NIỆM
PHẬT
SÁM PHÁP
Thích Thiền Tâm
---o0o---
QUYỂN
HẠ
PHẨM THỨ SÁU
NIỆM PHẬT PHẢI DỨT TRỪ PHIỀN NÃO
Ðã là
phàm phu thì chắc hẳn còn ở trong vòng phiền não, bị phiền não làm cho mê
hoặc và sai khiến, cho nên nhiều lúc con người không thể tự chủ được.
Phiền
não có nghĩa là khuấy động và thiêu đốt làm cho tâm niệm không yên, ngăn
trở bước hành trì nên còn gọi là phiền não chướng. Pháp Thân tuệ mạng của
chúng con bị phiền não phá hại, nên còn gọi là phiền não ma.
Có
những phật tử tuy ăn chay, bố thí tụng kinh, niệm Phật – nhưng chỉ chú ý
về hình thức, không quan tâm đến việc dứt trừ phiền não và vọng duyên, nên
dù có tụng kinh và niệm Phật, thế mà tâm tư vẫn chưa được thanh tịnh – bởi
lẽ phiền vọng tăng lên một phần thì đạo tâm phải thối lui một bước. Tóm
lại, người tu tịnh nghiệp ngoài phương diện niệm Phật trì chú tụng kinh
sám hối, còn phải đặt nặng vấn đề KHAI TÂM. Mà muốn cho tâm sáng suốt để
giúp kết quả niệm Phật mau thành tựu, sớm sanh về Tây-Phương , thì phải
dứt trừ phiền não .
TRỪ DIỆT THAM LAM VÀ SÂN HẬN.
Các
phiền não về THAM không ngoài sự đắm nhiễm ngũ dục là: sắc đẹp,
tiền của, quyền danh, ăn mặc, ngủ nghỉ. Từ đó phát sanh ra các chi tiết
khác là: bỏn sẻn, ganh ghét, gỉa dối, lường gạt... Cách đối trị tổng quát
là phải niệm Phật chuyên cần và luôn luôn cầu nguyện oai lực cửa đức
A-Di-Ðà giúp ban thêm nhiều sức mạnh để dứt trừ tâm tham nhiễm.
Trong
các loại phiền não thì SÂN HẬN là thứ phiền não có tướng trạng tất thô
bạo, và phá hoại sự nghiệp hành trì một cách nặng nề nhất. Người xưa đã
bảo rằng; nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai. Có nghĩa là
khi khởi một niệm giận hờn tức là đã mở ra muôn ngàn cửa chướng ngại.
Chẳng
hạn như lúc đang niệm Phật chợt tưởng đến người ngoài bạc ác, khắc nghiệt,
xấu xa, đối đãi với mình nhiều điều không tốt, hoặc nhớ lại việc người
thân cận phản phúc gây rối làm khổ mình- liền buồn giận bứt rứt không an.
Từ nơi tâm trạng đó, miệng tuy niệm Phật nhưng trong lòng rất phiền muộn,
để vọng tưởng dấy lên sôi nổi. Có người bỏ cả chuổi hột không muốn niệm
nữa nằm xuống gát tay lên trán suy nghĩ vẫn vơ. Có kẻ lại buồn tức đến
quên ăn bỏ ngủ, muốn gặp ngay người đó để hét la ầm ỉ một hồi hoặc tìm
cách trả thù cho đã giận. Tâm niệm sân hận nó phá hoại người tu đến như
thế.
Muốn đối trị giận hờn, phải khởi lòng từ bi. kinh PHÁP HOA dạy rằng
: Lấy đại từ bi làm nhà, lấy nhu hoà nhẫn nhục làm áo giáp, lấy ý nghĩa “
tất cả các pháp đều không”
làm tòa ngồi.
