên)...
Vị tác ý
đến (tinh) màu sữa đông, (tinh) màu bơ lỏng, và (tinh) màu sữa tươi rồi
gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Dứt
“Phần tổng hợp theo sự xoay vòng có liên quan đến hai nhân tố.”
[325] Phần
liên quan đến ba nhân tố, phần liên quan đến bốn nhân tố, phần liên quan
đến năm nhân tố, phần liên quan đến sáu nhân tố, phần liên quan đến bảy
nhân tố, phần liên quan đến tám nhân tố, phần liên quan đến chín nhân tố
nên được thực hiện y như thế.
Đây là
phần có liên quan đến tất cả các nhân tố.
[326] Vị
tác ý đến (tinh) xanh, (tinh) vàng, (tinh) đỏ, (tinh) trắng, (tinh) màu
sữa loãng, (tinh) màu nước, (tinh) màu dầu ăn, (tinh) màu sữa tươi,
(tinh) màu sữa đông, và (tinh) màu bơ lỏng rồi gắng sức và làm xuất ra
thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Dứt
“Phần có liên quan đến tất cả các nhân tố.”
[327] Vị
tác ý đến mục đích sức khoẻ và (tinh) xanh rồi gắng sức và làm xuất ra
thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
đến mục đích sức khoẻ, mục đích khoái lạc, (tinh) xanh, và (tinh) vàng
rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
đến mục đích sức khoẻ, mục đích khoái lạc, mục đích dược phẩm, (tinh)
xanh, (tinh) vàng, và (tinh) đỏ rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội
Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
đến mục đích sức khoẻ, mục đích khoái lạc, mục đích dược phẩm, mục đích
bố thí, (tinh) xanh, (tinh) vàng, (tinh) đỏ, và (tinh) trắng rồi gắng
sức và làm xuất ra thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
đến mục đích sức khoẻ, mục đích khoái lạc, mục đích dược phẩm, mục đích
bố thí, mục đích phước thiện, (tinh) xanh, (tinh) vàng, (tinh) đỏ,
(tinh) trắng, và (tinh) màu sữa loãng rồi gắng sức và làm xuất ra thì
phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
đến mục đích sức khoẻ, mục đích khoái lạc, mục đích dược phẩm, mục đích
bố thí, mục đích phước thiện, mục đích tế lễ, (tinh) xanh, (tinh) vàng,
(tinh) đỏ, (tinh) trắng, (tinh) màu sữa loãng, và (tinh) màu nước rồi
gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
đến mục đích sức khoẻ, mục đích khoái lạc, mục đích dược phẩm, mục đích
bố thí, mục đích phước thiện, mục đích tế lễ, mục đích cõi trời, (tinh)
xanh, (tinh) vàng, (tinh) đỏ, (tinh) trắng, (tinh) màu sữa loãng, (tinh)
màu nước, và (tinh) màu dầu ăn rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội
Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
đến mục đích sức khoẻ, mục đích khoái lạc, mục đích dược phẩm, mục đích
bố thí, mục đích phước thiện, mục đích tế lễ, mục đích cõi trời, mục
đích nòi giống, (tinh) xanh, (tinh) vàng, (tinh) đỏ, (tinh) trắng,
(tinh) màu sữa loãng, (tinh) màu nước, (tinh) màu dầu ăn, và (tinh) màu
sữa tươi rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội Tăng tàng
(Saṅghādisesa).
Vị tác ý
đến mục đích sức khoẻ, mục đích khoái lạc, mục đích dược phẩm, mục đích
bố thí, mục đích phước thiện, mục đích tế lễ, mục đích cõi trời, mục
đích nòi giống, mục đích nghiên cứu, (tinh) xanh, (tinh) vàng, (tinh)
đỏ, (tinh) trắng, (tinh) màu sữa loãng, (tinh) màu nước, (tinh) màu dầu
ăn, (tinh) màu sữa tươi, và (tinh) màu sữa đông rồi gắng sức và làm xuất
ra thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
đến mục đích sức khoẻ, mục đích khoái lạc, mục đích dược phẩm, mục đích
bố thí, mục đích phước thiện, mục đích tế lễ, mục đích cõi trời, mục
đích nòi giống, mục đích nghiên cứu, mục đích đùa giỡn, (tinh) xanh,
(tinh) vàng, (tinh) đỏ, (tinh) trắng, (tinh) màu sữa loãng, (tinh) màu
nước, (tinh) màu dầu ăn, (tinh) màu sữa tươi, (tinh) màu sữa đông, và
(tinh) màu bơ lỏng rồi gắng sức và làm xuất ra thì phạm tội Tăng tàng
(Saṅghādisesa).
Dứt
“Phần tổng hợp cả hai phần theo sự xoay vòng có tính chất trộn lẫn.”
[328] Vị
tác ý rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) xanh,” rồi gắng sức và làm
xuất ra (tinh) vàng thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) xanh,” rồi gắng sức và làm xuất
ra (tinh) đỏ thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) xanh,” rồi gắng sức và làm xuất
ra (tinh) trắng thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) xanh,” rồi gắng sức và làm xuất
ra (tinh) màu sữa loãng thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) xanh,” rồi gắng sức và làm xuất
ra (tinh) màu nước thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) xanh,” rồi gắng sức và làm xuất
ra (tinh) màu dầu ăn thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) xanh,” rồi gắng sức và làm xuất
ra (tinh) màu sữa tươi thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) xanh,” rồi gắng sức và làm xuất
ra (tinh) màu sữa đông thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) xanh,” rồi gắng sức và làm xuất
ra (tinh) màu bơ lỏng thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Dứt
“Phần phân tích theo sự xoay vòng.”
[329] Vị
tác ý rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) vàng,” rồi gắng sức và làm
xuất ra (tinh) đỏ thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) vàng,” rồi gắng sức và làm xuất
ra (tinh) trắng ...(như trên)... làm xuất ra (tinh) màu sữa loãng ...
làm xuất ra (tinh) màu nước ... làm xuất ra (tinh) màu dầu ăn ... làm
xuất ra (tinh) màu sữa tươi ... làm xuất ra (tinh) màu sữa đông ... làm
xuất ra (tinh) màu bơ lỏng ... làm xuất ra (tinh) xanh thì phạm tội Tăng
tàng (Saṅghādisesa).
Dứt
“Phần tổng hợp theo sự xoay vòng.”
[330] Vị
tác ý rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) đỏ,” rồi gắng sức và làm
xuất ra (tinh) trắng thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) đỏ,” rồi gắng sức và làm xuất ra
(tinh) màu sữa loãng ...(như trên)... làm xuất ra (tinh) màu nước ...
làm xuất ra (tinh) màu dầu ăn ... làm xuất ra (tinh) màu sữa tươi ...
làm xuất ra (tinh) màu sữa đông ... làm xuất ra (tinh) màu bơ lỏng ...
làm xuất ra (tinh) xanh ... làm xuất ra (tinh) vàng thì phạm tội Tăng
tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) trắng,” rồi gắng sức và làm xuất
ra (tinh) màu sữa loãng thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa). ...(như
trên)... làm xuất ra (tinh) đỏ thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
(Các sự xoay vòng nên được hiểu như thế).
