Vượt Luân Hồi Vào Tịnh
Ðộ
Thích Phổ Huân
---o0o---
Chương III
Phá vỡ chướng ngại trên đường niệm Phật
Hắn gấp lại quyển kinh, nâng lên cao áp vào
trán, giữ như vậy vài phút rồi đặt nhẹ xuống bàn; chấp hai tay lại thành
kính xá vái thật chân thành ngưỡng mộ.
Như thế kẻ
say ngủ đã tìm được vật quý nhất thế gian này, để từ đây không còn phải
lo sợ cho đời này đời sau mãi quay vòng như tơ rối.
Từ khi bước
vào nhà Phật, hắn đã đắn đo bao điều pháp học; phải thế nào để tìm được
hướng đi cho mình, tránh việc lý luận suông mà thực hành thì quá ít.
Nhân duyên
hiểu lời Phật dạy qua kinh A Di Ðà, giờ đây đã là cuộc cách mạng lớn -
nó đã chính thức thay đổi cách nhìn về con người và cuộc đời của hắn.
Hắn thật vui mừng, thầm nghĩ, từ đây tất cả còn lại, chỉ là chuẩn bị dọn
đường chờ ngày về Tịnh Ðộ.
Bất chợt!
Ngay trong lúc này, hắn cảm thấy một điều không vui, khi nghĩ đến một số
người đã không có niềm tin niệm Phật, để rồi sẽ không bao giờ gặp duyên
vào được một thế giới huy hoàng mà kinh A Di Ðà lược kể.
Hắn tự suy
diễn tìm hiểu nguyên nhân rõ hơn.
Và đây có
lẽ là những lý do:
-Vì con
người đã quen rồi từ nhỏ, chưa từng nghe ai nói, ngoài trái đất lại có
một thế giới tươi đẹp hơn. Nhưng nếu có một thế giới đẹp, thế giới đó
không thể nào có những việc lạ lùng như kinh A Di Ðà kể.
-Vì cho đến
nay nhân loại đã văn minh, đã phóng phi thuyền ra ngoài trái đất khám
phá không gian vũ trụ, đã gởi đi nhiều tín hiệu, thăm dò tìm kiếm sự lên
tiếng trả lời của "người" ngoài trái đất. Việc làm này đã gần nửa thế kỷ
qua, mà đến nay chẳng được tín hiệu cụ thể, hình ảnh rõ ràng một thế
giới đang sinh hoạt của một loài sinh vật nào.
Tuy nhiên
việc tìm kiếm khám phá này hy vọng chắc chắn sẽ có; chỉ có điều, cảnh
tượng và sinh hoạt thế giới đó không thể nào quái lạ như kinh A Di Ðà
miêu tả.
Ðó là những
nghi ngờ tổng quan, phủ nhận có thế giới Cực Lạc.
Về chi tiết
diễn tả cảnh sinh hoạt của người cõi Cực Lạc, lại càng làm con người ở
hành tinh này không tin hơn:
-Làm sao
hoa sen có thể sanh ra người ?
-Làm sao
thân người trong suốt; lại không có cấu tạo ăn uống, bài tiết như vô số
sinh vật trên trái đất này?
-Làm sao có
thể dùng ý tưởng mà muốn ăn là có ăn, muốn hóa thân đi đâu chẳng ngại?
-Làm sao ai
cũng vui vẽ an lành không một mống niệm phiền não?
-Làm sao
người ở đó không một ai mà không có thần thông?
Và còn
nhiều việc lạ lùng nữa về con người ở thế giới Cực Lạc kia.
Về hoàn
cảnh địa dư:
-Làm sao
thế giới đó luôn luôn sáng mà không nhờ vào mặt trời, ngôi sao chiếu
vào?
-Làm sao
đất đai toàn ngọc báu?
-Làm sao
cung điện nhà cửa ở thế giới đó đều không phải do xây cất bằng tay chân
hay máy móc?
Vân và vân
vân!
Ðại khái
chỉ bao câu hỏi như vậy; càng đặt thêm người ta càng phủ nhận sự thật
thế giới kia .
