Văn
Minh
Phương
Ðông
Và
Phương
Tây
ÐỐI THOẠI GIỮA
TRIẾT
HỌC
&
PHẬT
GIÁO
Jean
Francois
Revel
–
Matthieu
Ricard
BS
Hồ
Hữu
Hưng
biên
dịch
NHÀ
XUẤT
BẢN
THÀNH
PHỐ
HỒ
CHÍ
MINH
--2002--
---oOo---
Chương XV
NHÀ SƯ CHẤT VẤN VỊ TRIẾT GIA
Matthieu : Ba thường nói rằng: nếu Phật giáo nhắm vào việc
lột mặt nạ cái “tôi” và cái tôi này không thực sự hiện hữu, vậy có ích gì
để hành động? Ai sẽ chịu trách nhiệm về hành động của minh? Thật ra, dù có
quan niệm cái “tôi” không có thực thể, mọi hành động của mình? Thật ra, dù
có quan niệm cái “tôi” không có thực thể, mọi hành động đều đem đến một
hậu quả. Nhưng vật lý học đương đại cũng biến chúng ta thành những hạt
bụi, những “quarks”. Vậy thì đến phiên con hỏi lại Ba: “Nếu chúng ta là
những hạt bụi rõ ràng không chữa đựng một vết tích nào về cá nhân chúng
ta, vậy theo Ba chúng ta hành động để làm gì? Suy nghĩ, yêu đương, lo âu
về hạnh phúc và đau khổ để làm gì? Vì chúng ta là những hạt bụi kia mà.
Jean Francois : Phải, đấy là một lập luận rất xưa cũ trong một vài
triết thuyết ở Tây phương. Cơ cấu tâm lý học cũng nói gần giống như vây.
Có thể là một phản ứng với chủ nghĩa hiện sinh đặt nền tảng trên sự tự do,
sự lựa chọn cá nhân và trách nhiệm sau cùng của mình. Cơ cấu tâm lý học
nói rằng: “Không, thật sự con người không hiện hữu, chỉ có những cơ cấu
hình thành nên hắn hành động mà thôi.”
Matthieu : Họ định nghĩa cơ cấu như thế nào?
Jean Francois : Vì họ là những triết gia nên họ định nghĩa khá rắc
rối. Nói chung họ cho đó là những thực thể cấu thành luật chi phối những
hoạt động có tổ chức. Epicure cũng nói: “Chúng ta là tổng hợp những nguyên
tử, mà cái ta gọi là linh hồn chỉ là một sự lắp ghép cá nguyên tử. Vì thế
chúng ta đừng bận tâm về những tình cảm, những đau khổ, ham muốn, sợ hãi.
Ðối chiếu hiện tượng với thực tại đằng sau chúng là một quan niệm lỗi
thời. Rõ ràng là với kinh nghiệm sống động, con người có những cảm giác,
những tình cảm thật sự trong lòng hắn.
Matthieu : Ðúng là điều mà Phật giáo đã nói: dù đau khổ có
là ảo hóa đi nữa, đau khổ cũng được nhận biết và như vậy rất đang và rất
hợp lý làm tan biến nó đi. Con không hiểu tại sao người ta lại lên án Phật
giáo khi nói rằng: nếu cái tôi không tiếp diễn qua các giai đoạn của cuộc
đời, nếu nó là ảo hóa, thì cần gì phải bận tâm về hạnh phúc.
Jean Francois : Vậy là Ba sẽ cắt nghĩa cho con! Ví dụ có một tảng
đá rơi trên nhà con, làm sập nhà và giết hại một phần gia đình con. Con
gọi chính quyền sở tại, bác sĩ, các đội cứu thương và người ta lại gửi đến
một nhà địa chất học. Ông ta nói:” Nghe này, điều xảy ra hoàn toàn bình
thường. Anh biết không, trái đất xoay và luôn luôn có chuyển động trong
các địa tầng và các cuộc va chạm vào nhau. Như vậy không có điều gì bất
thường.” Cả con và ông địa chất đều không cùng chung một tiếng nói về hiện
tượng đã xảy ra. Ông địa chất có lý của ông ta, còn con thì bị tấn bi kịch
đè nặng. Việc những người dân sống trong những vùng thường bị bão lụt và
người ta giải thích bằng khí tượng học, cũng không vì thế mà bớt đi sự
nguy hiểm tai họa ập lên đầu họ. Cả hai thực tế đó đi song hành, và không
có cái này chối bỏ được cái kia.
Matthieu : Vậy là Ba đã đồng ý khi Phật giáo cho là cái ngã
không có thực thệ, cũng không vì thế mà thờ ơ với hành động, với hạnh phúc
hay đau khổ của chính mình hay với kẻ khác.
Jean Francois : Các nền minh triết đều có chung một quan niệm là
ảnh hưởng mà tôi có thể có, trên diễn tiến sự vật ở đời là một ảo tưởng,
vì nó mà tôi hy vọng rồi lại thất vọng, vui sướng rồi lại sự hãi, và nếu
tôi khẳng định cái Ngã là không gì cả, tôi chỉ là một trạm dừng chân tạm
thời, tôi sẽ có được một sự thanh thản. Nhiều nền minh triết đã nghĩ là
như vậy. Lập luận của phái khắc kỷ và của Spinoza cũng cho là như vậy.
Nhưng than ôi, thực tế phũ phàng lại đi ngược cái lập luận đó.
Matthieu : Và cũng chính là sự chống đối đó là nguyên nhân
của những dằn vặt của chúng ta. Chúng ta dính mắc quá sâu đậm vào cái Ngã
mà không nghĩ rằng làm tan biến nó đi, chúng ta sẽ giải quyết mọi vấn đề.
Chúng ta giống như một kẻ bị thương không dám gỡ bỏ các sợi chỉ khâu vết
thương. Và anh khắc kỷ thì chỉ đưa đến một sự cam chịu thụ động, còn anh
Phật tử đã chối bỏ cái tôi, thì đi đến sự giải thoát.
Jean Francois : Không phải thê. Người khắc kỷ chỉ muốn làm đúng
theo thiên nhiên, chớ không phải là thụ động. Anh ta không cam chịu những
gì xảy đến như là do định mệnh, nhưng anh ta chấp nhận là do ý muốn của
Thượng đế. Spinoza lập lại khía cạnh đso và cho là Thượng đế hay là thiên
nhiên. Sự tiến đến minh triết là không chịu nhận mình làm một món đồ chơi
của thiên nhiên, nhưng là tự mình quyết định lấy vận mạng của mình.
Matthieu : Nói chung quan niệm ấy giống như quan niệm về
nghiệp của Ấn Ðộ giáo. Ấn giáo cho rằng lý tưởng lý tưởng trong cuộc đời
là chấp nhận hoàn toàn số phận đã dành cho chúng ta mà không chống đối.