Vị tác ý
rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu bơ lỏng,” rồi gắng sức và làm
xuất ra (tinh) xanh thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu bơ lỏng,” rồi gắng sức và làm
xuất ra (tinh) vàng ...(như trên)... làm xuất ra (tinh) đỏ ... làm xuất
ra (tinh) trắng ... làm xuất ra (tinh) màu sữa loãng ... làm xuất ra
(tinh) màu nước ... làm xuất ra (tinh) màu dầu ăn ... làm xuất ra (tinh)
màu sữa tươi ... làm xuất ra (tinh) màu sữa đông thì phạm tội Tăng tàng
(Saṅghādisesa).
Dứt
“Phần xoay vòng ở giữa.”
[331] Vị
tác ý rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) vàng,” rồi gắng sức và làm
xuất ra (tinh) xanh thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị tác ý
rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) đỏ,” rồi gắng sức và làm xuất ra
(tinh) xanh ... Vị tác ý rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) trắng,”
rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) xanh ... Vị tác ý rằng: “Ta sẽ làm
xuất ra (tinh) màu sữa loãng,” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh)
xanh ... Vị tác ý rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu nước,” rồi
gắng sức và làm xuất ra (tinh) xanh ... Vị tác ý rằng: “Ta sẽ làm
xuất ra (tinh) dầu ăn,” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) xanh ...
Vị tác ý rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu sữa tươi,” rồi gắng
sức và làm xuất ra (tinh) xanh ... Vị tác ý rằng: “Ta sẽ làm xuất ra
(tinh) màu sữa đông,” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) xanh ... Vị
tác ý rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) bơ lỏng,” rồi gắng sức và
làm xuất ra (tinh) xanh thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Dứt
“Bước thứ nhất của sự xoay vòng nghịch.”
[332] Vị
tác ý rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) đỏ,” rồi gắng sức và làm
xuất ra (tinh) vàng thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa). ... (tinh)
trắng, (tinh) màu sữa loãng, (tinh) màu nước, (tinh) màu dầu ăn, (tinh)
màu sữa tươi, (tinh) màu sữa đông, (tinh) màu bơ lỏng ... Vị tác ý rằng:
“Ta sẽ làm xuất ra (tinh) xanh,” rồi gắng sức và làm xuất ra
(tinh) vàng thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Dứt
“Bước thứ nhì của sự xoay vòng nghịch.”
[333] Vị
tác ý rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) trắng,” rồi gắng sức và làm
xuất ra (tinh) đỏ thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa). ... (tinh) màu
sữa loãng, (tinh) màu nước, (tinh) màu dầu ăn, (tinh) màu sữa tươi,
(tinh) màu sữa đông, (tinh) màu bơ lỏng, (tinh) xanh ... Vị tác ý rằng:
“Ta sẽ làm xuất ra (tinh) vàng,” rồi gắng sức và làm xuất ra
(tinh) đỏ thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Dứt
“Bước thứ ba của sự xoay vòng nghịch.”
[334] Vị
tác ý rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu sữa loãng,” rồi gắng
sức và làm xuất ra (tinh) trắng thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
... (tinh) màu nước, (tinh) màu dầu ăn, (tinh) màu sữa tươi, (tinh) màu
sữa đông, (tinh) màu bơ lỏng, (tinh) xanh, (tinh) vàng ... Vị tác ý
rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) đỏ,” rồi gắng sức và làm xuất ra
(tinh) trắng thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Dứt
“Bước thứ bốn của sự xoay vòng nghịch.”
[335] Vị
tác ý rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu nước,” rồi gắng sức và
làm xuất ra (tinh) màu sữa loãng thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
... (tinh) màu dầu ăn, (tinh) màu sữa tươi, (tinh) màu sữa đông, (tinh)
màu bơ lỏng, (tinh) xanh, (tinh) vàng, (tinh) đỏ ... Vị tác ý rằng: “Ta
sẽ làm xuất ra (tinh) trắng,” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh) màu
sữa loãng thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Dứt
“Bước thứ năm của sự xoay vòng nghịch.”
[336] Vị
tác ý rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu dầu ăn,” rồi gắng sức
và làm xuất ra (tinh) màu nước thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
... (tinh) màu sữa tươi, (tinh) màu sữa đông, (tinh) màu bơ lỏng, (tinh)
xanh, (tinh) vàng, (tinh) đỏ, (tinh) màu trắng ... Vị tác ý rằng: “Ta
sẽ làm xuất ra (tinh) màu sữa loãng,” rồi gắng sức và làm xuất ra
(tinh) màu nước thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Dứt
“Bước thứ sáu của sự xoay vòng nghịch.”
[337] Vị
tác ý rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu sữa tươi,” rồi gắng sức
và làm xuất ra (tinh) màu dầu ăn thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
... (tinh) màu sữa đông, (tinh) màu bơ lỏng, (tinh) xanh, (tinh) vàng,
(tinh) đỏ, (tinh) màu trắng, (tinh) màu sữa loãng ... Vị tác ý rằng: “Ta
sẽ làm xuất ra (tinh) màu nước,” rồi gắng sức và làm xuất ra (tinh)
màu dầu ăn thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Dứt
“Bước thứ bảy của sự xoay vòng nghịch.”
[338] Vị
tác ý rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu sữa đông,” rồi gắng sức
và làm xuất ra (tinh) màu sữa tươi thì phạm tội Tăng tàng
(Saṅghādisesa). ... (tinh) màu bơ lỏng, (tinh) xanh, (tinh) vàng, (tinh)
đỏ, (tinh) màu trắng, (tinh) màu sữa loãng, (tinh) màu nước ... Vị tác ý
rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu dầu ăn,” rồi gắng sức và làm
xuất ra (tinh) màu sữa tươi thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Dứt
“Bước thứ tám của sự xoay vòng nghịch.”
[339] Vị
tác ý rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu bơ lỏng,” rồi gắng sức
và làm xuất ra (tinh) màu sữa đông thì phạm tội Tăng tàng
(Saṅghādisesa). ... (tinh) xanh, (tinh) vàng, (tinh) đỏ, (tinh) màu
trắng, (tinh) màu sữa loãng, (tinh) màu nước, (tinh) màu dầu ăn ... Vị
tác ý rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) màu sữa tươi,” rồi gắng sức
và làm xuất ra (tinh) màu sữa đông thì phạm tội Tăng tàng
(Saṅghādisesa).
Dứt
“Bước thứ chín của sự xoay vòng nghịch.”
[340] Vị
tác ý rằng: “Ta sẽ làm xuất ra (tinh) xanh,” rồi gắng sức và làm
xuất ra (tinh) màu bơ lỏng thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa). ...
(tinh) vàng, (tinh) đỏ, (tinh) màu trắng, (tinh) màu sữa loãng, (tinh)
màu nước, (tinh) màu dầu ăn, (tinh) màu sữa tươi ... Vị tác ý rằng: “Ta
sẽ làm xuất ra (tinh) màu sữa đông,” rồi gắng sức và làm xuất ra
(tinh) màu bơ lỏng thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Dứt
“Bước thứ mười của sự xoay vòng nghịch.”
Dứt “Sự
xoay vòng nghịch.”
[343][5]
Vị có ý định, gắng sức, bị xuất ra thì phạm tội Tăng tàng
(Saṅghādisesa).
Vị có ý
định, gắng sức, không bị xuất ra thì phạm trọng tội (thullaccaya).
Vị có ý
định, không gắng sức, bị xuất ra thì vô tội.
Vị có ý
định, không gắng sức, không bị xuất ra thì vô tội.
Vị không
có ý định, gắng sức, bị xuất ra thì vô tội.
Vị không
có ý định, gắng sức, không bị xuất ra thì vô tội.