Từ kiến
thức căn bản có được, qua nhân duyên hiểu được lời Phật dạy nói chung và
kinh A Di Ðà nói riêng, hắn tạm tìm hiểu, tự trả lời cho mình những nghi
ngờ trên.
-Ðiều mà
người ta không tin, thật tình mà nói là đúng. Bởi vì: từ nhỏ tới trưởng
thành hầu như chưa bao giờ nghe nói có thế giới lạ đó; lại càng chưa
thấy ai nói đã chứng kiến cảnh nầy.
-Lại nghĩ
rằng, nếu người tu niệm Phật cho là khó diện kiến với người dân bên đó;
nhưng lại tin người ở Cực Lạc có thần thông vân du tự tại; vậy hỏi sao
họ không đến thăm trái đất!
-Còn sự
kiện đĩa bay UFO (Unidentified Flying Object - Vật bay chưa xác nhận
được) xuất hiện đâu đó như một vài tin đã đăng tải mà loài người chúng
ta nghe qua, nếu đây là người ở thế giới Cực Lạc, thì càng làm mọi người
phủ nhận những gì trong kinh ca ngợi tán thán! Vì sao? Vì họ cũng phải
nhờ bằng đĩa bay, và hình sắc dung nghi chẳng đẹp như người ở trái đất!
-Tương tự
những sự lạ lùng trên, hầu hết con người ở trái đất này không chứng kiến
và không có chứng cớ, nên không tin.
-Nguyên
nhân người ta phủ nhận, bởi vì đã chấp chặt vào giác quan ngũ uẩn
,
chấp chặt vào truyền thống, phong hóa lâu đời, chấp chặt vào tình cảm,
tâm, sinh lý của con người và hoàn cảnh chung quanh. Hay nói tóm lại do
thân xác ngũ uẩn, là nguyên nhân chính, mới sinh ra tất cả rồi tự chấp
dính vào; thế nên nhà Phật gọi là chấp ngã, chấp pháp - Lại nói theo
thuật ngữ của Duy- Thức là "Câu sanh vô minh", nghĩa là sự sai lầm không
sáng suốt (chấp ngã, pháp) đã đi với ta từ khi có mặt trong thai mẹ, rồi
xuất hiện ra đời, dù không ai dạy mà ta đã có Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi.
Với con
người của thế kỷ 21 cũng vẫn là câu sanh vô minh, và dù muôn thế kỷ tới
nữa vẫn không khác, trừ khi con người tự quay về lại chính mình để tìm
ra Phật tánh (Bản thể sáng suốt), chừng ấy mới thấy tất cả.
Chúng ta
vẫn đồng ý rằng, sự thấy biết phải được kiểm chứng, và nền khoa học ngày
nay có đủ tư cách nói lên việc miêu tả trong kinh A Di Ðà không thể thấy
được và kiểm chứng được!
Nhưng chúng
ta cũng có thể nói rằng, vì Khoa học chưa đạt tới trình độ để hiểu biết
mà thôi. Rõ ràng như vậy; khoa học vẫn là mãi mãi đang dò tìm học hỏi,
chớ không phải là chân lý, bất di bất dịch.
Tỉ dụ, cách
đây năm chục năm có ai lại tin điện thoại nhỏ không dây (mobie phone)
bây giờ, và điện thoại tại nhà có thể vừa nói chuyện vừa thấy hình người
đầu dây bên kia!
Nếu thời
điểm đó mà thấy một người cầm một vật nhỏ bằng nắm tay (Mobile phone),
đưa lên giữa tai và miệng rồi nói chuyện một mình, chắc không ai lại
không nói người ấy khùng. Khùng nặng hơn, nếu người đó dùng hệ thống
nghe nói bằng dây (hand free) gắn qua điện thoại, trong khi điện thoại
lại nằm gọn trong túi áo - người ấy nói chuyện mà chẳng cần cầm vật gì
đưa lên miệng; người ấy thoải mái tự nhiên vừa cười vừa nói; thỉnh
thoảng lại lắc đầu, rồi gật đầu đồng ý v.v... vậy chắc người chung quanh
của thập niên năm mươi phải chào thua với anh điên nầy đã quá mức!