Quan điểm của người Phật tử có khác: Hắn chấp nhận hiện tại vì lẽ cái gì
đang xảy ra là kết quả của những việc làm xưa cũ. Nhưng tương lai là tùy
thuộc ở hắn. Hắn đang ở một ngã tư đường. Hiểu được cái ngã không thật có,
không dẫn đến việc chấp nhận một cách dũng cảm cái gì đang đến, nhưng là
để hành động tự do hơn, không còn bị cái tôi ràng buộc, một cái tôi là đầu
mối của một chuổi dài thương và ghét. Thoát ra khỏi sự vị ngã sẽ cho ta tự
do hành động hơn. Quá khứ đã qua rồi nhưng tương lai thì chưa đến.
Jean Francois : Ba hiểu rõ giá trị của con người có thể kìm chế
tình cảm của mình, những đam mê, nói chung là tự ngã của mình để quan sát
sự việc sáng suốt hơn. Ðó là một đảm bảo cho sự tự chủ giúp cho hắn hiểu
rõ cuộc đời và có hành động thích ứng. Tuy nhiên Ba tin rằng mọi cố gắng
để diệt cái ngã đã làm tê liệt mọi cảm giác mỗi khi gặp hoàn cảnh trái
ngang, khó chịu hoặc giả cái giảm giác phải lựa chọn một thái độ đạo đức
thích hợp, phải tránh phạm sai lầm và cái ý niệm là hành động con người
không phải luôn luôn là sáng suốt, can đảm và hiệu quả, nói tóm lại là
sáng suốt, can đảm và hiệu quả, nói tóm lại, mọi cố gắng để dứt trừ sự bất
an, cũng như tinh thần trách nhiệm đều luôn luôn thất bại.
Matthieu : Tây phương có vẻ khó hiểu được rằng khi con
người chứng ngộ được vô ngã, hắn ta sẽ quả cảm hơn, cương quyết hơn trong
hành động. Nó sẽ mở rộng sự hiểu biết của chúng ta về nguyên nhân của hạnh
phurc và đau khổ. Nó sẽ giúp ta hành động đúng hơn. Sự dính mắc vào cái
ngã không hề làm cho chúng ta nhận xét tốt hơn, trái lại nó làm mờ tối
chúng ta. Nếu hành động của chúng ta không sáng suốt, thiếu can đảm là vị,
như Ba đã nói, chúng ta là món đồ chơi của cái ngã này. Có một câu nói:
“Cái nhìn của thánh nhân xa hơn trời cao, sự thấu hiểu nhân quả của họ còn
tinh tế hơn bột mì.” Chúng ta không chống lại được kết quả cái gì chúng ta
đã gieo, nhưng chúng ta có thể xây dựng tương lai bằng cách biết phân biệt
cái gì đưa đến tai họa và cái gì làm ta thoát ra được. Và ta có thể cho
rằng định mệnh không quyết định tương lai của ta.
Jean Francois : Con hoàn toàn đồng ý theo chiều hướng của phái
khắc kỷ cũng như Spinoza đã muốn chứng minh rằng ngoài cái đang đến, không
có gì khác xảy ra.
Matthieu : Chúng ta đã nói nhiều về Phật giáo theo hướng
đem một ý nghĩa vào cuộc đời. Vậy theo Ba và theo cái trào lưu tư tưởng mà
Ba đại diện, cái gì đem lại ý nghĩa cho cuộc đời?
Jean Francois : Trước tiên Ba không đại diện cho một phong trào
lưu tư tưởng nào. Ba cố gắng tìm hiểu những người đang sống hay những
người đã từng sống, điều không phải là dễ dàng. Ðể có thể trả lời con Ba
muốn dựng lên một hậu cảnh cho những lộ trình mà tư tưởng Tây phương, có
ba loại giải thích về câu hỏi về ý nghĩa của cuộc đời. Thứ nhất là giải
thích tôn giáo, chủ yếu là sự vượt trội của những nhất thần giáo như Do
thái giáo, Cơ đốc giáo và Hồi giáo. Ðó là cách giải thích đặt cứu cánh
cuộc đời về cõi bên kia tùy theo công lao của con người trong cuộc đời
này. Nói chung dựa trên cái bệ đó mà phương Tây với sự giúp đỡ của các tôn
giáo đến từ Cận đông đã tìm ý nghĩa cuộc đời qua nhiều thiên niên kỷ.
Giải
thích tôn giáo cũng không được cá nhân mỗi người đi tìm hạnh phúc và sự
quân bình trên cõi đời này bởi vnhx hành động dựa trên thực tế cuộc sống.
Từ anh nông dân muốn có một mùa thu hoạch tốt đến ông vua tàn bạo luôn tìm
cách giết hại những kẻ chống đối, hay những thương gia tìm cách làm giàu.
Ta có thể nói, ngoài những tu sĩ, những nhà thần học dành cuộc đời mình
mưu tìm hạnh phúc thực tiễn dù là đôi khi cũng phạm tội, tuy là vẫn theo
đuổi một sự sống vĩnh hằng ở cõi bên kia. Hai mục tiêu này có thể dung hòa
được vì lẽ việc mưu tìm hạnh phúc đòi hở phải có sự tha thứ, sự thú nhận
tội lỗi,sự rửa tội và sự cứu rỗi các tội lỗi ở thế gian.
Matthieu : Có chăng những nền văn minh dựa trên một thuyết
siêu hình quan niệm nhiều đời sống khác nhau sau khi chết và trước khi
sinh ra. Trong những đời sống đó các giá trị tinh thần thắm đượm mọi hoạt
động hàng ngày, do đó không thể có hành động nào là tầm thường được.
Jean Francois : Trên nguyên tacw, đó là điều mà Cơ đốc giáo muốn
thực hiện. Nhưng khả năng con người muốn làm ngược lại lý tưởng do chính
mình đặt ra cũng rất lớn.
Matthieu : Tuy nhiên, nếu sống đúng theo tôn giáo thì đâu
cần nghĩ đến cõi bên kia. Nhưng chỉ cần làm cho mỗi hành động hiện tại có
ý nghĩa.
Jean Francois : Trên lý thuyết là đúng. Cơ đốc giáo gồm những lời
dạy trước tiên phải sống như thế nào trong cuộc đời này. Tùy theo cách ta
sống ta mà ta sẽ được cứu rỗi hay không.