Phải
nghĩ rằng, ta cùng chúng sanh đồng là phàm phu chìm trong biển khổ Sanh
Tử, tất cả đều do nghiệp phiền não mà gây nên không biết bao nhiệu tội ác,
mà phiền não thì vốn hư huyễn, không thật có. Như một niệm sân hận phát
lên, ta phải tự hỏi rằng, trước khi khởi lên thì nó vốn từ đâu mà đến sau
khi tàn rụi thì nó lại đi về đâu. Vậy mà trong lúc giận hờn ta tự làm khổ
cho ta trước hết, ví chính ta tự nổi lửa phiền não để thiêu đốt tâm can
của mình mà rồi cũng không thể cải hoá và làm lợi lạc chi cho người khác
cả. Như thế có phải là si mê vô ích chăng?
Lại
nên nghĩ rằng: người kia có hành động xấu ác, làm tổn hại cho ta thì thật
ra họ cũng chỉ vì mê muội nên mới gây ra cái nhân tố xấu ác, chắc chắn về
sau họ sẽ phải gặt hái cái quả báo khổ sở. Vậy thì họ đáng xót thương hơn
là đáng giận, bởi vì họ nếu sáng suốt, thông hiểu nguyên lý tội phước,
chắc không khi nào họ lại dám làm điều ấy. Ta là người niệm Phật thì
phải áp dụng giáo lý của đức Thế Tôn, để tự cởi mở sự ràng buột oan trái
ấy, vì mục đích của đời mình là sự an lạc chứ không phải là sống để khổ sở
vì kẻ khác một cách vô lối như vậy.
Ðối
với hành động tàn hại của họ, ta phải xót thương và tha thứ, nhu hòa nhẫn
chịu, rồi xét mọi việc đều hư huyễn, không thật. Nên răn nhắc chính mình
bằng giáo huấn: Lửa sân si tam độc, đốt hết rừng công đức, muốn hành Bồ
tát đạo, giữ thân tâm nhẫn nhục.
Từ bi
là nước tịnh mát mẽ, rưới lửa phiền não, nhẫn nhục là áo giáp bền chắc
ngăn che tất cả mũi tên độc. “Pháp –Không” là ánh sáng phá tan khói mù tối
tăm. Nếu biết dùng ba điều này để dứt trừ sân hận tức là đã vào nhà
Như-Lai, mặc áo Như-Lai, và ngồi toà Như-Lai vậy.
PHẢI ÐOẠN TUYỆT PHIỀN NÃO THỊ PHI
Hạng
phàm phu vì chưa chứng vào chân tâm bình đẳng, và còn ranh giới giữa ta và
người, nên trong đời sống, sự hơn thua phải quấy khen chê có đến muôn ngàn
và không một ai tránh khỏi. Dù cho chư Phật chư Bồ tát vì lòng đại bi mà
thị hiện giữa cõi trần để độ sanh, cũng phải chịu cảnh thị phi thương
ghét.
Những
sự thị phi làm cho người niệm Phật, nếu không sáng suốt bình tỉnh, nhiều
khi phải xao động mà phát sinh phiền não, gây chướng ngại cho việc hành
trì.
Muốn
dứt trừ tâm thị phi, cần phải:
Thứ nhất: Phải xét sửa lỗi mình, đừng nhìn nói lỗi người. Là phàm phu,
ai cũng thích lời khen, ghét tiếng chê, và ưa bươi móc điều dở của người,
không dè mình cũng nhiều lỗi lầm, chẳng có chi là tốt đẹp. Cho nên nguyên
tắc của người niệm Phật là phải luôn luôn tự phản tỉnh, xét sửa lấy
mình, đừng nên nhìn và nói đến lỗi lầm của kẻ khác. Xét sửa lỗi mình
thì càng ngày càng sáng- còn nhìn nói lỗi người tất càng gây việc trái
oan.