Thời gian
cách đây của thập niên năm mươi, thật ra cũng đâu có xa gì lắm.
Hiện thì
dân số trên địa cầu, người sống thọ hơn bảy mươi tuổi cũng còn rất
nhiều, và chắc chắn họ đã thấy khoa học tiến bộ không thể tưởng được;
bằng chứng những điều không tưởng của ngày trước ngày nay lại quá xem
thường. Và rồi đây sẽ còn tiến mãi.
Thế thì
khoa học vẫn tìm mãi những điều mới lạ và không thể khẳng định thành quả
nghiên cứu trong thời điểm này là chân lý bất di bất dịch.
Về ngành
thiên văn học, con người của thế kỷ hôm nay đã chấp nhận rõ ràng, thế
giới có vô số thiên hà trong vũ trụ, chớ không phải đầu thế kỷ thứ hai
thứ ba các nhà khoa học thiên văn chỉ đếm bằng cặp mắt thịt của mình,
nên kết quả khám phá ngôi sao, ngân hà (Galaxy) trong vũ trụ xem như
chẳng biết gì. Tuy nhiên họ đã có công khởi xướng một kỳ tích, khám phá
vĩ đại cho thế kỷ ngày nay. Nhưng lại nhìn vào vũ trụ, rồi suy nghĩ, văn
minh con người ngày nay khám phá được, có lẽ cũng sẽ thành chẳng biết gì
về vũ trụ, nếu tương lai khoa học cứ đà phát triển cho đến ngàn năm sau!
Vì thực tế,
hiện thời khoa học thiên văn còn chưa biết rõ ngay cả dãy ngân hà Milky
Way là nơi trái đất nương tựa trong đó, có hay không có hành tinh giống
mình ? Và nếu có thì được bao nhiêu? Trong khi vũ trụ có hàng tỉ tỉ ngân
hà! Và chắc chắn tỉ tỉ ngân hà trong vũ trụ lại có cả triệu ngân hà lớn
hơn gấp trăm lần hay ngàn lần ngân hà Milky Way. Do đó cái biết của khoa
học ngày nay làm sao đã nói là biết những điều của tương lai!
Thế thì quả
quyết phủ định sự kiện mà mình đang còn nghiên cứu tìm kiếm, như vậy đã
sai rồi.
Với vũ trụ
dãy ngân hà Milky Way có lẽ như hạt cát nằm trong bãi cát lớn; với chu
vi thái dương hệ (Solar system) chúng ta, hạt cát đã bị nghiền nát ra cả
triệu lần rồi! Và cuối cùng là trái đất so với vũ trụ, thì không còn ai
tin là có cái vật gì đó gọi là trái đất (earth)! Nhưng, thật sự là có!
Lại cuối cùng lần nữa! Ðối với kích thước con người sống trên trái đất
so với vũ trụ, vậy có ai tưởng tượng thí dụ được không? Câu trả lời là
hoàn toàn không! Có lẽ còn nhỏ hơn cả triệu lần 'cực vi trần'
mà kinh Phật thường nói!
Do đó thấy
rằng, nền khoa học văn minh của loài người từ cổ chí kim quả thật nhỏ
bé, nhỏ bé đến hết mức diễn đạt khi so với những gì chưa biết trong vũ
trụ mênh mông. Và thảo nào, hình như Albert Einstein Khoa học gia lừng
lẩy của thế kỹ 20 biết được điều này, nên ông rất khiêm nhường với những
gì ông biết và chưa biết.
Ðó là một
vài điểm của những sự kiện mà con người không biết được, không thấy
được, dù tạm có đầy đủ những thiết bị kỹ thuật cực kỳ hiện đại.
Chẳng nói
xa nữa, ta nghĩ đến gần và thực tế. Nếu căn cứ vào việc thấy mới tin,
vậy có ai đã thấy ông bà tổ tiên cách đây vài trăm năm không?
Chắc là
không rồi! Chỉ có vài trăm năm cũng không thấy, không biết! Nhưng thật
sự ông bà tổ tiên đã từng sống trước đó, nếu không thì làm gì có chúng
ta hôm nay!
Bàn thêm về
giác quan con người, lại có vấn đề nữa!