Vị không
có ý định, không gắng sức, bị xuất ra thì vô tội.
Vị không
có ý định, không gắng sức, không bị xuất ra thì vô tội.
[344] Do
chiêm bao, vị không có ý định làm cho xuất ra, vị bị điên, vị có tâm bị
rối loạn, vị bị thọ khổ hành hạ, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[345]
Giấc mơ, đại, tiểu tiện,
suy tầm, và nước nóng,
thuốc thoa, bị cơn ngứa,
đường đi, bao tinh hoàn,
nhà tắm hơi, bắp vế,
sa-di, và vị ngủ,
đùi, nắm tay bóp chặt,
ở khoảng trống, gồng mình,
vị suy tưởng, lỗ khoá,
vị vỗ bằng thanh gỗ,
giòng nước chảy, đầm nước,
rửa ráy, đống bông hoa,
hương lạc, trong cát, bùn,
rưới nước, ở chỗ nằm,
và dùng ngón tay cái.
[346] Vào
lúc bấy giờ, tinh dịch của vị tỷ-kheo nọ đã bị xuất ra do giấc mơ. Vị ấy
đã có nỗi nghi hoặc: “Phải chăng ta đã phạm tội Tăng tàng
(Saṅghādisesa)?” Sau đó, vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức
Thế Tôn.
- Này
tỷ-kheo, do giấc mơ thì vô tội.
[347] Vào
lúc bấy giờ, tinh dịch của vị tỷ-kheo nọ đã bị xuất ra trong lúc đại
tiện. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Phải chăng ta đã phạm tội Tăng tàng
(Saṅghādisesa)?” Vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này
tỷ-kheo, (khi ấy) ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế
Tôn, con không có ý định làm xuất ra.
- Này
tỷ-kheo, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
[348] Vào
lúc bấy giờ, tinh dịch của vị tỷ-kheo nọ đã bị xuất ra trong lúc tiểu
tiện. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
[349] Vào
lúc bấy giờ, tinh dịch của vị tỷ-kheo nọ đã bị xuất ra trong lúc (vị ấy)
suy tư tầm cầu về dục. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, vị trong lúc suy tư tầm cầu về dục thì vô tội.
[350] Vào
lúc bấy giờ, tinh dịch của vị tỷ-kheo nọ đã bị xuất ra trong lúc (vị ấy)
tắm nước nóng. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, (khi ấy) ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế
Tôn, con không có ý định làm xuất ra.
- Này
tỷ-kheo, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc
bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc tắm nước nóng có ý định làm xuất ra,
và tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi đã phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vào lúc
bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc tắm nước nóng có ý định làm xuất ra
nhưng tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như
trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm trọng tội
(thullaccaya).
[351] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ bị vết thương ở dương vật. Trong lúc vị ấy
thoa thuốc, tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Phải
chăng ta đã phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa)?” Vị ấy đã trình sự
việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này
tỷ-kheo, (khi ấy) ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế
Tôn, con không có ý định làm xuất ra.
- Này
tỷ-kheo, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc
bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ bị vết thương ở dương vật. Vị ấy trong lúc
thoa thuốc có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như
trên)... tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc.
...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm trọng tội
(thullaccaya).
[352] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc (gãi) ngứa ở tinh hoàn, tinh
dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc
bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc (gãi) ngứa ở tinh hoàn có ý định làm
xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch đã không
bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm trọng tội
(thullaccaya).
[353] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc đi đường tinh dịch đã bị xuất
ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc
bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc đi đường có ý định làm xuất ra, và
tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch đã không bị xuất ra.
Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm trọng tội
(thullaccaya).
[354] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc tiểu tiện đã nắm lấy bao tinh
hoàn và tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như
trên)...
- Này
tỷ-kheo, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc
bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc tiểu tiện đã nắm lấy bao tinh hoàn
có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh
dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm trọng tội
(thullaccaya).
[355] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc hơ nóng vùng bụng ở trong nhà
tắm hơi, tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như
trên)...
- Này
tỷ-kheo, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc
bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc hơ nóng vùng bụng ở trong nhà tắm
hơi có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)...
tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như
trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm trọng tội
(thullaccaya).
[356] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc kỳ cọ phần lưng của thầy tế độ ở
trong nhà tắm hơi, tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc.
...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc
bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc kỳ cọ phần lưng của thầy tế độ ở
trong nhà tắm hơi có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra.
...(như trên)... tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi
hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm trọng tội
(thullaccaya).
[357] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc cho người xoa bóp bắp vế, tinh
dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc
bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc cho người xoa bóp bắp vế có ý định
làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch đã
không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm trọng tội
(thullaccaya).
[358] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ có ý định làm xuất ra đã nói với vị sa-di
nọ điều này:
- Này
sa-di, hãy đến. Ngươi hãy nắm lấy dương vật của ta.
Vị sa-di
đã nắm lấy dương vật của vị ấy. Tinh dịch của vị ấy đã bị xuất ra. Vị ấy
đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi đã phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
[359] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ đã nắm lấy dương vật của vị sa-di đang
ngủ. Tinh dịch của vị ấy đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc.
...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm tội tác
ác (dukkaṭa).
[360] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc dùng hai bắp vế ép chặt lấy
dương vật, tinh dịch của vị ấy đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc.
...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc
bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc dùng hai bắp vế ép chặt lấy dương
vật có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)...
tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như
trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm trọng tội
(thullaccaya).
[361] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc dùng nắm tay bóp chặt lấy dương
vật, tinh dịch của vị ấy đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc.
...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc
bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc dùng nắm tay bóp chặt lấy dương vật
có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh
dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm trọng tội
(thullaccaya).
[362] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong khi lắc hông ở khoảng trống có ý
định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch
đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm trọng tội
(thullaccaya).
[363] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc gồng cứng cơ thể, tinh dịch của
vị ấy đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc
bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc gồng cứng cơ thể có ý định làm xuất
ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch đã không bị
xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm trọng tội
(thullaccaya).
[364] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ bị dục khởi đã suy tưởng về âm vật của
người nữ. Tinh dịch của vị ấy đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc.
...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa). Và này các
tỷ-kheo, vị bị dục khởi không nên suy tưởng về âm vật của người nữ; vị
nào suy tưởng thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
[365] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc đưa dương vật vào lỗ khoá có ý
định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch
đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm trọng tội
(thullaccaya).
[366] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc dùng thanh gỗ vỗ vào dương vật
có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh
dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm trọng tội
(thullaccaya).
[367] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc tắm ở giòng nước chảy
(paṭisote), tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như
trên)...
- Này
tỷ-kheo, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc
bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc tắm ở giòng nước chảy có ý định làm
xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch đã không
bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm trọng tội
(thullaccaya).
[368] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc đùa nghịch ở đầm nước
(udañjale), tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như
trên)...
- Này
tỷ-kheo, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc
bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc đùa nghịch ở đầm nước có ý định làm
xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch đã không
bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm trọng tội
(thullaccaya).
[369] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc chạy ở trong nước (udake), tinh
dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc
bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc chạy ở trong nước có ý định làm xuất
ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch đã không bị
xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm trọng tội
(thullaccaya).
[370] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc đùa nghịch ở nơi đống bông hoa
(pupphāvaḷiyaṃ), tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc.
...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc
bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc đùa nghịch ở nơi đống bông hoa có ý
định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch
đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm trọng tội
(thullaccaya).
