NIỆM
PHẬT
SÁM PHÁP
Thích Thiền Tâm
---o0o---
QUYỂN
HẠ
PHẨM THỨ CHÍN
NIỆM PHẬT PHẢI AN NHẪN CÁC CHƯỚNG DUYÊN
Con đường hoàn thành Phật đạo thật ra vẫn còn vô số chông gai thử thách-
có muôn ngàn duyên nghiệp sẳn sàng khảo đảo đời sống của người hành trì
cũng như gây nên rất nhiều chướng ngại trên bước đường tu tập. Những sự
khảo đảo ấy có rất nhiều chi tiết sai biệt, được tóm tắt đại cương trong
sáu phần sau đây :
Thứ nhất là NỘI-KHẢO
Có người trong lúc tu tập bỗng khởi lên những tâm niệm tham lam giận hờn,
dục nhiễm, ganh ghét khinh mạn, nghi ngờ, hoặc si mê hôn trầm buồn ngủ.
Những tâm niệm ấy đôi khi phát lộ rất mãnh liệt, và gặp duyên sự nhỏ cũng
dễ sanh ra cau có bực mình. Nhiều lúc trong giấc mơ lại thấy các hình
tướng thiện ác biến chuyển. Gặp cảnh nầy, hành giả phải ý thức đó là do
công năng hành trì nên nghiệp tướng phát hiện. Ngay lúc ấy nên giác ngộ
rằng các thứ nghiệp tướng đều như huyễn hóa, phải nêu cao chánh niệm
thì tự nhiên các tướng ấy lần lượt tiêu tan. Nếu không nhận thức rõ
ràng tất bị nó xoay chuyển làm cho thối đọa.
Tiên đức dạy rằng : chẳng sợ nghiệp khởi sớm : chỉ e giác ngộ chậm.
Có người đang lúc niệm Phật bỗng phát sanh tán loạn, mỏi nhọc khó cưỡng
lại nổi, ngay khi ấy nên đứng lên lễ Phật hoặc đi kinh hành, hoặc tạm xả
công phu lui ra đọc vài trang sách, chờ cho tâm tư thanh tịnh sẽ trở vào
niệm Phật. Chớ nên cưỡng cầu, chớ nên tự ép buộc cho mau nhất tâm thì càng
cố gắng, lại càng rối loạn. Nếu thấy qúa cô tịch thì phải phụ thêm bái
sám, tụng kinh, trì chú. Ðây chỉ là sự uyển chuyển trong lúc dụng công, để
con đường hành trì trở nên dễ dàng và dễ chịu hơn.
Thứ hai, là NGOẠI KHẢO.
Ðây là những nghịch cảnh thuộc về bên ngoài, làm duyên khó khăn thối đọa
cho hành gỉa, như là sự nóng bức, ồn ào, uế tạp, hoặc ở chỗ qúa rét buốc
hay nhiều muỗi mòng, gặp những cảnh như thế nầy thì phải nên uyển chuyển
chứ đừng chấp nê theo hình thức của mình, mà phải nhẫn nại để cố giữ cho
vững khóa trình trì niệm. Ðừng bao giờ tỏ ra cái ý mong cầu hoàn cảnh bên
ngoài phải thuận theo lòng mình.
Thứ ba là : NGHỊCH KHẢO
Trên đường hành đạo nhiều khi hành giả bị chướng duyên làm cho trở ngại.
Có người bị cha mẹ, anh em, hay vợ chồng hoặc con cái ngăn trở, phá hại sự
hành trì, có người thì xác thân mang cố tật hoặc đau yếu mãi không lành.
Có kẻ bị oan gia đeo đuổi ám hại. Hoặc có người bị vu oan, giá họa khiến
bị tra tấn hay tù đày, hoặc bị ganh ghét bêu rao nhiều tiếng xấu xa làm
cho lòng khó an khó nhẫn.
Tất cả các việc ấy đều do sự tác động của nghiệp quá khứ hoặc nghiệp hiện
tiền, mà muốn vượt qua thì hành gỉa cần phải ẩn nhẫn sám hối một cách kiên
trì, chớ buồn phiền oán trách mà phải xem đó như là những thử thách của
A-Di-Ðà để trui luyện tín tâm của mình. Và điều cần yếu nhất là phải
thường xuyên cầu nguyện sự gia hộ của chư Phật và chư Bồ-tát .