Thứ hai: khi bị sự thị phi khinh báng, nên an nhẫn mà niệm Phật nhiều
hơn, chứ đừng tìm cách biện minh. Ví như tờ giấy trắng bị vết mực làm lem,
thì ta cứ để yên, nó chỉ dơ một chút đó rồi lần lần phai nhạt- nếu lấy đó
lau chùi tất sẽ hoan ố toàn diện. Bởi khi việc khinh báng xảy ra, nếu hiện
tại mình không sai quấy, tất kiếp trước cũng lỗi lầm, nên đời nay phải
chịu quả báo. Giả sử kiếp trước mình không có biệt nghiệp trực tiếp gây
nên lỗi, thì cũng do công nghiệp tội ác, mới cùng sanh ra trong chốn ngũ
trược nầy.
Thứ ba : người niệm Phật phải giữ vững lập trường, tin chắc nhân quả
và đừng xao động vì tiếng hay dở bên ngoài. Kinh PHÁP CÚ dạy: ngọn núi cao
đứng vững giữa cơn giông tố, người chân chính an nhiên giữa tiếng thị phi.
Tất cả tiếng khen chê bên ngoài không làm cho ta tốt hay xấu, siêu hay
đọa- mà tốt xấu siêu đoạ đều do nơi ta. Nếu ta gây nhân tố lành thì dù
người có khinh là xấu xa, tội ác- nhưng ta vẫn được siêu thăng. Trái lại,
nếu ta gây nhân tố xấu ác thì tuy người khác quý trọng ngợi khen, nhưng ta
vẫn phải chịu đọa lạc.
Ðức
Lục-Tổ HUỆ NĂNG dạy rằng:
Nếu là bậc chân tu
Không thấy lỗi của đời
Nếu như thấy lỗi người
Mình chê- là kém dở
Người quấy, ta dừng quấy
Ta chê, tự có lỗi
Muốn phá tan phiền não
Hãy trừ tâm thị phi
Thương ghét chẳng để lòng
Nằm thẳng đôi chân nghỉ.
PHẢI TRỪ DIỆT MỌI CĂN NGUỒN SI MÊ
Người niệm Phật đôi khi đối với sự lý của mọi vấn đề mà chưa hiểu rõ
ràng, rồi từ đó dẫn sanh tất cả điều mê hoặc khiến cho tâm niệm không yên
ổn. Ðó là lúc nghiệp si nổi lên phái hoại chánh kiến của mình.
Chẳng
hạn như trong khi đang hành trì , thoạt nhớ có kẻ nói rằng: phải niệm
chừng nào nhất tâm bất loạn mới được vãng sanh, nay xét mình khó thực hành
đến trình độ ấy, e uổng công phu bấy lâu nay nỗ lực, rồi sanh ý tưởng phân
vân- đó là hiện tướng của nghiệp si.
Thật
vậy, si mê là nguồn gốc của tất cả phiền não, THAM và SÂN đềy do SI mà
phát khởi, còn MẠN, NGHI và ÁC KIẾN cũng đều do SI mà ra.
Như
khi khởi niệm: sự hành đạo siêng nhọc của ta, thì chưa chắc người xuất gia
đã bằng được; đó là NGÃ-MẠN phiền não.
Lúc
niệm Phật bỗng sanh ra ý nghĩ: Cõi Cực-Lạc trang nghiêm như vậy, còn mình
thì nghiệp dày phước mỏng, làm sao mà vãng sanh được? Đó là NGHI phiền
não.
Ác
Kiến là sự thấy hiểu cố chấp xấu ác, gồm có năm điều : Thân-Kiến,
Biên-Kiến, Tà-Kiến, Kiến-Thủ-Kiến và Giới-Thủ-Kiến.
Như
đang tu trì, chợt nghĩ rằng : thể chất mình thì ốm yếu, hôm nay lại làm
việc nhiều, chắc là mỏi nhọc, vậy nếu niệm Phật lâu hơn nữa, sợ e phải lâm
bệnh, đó là THÂN KIẾN.
Hoặc
nghĩ rằng: chết rồi thì như đèn tắt, nếu có đời trước sao mình lại không
nhớ? Tốt hơn là nên tu tiên để được sống lâu không chết.
Ðây
là ÐOẠN KIẾN và THƯỜNG KIẾN trong BIÊN KIẾN.