Matthieu : Hãy thận trọng! Ba đang nói về những điều đã xảy
ra ở Tây phương. Ba không bảo con rằng theo giải pháp tôn giáo ta có thể
làm bất cứ điều gì trên đời nhưng sau cùng cũng được cứu rỗi như người ta
vẫn thường tin từ bấy lâu nay. Vì lẽ dân chúng châu AÂu đã sống trái với
đạo lý Cơ đốc trong hai ngàn năm, giết hại lẫn nhau, nô lệ hóa người khác,
cướp bóc nhau, ngoại tình nói chung phạm vào mọi tội ác căn bản, nhưng vẫn
hằng nuôi ý nghĩ sẽ được lên thiên đàng miễn là trước khi chết chúng được
xưng tội và chịu thánh lễ rửa tội. Giáo hội, những vị linh mục dành cả
thời gian để nhắc nhở tín đồ thế nào là tội lỗi và phải sống thế nào cho
đẹp ý Chúa. Ðiều mà Ba muốn nhấn mạnh là đi tìm một ý nghĩa cho cuộc đời
theo chiều hường tôn giáo, cũng không ngăn cản người ta đi tìm hạnh phúc
trong đời sống thường nhật và cũng không nên quên rằng những hạnh phúc này
hoàn toàn phù hợp với đạo lý Cơ đốc. Việc có một mái nhà, một gia đình,
vui thích vì được một vụ mùa tốt hay làm giàu chân chính, đều không có gì
phải cấm cản. Nhưng cũng có những hành động rõ ràng vi phạm giáo điều Cơ
đốc. Tuy nhiên vì Cơ đốc giáo là tôn giáo hướng về tội lỗi con người, về
sự sám hối và sự cứu rỗi, nên vấn đề được vận hành theo chiều hướng biện
chứng đó.
Matthieu : Trong trường hợp đso, có lẽ người ta nên xem xét
đến khả năng mà các tôn giáo lớn fx như những truyền thống tâm linh sáng
tạo nên một sự hòa hợp giữa lý thuyết và thực hành. Ai cũng hiểu rằng con
người rất khó thay đổi, rất khó thể hiện Phật tính sẳn có. Một truyền
thống tâm linh rất có thể được đánh giá, một mặt do sự nhận xét đúng đắn
về siêu hình của nó, mặt khác do hiệu quả các phương pháp mà nó đề ra giúp
cho sự cải tạo nội tâm con người.
Jean Francois : Dĩ nhiên một chút phù hợp giữa lời nói và việc làm
đâu có gại gì! Con đường thứ hai đê đem đến một ý nghĩa cho cuộc đời là
con đường triết học theo nghĩa cổ đại. Sự đi tìm minh triết, an ổn nội tâm
gồm có sự dứt bỏ những đam mê, những tham vọng phù phiếm và dành tất cả
nghị lực cho những tham vọng cao cả hơn trên bình diện tinh thần, tâm
linh, mỹ thuật, triết lý hay đạo lý để có thể làm cho việc giao tiếp với
nhau, cũng như cuộc sống cộng đồng tốt hơn. Ðây là quan niệm của những bậc
thánh hiền cổ xưa, đôi khi với Platon thì hơi thiên về tôn giáo siêu hình
hơn, đôi khi với phái khắc kỷ thì thiên về sự thanh thản liên tục, sự quân
bình nội tâm, sự xa rời các đam mê, chính trin, tình dục hay những ham
muốn khác. Sự minh triết mà chúng ta tìm thấy trong quyển: “Thư cho
Lucilius” của Sènèque hoặc là gần đây hơn ở Motaigne đã cho chúng ta những
lời dạy để có được một sự tự do nội tại, một sự xã ly ham muốn. Tuy nhiên
điều này không ngăn cản ta hưởng thụ những thú vui của cuộc sống nhất là
những thú vui tinh thần. Con đường thứ hai này đã bị bỏ rơi từ thế kỷ 17
và 18. Triết học đi đôi với khoa học vừa mới khai sinh từ thế kỷ, đã
chuyển hướng sang việc tìm hiểu tri kiến thuần túy, việc giải thích lịch
sử, bỏ qua việc tìm hiểu đời sống con người cũng như tìm một ý ngiax cho
cuộc đời.
Matthieu : Tức là tìm hiểu sự kiên.
Jean Francois : Ðúng, nhờ khoa học, người ta có thể tin chắc chắn
rằng có điều gì đó gọi là khách quan, một sự hiểu biết dành cho mọi người,
chớ không riêng cho vị thánh nhân.
Matthieu : Sự hiểu biết về tâm linh cũng dành cho mọi người
nếu chịu khó tìm hiểu và thâm nhập vào. Ðó là cách để trở thành một người
hiên. Nếu không, một sự hiểu biết khách quan mà mọi người có thể đạt được
mà không cố gắng, sẽ chỉ là một mẫu số chung của sự hiểu biết. Ta có thể
nói đến một sự tiếp cận thiên về lượng hơn và về phẩm.
Jean Francois : Nên nói rằng ở phương Tây người ta đi từ sự tin
tưởng đến sự tìm bằng chứng để giải thích sự tin tưởng đó.
Matthieu : Hoa trái của sự hành trì tâm linh, sư tự tại, sự
hăng hái, sự sáng suốt và các biểu hiện của nó, lòng từ, tâm từ, tâm xã,
sự kiên nhẫn rõ ràng là bằng chứng hơn là sự tin tưởng suông. Người ta nói
rằng lòng vị tha và sự làm chủ bản thân đều là dấu hiệu của sự giác ngộ
bản thân cũng như dứt khỏ ràng buộc tình cảm là dấu hiệu tiến bộ trong
thiền định. Những đức tính này ăn sâu vào con người chúng ta và bộc lộ qua
các hành động.
Jean Francois : Theo dòng lịch sử, sự tin tưởng vào khoa học thay
thế sự tin tưởng về minh triết. Ðó là bước đầu của cái gọi là “Triết lý
của ánh sáng”. Ánh sáng gì? Ánh sáng của lý trí để có thể hiểu được sự vận
hành của thực tại xua tan các ảo tưởng đam mê, các sự tin tưởng điên rồ,
những sự mê tín. Từ đây, việc chinh phục trí tuệ nội tại phải đi qua con
đường nhận thức khách quan. Ðể dùng danh từ của thời đại, đó là ngọn đuốc
của lý trí sẽ soi sáng cho vấn đề hạnh phúc của con người.
Matthieu : Phật giáo thì nói đến ngọn đuốc trí tuệ; nếu
không có trí tuệ thì một mình lý trí chỉ đưa đến hạnh phúc phù phiếm.