Thứ tư là : THUẬN KHẢO
Có người không gặp nghịch cảnh mà gặp thuận cảnh, và cầu mong gì đều được
toại ý, Nhưng những sự đắc ý ấy lại là duyên ràng buộc chứ không phải là
duyên tiến tu. Ðây là những cảnh thuận theo duyên đời, quyến rũ người tu
rồi dẫn lần đến các sự phiền toái khác làm mất cả đạo niệm .
Người ta chết vì lửa thì ít mà chết vì nước thì nhiều cho nên trên đường
hành trì thì thuận cảnh thật ra đáng sợ hơn nghịch cảnh.
Vì sao thế? Vì nghịch cảnh phần nhiều làm cho hành giả khổ đau nên sớm
tỉnh ngộc và dễ thoát ly ý niệm tham đắm, đôi khi còn phẫn chí mà lo tu
hành. Ngược lại, thuận cảnh làm cho con người âm thầm thối đoạ lúc nào
không hay không biết. Ðến khi bừng tỉnh mới rõ mình đã lăn xa xuống dốc,
khó mà cứu vãn cho kịp. Người xưa nói rằng : Việc thuận tốt đến ba – Mê
lụy người đến già. Cho nên sự thử thách của thuận cảnh rất là vi tế và
khó đối trị- Do đó cần phải chú ý.
Thứ năm là MINH KHẢO
Ðây là sự thử thách rõ ràng trước mắt mà không chịu cảnh giác để tỉnh ngộ.
Chẳng hạn như có một vị tài đức không bao nhiêu nhưng được nhiều người
nịnh bợ, khen là nhiều đức hạnh, có phước lớn, rồi sanh ra tự kiêu, tự
đắc, kinh thường mọi người làm những điều càn rỡ, kết cuộc bị thảm bại.
Hoặc có một vị có đủ khả năng tiến xa trên đường đạo, nhưng bị kẻ khác cản
trở, dọa nạt, khích bác, thuyết phục phải bỏ đạo, rồi sanh ra e dè lo sợ
để rồi thối thất lòng tin. Hoặc có những kẻ tự mình biết nếu tiến hành
tham vọng nào đó thì sẽ rước lấy sự lỗi lầm, thất bại, nhưng vì mù quáng
và tự ái, vẫn đeo đuổi theo cho đến khi thân bại danh liệt.
Hoặc có kẻ tuy biết các duyên bên ngoài đều là giả huyễn, nhưng vì định
lực yếu kém, lòng tin lung lay, cho nên không buông bỏ được, rồi sau đó tự
chuốc lấy sự buồn khổ.
Có nhiều người tuy có đức tin và có hành trì, nhưng tính tình quá nhẹ dạ,
nên hay bị phỉnh gạt và bị lôi cuốn vào việc đời cho đến nỗi thân bị mang
lụy.khi mà chưa diệt được lòng tham lam, thì rất dễ bị người khác dùng
tiền bạc, danh vọng, sắc đẹp lôi cuốn. Hoặc nếu còn tánh nóng nảy và khí
khái tất dễ bị kẻ khác khích động mà gánh vác những việc phiền phức vào
thân.
Ðây là cạm bẫy của Ðời mà cũng là của Ðạo, nếu không dè dặt để cảnh gíac
thì sẽ vướng vào vòng chướng nghiệp. Ðối với những duyên thử thách lộ liễu
như thế, hành giả phải nhận định cho sáng suốt và phải quả quyết tiến theo
ánh sáng của Chánh Kiến mới vượt thẳng được
Thứ sáu, là ÁM KHẢO
Ðây là sự thử thách âm thầm không lộ liễu, mà hành giả nếu không khéo lưu
tâm thì chắc chắn khó hay khó biết.
Có người ban sơ tinh tấn niệm Phật, rồi bởi gia kế lần lần sa sút, công
việc làm ăn thất bại, cho nên sanh lòng trễ nãi sự tu. Có người công việc
mưu sinh từ từ phát đạt, rồi ham mê theo lợi lộc mà xao lãng hành trì.