[371] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc chạy trong rừng cây hương lạc
(pokkharavane), tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc.
...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc
bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc chạy ở trong rừng cây hương lạc có ý
định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch
đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm trọng tội
(thullaccaya).
[372] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc đưa dương vật vào trong cát có ý
định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch
đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm trọng tội
(thullaccaya).
[373] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc đưa dương vật vào trong bùn có ý
định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch
đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm trọng tội
(thullaccaya).
[374] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc dùng nước rưới lên dương vật,
tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, vị không có ý định làm xuất ra thì vô tội.
Vào lúc
bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc dùng nước rưới lên dương vật có ý
định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch
đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm trọng tội
(thullaccaya).
[375] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc cọ xát dương vật ở chỗ nằm có ý
định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. ...(như trên)... tinh dịch
đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm trọng tội
(thullaccaya).
[376] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc dùng ngón tay cái cọ xát vào
dương vật có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã bị xuất ra. Vị ấy đã có
nỗi nghi hoặc: “Phải chăng ta đã phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa)?”
Vị ấy đã trình lên đức Thế Tôn.
- Này
tỷ-kheo, ngươi đã phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vào lúc
bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc dùng ngón tay cái cọ xát vào dương
vật có ý định làm xuất ra, và tinh dịch đã không bị xuất ra. Vị ấy đã có
nỗi nghi hoặc: “Phải chăng ta đã phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa)?”
Vị ấy đã trình lên đức Thế Tôn.
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm trọng tội
(thullaccaya).
Dứt điều Tăng tàng
(Saṅghādisesa) thứ nhất.
*******
ĐIỀU
TĂNG TÀNG (SAṄGHĀDISESA) THỨ NHÌ:
[377] Lúc
bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của
ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi cư ngụ ở trong rừng.[6]
Trú xá của đại đức ấy đẹp đẽ, đáng nhìn, xinh xắn, có nội phòng ở giữa,
khắp nơi xung quanh căn nhà có giường, ghế, nệm, gối được khéo xếp đặt,
nước uống, nước rửa được khéo bố trí, phòng ốc được quét dọn cẩn thận.
Nhiều người có ý muốn nhìn ngắm trú xá của đại đức Udāyi đã đi đến. Có
người Bà-la-môn nọ cùng người vợ cũng đã đi đến gặp đại đức Udāyi, sau
khi đến đã nói với đại đức Udāyi điều này:
- Chúng
tôi muốn nhìn ngắm trú xá của ngài đại đức Udāyi.
- Này
Bà-la-môn, như thế thì chúng ta có thể nhìn ngắm.
Rồi đã cầm
lấy chìa khoá, tháo chốt, mở cửa ra, và đi vào trong trú xá. Người
Bà-la-môn ấy đã đi vào tiếp theo sau đại đức Udāyi. Rồi người nữ
Bà-la-môn ấy đã đi vào tiếp theo sau người Bà-la-môn ấy. Khi ấy, trong
khi mở ra một số cửa sổ, trong khi đóng lại một số cửa sổ, đại đức Udāyi
đã đi vòng quanh nội phòng rồi đi đến ở phía sau và vuốt ve các phần
thân thể của người nữ Bà-la-môn ấy. Rồi người Bà-la-môn ấy đã trao đổi
lời xã giao thân thiện với đại đức Udāyi và ra đi. Khi ấy, người
Bà-la-môn ấy được hoan hỷ đã thốt ra lời hoan hỷ rằng:
- Các vị
sa-môn Thích tử này thật là cao quý khi sống trong khu rừng như vầy!
Ngài đại đức Udāyi thật là cao quý khi sống trong khu rừng như thế này!
Được nói
như thế, người nữ Bà-la-môn ấy đã nói với người Bà-la-môn ấy điều này:
- Sự cao
quý của vị ấy là do đâu? Ông đã vuốt ve các phần thân thể của tôi ra sao
thì sa-môn Udāyi cũng đã vuốt ve các phần thân thể của tôi y như thế.
Khi ấy,
người Bà-la-môn ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Các vị
sa-môn Thích tử này không biết hổ thẹn, giới hạnh xấu xa, nói láo. Chính
các vị này giả vờ là những vị thực hành Pháp, là những vị thực hành sự
an tịnh, là những vị có Phạm hạnh, nói lời chân thật, có giới hạnh, có
thiện pháp! Các vị này không có sa-môn hạnh, các vị này không có Phạm
hạnh! Sa-môn hạnh của các vị này đã bị hư hỏng, Phạm hạnh của các vị này
đã bị hư hỏng! Sa-môn hạnh của các vị này đâu rồi? Phạm hạnh của các vị
này đâu rồi? Sa-môn hạnh của các vị này đã không còn, Phạm hạnh của các
vị này đã không còn! Vì sao sa-môn Udāyi lại vuốt ve các phần thân thể
của vợ ta? Không thể để cho các người đàn bà gia đình danh giá, các tiểu
thơ gia đình danh giá, các thiếu nữ gia đình danh giá, các cô dâu gia
đình danh giá, các nữ tỳ gia đình danh giá đi đến tu viện hoặc trú xá
bởi vì nếu các người đàn bà gia đình danh giá, các tiểu thơ gia đình
danh giá, các thiếu nữ gia đình danh giá, các cô dâu gia đình danh giá,
các nữ tỳ gia đình danh giá đi đến tu viện hoặc trú xá, các sa-môn Thích
tử có thể làm nhục họ!
Các
tỷ-kheo đã nghe được người Bà-la-môn ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các
vị tỷ-kheo ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự
học tập, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao
đại đức Udāyi lại thực hiện việc xúc chạm thân thể với người nữ?
Sau đó,
các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế
Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỷ-kheo lại và
hỏi đại đức Udāyi rằng:
- Này
Udāyi, nghe nói ngươi thực hiện việc xúc chạm thân thể với người nữ, có
đúng không vậy?
- Bạch Thế
Tôn, đúng vậy.
Đức Phật
Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ
rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng
pháp sa-môn, không được phép, không nên làm! Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi
lại thực hiện việc xúc chạm thân thể với người nữ vậy? Này kẻ rồ dại,
không phải ta bằng nhiều phương thức đã thuyết giảng pháp để đưa đến sự
không còn tham ái chứ không phải để đưa đến tham ái, ...(như trên)... đã
đề cập đến sự lắng dịu của các nỗi thôi thúc do dục vọng hay sao? Này kẻ
rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin,
...(như trên)... Và này các tỷ-kheo, các ngươi nên phổ biến điều học này
như vầy: “Vị tỷ-kheo nào bị khởi dục, do tâm bị thay đổi, rồi thực
hiện việc xúc chạm thân thể với người nữ là sự nắm lấy tay, hoặc nắm lấy
búi tóc, hoặc sự vuốt ve bất cứ bộ phận nào thì tội Tăng tàng
(Saṅghādisesa).”
[378]
Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỷ-kheo:
...(như trên)... Vị này là “vị tỷ-kheo” được đề cập trong ý nghĩa
này.
Bị khởi
dục: nghĩa là có dục vọng, có sự khao
khát, có tâm say đắm.
Bị thay
đổi: tâm có dục vọng là (tâm) bị thay đổi,
tâm giận hờn là (tâm) bị thay đổi, tâm mê muội là (tâm) bị thay đổi. Tâm
có dục vọng là (tâm) “bị thay đổi” được đề cập trong ý nghĩa này.