Jean Francois : Quan niệm mới phát sinh từ thế kỷ 18 và tiếp tục
suốt thế kỷ 19, đó là sự tiến bộ về đạo lý và khoa học xuất phatys từ lý
trí sẽ giải thích cho chúng ta những bí ẩn còn cất giấu của vũ trụ. Cũng
như về sự vận hành của con người. Chính cái cặp lý trí tiến bộ sẽ mang đến
hạnh phúc cho chúng ta. Trong một chiều hướng nào đó cũng không phải là
sai. Khoa học đã đem lại một sự cải thiện lớn về đời sống con người. Ðừng
quên rằng trong năm 1830 tuổi thọ con người chỉ là 25 tuổi. Người ta đã
không thể chữa được bịnh gì. Rất ít người còn đủ ráng khi 30 tuổi nếu sống
được đến đó. Bệnh đậu mùa đã tàn hại rất nhiều sinh mạng ở Anh Quốc và sự
khám phá ra thuốc chủng thật sự đã gây nên một tiếng vang rất lớn mà
Voltaire đã nói đến rất nhiều. Sau cùng thì mọi sự cũng đã bắt đầu thay
đổi về chất lượng. Tuyb nhiên sự cải thiện thực tiễn về vật chất rất cần
cho đám đông khiến chúng ta phải nói rằng: chúng ta đang đi vào một kỷ
nguyên mới. Thế giới, không phải như người xưa đã nghĩ. Luôn luôn lập đi
lập lại, mà có thể thay đổi và chính là nhờ sưk tiên bộ do khoa học và sự
tìm hiểu các luật tự nhiên nhờ đó con người sống và sẽ sống tốt hơn.
Matthieu : Ðiều vừa nói chỉ nhắm vào việc cải thiện đời
sống con người. Chớ không đem lại một ý nghĩa nào cho cuộc đời. Mà tại sao
chỉ lo phát triển một mặt còn bỏ quên mặt kia?
Nhờ đời
sống được cải thiện, mỗi chúng sinh có khả năng nhiều hơn để đạt đến trí
tuệ. Rất tốt khi truyền rao sự minh triết cho đám nông dân mù chữ chết vì
đói rét khi mùa đông đến, hau khi có bệnh dịch. Tuy nhiên để họ có thể
hưởng lợi nhờ sự dạy dỗ của Sénèque, họ phải sống vào một thời mà học
thuyết của Sénèque có thể áp dụng được. Cái ý niệm đối chiếu những ích lợi
vật chất nhờ vào tiến bộ khoa học với những thành tựu tâm linh mà con
người có thể đạt đến theo Ba có vẻ phản động. đó là một phản đề hoàn toàn
sai. Khi những người của thế kỷ 18 nói đến sự tiến bộ, họ không nghĩ là
khoa học có thể giải quyết mọi vấn đề về hạnh phúc cá nhân của họ. Họ nghĩ
rằng khoa học cho họ một cái khung trong đó họ có nhiều cơ hội để đạt tới
một sự thanh thản.
Matthieu : Trở lại ví dụ của Ba về những người nông dân
khốn khổ. Nó làm con nhớ lại những người dân du mục Tây Tạng đã chịu một
cái lạnh cùng cực và sống vô cùng thoải mái khác xa hạng được ưu đãi. Cho
dù ngay bây giờ đây, những người nông dân ấy họ vẫn sống an ổn và thanh
thản. Con đã có dịp sống nhiều tháng trong các thung lũng xa xôi ở Bhoutan
và Tây Tạng không có đường sá, không có điện và ở đấy không có một nét nào
của đời sống văn minh. Nhưng sự giao tiếp giữa người với nhau khác hẳn với
dân ở các đô thị lớn. Và khi việc phát triển vật chất đi đến tột độ ta sẽ
thấy sản xuất những vật dụng hoàn toàn không cần thiết và chúng ta sẽ mắc
kẹt trong guồng máy dư thừa. Những dân du mục ở otat và những nông dân ở
Bhoutan không thể kiếm sống bằng một nhà kinh doanh người Mỹ, nhưng họ
biết cách gìn giữ đời sống của họ.
Jean Francois : Việc chỉ trích xã hội tiêu thụ như người ta thường
nói vào năm 1968 rất phổ biến trong xã hội Tây phương hiện nay. Một lần
nữa các triết gia thế kỷ 18 không nói rằng khoa học giải quyết mọi vấn đề
trong đời sống con người cũng như đem lại một ý nghĩa cho cuộc đời. Ví dụ
Rousseau đã từng ca tụng nên trở vè đời sống thiên nhiên. Nhưng họ cũng
tin rằng nhờ vào hiệu quả của giáo dục. Của sự tự do lựa chọn cách sống,
nhờ vào những học thuyết, những tôn giáo mà con người có thể sống đàng
hoàng hơn. Từ đó nảy sinh ra lòng khoan dung vào thời điểm đó. Khi con nói
về những nông dân Tây Tạng được sống hạnh phúc nhờ Phật giáo, nhưng họ đâu
có được lựa chọn cái gì khác hơn đâu. Họ đâu có thư viện để tự hỏi ta nên
cải đạo vào Tin lành hay không? Cũng như Cơ đốc giáo vào thời trung cổ,
người nông dân thời ấy cũng bị bắt buộc mà thôi. Cái anh du mục Phật tử
Tây Tạng có thể rất hạnh phúc và Ba mừng cho anh ta, nhưng ta cũng không
thể nói là anh ta tự chọn lựa một lối sống khôn ngoan nào đó. Anh ta chỉ
chọn cái cách sống mà xã hội đã dành cho anh ta.
Matthieu : Con không chắc rằng phải thử tất cả để hiểu giá
trị một điểu gì đó. Lấy ví dụ nước tinh khiết và trong lành. Kẻ uống nước
đó biết rằng nó tốt và cũng không cần nếm những nguồn nước khác ở lân cận.
Cũng như thế, những người đã nếm qua niềm vui thiền định, không cần ai
chứng thực bằng chính kinh nghiệm của họ. Niềm an lạc trong tâm của họ
không hề dối trá. Con xin kể ra đây vài câu hát của một hành giả Tây Tạng
khi đạt đến giác ngộ:
- Hôm
nay tôi trèo lên ngọn núi từ thảo am của tôi.
-
Trên đỉnh núi, tôi ngước mắt nhìn và thấy bầu trời không mây.
- Và nó
nhắc tôi đến không gian tuyệt đối không giới hạn.
- Và tôi
cảm nhận một sự tự do không bờ bến không có gì cản trở tầm mắt của tôi
- Nhìn
thẳng trước mặt, tôi thấy mặt trời thế gian.
Ánh sáng
không bị che lấp, nhắc tôi đến giây phút thiền định.
Và tôi
đã kinh nghiệm được một sự rỗng không hoàn toàn không vướng mắc bởi suy
tư.
- Tôi
quay đầu về hướng Bắc và thấy một dãy cầu vồng đan chéo nhau.
- Cảnh
tượng đó nhắc tôi mọi hiện tượng đều trống rỗng.
- Và tôi
kinh qua một kinh nghiệm không nhị nguyên, một sự trong sáng hồn nhiên,
một sự trong sáng hồn nhiên hoàn toàn không dính mắc vơi những quan niệm
về hư vô hay vĩnh cửu.
- Cũng
như không có bóng tối giữa mặt trời.
- Với
người ẩn tu, vũ trụ và chúng sinh đều hoàn hảo và ông ta rất hài lòng.
