NIỆM
PHẬT
SÁM PHÁP
Thích Thiền Tâm
---o0o---
QUYỂN THƯỢNG
pHẨM THỨ
NHẤT
NIỆM PHẬT PHẢI VÌ THOÁT SANH TỬ LUÂN HỒI
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn vì thương xót tất cả chúng-sanh mà hiện
ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và
chỉ rõ Tri-Kiến Phật cho chúng sanh và để rồi khiến cho chúng sanh tỏ ngộ
và thể nhập vào Tri-Kiến Phật , Giáo-nghĩa tuy nhiều hơn số cát sông Hằng,
nhưng tất cả năm thừa tám giáo đều không ra ngoài pháp môn Niệm Phật .
Do
bản-nguyện-lực của đức A Di Ðà, do năng-lực hộ niệm của sáu phương chư
Phật, cùng với gia-trì-lực của chư vị Ðại địa Bồ-tát; đệ-tử chúng con được
gặp duyên-lành dẫn dắt vào Chân-Lý Tối Thượng bằng cửa ngõ Niệm Phật. Như
mùa hạ thì phải mặt áo vải, như mùa đông phải mặc áo bông, sự tu hành cũng
thế, nghĩa là không thể trái với thời tiết và cơ duyên được. Dù đức Ðạt-Ma
tổ sư tái hiện ngay lúc nầy, nếu muốn hợp thời cơ để cứu độ chúng sanh mau
được giải thoát, thì cũng không có pháp nào hơn pháp môn Niệm Phật cả. Vì
thế cho nên thuyết pháp mà không phù hợp với căn cơ và trình độ, thì chắc
chắn chúng sanh bị chìm trôi trong biển khổ vậy.
Ðệ tử
chúng con vốn là phàm phu vô trí, nên phải một mực y theo lời Phật dạy,
chẳng dám tự chuyên, vì thế mà xưa nay chúng con đều chuyên niệm danh hiệu
Ðức A-Di-Ðà.
Theo
lời Phật dạy là thế nào ?
Trong
kinh Vô-Lượng-Thọ, đức Thế Tôn có lời huyền ký rằng : Ðời tương lai, kinh
đạo diệt hết, ta dùng lòng từ bi thương xót riêng lưu trụ kinh nầy trong
khoảng một trăm năm. Nếu có chúng sanh nào gặp được kinh nầy tùy ý sở
nguyện đều được đắc độ.
Nơi
kinh Ðại-Tập, đức Thế Tôn dạy rằng: Trong thời mạt pháp có ức ức người
tu hành, mà ít có kẻ nào đắc đạo, chỉ nương nơi pháp môn Niệm Phật mà
thoát luân hồi.
Ngài
Thiên-Như thiền sư sau khi đắc đạo cũng đã khuyên dạy rằng:
“Mạt
pháp về sau, các kinh diệt hết, chỉ còn lại bốn chữ A-Di-Ðà Phật để cứu độ
chúng sanh. Nếu kẻ nào không tin, tất sẽ bị đọa địa ngục”.
Bởi vì
đời mạt pháp về sau, khi các kinh đều ẩn diệt, chúng sanh căn cơ đã yếu
kém, ngoài câu niệm Phật thì không biết pháp môn nào khác để tu trì, Nếu
không tin câu niệm Phật mà tu hành, tất phải bị luân hồi. Và trong nẻo
luân hồi thì việc lành khó tạo, còn điều ác thì dễ làm, cho nên sớm muộn
gì cũng bị đọa địa ngục.
Ấn
Quang pháp sư, một bậc cao tăng cận đại ở Trung Hoa cũng đã dạy
rằng :
Thời mạt pháp đời nay, chúng sanh nghiệp nặng tâm tạp, nếu ngoài môn niệm
Phật mà tu các nghiệp lành khác, nơi phần gieo trí huệ phước đức căn lành
thì có – nhưng nơi phần liễu thoát luân hồi ngay trong hiện thế thì không.
Tuy có một vài vị cao đức, hiện những kỳ tích phi thường, nhưng đó là
những bậc Bồ tát nương theo bản nguyện mà làm mô phạm để dẫn dắt chúng
sanh đời mạt pháp như kinh Lăng Nghiêm đã nói. Nhưng các vị ấy cũng chỉ
vừa theo trình độ chúng sanh mà thị-hiện ngộ-đạo, chứ không phải
chứng-đạo. Chỉ riêng pháp-môn Niệm Phật , tuy ít có người tu-chứng được
Niệm Phật tam-muội như khi xưa, nhưng có thể nương theo nguyện-lực của
mình và Bản-Nguyện của Phật A-Di-Ðà mà đới-nghiệp vãng-sanh về cõi
Tây-Phương Cực-Lạc. Khi được về cõi ấy rồi thì không còn luân-hồi, không
còn bị thối-chuyển, lần lần tu tập cho đến khi chứng quả-vị Vô Sanh.