Hoặc
suy tưởng rằng: tại sao có người làm lành lại chết yểu, mà lại chết một
cách dữ dằn, còn kẻ làm ác thì lại sống lâu mà chết rất yên ổn tốt đẹp?
Ðây là lối chấp TÀ KIẾN không thấu suốt nguyên lý NHÂN QUẢ của ba
đời quá khứ, hiện tại, vị lai.
Có kẻ
lại nghĩ rằng : trước kia mình tu theo cách luyện điển của ngoại đạo, mới
có vài tháng đã thấy sự ích- còn nay niệm Phật đã lâu sao mà không thấy có
chuyển biến chi cả? Ðây là KIẾN-THỦ-KIẾN, tức là chấp lấy cái nhận thức
sai lạc của mình và không chịu lấy Chánh giáo để soi chiếu sự hành trì,
cũng như hướng dẫn đời sống của mình.
Hoặc
lại suy nghĩa : bên đạo khác họ đâu kiêng cữ sát sanh, mà vẫn cầu về Thiên
Ðường cũng như mình cầu về Cực-Lạc, vậy cần chi phải giữ giới sát? Ðây là
GIỚI-THỦ-KIẾN, tức là sự hiểu biết lầm lạc về Giới Pháp.
Tóm
lại mà nói, thì hình thức của nghiệp si quả thật quá nhiều, nhưng người
quyết tâm niệm Phật cần nhất là phải y theo kinh điển Ðại-Thừa và đặt trọn
vẹn lòng tin vào Ðức Phật. Ðối với đạo lý sâu xa, nếu có điều nào mà mình
không biết, thì nên tìm hỏi nơi bậc Thiện-Trí-Thức, chứ đừng để cho sự si
mê lôi kéo tâm hồn mình, làm mình đánh mất chủ hướng- khi mà pháp môn Niệm
Phật là một pháp thâm diệu, khó tin và khó hiểu.
Người
niệm Phật nên nương theo BA LƯỢNG sau đây để cũng cố lòng tin.
Thứ nhất : LÝ-TRÍ-LƯỢNG là sự suy lường của trí tuệ. Phải suy nghĩ như
thế nầy: tất cả các thế giới đều do tâm tạo- đã có cõi người thuộc phân
nửa nghiệp thiện ác, thì chắc chắn có tam đồ thuộc nhiều nghiệp dữ và còn
có các cõi Trời thuộc nhiều nghiệp lành. Và như thế thì phải chắc chắn
có cõi Cực-Lạc do nguyện lực thuần thiện của Phật và do công đức lành của
chư Bồ tát cùng những bậc thượng-thiện-nhân.
Thứ hai : THÁNH NGÔN LƯỢNG
Là
giá trị lời nói của Phật và Bồ tát trong các kinh luận. Phải biết, đức
Thế-Tôn đã dùng tịnh nhân thấy rõ y báo và chánh báo của cõi Cực-Lạc rồi
diển tả cảnh giới ấy trong các kinh điển Tịnh-Ðộ. Các bậc đại Bồ tát như
Văn-Thù, Phổ-Hiền đều ngợi khen cõi Cực-Lạc và khuyên chúng sanh nên cầu
vãng sanh.
Người
niệm Phật chỉ quyết sống theo lời Phật dạy, thì cũng phải hành trì theo
lời Phật dạy. Nếu không lấy lời dạy của Phật mà làm mực thước, thì lấy gì
để tin?
Thứ ba : HIỆN CHỨNG LƯỢNG
Là
lối tìm hiểu do sự thấy biết trực tiếp hay sự chứng nghiệm thực tế để mà
phát khởi lòng tin. Trong Tịnh-độ Thánh-Hiền Lục đã chứng minh rất nhiều
người đã niệm Phật mà vãng sanh. Và ở Việt Nam cũng có nhiều Phật tử niệm
Phật rồi được về Cực-Lạc với những bằng chứng cụ thể.