- Cũng
như không có đá sỏi trên một đảo vàng.
- Với
người ẩn tu âm thanh là lời cầu nguyện và ông ta rất hài lòng.
- Cũng
như cánh chim bay qua bầu trời trong mà không để lại dấu vết.
- Với
người ẩn tu, tư tưởng là thiên nhiên tuyệt đối, và ông ta rất hài lòng.
Người
ta viết những dòng thơ này không cần phải đi vòng quanh thế giới, đến
hưởng thú vui ở New York, hoặc đến mặc tưởng trong đền thờ Tin lành, để có
được một ý niệm rõ ràng về kinh nghiệm mội tâm của ông ta. Hơn nữa ông ta
cũng không chắc là sự tự do lựa chọn mà Ba vừa nói lại có thể như thế
trong xã hội ngày nay. Ðức Ðạt Lai Lạt Ma lưu ý rằng: “Khi quan sát đời
sống trong thành thị, ta có cảm tưởng tất cả các mặt của cuộc đời đều đã
được định sẵn một cách chính xác giống như một cái đinh ốc vặn vừa vào một
lỗ hổng. Nói cách khác chúng ta không thể nào kiểm soát cuộc sống mà để
cho nó cuốn trôi đi, và để nó tồn tại thì chúng ta phải chạy theo nhịp
điệu mà nó sai khiến ta”.
Jean Francois : Nếu gần đây Tây phương chú ý đến Phật giáo, vì ước
mong có một sự minh triết tâm linh, đó là vì Tây phương đã so sánh kinh
nghiệm quá khứ và hiện tại. Ði theo cái triết lý Ánh sáng là một hy vọng
dựa trên nhu cầu khẩn thiết về sự quảng bá giáo dục. Từ đó nảy sinh ra
quan niệm được thực hiện một thế kỷ sau đó, về giáo dục bắt buộc, phi tôn
giáo và miễn phí cho mọi người. Cũng có nghĩa là không chống tôn giáo mà
là phi tôn giáo, không có một học thuyết nào cả. Mọi thứ kết hợp với sự
khoan dùng trdong tự do lựa chọn đã cho đời sống một ý nghĩa. Ngoài ra dù
cho cái văn minh vật chất đó của khoa học ứng dụng, của kỹ nghệ có thể tạo
nên những nhu cầu không cần thiết, bừa bãi và viễn vông, đó là điều chắc
chắn phải xảy ra. Epicure đã nói rằng mỗi nhu cầu được thỏa mãn, tạo thêm
những nhu cầu mới và tăng thêm cảm giác thiếu thốn. Cũng vì thế mà ngày
nay có nhu cầu lớn là nên trở lại các nền triết học Hy Lạp cổ xưa cũng như
Phật giáo.
Matthieu : Cũng cần phải hiểu rằng giáo dục không phải là
để có nhiều kiến thức khoa học, kỹ thuật, lịch sử mà nó cần nhắm đến sự
đào tạo thật sự con người.
Jean Francois : Ðúng vậy. Nhưng hãy nói qua về khía cạnh thứ ba
của quan niệm Tây phương về ý nghĩa cuộc đời từ thế kỷ 18. Quan niệm này
khởi điểm từ những không tưởng về sự giải thể xã hội từ cuộc cách mạng
1789 ở Pháp. Cho đến thời ấy chữ Cách mạng chỉ có nghĩa là cuộc xoay vòng
của một hành tinh chung quanh Mặt trời. Danh từ cách mạng đã được dùng
theo nghĩa phá vỡ hoàn toàn cơ cấu xã hội từ gốc đến ngọn trong mọi lãnh
vực kinh tế, pháp lý, chính trị, tôn giáo và văn hóa. Chủ trương cuộc cách
mạng này là những nhân vật tự cho là có cái quyền thanh toán mọi sự đối
lập bằng những hành động khủng bố!
Dù không
đi đến những cực đoan ấy, mặc dù đã xảy ra rất nhiều người ta có ý niệm là
hạnh phúc con người chỉ có thể thực hiện được bằng một sự cải tạo toàn
diện xã hội. Phải xây dựng một xã hội công bằng. Và trong viễn tượng đó
thật vô iứch đi tìm phương cách để làm cho mỗi các nhân tốt hơn và sáng
suốt hơn. Cần phải chữa bệnh tận gốc, do vậy vấn đề ý nghĩa của cuộc đời
không còn là một vấn đề cá nhân nữa?
Matthieu : Làm thế nào để hy vọng một tổng thể có thể tốt
hơn nếu các thành phần của nó. Có nghĩa là sự cải thiện con người phải
được thực hiện do sự thay đổi từ gốc đến ngọn chứ không phải thay đổi từ
từ hay từng phần của xã hội. Khi mà xã hội trở nên công bằng hơn, thì mỗi
công dân của xã hội đó cũng sẽ công bằng hạnh phúc. Trong những giả thuyết
không tưởng đó, có hai sự góp ý của cái triết lý Ánh sáng, một là sự tiến
bộ khoa học có thể mang đến vật chất dồi dào và đảm bảo cho dân chúng
không bị thiếu thốn, và mặt khác là lý tưởng về sự giao tiếp tốt trong xã
hội. Mỗi công dân xã hội được hưởng lợi nhờ sự công bằng và như vậy có một
cuộc sống đạo đức hơn. Ðạo đức và hạnh phúc con người cần phải đi qua sự
cải tạo nói chung của xã hội. Cá nhân không có đời sống riêng tư nữa, mà
đời sống của y là một phần của cổ máy xã hội.
Matthieu : Vậy thì theo Ba cái gì xảy ra vào cuối thế kỷ
19?
Jean Francois : Các tôn giáo Tây phương không còn hoạt động nữa.
Nhà thờ Công giáo có rất nhiều trí thức đáng kính nể. Nhưng dân chúng
không còn thích đi nhà thờ và không chịu tuân theo các điều răn. Và người
ta thấy rất ít xu hướng về việc đào tạo giáo phẩm. Người ta không có thời
gian để nghĩ đến thế giới bên kia chỉ vì những khổ sở vật chất, nạn thất
nghiệp. Và tất cả đều đã chấm dứt.
Matthieu : Vậy thì người ta dành cho người già và người trẻ
những gì?
Jean Francois : Người ta tiếp tục tin tưởng vào khoa học và hy
vọng rất nhiều trong lãnh vực cải thiện sự sống vật chất và sức khỏe.
Nhưng một mặt người ta cũng nhận ra những mặt tiêu cực như ô nhiễm môi
trường. Về mặt khác người ta cũng ý thức được rằng khoa học không đem lại
hạnh phúc cho con người. Trên nền tảng một thế giới có một nếp sống tiện
nghi hơn mà chúng ta đang sống, vấn đề riêng tư, vận mệnh của mỗi con
người cũng giống hệt như thời La Mã. Ðơn giản là mọi chuyện không diễn ra
suông sẻ và chỉ có tạo ra nhiều tiêu cực.