Những
lời huyền-ký như trên, cho chúng con thấy pháp-môn Niệm Phật rất thích hợp
với nhân-duyên, thời-tiết và trình-độ căn-cơ của chúng-sanh đời nay. Vì
thế đức Như-Lai mới dùng nguyện-lực bi-mẫn, lưu-trụ kinh VÔ-LƯỢNG-THỌ
để khuyến-hóa về môn Niệm Phật. Ngoài ra còn có chư Bồ Tát và tổ sư cũng
khởi lòng hoằng nguyện thương xót, tùy theo thời cơ mà chỉ dạy pháp môn
Niệm Phật để cứu vớt chúng sanh.
Ðệ tư
chúng con vì vô minh khuất lấp, vì thiếu suy nghĩ chính chắn, vì tâm mong
cầu quá sôi nổi và cạn cợt, vì dục vọng ngăn che, nên đã gây nhiều cái
thấy biết lệch lạc và để rồi, chúng con đã hành-trì pháp-môn Niệm Phật
không phù hợp với bản-ý của đức Bổn-sư và xa cách với Bản Nguyện Cứu-Ðộ
của đức A-Di-Ðà .
Ðệ-tử
chúng con đi chùa thấy người khác niệm Phật, thì cũng bắt chước niệm theo,
hoàn toàn không có chủ định.
Hoặc có
người niệm Phật nguyện cho tai qua nạn khỏi và cầu cho gia đình bình yên,
đời sống làm ăn mua bán ngày thêm thịnh vượng và sung túc.
Hoặc có
kẻ gặp cảnh đời không vừa ý bèn sinh ra buồn rầu phẫn chí, nên đã niệm
Phật cầu mong sao cho kiếp sau đừng gặp phải các cảnh ấy nữa, cũng như
mong mọi việc đều thuận lợi nếp sống vinh hoa xinh tốt.
Lại có
những người cảm thấy trần gian chẳng có điều gì hứng thú, dù cho giàu sang
quyền qúy cũng còn lo lắng khổ não, cho nên họ hy vọng dùng công đức niệm
Phật để kiếp sau sinh lên cõi Trời, sống lâu, nhàn vui, tự tại.
Lại có
những người nghĩ mình tội chướng đã nhiều, trong một kiếp nầy dễ gì giải
thoát, nên đã niệm Phật cầu cho kiếp sau chuyển nữ thành nam, để xuất gia
tu hành, làm bậc cao tăng ngộ đạo. cũng có nhiều người nổ lực niệm Phật để
đàn áp vọng tưởng, và chế ngự phiền não, với mục đích gần gũi là thanh lọc
tâm tư để đời sống được thanh tịnh.
Nếu niệm
Phật với những thái độ và mục đíùch như vậy đều là sai lầm, vì lẽ
trái nghịch với bản hoài của Phật Thích Ca và quay lưng trước Bản Nguyện
Tiếp Ðộ của Phật A-Di-Ðà. Ðây là một tội lỗi lớn lao nhất. Thật vậy, chúng
con vẫn hiểu rằng không có tội lỗi nào to lớn và nặng nề cho bằng cái
tội hành trì trái nghịch với di huấn của đức Bổn Sư, để rồi phụ rẫy công
ơn tiếp độ của đức Từ Phụ A-Di-Ðà.
Ðệ tử chúng con ngày nay nhờ sự chiếu soi và dẫn dắt của ánh hào quang chư
Phật, chúng con mới biết được tội lỗi của mình. Cho nên chúng con xin
thành tâm cúi đầu gieo năm bộ phận của cơ thể xuống sát đất, khẩn cầu sám
hối:
Nam
mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, vị bổn sư chỉ dạy pháp môn Niệm Phật .(3
lạy)
Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A-Di-Ðà PHẬT – vị đạo sư
tiếp dẫn vãng sanh Cực lạc. (3 lạy)
Như vậy, kể từ hôm nay, đệ tử chúng con phải niệm Phật như thế nào mới phù
hợp với bản ý của đức Phật Thích Ca, cùng Bản Nguyện của đức Phật A-Di-Ðà
?
Ðức Thế
Tôn thấy rõ pháp hữu vi đều vô thường, và tất cả chúng sanh vẫn sẳn đủ đức
tướng, trí tuệ như Như Lai, nhưng do vì mê mờ bản tâm, nên đã tạo ra vô số
nghiệp-hoặc, rồi cứ mãi mãi chịu chìm đắm trong vòng Sống Chết, Luân Hồi.
