Kalachakra
là
một
cách
luyện
thiền
định
của
Phật
giáo
và
được
liệt
vào
hàng
cao
nhất
trong
cách
luyện
về
mật
giáo
Yoga.
Theo
lịch
sử
của
Mật
giáo,
một
năm
sau
khi
Đức
thích
Ca
Mâu
Ni
thành
đạo,
Ngài
được
vua
Da
Wa
Zang
Po
của
vương
quốc
Shambhala
(một
lãnh
thổ
được
mô
tả
nằm
cạnh
sông
Tarim
thuộc
trung
tâm
Á
châu)
thỉnh
cầu
Ngài
chỉ
dạy
bộ
môn
mật
tông
Kalachakra.
Thật
vậy,
chính
Đức
Phật
đã
tuyên
bố
như
vậy
trong
một
buổi
thiền
định
thần
tính
Kalachakra
được
hình
thành
tại
miền
Nam
Ấn
Độ.
Nơi
đây
Ngài
đã
truyền
toàn
bộ
bí
quyết
và
diễn
thuyết
về
bộ
môn
Mật
Tông
này.
Cũng
trong
thời
gian
đó
tại
núi
Linh
Thứu
(Grohrarakùta)
Ngài
giảng
về
Kinh
Đại
Bát
Nhã
Ba
La
Mật
Đa
(Mahaprajnaparamita
sutra).
Hoàng
đế
cũng
đặc
biệt
thân
chinh
từ
kinh
đô
của
Ngài
từ
miền
Bắc
Kashmir
để
tiếp
nhận
những
giáo
huấn
này
và
ghi
nhớ
rõ
ràng
trước
khi
Ngài
đem
đạo
lý
trở
về
vương
quốc
Shambhala.
Tại
nơi
đây
Ngài
cho
kiến
trúc
một
tòa
cung
điện
Mandala
ba
chiều
khổng
lồ
và
Ngài
liên
tục
tinh
tấn
thiền
định
theo
Mật
Tông,
và
Ngài
phổ
biến
cách
tập
luyện
cho
toàn
dân
trong
vương
quốc
của
Ngài.
Theo
truyền
thống
của
Mật
Tông
Kalachakra
đầu
tiên
được
truyền
liên
tục
qua
bảy
vị
hoàng
đế
của
vương
quốc
Shambhala,
rồi
kế
đến
hai
mươi
lăm
vị
danh
sư.
Những
vị
danh
sư
này
được
giao
phó
truyền
bá
rộng
rãi
cách
luyện
tập
Mật
Tông
càng
phổ
biến
càng
tốt.
Đúng
vào
thời
điểm
mà
vị
danh
sư
thứ
mười
hai
làm
truyền
nhân,
thì
Mật
Tông
Kalachakra
được
truyền
từ
Shambhala
sang
Ấn
Độ.
Sự
kiện
này
xảy
ra
nhờ
sự
viếng
thăm
của
hai
thương
gia
người
Ấn,
sau
khi
họ
đã
học
hỏi
được,
vội
truyền
bá
nó
vào
nước
của
họ.
Về
sau
chính
nhờ
sự
nỗ
lực
thành
công
của
hai
mươi
lăm
vị
thông
dịch
viên
mà
Pháp
Môn
Thiền
Định
Vô
Thượng
này
đã
được
truyền
bá
từ
Ấn
Độ
sang
Tây
Tạng.
Vào
khoảng
thế
kỷ
thứ
VIII,
thời
đại
của
Bu-Ton,
sự
tu
tập
đã
trở
nên
thịnh
hành
một
cách
phổ
biến
tại
nơi
đây.
Trong
bộ
Bách
Khoa
Toàn
Thư
của
sư
tổ
Bu-Ton
có
viết
rõ
những
điều
chú
thích
rộng
rãi
nhất
của
Mật
Tông
Kalachakra
và
thông
qua
môn
đệ
của
Ngài
là
Cho-Kyi
Pal-Wa
và
kế
tiếp
là
Je
Tzong-Ka-Pa.
Sau
khi
lĩnh
hội
những
gì
đã
được
truyền
thụ,
Je
Tzong-Ka-Pa
bắt
đầu
ẩn
dật
và
tinh
tấn
thiền
định,
Ngài
đã
đạt
tới
mức
cao
nhất
của
sáu
bậc
năng
lực.
Kết
quả
của
sự
ẩn
dật
đã
đem
đến
cho
Ngài
một
thành
công
lớn.
Về
sau
Je
Tzong-Ka-Pa
truyền
xuống
cho
đệ
tử
của
ngài
là
Ka-Drub
Je,
từ
đó
về
sau
sợi
dây
truyền
và
thụ
không
đứt
khoảng,
được
tiếp
nối
từ
đời
này
sang
đời
khác
của
các
bậc
danh
sư
bất
khả
tư
nghì
của
Tây
Tạng,
và
được
sự
tiếp
nhận
bằng
thần
thức
của
đức
Đạt
Lai
Lạt
Ma
thứ
14
qua
người
thầy
của
mình
là
Ngài
Kyabje
Yongdzin
Ling
Rinpoche,
là
vị
thứ
chín
mươi
bảy
được
thừa
tự
ngôi
vị
của
ngài
Je
Tzong-Ka-Pa.