Matthieu : Nói tóm lại, hai chúng ta cũng ít nhiều đồng ý
với nhau về điều đem đến một ý nghĩa cho cuộc đời không phải là việc cải
thiện đời sống vật chất vì chúng ta không phải là những cỗ máy. Cũng không
phải là những phép xử thế cần phải tuân theo mà là sự cải tạo tinh thần
cho con người.
Jean Francois : Cũng không hẳn là thế. Ba nghĩ rằng mọi sự minh
triết mà ta áp dụng để sống đàng hoàng hơn đều có giới hạn. Và giới hạn
sau cùng là cái chết. Ba nghĩ phải phân biệt giữa các học thuyết về trí
tuệ, có những học thuyết tin tưởng vào một cõi bên kia, vào một sự vĩnh
hằng nào đó và cũng có những học thuyết khác tin rằng chết là hết và không
có cõi bên kia nào hết. Riêng cá nhân Ba, Ba tin tưởng vào loại học thuyết
thứ hai này và vì thế việc đi tìm trí tuệ luôn có tính chất bấp bênh và
tạm bợ.
Matthieu : Dù ta chấp nhận có một chuổi kiếp sống trước và
sau kiếp sống này, thì rõ ràng những kiếp sống có cùng một bản chất với
kiếp sống hiện tại. Và nếu ta có được trí tuệ trong kiếp sống tương lai
của ta. Và nếu ta tìm thấy một ý nghĩa cho cuộc đời thì ta đâu cần đến cái
chết mới được lợi ích.
Jean Francois : Ðúng trí tuệ là vấn đề bây giờ và ở đây. Ba cũng
cố gắng trong mọi hoàn cảnh sống theo những đường lối mà qua suy nghĩ, qua
kinh nghiệm, do sự học hỏi những nhà tư tưởng lớn mà Ba cho là hữu hiệu
theo chiều hướng đưa đến trí tuệ. Nhưng Ba vẫn tin là việc đó không ảnh
hưởng gì đến những đời sống mai sau nếu có, mà điều này gợi lên một cái
nhìn khác về vũ trụ.
Matthieu : Ðúng thôi, nhưng thật là sai lầm khi nói rằng:
“Không có gì quan trọng nếu tôi không được hạnh phúc ngay bây giờ mà tôi
sẽ hạnh phúc trong kiếp sau.” Ðúng là một sự thành tựu tâm linh sâu xa sẽ
mang đến những chấn động đưa đến trí huệ lợi ích cho cá nhân và cả cho tha
nhân. Ðem đến cho cuộc đời một ý nghĩa nhờ vào sự chuyển hóa nội tâm đưa
đến trí huệ là một việc làm vượt thời gian, có giá trị ngay trong hiện tại
và cả trong tương lai.
Jean Francois : Ðiều con nói có lẽ đúng với Phật giáo, là một tôn
giáo không chỉ nghĩ riêng về cõi bên kia. Nhưng một tín đồ Hồi giáo chỉ
sống với ý nghĩ là anh ta sẽ được lên thiên đàng nếu anh ta giữ đúng theo
luật thàn linh. Cũng giống như những người Công giáo hay Tin lành. Việc
tin vào sự bất tử của linh hồn giải thích phần lớn các lời dạy của
Socrate. Học thuyết Socrate – Platon sau cùng chỉ có ý nghĩa khi nó dựa
trên một siêu hình học cho rằng thế giới mà ta đang sống chỉ là ảo tưởng,
nhưng có một thế giới khacsmaf ta có thể đạt đến nhờ vào sự suy tư và trí
huệ triết học, và trong thế giới đó chúng ta sẽ sống hoàn toàn sung mãn.
Matthieu : Nhưng Ba không nghĩ rằng có một sự minh triết
hoàn toàn có giá trị trong hiện tại và trong tương lai? Một chân lý không
hề bị hao mòn nếu ta chỉ xem xét đời sống hiện tại. Con nghĩ rằng nhận
thức được bản thể của con người, của tâm thức của vô minh và đau khổ vẫn
có giá trị ngay bây giờ và vĩnh viễn về sau. Theo Ba cso loại trí huệ nào
có khả năng đem đến một ý nghĩa cho cuộc đời mà có thể vượt ngoài thời
gian?
Jean Francois : Có những loại trí huệ vừa dựa trên quan niệm siêu
hình rằng có những đời sống mai sau, vừa dựa trên giả thuyết là kiếp sống
hiện nay là kiếp sống duy nhất. Một phần của Phật giáo cũng chia xẻ quan
điểm trên. Thuyết khắc kỷ là một ví dụ khác.
- Thuyết
khác kỷ dựa trên một thuyết vũ trụ về một sự tái lập thường hằng của thế
gian. Nhưng những người theo thuyết khắc kỷ phân biệt thuyết bí truyền mà
chỉ một số ít người có thể hiểu được, và một thuyết công truyền gồm có
những lời dạy về cách xử thế ở đời. Quyển sachs của Epictète là một khái
luận thực hành về những đức hạnh mà ta phải tuân theo để sống tốt hơn. Vậy
là có sự phân biệt giữa hai trình độ.
Matthieu : Sự phân biệt giữa bí truyền và công truyền có
mặt trong tất cả các truyền thống kể cả Phật giáo. Nó đáp ứng nhu cầu,
những khát vọng và những khát vọng và những khả năng khác nhau của con
người. Nhưng Ba nói rằng vào cuối thế lỷ 20 lại đặt ra vấn đề trí huệ có
thể đem đến một sự sung mãn cho cuộc sống. Ba hiểu vân sddeef như thế nào?
Jean Francois : Ba không tin vào sự bất tử của linh hồn, do đó Ba
nghĩ không thể có được một sự hoàn mãn nào đó có thể đạt được. Ba nghĩ con
người có thể sống toàn mãn cho vài mục tiêu tạm bợ. Nhưng Ba cho rằng
không thể có một giải pháp toàn diện cho cuộc sống.
Matthieu : Ba có tin vào một sự thăng hoa do sự giắc ngộ
bản thể sự vật có thể thực hiện được trong cuộc sống hiện tại.
Jean Francois : Không
Matthieu : Tại sao?
Jean Francois : Vì lẽ sự thăng hoa theo nguên tắc, có nghĩa là đời
sống không bị giới hạn và ta tiếp tục có một sự sống khác sau khi đã chết.
Matthieu : Việc nhận thức ra bản thể của tâm là một nhận
thức tối hậu vì lẽ chính tâm kinh nghiệm được thế giới hiện tượng dưới mọi
hình thức sự sống bây giờ và mai sau.