Dù cho dược sanh lên cõi Trời, khi hưởng hết phước báo rồi thì cũng phải
bị sa đoạ. Vì thế, bản-ý của đức Thế-Tôn là : Muốn cho chúng-sanh do nơi
pháp-môn Niệm Phật mà sớm thoát khỏi khổ luân hồi.
Chư Phật
trong nhiều a-tăng kỳ kiếp huân-tu phước-huệ, cho nên, nếu kẻ nào xưng
niệm hồng danh của Như Lai sẽ được vô lượng vô biên công đức. Lại nữa, đức
A-Di-Ðà Phật đã lập ra lời thệ nguyện vĩ đại : Nếu chúng sanh nào
niệm được danh hiệu của ngài cầu về Cực-Lạc, thì kẻ ấy khi mạng chung sẽ
được tiếp dẫn vãng-sanh Tây Phương và chứng lên ngôi Bất Thoái chuyển.
Ðem công đức vô lượng của sự Niệm Phật, mà để mong cầu những phước lợi nhỏ
nhen ở cõi người cõi trời, chứ không nguyện cầu vãng-sanh và giải thoát-
thì có khác chi trẻ thơ đem hạt châu ma-ni vô gía mà đổi lấy viên kẹo để
ăn? Như thế thật là uổng phí và không xứng đáng chút nào.
Hơn hết,
nguyện-lực của Phật thì rất vĩ đại, cho nên người nào nghiệp chướng dù có
nặng nề đến đâu chăng nữa, mà đem cả tấm lòng chân thật để chuyên cần xưng
niệm danh hiệu Phật thì ngay trong một đời nầy cũng được tiếp dẫn vãng
sanh về thế giới Cực-Lạc. Còn như mong cầu đời sau làm bậc cao tăng ngộ
đạo, là một hành động thiếu trí tuệ và đức tin, làm sao bảo đảm bằng hiện
đời sanh về Tây Phương thành bậc Bồ-tát ở ngôi Bất-Thối-Chuyển? Cho nên,
bản ý của đức Thế-Tôn là muốn cho tất cả chúng sanh niệm Phật để thoát
khỏi vòng sanh tử luân hồi, và sự giải thoát ấy lại có thể thực hiện
ngay trong cùng một kiếp sống.
Nhưng
tại sao cần phải thoát vòng sống chết luân hồi?
Là vì ở
trong nẻo luân hồi, đệ tử chúng con xác thật đã từng chịu nhiều nỗi thống
khổ lớn lao. Nếu người học Phật mà không để cái tâm như thật quán sát nỗi
thống khổ ấy thì cho dù học Phật nhiều đến đâu cũng không đạt được kết
quả tốt, bởi vì không có cái tâm lo sợ, cái tâm mong cầu thoát ly khỏi
những ảo ảnh cuộc đời. Kinh dạy: nếu tâm lo sợ khó sanh, tất lòng phát
thành khó phát. Ðức Thế Tôn khi xưa thuyết pháp Tứ Diệu Ðế cho năm
người nhóm ông Kiều Trần Như, trước tiên đã nói về KHỔ ÐẾ, vẫn không ngoài
cái ý nầy:
Trong
KHỔ ÐẾ, tức là ý nghĩa chân thật về sự khổ, đức Thế Tôn đã thuyết minh tám
điều. Tuy nỗi khổ của kiếp người vô cùng vô tận, mà tám điều nầy vẫn giữ
phần cương lãnh. Ðó là: nỗi khổ khi sanh ra, nỗi khổ khi về già, nỗi khổ
trong cơn đau yếu, nỗi khổ quằn quại khi sắp lâm chung, nỗi khổ chua xót
khi xa cách người thân yêu, nỗi khổ khó nhẫn khi chung đụng với kẻ mà mình
oán ghét, nỗi khổ khi mong cầu không toại ý, và nỗi khổ về năm ấm hừng
thạnh.