Có người vì thiếu sự cứu xét nội tâm cho nên phiền não càng ngày càng tăng
thêm, lần lần sanh ra lười biếng kinh kệ.
Có người vì thời cuộc bên ngoài thay đổi, tuy sự sống vẫn đầy đủ nhưng nhà
cửa nay đổi mai dời, tâm trí cứ hoang mang hướng ngoại, bất giác bỏ quên
sự trì niệm hồi nào không hay.
Trên đây, đều là ảnh hưởng diễn biến của nghiệp thiện ác. Nhưng có sức
âm thầm lôi kéo hành giả, làm cho bê trễ sự tu học, nên gọi là ÁM KHẢO.
Do vậy mà người niệm Phật phải lưu tâm, chú ý nhiều hơn nữa và phải
luôn luôn bái sám cùng cầu nguyện sự gia bị của chư Phật cũng như oai thần
lực của chư Bồ-tát để vượt qua những thử thách vi tế và âm thầm.
PHƯƠNG THỨC
HOÁ GIẢI CHƯỚNG DUYÊN
Vì biết trên đường tu có nhiều chướng ngại, cho nên ngày xưa, đức ÐẠT MA
tổ sư đã chỉ dạy bốn phương châm để tiến đạo cho hàng đệ tử và
những kẻ hậu học, đó là :
Thứ nhất : BÁO OAN HẠNH
Ðệ tử chúng con từ vô thủy cho đến ngày nay, mỗi đời đều gây nợ nghiệp,
hoặc là ân, hoặc là oán, từ việc nhỏ đến việc lớn, nhiều đến số vô lượng
vô biên. Tuy kiếp này có công phu tu tập đã tiêu trừ nghiệp nợ một phần
nào, nhưng vẫn còn nhiều thứ nghiệp phải bị đền trả. Phải an lòng nhẫn nại
chịu đựng một cách bình thản chứ không nên oán trách hoặc buồn phiền, luôn
luôn nhắc nhở đến luật NHAÂN QUẢ, nuôi lớn lòng tin và cầu viện đến hồng
ân của chư Phật .
Pháp-Nhiên thượng nhân dạy rằng muốn cho đời sống thanh thoát và cõi lòng
hoan lạc thì hành giả chỉ nên chuyên cần - chăm chú xưng niệm danh hiệu
Phật , rồi đem tất cả cuộc đời mình, giao phó cho Bản Nguyện A-Di-Ðà ,
như vậy, chỉ có như vậy thì không còn có một thứ nghiệp lực hay oan trái
nào có thể tác động đến tâm thức mình.
Thứ hai, TUỲ DUYÊN HẠNH
Người niệm Phật phải hiểu rằng tất cả cảnh thịnh suy, họa phước đều là
huyễn hóa , chỉ tùy theo nghiệp nhân mà hiện ra trong một thời gian rồi
hoại diệt – Cho nên có chi đáng để tham luyến hoặc chán nản? Luôn luôn
phải có thái độ an phận và tùy duyên , giàu sang thì không tự đắc, nghèo
nàn không đổi chi, gặp hoàn cảnh nào đều vui sống theo hoàn cảnh đó, sao
cho giữ vững các khóa trình tụng niệm .
Nếu có gặp hoạn nạn, tật bệnh bất ngờ cũng không nên bối rối, mà chỉ nên
niệm Phật nhiều hơn và nhớ quán sát ruộng vườn, nhà cửa, vợ con, đều là
duyên giả tạm, không nên vì đó mà bận tâm. Ðược như vậy mới vững tiến trên
đường về Cực-Lạc .
Thứ ba : XỨNG PHÁP HẠNH
Pháp tức là chân như pháp tánh đối với người (niệm Phật) tu Tịnh-Ðộ tức là
niệm Phật tam muội.
Người tu Thiền, khi đi đứng nằm ngồi thì tâm phải xứng hợp với pháp chân
như, còn hành giả của pháp môn Niệm Phật thì tâm lúc nào cũng phải an trụ
trong câu Nam mô A-Di-Ðà Phật .