CÁCH GIẢI TRỪ PHIỀN NÃO
Tóm
lại, các loại phiền não của tham, sân, si đều biểu hiện dưới nhiều hình
thức không thể tả xiết, nhưng vẫn có bốn điều căn bản để đối trị tổng
quát:
-DÙNG
TÂM ÐỂ ÐỐI TRỊ
Người
mê với bậc giác ngộ chỉ có hai điểm sai biệt : tịnh là chư Phật và nhiễm
là chúng sanh. Chư Phật do thuận theo tịnh tâm nên giác ngộ và có đủ trí
tuệ cùng thần thông. Còn chúng sanh bởi tùy nơi trần nhiễm nên mê hoặc mà
bị sống chết luân hồi.
Người
niệm Phật với mục đích duy nhất là đi thẳng vào cảng giới Ðịnh-Tuệ để giác
ngộ bản tâm, chứng lên Phật quả. Vậy trong khi niệm Phật nếu thấy bất cứ
một ý niệm vọng động nào khác nổi lên thì phải diệt trừ ngay lập tức và
trở về với tịnh tâm. Ðây là cách dùng Tâm để đối trị.
- DÙNG
LÝ ÐỂ ÐỐI TRỊ
Nếu
khi vọng niệm nổi lên mà dùng tâm ngăn trừ không được thì phải dùng cách
quán xét lý bất tịnh phân tích giáo nghĩa KHỔ ÐẾ, nhìn thẳng vào thực tế
VÔ THƯỜNG và suy niệm về chủ đề VÔ NGÃ của vạn hữu. Hoặc triển khai sự tác
dụng của tứ vô lượng tâm: TỪ, BI, HỶ, XÃ...
- DÙNG
SỰ ÐỂ ÐỐI TRỊ
Có
khi phải dùng hình thức để đối trị mới có hiệu quả, như phải lẩn tránh các
duyên có thể gây ra phiền não, hoặc phải chịu khó ngoảnh mặt làm lơ trước
những hoàn cảnh có thể đưa mình đến chỗ đáng tiếc, hoaàu7841?c tự buộc
mình vào một thứ kỷ luật nào đó. Hoặc tự tạo điều kiện riêng để dằn phiền
não cho đến khi phiền não phai nhạt hẳn.
- DÙNG
BÁI SÁM ÐỂ ÐỐI TRỊ
Các
việc lễ lạy, sám hối, trì chú tụng kinh, phải giữ song song với việc niệm
Phật cho đều đặn, thì có năng lực diệt trừ tội nghiệp, phát sanh phước
tuệ. Cho nên, muốn xa lìa phiền não thì không có chi hơn là phải lễ lạy,
sám hối thường xuyên. Nếu bền bĩ và chí tâm thì trên đời, không có việc gì
mà không thành tựu.
Ðệ tử
chúng con kể từ vô thủy cho đến ngày nay, vì vô minh khuất lấp, vì phiền
não dấy động, nên đã đánh mất chánh kiến mà xa rời bạn hiền, gần gũi bạn
ác, mà chối bỏ ánh sáng trí tuệ, từ bi của Tam-Bảo, mà quay lưng trước Bản
Nguyện A-Di-Ðà. Ngày nay, nhờ sự nhiếp thọ của đức Từ-Phụ nhờ sự giáo huấn
của đức Bổn-Sư, nhờ sự khai thị tận tình của Thiện-Trí-Thức, cho nên chúng
con đã biết rằng: Niệm Phật thì phải đoạn trừ phiền não. Vì vậy,
giờ đây với tấm lòng Tri Ân tha thiết và chí thành; đệ tử chúng con xin
đem cả tánh mạng mà quy y và đảnh lễ :
Nam mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật
Nam mô A-Di-Ðà Phật, vị đạo sư tiếp dẫn vãng sanh Cực-Lạc
Nam mô Quan Thế Ââm Bồ tát
Nam mô Ðại Thế Chí Bồ tát
Nam mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ tát