Chúng ta đã
chẳng hơn loài động vật chó, mèo, dơi, chim cú...Với chúng, ban đêm có
lẽ chẳng khác ban ngày là bao, chúng có thể chạy nhảy bay lượn mà không
sợ vấp phải vật chướng, và đặc biệt một số loài toàn sống về đêm. Còn
loài người thì sao! Phải mò mẫm mà đi y như là mù, chớ đừng nói chạy.
Nhưng lỡ ban đêm con chó nó thấy cái gì đó rồi sủa, tru, chúng ta cho là
nó điên! Nguyên nhân vì ta không thấy nên không tin, vậy thật tội nghiệp
cho con chó! Không chừng nó thấy cái gì vô hình (invisible) đó; vì Ðức
Phật dạy có đến sáu cõi: Trời, người, A Tu La (loại thần) địa ngục, ngạ
quỹ, súc sanh. Dĩ nhiên Phật dạy như thế vì Phật đã thấy rõ, còn ta vì
chưa thành Phật nên chỉ thấy có 2 cõi là người và súc sanh. Do vậy mắng
la con chó thì tội nó lắm lắm!
Ðến ngay cả
sản phẩm do con người tìm ra, rồi hóa giải nó, sai khiến nó vậy mà chính
con người cũng không thấy mặt mũi nó, nói chi vũ trụ này còn biết bao
nhiêu việc mà con người chưa tìm ra thì làm sao thấy!
Sản phẩm
muốn nói đến, là điện năng và hơi khí.
Khi con
người dùng những kỹ thuật cơ khí, điện tử, làm tác động mạch điện biến
thành động cơ di chuyển vật; thì những làn sóng điện đó có ai lại thấy!
Nhưng nếu ta không tin nó hiện hữu, vậy thử lấy vật ngăn che bộ phận
tiếp sóng, tức sẽ thấy nó bị vướng mắc mà vô hiệu quả không làm việc
được.
Hình ảnh lý
thú, khi nhìn lên trời, một phản lực cơ dân dụng Boeing 747, đang lượn
bay trên nền trời xanh thật đẹp, nhưng nào ai thấy vật gì làm nó di
chuyển nhẹ nhàng đẹp mắt như vậy, trong khi sức nặng nó đến hàng ngàn
tấn! Không phải giống như máy bay trực thăng, còn thấy có chong chóng
phá lực hút trái đất nâng được lên không.
Ðơn giản,
vì kỹ thuật hiện đại hơn; và máy bay không chong chóng kia vẫn đang dùng
một lực đẩy kinh khủng xé nát không khí ngoài sau nó, mà mắt thường
chúng ta nào thấy, duy chỉ còn nhận được âm thanh vang rền inh ỏi.
Về hơi khí
là mạch sống của ta như Oxyzen, thì ai nào thấy! Như vụ tai nạn chiếc
Tiềm thủy đỉnh Liên Xô xãy ra năm rồi (2002); khi tất cả máy móc hư
hoại, vỡ tung, thì hầu hết số thủy thủ đoàn tử nạn, chỉ còn một ít người
thoát được vào một phòng trống, nhưng lại đau thương hơn! Vì phải chứng
kiến và chịu đựng thần chết đến từ từ, nguyên do dưỡng khí (oxyzen) đã
kiệt dần.
Cảnh tượng
ra đi đau đớn như vậy, nếu người của thời xưa chưa văn minh thấy được,
sẽ phải hãi hùng vì không hiểu tại sao các thủy thủ nầy chết, trong khi
thân thể không bị đâm chém đả thương!
Vậy đủ thấy
rằng những gì con người không thấy rồi không tin phải cần xét lại.
Thế thì Hoa
sen hóa sanh ra người cũng có thật, vì con người ở đó không phải là cái
gọi con người ở đây. Thân thể họ không phải dạng vật chất nguyên tử; nay
chúng ta so với thân thể chúng ta là những nguyên tố cấu tạo của đất,
nước, gió, lữa, làm sao giống được!
Thế giới
của những vị đó lại sống cách xa chúng ta đến hàng tỉ năm ánh sáng!