Người
nữ: nghĩa là người nữ nhân loại, không
phải nữ dạ-xoa, không phải ma nữ, không phải loài thú cái, ngay cả đứa
bé gái mới sanh ngày hôm ấy cho đến bà lão.
Với:
cùng chung.
Thực
hiện việc xúc chạm thân thể: được
gọi là sự vi phạm.
Tay:
nghĩa là tính từ cùi chỏ cho đến các đầu móng tay.
Búi tóc:
nghĩa là tóc thuần túy, hoặc là (tóc) có trộn lẫn chỉ sợi, hoặc là có
trộn lẫn tràng hoa, hoặc là có trộn lẫn bạc, hoặc là có trộn lẫn vàng,
hoặc có trộn lẫn ngọc trai, hoặc có trộn lẫn ngọc ma-ni.
Bộ phận:
nghĩa là trừ ra tay và búi tóc, các phần còn lại gọi là bộ phận.
[379] Sự
sờ vào, sự vuốt ve, sự vuốt xuống, sự vuốt lên, sự vỗ xuống, sự vỗ lên,
sự kéo vào, sự đẩy ra, sự giữ lại, sự ôm chặt, sự nắm lấy, sự chạm vào.
[380]
Sự sờ vào nghĩa là việc được cọ xát vào.
Sự vuốt
ve nghĩa là sự di chuyển từ chỗ này qua
chỗ khác.
Sự vuốt
xuống nghĩa là đưa xuống phía dưới.
Sự vuốt
lên nghĩa là nâng lên phía trên.
Sự vỗ
xuống nghĩa là nghiêng về phía dưới.
Sự vỗ
lên nghĩa là hướng lên phía trên.
Sự kéo
vào nghĩa là sự lôi tới.
Sự đẩy
ra nghĩa là sự đưa về lại.
Sự giữ
lại nghĩa là sự siết chặt lại sau khi nắm
lấy bộ phận (của thân thể).
Sự ôm
chặt nghĩa là sự siết chặt lại cùng với
bất cứ ai.
Sự nắm
lấy nghĩa là việc được nắm lấy.
Sự chạm
vào nghĩa là việc được đụng vào.
[381]
Tội Tăng tàng (Saṅghādisesa): Chỉ có hội chúng ban cho hành phạt của
tội đó ...(như trên)... vì thế được gọi là “tội Tăng tàng.”
[382] Là
người nữ và biết là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt
ve, vuốt xuống, vuốt lên, vỗ xuống, vỗ lên, kéo vào, đẩy ra, giữ lại, ôm
chặt, nắm lấy, chạm vào thân thể của người nữ ấy với thân thể (vị ấy)
thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Là người
nữ và có sự hoài nghi, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve,
...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của người nữ ấy với thân thể
(vị ấy) thì phạm trọng tội (thullaccaya).
Là người
nữ và (lầm) tưởng là người vô căn, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ vào,
vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của người nữ ấy với
thân thể (vị ấy) thì phạm trọng tội (thullaccaya).
Là người
nữ và (lầm) tưởng là người nam, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt
ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của người nữ ấy với thân
thể (vị ấy) thì phạm trọng tội (thullaccaya).
Là người
nữ và (lầm) tưởng là loài thú, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt
ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của người nữ ấy với thân
thể (vị ấy) thì phạm trọng tội (thullaccaya).
Là người
vô căn và biết là người vô căn, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt
ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của người vô căn ấy với
thân thể (vị ấy) thì phạm trọng tội (thullaccaya).
Là người
vô căn và có sự hoài nghi, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve,
...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của người vô căn ấy với thân
thể (vị ấy) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Là người
vô căn và (lầm) tưởng là người nam, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ vào,
vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của người vô căn ấy
với thân thể (vị ấy) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Là người
vô căn và (lầm) tưởng là loài thú, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ vào,
vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của người vô căn ấy
với thân thể (vị ấy) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Là người
vô căn và (lầm) tưởng là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ vào,
vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của người vô căn ấy
với thân thể (vị ấy) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Là người
nam và biết là người nam, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve,
...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của người nam ấy với thân
thể (vị ấy) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Là người
nam và có sự hoài nghi, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve,
...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của người nam ấy với thân
thể (vị ấy) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Là người
nam và (lầm) tưởng là loài thú, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt
ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của người nam ấy với
thân thể (vị ấy) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Là người
nam và (lầm) tưởng là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt
ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của người nam ấy với
thân thể (vị ấy) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Là người
nam và (lầm) tưởng là người vô căn, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ vào,
vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của người nam ấy
với thân thể (vị ấy) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Là loài
thú và biết là loài thú, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve,
...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của loài thú ấy với thân thể
(vị ấy) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Là loài
thú và có sự hoài nghi, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve,
...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của loài thú ấy với thân thể
(vị ấy) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Là loài
thú và (lầm) tưởng là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt
ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của loài thú ấy với thân
thể (vị ấy) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Là loài
thú và (lầm) tưởng là người vô căn, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ vào,
vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của loài thú ấy với
thân thể (vị ấy) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Là loài
thú và (lầm) tưởng là người nam, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt
ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của loài thú ấy với thân
thể (vị ấy) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
[383] Hai
người nữ và biết hai người nữ là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ
vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của hai người
nữ ấy với thân thể (vị ấy) thì phạm hai tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Hai người
nữ và có sự hoài nghi là hai người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ
vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của hai người
nữ ấy với thân thể (vị ấy) thì phạm hai trọng tội (thullaccaya).
Hai người
nữ và (lầm) tưởng hai người nữ là người vô căn, ...(như trên)... Hai
người nữ và (lầm) tưởng hai người nữ là người nam, ...(như trên)... Hai
người nữ và (lầm) tưởng là loài thú, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ vào,
vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của hai người nữ ấy
với thân thể (vị ấy) thì phạm hai trọng tội (thullaccaya).
Hai người
vô căn và biết hai người vô căn là người vô căn, vị tỷ-kheo bị khởi dục
rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của hai
người vô căn ấy với thân thể (vị ấy) thì phạm hai trọng tội
(thullaccaya).
Hai người
vô căn và có sự hoài nghi là hai người vô căn, ...(như trên)... Hai
người vô căn và (lầm) tưởng hai người vô căn là người nam, ...(như
trên)... Hai người vô căn và (lầm) tưởng hai người vô căn là loài thú,
...(như trên)... Hai người vô căn và (lầm) tưởng hai người vô căn là
người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)...
nắm lấy, chạm vào thân thể của hai người vô căn ấy với thân thể (vị ấy)
thì phạm hai tội tác ác (dukkaṭa).
Hai người
nam và biết hai người nam là người nam, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ
vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của hai người
nam ấy với thân thể (vị ấy) thì phạm hai tội tác ác (dukkaṭa).
Hai người
nam và có sự hoài nghi là hai người nam, ...(như trên)... Hai người nam
và (lầm) tưởng hai người nam là loài thú, ...(như trên)... Hai người nam
và (lầm) tưởng hai người nam là người nữ, ...(như trên)... Hai người nam
và (lầm) tưởng hai người nam là người vô căn, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi
sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của hai
người nam ấy với thân thể (vị ấy) thì phạm hai tội tác ác (dukkaṭa).
Hai con
thú và biết hai con thú là loài thú, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ vào,
vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của hai con thú ấy
với thân thể (vị ấy) thì phạm hai tội tác ác (dukkaṭa).