Chúng
sanh hết kiếp nầy sang kiếp khác cứ sống chết xoay vần, xuống lên trong
sáu nẻo. Ðó là cõi Trời cõi Người, cõi a-tu-la, cõi Bàng sanh, cõi Ngạ quỷ
và cõi Ðịa ngục. Bát khổ tuy ở các loài khác cũng có ít nhiều, nhưng nó là
trọng tâm của nỗi khổ ở cõi Người. Còn cõi Trời tuy vui sướng hơn nhân
gian nhưng cũng còn có tướng ngũ suy và những điều bất như ý. Cõi A-tu-la
bị sự khổ vì gây gỗ tranh đua, cõi Bàng sanh như loài trâu, bò, lừa, ngựa
thì bị sự khổ chở kéo nặng nề, loài dê lợn vịt gà thì chịu sự khổ về banh
da xẻ thịt. Các loài khác chịu sự khổ về ngu tối, nhơ nhớp, ăn nuốt lẫn
nhau. Ở cõi Ngạ quỷ thì chúng sanh có thân thể hôi hám, xấu xa, bụng lớn
như cái trống, cuống họng nhỏ như cây kim, miệng phực ra lửa,chịu đói khát
trong nghìn muôn kiếp. còn cõi địa ngục thì vạc dầu, cột lửa, hầm băng
gía, núi gươm đao; sự thống khổ không thể nào mô tả cho hết được.
Bốn cõi
A-tu-la, Ngạ quỹ, Bàng sanh và Ðịa ngục, trong kinh gọi là tứ ác thú. Từ
cõi A-tu-la theo chiều xuống, nổi khổ ở mỗi cõi cứ tuần tự gấp bội hơn
lên. Trong sáu cõi, chúng sanh sống chết xoay vần hết nơi nầy đến nơi kia,
như bánh xe chuyển lăn không có đầu mối. Sanh lên cõi Trời và Người thì
rất khó và rất ít, còn đọa xuống từ ác thú thì rất dễ và rất nhiều.
Khi còn
tại thế, một hôm Ðức Phật dùng móng tay vít lên một chút đất, rồi hỏi
A-Nan: Ðất ở móng tay ta sánh với đất của miền đại địa thì cái nào nhiều
hơn? Ngài A-Nan đáp rằng: Bạch Thế Tôn, đất của miền đại địa thì nhiều hơn
đất ở móng tay vô lượng phần, không thể thí dụ.
Phật bảo
: Cũng như thế, A-Nan, chúng sanh được lên cõi Trời cõi Người như đất ở
móng tay, còn đọa xuống ác thú thì như đất của miền đại địa.
Thí dụ trên, quả thật là một tiếng chuông mai để cho bọn đệ tử chúng con
xét suy mà tỉnh ngộ.
Tóm lại,
ba cõi đều vô thường, các pháp hữu vi thì chẳng có chi là vui thú. Người
niệm Phật phải cầu sanh về Tây Phương để thoát khỏi vòng sống chết luân
hồi, lần lần tu chứng đến cảnh Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của Niết Bàn –
chứ không nên mong cầu sự phước lạc hư dối ở thế gian.
Niệm
Phật như thế mới phù hợp với mục đích giải thoát, với tâm từ bi cứu khổ
ban vui của đức Thế Tôn. Và muốn được như vậy, chúng con phải thường xuyên
giám sát và suy tư về tám nỗi khổ của kiếp người, cho đến nỗi khổ vô tận
vô biên trong sáu cõi.
Nếu
chẳng quán sát như thế, thì tâm cầu mong giải thoát sẽ khó phát sanh, ý
nguyện về Tây Phương sẽ không tha thiết; làm thế nào để ngày kia bước lên
bờ giác ngộ và dùng con thuyền bát nhã đẻ độ khắp biển mê ?
Xưa kia
đức Phật đã than rằng : Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo
đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử.
Không tha thiết đến sự liễu thoát Sanh Tử là vì thiếu Trí Giác, do bởi
không thiết thực quán xét nỗi khổ trong khiếp sống luân hồi, những người
ấy chẳng những phụ ơn Phật mà cũng ruồng bỏ cả chính mình, thật đáng tiếc
thương và đau xót thay !
Ðệ tử
chúng con, nhờ giáo huấn của đức Bổn Sư, nhờ Ơn Lành thường giăng bủa của
đức Từ Phụ, nhờ sự khai thị rõ ràng của Thiện Tri Thức, hôm nay mới biết
được mục đích quan trọng và chân chánh của pháp môn Niệm Phật là Niệm
Phật thì phải vì thoát Sanh Tử Luân Hồi.
Với tấm
lòng tri ân tha thiết và chân thành, chúng con xin đem cả tính mạng mà quy
y và đảnh lễ :
Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật .
Nam
mô Ðại Từ Ðại Bi A-Di-Ðà Phật vị đạo sư tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc.
Nam
mô Cứu Khổ Cứu Nạn Ðại Từ Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam
mô Ðại Hùng Ðại Lực Ðại Thế Chí Bồ Tát.
Nam
mô Liên Trì Hải Hội Thanh Tịnh Ðại Hải chúng Bồ Tát.