Sợi
dây
liên
kết
không
bị
gián
đoạn
của
Mật
Giáo
Kalachakra
được
truyền
đến
ngày
hôm
nay
quả
là
một
ý
nghĩa
phi
thường.
Cũng
như
Je
Tzong-Ka-Pa
và
Đức
Đạt
Lai
Lạt
Ma
thứ
năm
vẫn
thường
nhấn
mạnh,
điều
quan
trọng
trước
khi
bước
vào
sự
tập
luyện
Đại
thừa
Mật
Tông
là
phải
có
căn
bản
vững
chắc
về
nền
tảng
phổ
thông
của
Đại
thừa,
là
sự
đoạn
tuyệt
và
phát
Bồ
Đề
tâm,
cùng
sự
thấu
triệt
Pháp
khổ
hạnh.
Thiếu
những
yếu
tố
kể
trên
hành
giả
không
thể
tiếp
nhận
chắc
chắn
những
kinh
nghiệm
cụ
thể
về
các
sự
tập
luyện
của
Mật
Giáo
(Tantric).
Tuy
nhiên,
việc
thiết
yếu
nhất
là
sự
phát
tâm
của
hành
giả
nhằm
tiếp
nhận
sự
truyền
pháp
Mật
tông.
Một
số
người
hy
vọng
được
sự
gia
bị
để
tránh
khỏi
những
tai
ách,
bệnh
tật
và
những
trắc
trở
trong
cuộc
đời
họ.
Một
số
khác
đeo
đuổi
với
mục
đích
là
muốn
được
tái
sinh
(Rebirth)
trong
một
đời
sống
sung
sướng
hơn.
Cũng
có
một
số
người
mong
muốn
rằng
chính
họ
sẽ
đạt
được
tái
sanh
để
tiếp
tục
tu
học.
Vì
thế
muốn
tiếp
nhận
đầy
đủ
sự
điểm
đạo
(Initiation)
tinh
khiết,
hành
giả
phải
từ
bỏ
những
ước
vọng
ở
trên,
vì
chúng
chẳng
qua
là
những
ước
vọng
ích
kỷ.
Hành
giả
phải
đến
nơi
truyền
giới
với
một
thái
độ
mong
muốn
đạt
được
sự
giác
ngộ
càng
sớm
càng
tốt
qua
sự
tu
luyện
Mật
Tông
trong
một
khuôn
khổ
với
khả
năng
mang
hạnh
phúc
cao
cả
đến
cho
chúng
sanh.
Có
tất
cả
ba
cấp
để
tập
luyện
Mật
Tông,
dựa
theo
đó
là
Nội
công,
Ngoại
Công
và
Kalachakra.
Ngoại
công
gồm
có:
ngành
thiên
văn
học,
chiêm
tinh
học
và
toán
học.
Nội
công
gồm
có
các
cách
dạy
liên
quan
đến
sự
cấu
trúc
thân
thể
con
người
và
luôn
cả
hệ
thống
năng
lực
và
phương
cách
khác
của
Kalachakra
là
học
hỏi
và
luyện
tập
thiền
định
theo
vị
thần
Kalachakra
thật
sự
và
cung
điện
tròn
Mandala
của
người
đang
ngự
ở
trên.
Cung
điện
Mandala
thường
được
vẽ
bằng
bột
màu,
có
lúc
được
đắp
thành
mô
hình
bằng
bột
và
dùng
sơn
hoặc
bột
cát
muôn
màu
để
vẽ
cung
điện
Mandala.
Sự
hiện
hữu
của
cung
điện
Mandala
rất
quan
trọng
trong
thời
gian
và
phạm
vi
truyền
pháp.
Vì
nó
là
mục
tiêu
để
cho
các
hành
giả
quán
tưởng
và
vị
Giáo
chủ
Mật
Tông
phải
đích
thân
diễn
thuyết
buổi
truyền
Pháp.
Vị
thần
thiền
định
Kalachakra
có
bốn
mặt,
hai
mươi
lăm
cánh
tay
và
bốn
chân.
Khuôn
mặt
chính
của
ngài
là
màu
xanh
dương,
hằn
lên
nét
phẫn
nộ
và
nhe
nanh.
Khuôn
mặt
phải
màu
đỏ,
khuôn
mặt
trái
màu
trắng
và
khuôn
mặt
phía
sau
là
màu
vàng,
mỗi
khuôn
mặt
có
ba
mắt.
Tám
cánh
tay
bên
dưới
màu
xanh
dương,
nhóm
tay
ở
giữa
màu
đỏ
và
nhóm
tay
trên
cùng
là
màu
trắng.
Toàn
thân
của
Ngài
màu
xanh
dương,
chân
phải
màu
đỏ,
chân
trái
màu
trắng,
ngài
ôm
choàng
một
người
vợ
màu
vàng
với
bốn
mặt
và
tám
tay.