Chúng ta há
không thấy ngay tại trái đất này đã có hàng ngàn loài sinh vật đâu giống
loài người, nhưng sinh hoạt của chúng cũng vẫn là một tập thể chúng sanh
có thế giới riêng biệt. Vì chưa có thiên nhãn thông, nên ta chưa thấy
biết, chứ dưới mắt chư Phật, Bồ Tát chúng vẫn sống theo một xã hội trật
tự lắm. Thử nghĩ, nếu không trật tự, làm sao ong, kiến, có thể điều hành
lập tổ, chuyển tổ, dự đoán trước thiên tai, cũng như những đàn chim biết
lập hình bay khi phải vượt qua những lộ trình dài như sa mạc và hồ biển!
Lại có
những sinh vật sống vùi trong đất, và chắc chắn phải có một số loại cá
dị thường sống sâu tận đáy biển!
Và việc chúng khổ hay vui chỉ có chúng mới biết! Nhưng chắc chắn là khổ
rồi, căn cứ theo Phật dạy - ở cõi Ta Bà này tất cả chúng sanh chẳng
tránh được khổ.
Vậy thế
giới có muôn hình vạn trạng, chúng sanh ở vào cảnh nào mới hiểu được
cảnh ấy; chỉ trừ những điều cơ bản có thể quan sát, phỏng đoán, ngoài ra
đến chín mươi phần trăm không thể biết được. Như ta có thể cho lạ lùng,
khi nghe trong kinh nói chư Thiên cõi trời không ăn uống tiêu hóa như
mình; họ chỉ ăn bằng cách ngửi hương vị - ngược lại chư Thiên nhìn loài
người cũng rất ngạc nhiên và không chừng còn gớm ghiếc nữa, khi thấy
hành động ăn uống của con người, bằng cách bỏ cái gì đó vào thân trên,
rồi lại tít tắc chẳng bao lâu thải ra ở dưới một cách bất tịnh!
Ðại thể thế
giới Ta Bà nầy, có hàng ngàn loại chúng sanh, nên có hàng ngàn sự sống
khác nhau, nhưng loài người lại là loài thông minh, tuyệt đẹp và được ưu
đãi nhất.
Cũng vậy vũ
trụ có vô vàn thế giới; mỗi thế giới lại có sinh hoạt khác nhau và cõi
Cực Lạc là cõi thật đẹp và thanh tịnh nhất như các cõi Phật khác vậy.
Suy ra
chúng ta ngạc nhiên cũng đúng, vì cả đến những cõi trời cũng phải ngạc
nhiên khi nghe nói đến cõi Cực Lạc, nhưng xin nói nhỏ chỉ chúng ta nghe
thôi; họ (cõi trời) không được may mắn như ta đâu! Vì chưa nghe nói Phật
Thích Ca thuyết pháp môn Niệm Phật ở cõi trời nào! Và nếu có đi nữa thì
rất hiếm rất hiếm!
Ðến đây
phần nào đã hiểu, và có thể an tâm rằng, việc lạ lùng ở cõi Cực Lạc cũng
bình thường thôi! Tuy nhiên, ta thử diễn đoán thêm một vài điểm.
Khi các vị
đã từ Hoa sen tinh khiết sanh ra, tất nhiên thân thể quý vị đó phải là
trong suốt thanh tịnh. Thân thanh tịnh thì ý thanh tịnh, ý thanh tịnh đã
là định rồi, vậy đã đi vào diệu dụng của an lạc tự tại; thế là chỉ còn
chờ nhân duyên dự vào hải hội thấy và nghe Phật A Di Ðà khai mở Phật tuệ
thì hoàn tất việc tu.
Nhận định
trên hiểu rằng, họ thanh tịnh được ý một cách dễ dàng khi hoa khai, bởi
vì họ đã thanh tịnh trước khi bỏ thân phàm ở cõi kham nhẫn (Ta Bà);
thành ra một khi hành giả được vãng sanh tâm ý đã thanh tịnh ngay tức
khắc.
Thế thì
niềm an lạc từ tâm, diệu dụng ra tất cả, vậy sá gì muốn ăn có ăn, muốn ở
cung điện có cung điện... Những việc nầy nói ra chỉ để phương tiện
khuyến tấn hành giả cầu sanh mà thôi, chứ niềm an lạc định tâm mới là
cứu cánh.