Hai con
thú và có sự hoài nghi là hai con thú, ...(như trên)... Hai con thú và
(lầm) tưởng hai con thú là người nữ, ...(như trên)... Hai con thú và
(lầm) tưởng hai con thú là người vô căn, ...(như trên)... Hai con thú và
(lầm) tưởng hai con thú là người nam, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ vào,
vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của hai con thú ấy
với thân thể (vị ấy) thì phạm hai tội tác ác (dukkaṭa).
[384]
Người nữ và người vô căn và (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỷ-kheo
bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân
thể của cả hai người ấy với thân thể (vị ấy) thì phạm tội Tăng tàng
(Saṅghādisesa) và tội tác ác (dukkaṭa).
Người nữ
và người vô căn và có sự hoài nghi về cả hai, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi
sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của cả hai
người ấy với thân thể (vị ấy) thì phạm trọng tội (thullaccaya) và tội
tác ác (dukkaṭa).
Người nữ
và người vô căn và (lầm) tưởng cả hai là người vô căn, vị tỷ-kheo bị
khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân
thể của cả hai người ấy với thân thể (vị ấy) thì phạm hai trọng tội
(thullaccaya).
Người nữ
và người vô căn và (lầm) tưởng cả hai là người nam, , vị tỷ-kheo bị khởi
dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của
cả hai người ấy với thân thể (vị ấy) thì phạm trọng tội (thullaccaya) và
tội tác ác (dukkaṭa).
Người nữ
và người vô căn và (lầm) tưởng cả hai là loài thú, vị tỷ-kheo bị khởi
dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của
cả hai người ấy với thân thể (vị ấy) thì phạm trọng tội (thullaccaya) và
tội tác ác (dukkaṭa).
Người nữ
và người nam và (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục
rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của cả
hai người ấy với thân thể (vị ấy) thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa)
và tội tác ác (dukkaṭa).
Người nữ
và người nam và có sự hoài nghi về cả hai, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ
vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của cả hai
người ấy với thân thể (vị ấy) thì phạm trọng tội (thullaccaya) và tội
tác ác (dukkaṭa).
Người nữ
và người nam và (lầm) tưởng cả hai là người vô căn, vị tỷ-kheo bị khởi
dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của
cả hai người ấy với thân thể (vị ấy) thì phạm trọng tội (thullaccaya) và
tội tác ác (dukkaṭa).
Người nữ
và người nam và (lầm) tưởng cả hai là người nam, vị tỷ-kheo bị khởi dục
rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của cả
hai người ấy với thân thể (vị ấy) thì phạm trọng tội (thullaccaya) và
tội tác ác (dukkaṭa).
Người nữ
và người nam và (lầm) tưởng cả hai là loài thú, vị tỷ-kheo bị khởi dục
rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của cả
hai người ấy với thân thể (vị ấy) thì phạm trọng tội (thullaccaya) và
tội tác ác (dukkaṭa).
Người nữ
và loài thú và (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục
rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của cả
hai người ấy với thân thể (vị ấy) thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa)
và tội tác ác (dukkaṭa).
Người nữ
và loài thú và có sự hoài nghi về cả hai, ...(như trên)... (lầm) tưởng
cả hai là người vô căn, ...(như trên)... (lầm) tưởng cả hai là người
nam, ...(như trên)... (lầm) tưởng cả hai là loài thú, vị tỷ-kheo bị khởi
dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của
cả hai người ấy với thân thể (vị ấy) thì phạm trọng tội (thullaccaya) và
tội tác ác (dukkaṭa).
Người vô
căn và người nam và (lầm) tưởng cả hai là người vô căn, vị tỷ-kheo bị
khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân
thể của cả hai người ấy với thân thể (vị ấy) thì phạm trọng tội
(thullaccaya) và tội tác ác (dukkaṭa).
Người vô
căn và người nam và có sự hoài nghi về cả hai, ...(như trên)... thì phạm
hai tội tác ác (dukkaṭa).
Người vô
căn và người nam và (lầm) tưởng cả hai là người nam, ...(như trên)...
Người vô căn và người nam và (lầm) tưởng cả hai là loài thú, ...(như
trên)... Người vô căn và người nam và (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị
tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm
vào thân thể của cả hai người ấy với thân thể (vị ấy) thì phạm hai tội
tác ác (dukkaṭa).
Người vô
căn và loài thú và (lầm) tưởng cả hai là người vô căn, vị tỷ-kheo bị
khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân
thể của cả hai người ấy với thân thể (vị ấy) thì phạm trọng tội
(thullaccaya) và tội tác ác (dukkaṭa).
Người vô
căn và loài thú và có sự hoài nghi về cả hai, ...(như trên)... Người vô
căn và loài thú và (lầm) tưởng cả hai là người nam, ...(như trên)...
Người vô căn và người nam và (lầm) tưởng cả hai là loài thú, ...(như
trên)... Người vô căn và người nam và (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị
tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm
vào thân thể của cả hai người ấy với thân thể (vị ấy) thì phạm hai tội
tác ác (dukkaṭa).
Người nam
và loài thú và (lầm) tưởng cả hai là người nam, vị tỷ-kheo bị khởi dục
rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của cả
hai người ấy với thân thể (vị ấy) thì phạm hai tội tác ác (dukkaṭa).
Người nam
và loài thú và có sự hoài nghi về cả hai, ...(như trên)... Người nam và
loài thú và (lầm) tưởng cả hai là loài thú, ...(như trên)... Người nam
và loài thú và (lầm) tưởng cả hai là người nữ, ...(như trên)... Người
nam và loài thú và (lầm) tưởng cả hai là người vô căn, vị tỷ-kheo bị
khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân
thể của cả hai người ấy với thân thể (vị ấy) thì phạm hai tội tác ác
(dukkaṭa).
[385] Là
người nữ và biết là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt
ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của người nữ ấy bằng vật
được gắn liền với thân thể (vị ấy) thì phạm trọng tội (thullaccaya).
Hai người
nữ và biết cả hai người nữ là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ
vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của hai người
nữ ấy bằng vật được gắn liền với thân thể (vị ấy) thì phạm hai trọng tội
(thullaccaya).
Người nữ
và người vô căn và (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi
dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của
hai người ấy bằng vật được gắn liền với thân thể (vị ấy) thì phạm trọng
tội (thullaccaya) và tội tác ác (dukkaṭa).
Là người
nữ và biết là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve,
...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật được gắn liền với thân thể của
người nữ ấy bằng thân thể (vị ấy) thì phạm trọng tội (thullaccaya).
Hai người
nữ và biết cả hai người nữ là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ
vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật được gắn liền với
thân thể của hai người nữ ấy với thân thể (vị ấy) thì phạm hai trọng tội
(thullaccaya).
Người nữ
và người vô căn và (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi
dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật được gắn
liền với thân thể của hai người ấy với thân thể (vị ấy) thì phạm trọng
tội (thullaccaya) và tội tác ác (dukkaṭa).
Là người
nữ và biết là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve,
...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật được gắn liền với thân thể của
người nữ ấy bằng vật được gắn liền với thân thể (vị ấy) thì phạm tội tác
ác (dukkaṭa).
Hai người
nữ và biết cả hai người nữ là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ
vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật được gắn liền với
thân thể của hai người nữ ấy bằng vật được gắn liền với thân thể (vị ấy)
thì phạm hai tội tác ác (dukkaṭa).
Người nữ
và người vô căn và (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi
dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật được gắn
liền với thân thể của hai người ấy bằng vật được gắn liền với thân thể
(vị ấy) thì phạm hai tội tác ác (dukkaṭa).