Buổi
lễ
truyền
pháp
Kalachakra
kéo
dài
ba
ngày.
Ngày
đầu
tiên
chuẩn
bị
cho
nghi
thức,
trong
suốt
khoảng
thời
gian
này
dùng
để
giải
thích
những
điều
cần
làm
trước
khi
tập
luyện
Mật
Tông.
Đoạn
Trừ
là
cách
giác
ngộ
của
bồ
đề
tâm
và
phải
hiểu
đúng
nghĩa
của
vô
tri.
Trong
suốt
ngày
đầu
tiên
tất
cả
Phật
tử
chưa
được
phép
bước
vào
Mandala.
Trong
thời
gian
chuẩn
bị
nghi
lễ,
một
người
đại
diện
cho
toàn
thể
các
môn
sinh,
sẽ
tung
đũa
trên
một
cái
khay
đặc
biệt,
nếu
chiếc
đũa
rơi
khỏi
khay
ba
lần,
toàn
bộ
đệ
tử
sẽ
không
được
truyền
pháp
vào
lúc
đó.
Buổi
truyền
pháp
thứ
nhì
và
ngày
kế
tiếp
là
lễ
truyền
pháp
chánh
thức.
Gồm
có
tất
cả
bảy
phần.
Được
bắt
đầu
khi
toàn
bộ
đệ
tử
được
phép
vào
cung
điện
Mandala
xuyên
qua
vị
thần
Kalachakra
và
sự
hiện
hữu
của
vị
thần
nữ.
Lúc
đó
hành
giả
là
đứa
trẻ
ra
đời
trong
cung
điện
Kalachakra,
vị
Lạt
Ma
nâng
niu
mình
như
một
người
mẹ,
sẽ
chuẩn
bị
cho
sự
tỉnh
thức
chín
mùi
của
mình.
Đầu
tiên
nước
sẽ
được
chú
nguyện
và
chúng
ta
sẽ
được
tắm
rửa
như
tắm
rửa
cho
trẻ
sơ
sinh.
Việc
thứ
hai
là
chú
nguyện
cho
các
vật
trang
sức
trên
đầu,
gieo
những
hạt
giống
vô
giòng
trí
tuệ
của
chúng
ta
để
phát
triển
hiển
lộ
hào
quang
của
Đức
Phật,
nghi
lễ
này
giống
như
lần
đầu
tiên
cạo
tóc
cho
hài
nhi.
Việc
thứ
ba
là
chú
nguyện
vào
khăn
bịt
mắt,
việc
này
giống
như
gieo
hạt
giống
cho
vùng
hào
quang
trên
đầu,
và
cũng
giống
như
xâu
tai
và
đeo
nữ
trang
lần
đầu
tiên
cho
hài
nhi.
Việc
thứ
tư
là
chú
nguyện
trong
chuông
và
sau
đó
sẽ
phát
Phật
ngôn
(Buddha's
speech).
Tiếng
chuông
ngân
giống
như
những
lời
bập
bẹ
đầu
tiên
của
trẻ.
Việc
thứ
năm
là
truyền
thụ
bằng
hành
động,
ủy
thác
cho
hành
giả
những
gì
cần
thiết
để
tự
luyện
tập.
Nếu
chỉ
vài
môn
đệ
thì
lúc
này
mọi
người
sẽ
được
trang
phục
với
y
phục
bằng
xương,
cầm
đinh
ba,
nếu
không
có
thì
họ
phải
tưởng
tượng
là
đang
cầm
vật
đó.
Vào
lúc
này
giống
như
đứa
trẻ
bắt
đầu
chập
chững
hành
động.
Việc
thứ
sáu,
trong
số
các
việc
truyền
thụ
là
chọn
mật
danh,
trong
thời
gian
này
hành
giả
sẽ
nhận
tên
của
một
trong
số
năm
vị
Phật
thiền
định.
Giống
như
tên
gọi
của
một
hài
nhi,
hành
giả
sẽ
đạt
được
sự
giác
ngộ
nhân
danh
một
vị
Phật
làm
phương
tiện.
Việc
cuối
cùng
là
phép
truyền
thụ
gồm
hai
phần:
lễ
truyền
thụ
chính
thức
và
nghi
thức
liên
quan
đến
buổi
lễ,
việc
này
giống
như
bài
vỡ
lòng
tập
đọc
của
thiếu
nhi.
Mặc
dù
không
cần
hiểu
rõ
hết
toàn
bộ
những
chi
tiết
trong
ba
ngày
lễ,
tuy
nhiên
hành
giả
phải
có
nền
tảng
vững
chắc
về
phép
quán
tưởng
và
sự
phát
tâm
dũng
mãnh,
thì
chắc
chắn
hành
giả
sẽ
tiếp
nhận
được
toàn
bộ
sự
gia
truyền
của
Mật
Tông
Kalachakra.
Theo
MANDALA
Newsletter,
02/1995