Khi đã dự
vào ao sen thất bảo, chánh báo tất nhiên phù hợp với y báo. Nghĩa là
hành giả sẽ không còn là hành giả của sáu căn, sáu thức ở Ta Bà; mà giờ
đây là hình sắc của chơn tâm, tuệ trí sống nơi thế giới Cực Lạc. Cho nên
y báo lại đẹp ra phù hợp với chánh báo của hành giả; đó là cấp độ phẩm
trật mà do công phu của hành giả được dự vào, như Thượng Phẩm, Trung
Phẩm và Hạ Phẩm.
Cũng xin
phân định rõ, hành giả niệm Phật bỏ xác thân sanh về thế giới Cực Lạc
qua phương tiện hoa sen, đó là trình độ ở phẩm thứ thấp, tức là hạ phẩm
- riêng Trung phẩm và Thượng phẩm, sẽ tiếp nhận cảnh giới Cực Lạc ngay
khi hành giả xả thân Ta Bà. Hành giả sẽ thấy Thánh chúng và Bồ Tát,
thanh tịnh hiện ra tiếp đón, và tùy vào các phẩm Trung, Thượng mà diện
kiến ngay Ðức Phật A Di Ðà, tức liền nhập vào thanh tịnh cảnh (Cực Lạc
thế giới). Tuy nhiên thời gian ở Hoa sen cảnh, chờ khai hoa kiến Phật,
vẫn an trụ trong diệu tâm lạc hạnh, sung sướng mà kinh nói còn nhẹ nhàng
tươi nhuận hơn cả trăm lần cảnh trời.
Suy ra,
sanh vào Cực Lạc cảnh thấp cao đều do công phu của hành giả, và không
thể một người chỉ niệm Phật bình thường đến giờ phút lâm chung có thể
sanh được Trung Phẩm hay Thượng Phẩm. Vì tâm thức của họ chưa đủ thuần
chân, chứa đầy chủng tử Phật (thức giác). Họ vẫn nhứt định vãng sanh
nhưng phải ở Hạ Phẩm. Tuy nhiên dù ở hạ Phẩm vẫn còn hơn tất cả trong ba
cõi (Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới) bởi vì Hạ phẩm ở ngay trong thế
giới thanh tịnh của Phật A Di Ðà thì việc kiến Phật chắc chắn không xa.
Kết lại vấn
đề thắc mắc nghi ngờ của tất cả phần còn lại: Tại sao mọi người đều
không có phiền não (khổ); ai cũng có thần thông v.v... sẽ không còn khó
hiểu nữa, vì tâm đã hoàn toàn thanh tịnh chẳng còn mọi vướng mắc các
pháp hữu vi, sanh diệt đối đãi. Vậy đó là thần thông, là tự tại chu du
khắp pháp giới.
Ngũ uẩn: còn gọi là ngũ ấm, là năm thành phần tạo
nên con người như, Sắc (thân hình, ảnh sắc bên ngoài), Thọ (cảm thọ,
vui, khổ), Tưởng (tưởng ghi, tưởng tượng các hình ảnh...), Hành (sự
tác động, thao tác của tâm và thân, tạo nên những hành động từ thân
đến tâm) Thức (nhận thức hiểu biết). Năm phần này, Sắc thuộc về thân
và bốn phần còn lại thuộc về Tâm.
Cực vi trần là danh từ diễn tả một
vật có mức nhỏ không thể thấy và nghĩ được, mà Phật thường dạy trong
kinh. Giống như Khoa học hiện đang nghiên cứu thành phần nguyên tử
(Atom)- và lại khám phá ra Tiềm nguyên tử (Quark) còn nhỏ và
vi tế hơn nữa!
Cho đến bây giờ, văn minh con người vẫn chưa khám phá nổi những
vùng biển sâu nhất của đại dương.
---o0o---
Mục Lục
Chương I
|
Chương II
|
Chương III
Chương IV
|
Chương V
|
Chương VI
|
Chương VII
Chương
VIII
|
Chương IX
|
Chương X