Là người
nữ và biết là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve,
...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật ném ra của người nữ ấy với thân
thể (vị ấy) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Hai người
nữ và biết cả hai người nữ là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ
vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật ném ra của hai
người nữ ấy với thân thể (vị ấy) thì phạm hai tội tác ác (dukkaṭa).
Người nữ
và người vô căn và (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi
dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật ném ra
của hai người ấy với thân thể (vị ấy) thì phạm hai tội tác ác (dukkaṭa).
Là người
nữ và biết là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve,
...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật ném ra của người nữ ấy bằng vật
được gắn liền với thân thể (vị ấy) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Hai người
nữ và biết cả hai người nữ là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ
vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật ném ra của hai
người nữ ấy bằng vật được gắn liền với thân thể (vị ấy) thì phạm hai tội
tác ác (dukkaṭa).
Người nữ
và người vô căn và (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi
dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật ném ra
của hai người ấy bằng vật được gắn liền với thân thể (vị ấy) thì phạm
hai tội tác ác (dukkaṭa).
Là người
nữ và biết là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ vào, vuốt ve,
...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật ném ra của người nữ ấy bằng vật
ném ra (của vị ấy) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Hai người
nữ và biết cả hai người nữ là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục rồi sờ
vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật ném ra của hai
người nữ ấy bằng vật ném ra (của vị ấy) thì phạm hai tội tác ác
(dukkaṭa).
Người nữ
và người vô căn và (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi
dục rồi sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật ném ra
của hai người ấy bằng vật ném ra (của vị ấy) thì phạm hai tội tác ác
(dukkaṭa).
Dứt
phần trùng lặp về vị tỷ-kheo.
[386] Là
người nữ và biết là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục và người nữ sờ vào,
vuốt ve, vuốt xuống, vuốt lên, vỗ xuống, vỗ lên, kéo vào, đẩy ra, giữ
lại, ôm chặt, nắm lấy, chạm vào thân thể của vị tỷ-kheo với thân thể của
cô ấy; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết được
sự xúc chạm thì phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Hai người
nữ và biết cả hai người nữ là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục và hai
người nữ sờ vào, vuốt ve, vuốt xuống, vuốt lên, vỗ xuống, vỗ lên, kéo
vào, đẩy ra, giữ lại, ôm chặt, nắm lấy, chạm vào thân thể của vị tỷ-kheo
với thân thể của họ; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng
thân, và biết được sự xúc chạm thì phạm hai tội Tăng tàng
(Saṅghādisesa).
Người nữ
và người vô căn và (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi
dục và cả hai sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân
thể của vị tỷ-kheo với thân thể của họ; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp ứng,
rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì phạm tội Tăng tàng
(Saṅghādisesa) và tội tác ác (dukkaṭa).
Là người
nữ và biết là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục và người nữ sờ vào, vuốt
ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể của vị tỷ-kheo bằng vật
được gắn liền với thân thể của cô ấy; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp ứng, rồi
ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì phạm trọng tội
(thullaccaya).
Hai người
nữ và biết cả hai người nữ là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục và hai
người nữ sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân thể
của vị tỷ-kheo bằng vật được gắn liền với thân thể của họ; (nếu) vị ấy
có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì
phạm hai trọng tội (thullaccaya).
Người nữ
và người vô căn và (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi
dục và cả hai sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào thân
thể của vị tỷ-kheo bằng vật được gắn liền với thân thể của họ; (nếu) vị
ấy có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì
phạm trọng tội (thullaccaya) và tội tác ác (dukkaṭa).
Là người
nữ và biết là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục và người nữ sờ vào, vuốt
ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật được gắn liền với thân thể
của vị tỷ-kheo với thân thể của cô ấy; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp ứng,
rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì phạm trọng tội
(thullaccaya).
Hai người
nữ và biết cả hai người nữ là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục và hai
người nữ sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật được
gắn liền với thân thể của vị tỷ-kheo với thân thể của họ; (nếu) vị ấy có
ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì phạm
hai trọng tội (thullaccaya).
Người nữ
và người vô căn và (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi
dục và cả hai sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật
được gắn liền với thân thể của vị tỷ-kheo với thân thể của họ; (nếu) vị
ấy có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì
phạm trọng tội (thullaccaya) và tội tác ác (dukkaṭa).
Là người
nữ và biết là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục và người nữ sờ vào, vuốt
ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật được gắn liền với thân thể
của vị tỷ-kheo bằng vật được gắn liền với thân thể của cô ấy; (nếu) vị
ấy có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì
phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Hai người
nữ và biết cả hai người nữ là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục và hai
người nữ sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật được
gắn liền với thân thể của vị tỷ-kheo bằng vật được gắn liền với thân thể
của họ; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết
được sự xúc chạm thì phạm hai tội tác ác (dukkaṭa).
Người nữ
và người vô căn và (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi
dục và cả hai sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật
được gắn liền với thân thể của vị tỷ-kheo bằng vật được gắn liền với
thân thể của họ; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, và
biết được sự xúc chạm thì phạm hai tội tác ác (dukkaṭa).
Là người
nữ và biết là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục và người nữ sờ vào, vuốt
ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật ném ra của vị tỷ-kheo bằng
thân thể của cô ấy; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân,
và biết được sự xúc chạm thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Hai người
nữ và biết cả hai người nữ là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục và hai
người nữ sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật ném ra
của vị tỷ-kheo bằng thân thể của họ; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp ứng, rồi
ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì phạm hai tội tác ác
(dukkaṭa).
Người nữ
và người vô căn và (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi
dục và cả hai sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật
ném ra của vị tỷ-kheo bằng thân thể của họ; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp
ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì phạm hai tội tác
ác (dukkaṭa).
Là người
nữ và biết là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục và người nữ sờ vào, vuốt
ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật ném ra của vị tỷ-kheo bằng
vật được gắn liền với thân thể của cô ấy; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp ứng,
rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì phạm tội tác ác
(dukkaṭa).
Hai người
nữ và biết cả hai người nữ là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục và hai
người nữ sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật ném ra
của vị tỷ-kheo bằng vật được gắn liền với thân thể của họ; (nếu) vị ấy
có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì
phạm hai tội tác ác (dukkaṭa).
Người nữ
và người vô căn và (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi
dục và cả hai sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật
ném ra của vị tỷ-kheo bằng vật được gắn liền với thân thể của họ; (nếu)
vị ấy có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm
thì phạm hai tội tác ác (dukkaṭa).
Là người
nữ và biết là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục và người nữ sờ vào, vuốt
ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật ném ra của vị tỷ-kheo bằng
vật ném ra của cô ấy; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng
thân, và biết được sự xúc chạm thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Hai người
nữ và biết cả hai người nữ là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi dục và hai
người nữ sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật ném ra
của vị tỷ-kheo bằng vật ném ra của họ; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp ứng,
rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì phạm hai tội tác ác
(dukkaṭa).
Người nữ
và người vô căn và (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỷ-kheo bị khởi
dục và cả hai sờ vào, vuốt ve, ...(như trên)... nắm lấy, chạm vào vật
ném ra của vị tỷ-kheo bằng vật ném ra của họ; (nếu) vị ấy có ý muốn đáp
ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì phạm hai tội tác
ác (dukkaṭa).