Jean Francois : Ba vẫn cho là có hai quan niệm về cuộc sống: một
là kiếp sống này chỉ là một giai đoạn trong một chuổi kéo dài sau cái chết
và hai là chết là chấm dứt vĩnh viễn.
Matthieu : Các hiện tượng đều là tạm thời, nhưng hiểu ra
được bản thể của chúng thì không thay đổi. Con nghĩ con người có khả năng
đạt đến một trí huệ và nhờ đơ có một cuộc sống thanh thản và sung mãn. Con
tin rằng khi đã khám phá ra bản thể tối hậu của tâm thì sự khám phá này
vượt thời gian và cái chết sẽ không thay đổi được gì về sự thành tựu tâm
linh này.
Jean Francois : Thôi thì vì giả thuyết của con có vẻ lạc quan hơn
của Ba, để làm vui lòng độc giả Ba dành phần phải cho con.
KẾT LUẬN
CỦA VỊ TRIẾT GIA
Tôi đã
rút ra được bài học nào từ những cuộc đối thoại nêu trên. Chúng đã mang
đến cho tôi điều gì? Một mặt nó làm cho tôi càng ngày càng thán phục Phật
giáo như là một sự minh triết. Mặt khác nó làm cho tôi càng hoài nghi về
một Phật giáo siêu hình. Nó cho phép tôi hiểu được sự cuốn hút của Phật
giáo đối xã hội Tây phương. Vì lẽ Phật giáo đã lấp đầy được một cái hố tạo
nên do sự thiếu vắng một nếp sống khôn ngoan và đạo đức. Từ thế kỷ thứ 6
trước công nguyên cho đến cuối thế kỷ 16 sau công nguyên, nền triết học
Tây phương đã theo hai nhánh chủ đạo: nhánh thứ nhất dành cho việc tìm
hiểu thái độ con người với cuộc sống và nhánh thứ hai là tìm hiểu thiên
nhiên. Giữa thế kỷ 17 triết học từ bơ nhánh thứ nhất, còn nhánh thứ hai
thì dành cho khoa học. Triết học chỉ còn dành cho sự tìm hiểu các hiện
tượng siêu nhiên, tức là khoa siêu hình học vào khoảng thời gian đầu của
triết học Hy lạp, Heraclite cho rằng không cần phải biết nhiều mới là một
người hiền được. Triết học là để giúp con người trở nên đứng đắn, mực
thước biết vươn tới hạnh phúc bằng một sự minh triết mà mình đã có được.
Người Hy lạp đi tìm sự minh triết do giá trị thực tiển của nó. Người hiền
tốt, công bằng lại vừa co nhiều mưu chước. Triết học do đó là một sự cải
tạo toàn diện cuộc sống, và cũng vì thế mà Phật giáo đã có đất phát triển
mà không có đối thủ. Không nghi nghờ gì kể từ Socrate, Platon và Aristote
cho đến thế kỷ thứ V và thứ IV trước Công nguyên, lý thuyết giữ vai trò
chủ động và được xem như chổ dựa về sự biện minh của Minh triết. Tri kiến
và minh triết chỉ là một. Một đời sống tốt vẫn có thể có, và sự nhận ra
chân lý gồm có việc tìm hiểu cuộc đời và nếu có thể cả bên kia cuộc đời.
Việc phối hợp giữa sự trầm tư để tìm chân lý và sự vươn tới hạnh phúc nhờ
vào minh triết được liên tục tìm thấy trong chủ nghĩa khắc kỷ và chủ nghĩa
hưởng lạc để kết thúc vào cuối thế kỷ 17 với quyển “Ðạo đức của Spinoza”.
Và từ đây câu nói của Socrrate “ta phải sống như thế nào” bị bỏ dở. Và
ngày nay triết lý phải nhường chổ cho khoa học nà khoa học thì cứ phát
triển mà không cần đến đạo đức hay trí tuệ. Người ta có thể chứng minh
rằng các khoa học về mặt đạo đức hay trí tuệ. Người ta chúng sinh thể
chứng minh rằng các nhà khoa học về mặt đạo đức và chính trị, còn ít sáng
suốt, ít e dè hơn là một số người trung bình. Và chính sự sụp đổ của các
lý thuyết không tưởng, mà thời đại ngày nay mới bắt đầu quay về tìm lại sự
minh triết trong đời sống. Và Phật giáo đã chỉ ra rằng sự cố chấp, sự
không khoan nhượng không bao giờ đưa đến cái Tốt, cái Ðẹp trong chính trị
cũng như trong đạo đức.
Qua
những cuộc đối thoại này, sự tĩnh lặng trong Phật giáo là một huyền thoại.
Ðó là một sự khám phá bất ngờ của tôi, và Phật giáo đã dạy cho tôi rất
nhiều điều hữu ích. Ngược lại con tôi đã không thuyết phục được tôi về
phần siêu hinh trong Phật giáo vì lẽ tôi cho Phật giáo là một triết lý
không phải là một tôn giáo, mặc dù cũng có đầy đủ các nghi thức tôn giáo.
Nói thẳng ra lý thuyết Phật giáo về cõi bên kia đã không được chứng minh
và cũng không thể chứng minh được. Và mặc dù đánh giá rất cao về nện minh
triết Phật giáo, tôi chỉ chấp nhận mặt thực tiển của nó cũng như đối với
thuyết khắc kỷ và thuyết hưởng lạc. Theo tôi tình thế có thể tóm tắt như
sau: Phương Tây đã phát triển mạnh về khoa học nhưng không còn đạo đức và
đem lại cho chúng ta đạo đức và những chỉ dẫn để có một đời sống tốt,
nhưng lại thiếu căn bản lý thuyết, trừ ra về mặt tâm lý học mà tâm lý học
không phải là khoa học. Thật là vô ích khoa học người ta cố rút ra từ sự
hiều biết một nền đạo đức và một nghệ thuật sống. Sự minh triết không nằm
trên một thực tế khoa học nào cũng như một thực tế khoa học cũng không đem
lại sự minh triết. Tuy nhiên cả hai đều hiện hữu, tuy tách rời, nhưng cần
thiết và bổ túc cho nhau.
KẾT LUẬN CỦA NHÀ SƯ.