Chư vị Tổ sư đã dạy : Nếu tạm thời không trụ nơi chánh định, tức đồng
như người đã chết. Bởi vì sao? Nếu không trụ vào câu Phật hiệu, tức là
tâm thức đã bị trần cảnh cứơp đoạt, và pháp thân tuệ mạng cũng không còn.
Cho nên đệ tử chúng con quyết luôn luôn an trụ vào câu Niệm Phật để tâm
tánh lặng yên sáng suốt. Dễ cảm thông với Phật – và ngay trong đời
sống đã vãng sanh rồi còn lâm chung được tiếp dẫn chỉ là chuyện của
ngày sau.
Thứ tư : VÔ-SỞ-CẦU-HẠNH
Ðạo là chỉ cho tâm hạnh trong sạch không mong cầu điều chi. Bởi vì tất cả
các pháp đều như huyễn, hễ sanh rồi diệt, diệt rồi lại sanh, có chi chân
thật để mong cầu? Vả lại, các pháp thế gian đều tương đối trong họa có
phước, trong phước có họa, cứ ẩn nương nhau như thế, cho nên người niệm
Phật phải bình thản, ở cảnh thạnh suy, họa phước đều không động tâm.
Thí dụ, có một tăng sĩ ở nơi am tranh vắng vẽ, sự sống hẩm hiu, ít người
thăm viếng, thì duyên đời tuy suy kém nhưng việc hành trì lại vững chắc.
Ít lâu sau có người đến cúng dường, lần lần lập nên chùa lớn, tăng chúng
đông đảo, chừng ấy phước duyên tuy thịnh nhưng phần giải thoát lại suy
kém, vì bận rộn đối phó các việc bên ngoài nên xao lãng hành trì .
Hoặc có vị cư sĩ nọ có gia đình bần hàn nên kham nhẫn, giữ lòng tin mà tu
niệm, bỗng nhiên gặp duyên may, có người giúp đở buôn bán, về sau công
việc làm ăn tấn tới thì không còn thì giờ để thực hiện nếp sống tâm linh.
Cho nên, nếu quán xét cho thật kỹ lưỡng, thì cái lẽ họa phước đều là tạm
bợ, và người niệm Phật đừng nên mong cầu gì hết ngay cả điều thiện cũng
không ham, chỉ nên thường xuyên chấp chặt câu Nam mô A-Di-Ðà Phật,
còn ngoài ra các việc khác kể cả việc vãng sanh và thành Phật đều nên phó
thác cho đức Phật A-Di-Ðà. Về mặt đời sống hằng ngày thì hãy nên dùng tấm
lòng tri ân để cư xử với tất cả mọi người .
Ðệ tử chúng con tự nghĩ mình vốn tội dày phước mỏng, căn cơ hèn kém, lại
sanh nhằm thời mạt pháp, cho nên cứ mỗi lần nhìn lại bản thân thì buồn tủi
và hổ thẹn. Khi dấn bước vào khu rừng bát ngát mênh mông của Phật Pháp
thì vô cùng bỡ ngỡ không biết phải chọn lối đi nào, vì bất cứ lối đi nào
cũng qúa hiểm trở và xa xuôi, mà khả năng của chúng con thì bị giới hạn
bởi nghiệp chướng.
Hạnh phúc thay cho chúng con, đức Thế Tôn đã mở bi nghiệp triệt để và đã
chỉ bày Pháp Môn Niệm Phật để đưa chúng con lên bờ giải thoát. Với hành
trang là sáu chữ Nam mô A-Di-Ðà Phật , chúng con mạnh mẽ bước lên con
đường về Cực-Lạc , nhưng những nghiệp nhân đã gieo từ quá khứ vẫn còn tác
động đến đời sống cùng tâm thức. Cho nên chúng con mãi mãi khẩn cầu chư
Phật chư Bồ-tát ban cho chúng con đầy đủ năng lực, đầy đủ lòng yêu thương
để chúng con luôn luôn tỉnh thức và ghi nhớ rằng : Niệm Phật phải an
nhẫn các chướng duyên như là yếu chỉ thứ chín của Pháp môn Niệm Phật .
Nam mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Niệm Phật
Nam mô A-Di-Ðà Phật
Nam mô Quan Thế Âm Bồ tát
Nam mô Ðại Thế Chí Bồ tát
Nam mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ tát