[387] Vị
có ý muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì
phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vị có ý
muốn đáp ứng, rồi ra sức bằng thân, (nhưng) không biết được sự xúc chạm
thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Vị có ý
muốn đáp ứng, (nhưng) không ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm
thì vô tội.
Vị có ý
muốn đáp ứng, (nhưng) không ra sức bằng thân, và không biết được sự xúc
chạm thì vô tội.
Vị có ý
muốn thoát ra, rồi ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm thì vô
tội.
Vị có ý
muốn thoát ra, rồi ra sức bằng thân, (nhưng) không biết được sự xúc chạm
thì vô tội.
Vị có ý
muốn thoát ra, (nhưng) không ra sức bằng thân, và biết được sự xúc chạm
thì vô tội.
Vị có ý
muốn thoát ra, (nhưng) không ra sức bằng thân, và không biết được sự xúc
chạm thì vô tội.
[388] Vị
không cố ý, khi tâm không ghi nhận (asatiyā),[7]
vị không biết, vị không thích thú, vị bị điên, vị có tâm bị rối loạn, vị
bị thọ khổ hành hạ, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
[389]
Người mẹ, người con gái,
chị gái, và người vợ,
nữ quỷ, người vô căn,
ngủ, đã chết, thú cái,
và con búp bê gỗ,
bị áp bức, xe hàng,
đường đi, và thân cây,
chiếc thuyền, dây, cây gậy,
vị dùng bình bát đẩy,
khi được người đảnh lễ,
ra sức nhưng không đụng.
[390] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ sờ vào người mẹ do lòng thương mến mẹ. Vị
ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Phải chăng ta đã phạm tội Tăng tàng
(Saṅghādisesa)?” Vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm tội tác
ác (dukkaṭa).
Vào lúc
bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ sờ vào người con gái ruột do lòng thương mến
con gái. ...(như trên)... sờ vào người chị ruột do lòng thương mến chị
ruột. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)... Vị ấy đã trình sự việc
ấy lên đức Thế Tôn.
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm tội tác
ác (dukkaṭa).
[391] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ đã thực hiện việc xúc chạm thân thể với
người vợ cũ. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi đã phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vào lúc
bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ đã thực hiện việc xúc chạm thân thể với nữ
dạ-xoa. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm trọng tội
(thullaccaya).
Vào lúc
bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ đã thực hiện việc xúc chạm thân thể với người
vô căn. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm trọng tội
(thullaccaya).
Vào lúc
bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ đã thực hiện việc xúc chạm thân thể với người
nữ đang ngủ. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi đã phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vào lúc
bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ đã thực hiện việc xúc chạm thân thể với người
nữ đã chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm trọng tội
(thullaccaya).
Vào lúc
bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ đã thực hiện việc xúc chạm thân thể với người
nữ dạng thú (tiracchānagatitthiyā). Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc.
...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm tội tác
ác (dukkaṭa).
Vào lúc
bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ đã thực hiện việc xúc chạm thân thể với con
búp bê gỗ. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm tội tác
ác (dukkaṭa).
[392] Vào
lúc bấy giờ, có nhiều người đàn bà đã áp bức vị tỷ-kheo nọ và tay nắm
tay dẫn đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi có thích thú không?
- Bạch Thế
Tôn, con không thích thú.
- Này
tỷ-kheo, vị không thích thú thì vô tội.
[393] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ bị khởi dục và đã lay động chiếc xe hàng
có người đàn bà đã leo lên. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm tội tác
ác (dukkaṭa).
[394] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ khi nhìn thấy người đàn bà đi ngược chiều
đã bị khởi dục rồi dùng bả vai thúc vào (cô ấy). Vị ấy đã có nỗi nghi
hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi đã phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
[395] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ bị khởi dục và đã lay động thân cây có
người đàn bà đã leo lên. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm tội tác
ác (dukkaṭa).
[396] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ bị khởi dục và đã lay động chiếc thuyền có
người đàn bà đã leo lên. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm tội tác
ác (dukkaṭa).
[397] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ bị khởi dục và đã lôi sợi dây thừng đang
được người đàn bà nắm lấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm trọng tội
(thullaccaya).
Vào lúc
bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ bị khởi dục và đã lôi cây gậy đang được người
đàn bà nắm lấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm trọng tội
(thullaccaya).
[398] Vào
lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ bị khởi dục và đã dùng bình bát đẩy người
đàn bà. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm trọng tội
(thullaccaya).
Vào lúc
bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong khi người đàn bà đang đảnh lễ[8]
đã đưa bàn chân lên. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...
- Này
tỷ-kheo, ngươi đã phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa).
Vào lúc
bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ (nghĩ rằng): “Ta sẽ nắm lấy người đàn bà”
rồi đã ra sức nhưng chưa chạm đến. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Phải
chăng ta đã phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa)?” Vị ấy đã trình sự
việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này
tỷ-kheo, ngươi không phạm tội Tăng tàng (Saṅghādisesa) mà phạm tội tác
ác (dukkaṭa).
Dứt điều Tăng tàng
(Saṅghādisesa) thứ nhì.
*******
[1]
Tựa đề này do người dịch thêm vào để tiện việc phân biệt
[2]
Anabhirato: tâm bị loạn động và đang bị thiêu đốt bởi ngọn lửa ái dục
nhưng lại không muốn trở về trạng thái tại gia (theo lời giải thích
của ngài Buddhaghosa).
[3]
Theo ngài Buddhaghosa, đại đức Udāyi là thầy tế độ của đại đức
Seyyasaka.
[4]
Ngài Buddhaghosa giải thích rằng: (Saṅghādisesa = Saṅgha-ādi-sesa) Hội
chúng (Saṅgha) là cần thiết từ lúc khởi đầu (ādi) và các phần kế
(sesa). Khởi đầu là sự ban cho hành phạt parivāsa, các phần kế
là sự ban cho hành phạt mānatta hoặc sự ban cho việc thực hành
trở lại từ đầu (mūlāya paṭikassanaṃ), cuối cùng là hành sự giải
tội (abbhānakamma) đều do hội chúng (Saṅgha) thực hiện, cá nhân
hoặc nhóm tỷ-kheo đều không được (Xin xem thêm Tiểu Phẩm –
Cullavagga, chương II).
[5]
Số bị cách khoảng có lẽ do lỗi kỹ thuật vì nội dung không thiếu sót
khi so sánh với CD Chaṭṭhasaṅgāyana.
[6]
Ngài Buddhaghosa cho rằng trú xá của đại đức Udāyi không phải ở trong
một khu rừng riêng biệt mà ở trong Jetavana, thuộc về khu vực ở một
bên, cuối cùng, sát ranh giới.
[7]
Ngài Buddhaghosa giải thích về “asatiyā” như sau: Vị ấy bị bận
rộn về việc khác nên không biết rằng: “Ta chạm vào người nữ.”
Trong lúc không biết (asatiyā = thất niệm) như thế, như trong khi co
duỗi tay chân, v.v... vị có sự đụng cham thì vô tội.
[8]
Theo ngài Buddhaghosa, người đàn bà đảnh lễ theo lối nắm lấy bàn chân
của vị tỷ-kheo. Trường hợp ấy, vị tỷ-kheo nên có vật phủ lên bàn chân
hoặc bất động.
---o0o---
Mục lục | 01
| 02 |
03 |
04 | 05a |
05b | 05c |
05d | 06
Phân tích Giới Tỷ-Kheo II |
Phân tích Giới Tỷ-Kheo Ni | Giới thiệu