Cái gì
thật sự có ích cho con người? Khoa học, tâm linh, tiền bạc? Quyền lực? Thú
vui? Ðể trả loiwi có lẽ phải tự hỏi đâu là khát vọng sâu xa của con người
và mục đích cuộc đời là gì? Phật giáo khẳng định: đó là việc đi tìm hạnh
phúc. Ðừng có hiểu nhầm về sự đơn giản của một sự nhận định như vậy. Hạnh
phúc ở đây, không phải là một là một cảm giác, mà là một sự sung mãn tràn
đầy khi người ta tìm ra một ý nghĩa cho cuộc đời và người ta thích nghi
được với bản tưởng hiện thực hóa cái tiềm lực có sẵn ở mỗi con người và
hiểu ra được bản thể tối hậu của tâm mình. Với một kẻ biết tìm cho đời
mình một ý nghĩa, mỗi giây phút là một mũi tên bay đến mục tiêu. Nếu không
biết đem lại một ý nghĩa cho cuộc đời thì sẽ dễ rơi vào thụ động rồi sinh
ra thất vọng cuối cùng có thể dẫn đến tự vẫn. Hạnh phúc dĩ nhiên là cần
đến sự hiểu biết. Không có sự hiểu biết thì không làm sao chữa chữa lành
được nguyên nhân gây ra đau khổ là sự bất mãn triền miên luôn luôn dằn vặt
chúng ta. Sự bất mãn đó cũng nảy sinh từ chổ chúng ta không chiến thắng
được những tình cảm tiêu cực như lòng căm giận, sự ghen ghét, sự luyến ái,
tham lam ngã mạn tất cả đều do một cái nhìn duy ngã về cuộc đời, do sự
dính mắc vào một cái “Tôi” quá ư là hùng mạnh. Một yếu tố cần thiết khác
cho hạnh phúc chỉ gồm ba chữ: Lòng vị tha, tình yêu, và lòng nhân ái. Làm
sao chúng ta hạnh phúc cho được khi quanh ta có bao người đang rên xiết.
Hơn nữa, dù thế nào thì hạnh phúc của chúng ta cũng dính liền chặt chẽ với
hạnh phúc của kẻ khác. Trong vòng 20 năm gần đây, sau nhiều thế kỷ dài bị
vô minh che lấp đã bắt đầu có cuộc đối thoại thật sự giữa Phật giáo đã
thật sự dành chổ của nó trong lịch sử triết học và khoa học. Nhưng dù chỉ
cho Phật giáo đã xây dựng nên một lý thuyết về nguyên tử mạch lạc hơn lý
thuyết của Democrite, không phải là để dừng lại ở một vài điểm về tri thức
luận. Vì lẽ Phật giáo chủ trương một khoa học của tâm linh, một kỹ thuật
thiền định đang là vấn đề thời sự và cũng vì nó đề cập đến những cơ chế
căn bản nhất của hạnh phúc và đau khổ. Tại sao phải tham thiền? Việc làm
nhẹ đi những đau khổ vật chất lại chưa đủ hay sao? Những điều kiện sinh
hoạt bên ngoài có thể thuận lợi cho sự thoải mái của chúng ta, cho các
tiện nghi đời sống, sức khỏe, tuổi thọ và ngay cho suốt cuộc đời chúng ta.
Nhưng tất cả những thứ đó không đem lại cho ta một sự an lạc nội tâm.
Chính cái tâm là nguồn cội của sự thỏa mãn và bất mãn, hạnh phúc và đau
khổ, thành công và thất bại. Chính cái tâm quyết định thái độ chúng ta với
cuộc đời. Cái tâm chính là cửa sổ để chúng ta quan sát thế giới bên ngoài
và bên trong của chúng ta.
Bỏ qua
các tính cách ngoại lai, con đường của Phật giáo cũng theo cách các truyền
thống tâm linh lớn, là giúp chúng ta sống tốt hơn. Khoa học không có ý
định cũng như phương tiện để đạt đến mục đích đó. Khoa học chỉ tìm hiểu và
giải thích thiên nhiên và sử dụng những khám phá của mình để cải thiện đời
sống vật chất: nó sưởi ấm khi ta lạnh, nó chữa lành khi ta bệnh. Theo quan
niệm ấy thì lý tưởng là sống cả trăm tuổi khỏe mạnh. Nhưng dù có sống bao
lâu, cuộc sống sẽ tẻ nhạc nếu ta không tìm thấy một ý nghĩa cho cuộc đời.
Không nên chờ đợi Phật giáo sẽ được hành trì ở Tây phương giống như ở Ðông
phương, ví dụ sống trong tu viện hoặc sống trong ẩn cư. Cũng không có vấn
đề xây dựng nên một Phật giáo Tây phương với những cải cách phù hợp theo
ước muốn của mỗi người, nhưng là để sử dụng những chân lý căn bản của Phật
giáo ngõ hầu làm hiển lộ Phật tính ở mỗi chúng ta. Khi chúng ta đã quyết
định đi theo con đường tâm linh, sau nhiều năm tháng hành trì, chúng ta tự
xét xem đã vượt thoát được lòng tham, sự kiêu căng, ghen ghét và nhất là
những tình cảm vị ngã và vô minh là nguyên nhân của mọi sự đau khổ. Ðó là
một kết quả dáng kể và cái học thuyết dẫn đến đó rất xứng đáng được xem là
khoa học với cái nghĩa hiểu biết, không phải là một sự hiểu biết vô ích,
mà là một sự hiểu biết đưa đến minh triết.
Tôi phải
thú thật rằng ban đầu tôi rất ngạc nhiên về sự chú tâm của dư luận phương
Tây đối với Phật giáo, và khi ý nghĩ một cuộc đối thoại được nêu lên, tôi
cũng không nghĩ rằng một trí thức hoàn toàn tự do trong tin tưởng cũng như
trong tín ngưỡng, có tầm cỡ như cha tôi lại chấp nhận đối thoại. Ba tôi đa
nhiệt thành hưởng ứng và đã chọn sự tĩnh mịch của vùng núi Nepal làm nơi
để chúng tôi trao đổi với nhau.
Trong
câu chuyên, ước muốn của tôi là chia xẻ và giải thích, con cha tôi thì tìm
hiểu, phân tích và so sánh. Do đó mà vị triết gia đã hỏi nha sư nhiều hơn.
Và nhà sư đã hỏi vị triết gia về ý nghĩa của cuộc đời dưới mắt ông – một
nhà tư tưởng Tây phương hiện đại.
Những
tình cảm thương yêu giữa cha con chúng tôi không hề phai lạt trong những
cuộc hành hương của tôi. Và thật là một niệm vui được chia xẻ, được nói
chuyện thỏa thích về những nguyên tắc đã chỉ đạo đời sống của hai chúng
tôi và đem chúng ra đối chiếu. Tuy nhiên mọi cuộc đối thoại, dù sáng suốt
đến mấy, cũng không thay thế được sự im lặng của kinh nghiệm cá nhân, rất
cần thiết để hiểu rõ bản chất sự vật. Kinh nghiệm mới chính là con đường
và như Ðức Phật thường nói: Mỗi người cần phải đi trên con đường để rồi
một ngày nào đó người mang tin lại trở thành chính cái tin mà mình mang
đi.
---o0o---
Chương 14 | Mục
Lục
---o0o---
Vi tính: Nguyên Trang
Trình bày:
Nhị Tường
Cập
nhật:
01-2 -2003