Vượt Luân Hồi Vào Tịnh
Ðộ
Thích Phổ Huân
---o0o---
Chương V
Hành trang của hành giả Niệm Phật
Người tỉnh
thức như thấy trước mắt ánh sáng vàng tươi nhuận, quyện tỏa bao trùm
muôn vật, biến tất cả chung quanh lấp lánh lung linh một màu vàng kim dễ
chịu, tựa như tia nắng buổi bình minh.
Pháp tu,
niệm danh hiệu Phật, không chỉ ước nguyện xây dựng một thế giới tương
lai cho chính cá nhân hành giả, mà còn nhân duyên xây dựng một nguyện
lực độ sanh như Ðức Giáo chủ Phật A Di Ðà.
Có phải Thế
giới Cực Lạc hiện hữu từ nguyện lực đại bi của Ngài! Vâng chính vậy, thì
người nguyện sanh về Cực Lạc đã mặc nhiên thiết lập cho mình không khác
Ngài vậy. Người đã vãng sanh tất nhiên không thoái chuyển tâm giải
thoát, và do tâm bồ đề không thoái chuyển, lại đành bỏ mặc nơi mình đã
từng đau khổ với muôn vàn chúng sanh !
Thật ra tất
cả đều do tâm tạo; tâm tạo Ta Bà, tâm tạo Tịnh Ðộ; diệu dụng của Tâm
thật khó nghĩ bàn. Thế giới Ta Bà là khổ, nhưng cũng có người vui sướng,
thế giới Ta Bà là đau thương thù hận, nhưng ở đó đã xuất hiện biết bao
vị Thánh nhân mà cõi trời phải mơ ước được gặp. Nhưng vì một ít Thánh
nhân ví như đất dính vào tay của Phật Thích Ca, nên không thể nào tỉnh
thức được tâm phiền trược của chúng sanh ví như đất đại địa. Thậm chí
đến cả Ðức Phật là viên ngọc vàng, rực rỡ chiếu rọi khắp mười phương thế
giới, còn chưa thể chan hòa rọi hết lượng số của chúng sanh đang phiền
trược khổ đau (Phật có thể độ vô số chúng sanh chớ không thể độ hết
chúng sanh).
Vậy thì tâm
diệu dụng giải thoát, nhưng vẫn nằm sâu vào tiềm thức (A Lại Da) chân
như, và nó phải được khơi dậy, phải được lay động mới trở về bản tánh
chân như của nó, nghĩa là nó mới diệu dụng được sự tỉnh thức giác ngộ mà
quay về Phật tánh, thành Phật không khác.
Bậc Giác
ngộ rõ biết tâm diệu dụng nên quyết thị hiện vào cõi Ta Bà nơi đau khổ
mà không ngại chướng duyên, để làm công việc khơi dậy tánh giác cho
chúng sanh.
Thị hiện
vào Ta Bà, như đi vào cõi mê tình, vọng thức điên đảo để làm sáng ra ánh
sáng chân như, chân thức - và chúng ta thực hành niệm Phật là chuyển di
tâm thức vào một thế giới thanh tịnh trang nghiêm, không khác gì ánh
sáng chân thức, chân như Niết Bàn. Cho nên dù diệu tâm vô hình không
chướng ngại nhưng, nếu ta không nhờ vào lời dạy của Phật Thích Ca và
nguyện lực của Phật A Di Ðà ta vẫn mãi sống nơi mê tình của vọng thức dù
ở thế giới này hay bất cứ nơi đâu. Do đó nên hiểu, thế giới thô phù ô
nhiễm ở đây là do vọng thức điên đảo biến hiện ra mà thôi. Thế thì cầu
sanh vào thế giới thanh tịnh là việc cụ thể, cho dù thế giới đó cũng là
do diệu tâm sinh ra; nhưng đây là một việc tối quan trọng, vì nơi đó ta
khám phá ra được diệu tâm của ta giống như diệu tâm của Phật Di Ðà không
khác.
Như không
tin, ta thử tìm diệu tâm A Di Ðà nơi đây có được không? Nếu có, thì
kính xin chúc mừng hành giả đó, vì hành giả đã thành Phật tại đây! Nhưng
xin thưa, vì hiện còn giáo Pháp Phật Thích Ca thì ta không thể nào thành
Phật tại đây. Vậy ta chỉ thành Bồ Tát mà thôi. Nhưng lại xin thưa, Bồ
Tát nơi đâu cũng phải cầu mong gần gũi đấng Ðại giác (Phật), để tiếp tục
học hỏi mà thành Phật như tất cả bằng chứng trong các kinh, thời kinh
nào cũng có vô số Bồ Tát tham dự. Vậy niệm Phật ở đây để thành Bồ Tát,
sao không cầu niệm Phật sanh về Cực Lạc cũng là Bồ Tát, nhưng gần đấng
Ðại Giác A Di Ðà có sướng hơn không!
Bây giờ
người tỉnh thức đã an tâm vững chải, ổn thỏa nghi vấn cõi lòng, nên bắt
đầu thiết lập hành trang cho việc Niệm Phật.
Có ba hành
trang mà người tỉnh thức phải mang theo, cho đến khi về nơi Liên cảnh.
Thứ nhứt là
Tín, thứ nhì là Nguyện và thứ ba là Hành
Hành
trang thứ nhứt
Tín là niềm
tin, tin vào một sự việc, sự kiện, vấn đề, là thật hay giả. Tín không đủ
tiềm lực mạnh mẽ, tất việc làm không thể thành tựu như ý.
Người tỉnh
thức đến đây, đã có đủ niềm tin. Không phải chỉ tin cõi Phật A Di Ðà là
thật, người tỉnh thức còn tin: vũ trụ có hằng hà sa số cõi Phật ở mười
phương đang hiện hữu và, đang diễn ra những diệu âm giải thoát, những
diệu cảnh huy hoàng, những chân thức tuyệt đối, những chân như vô ngại
và lìa khỏi ngôn ngữ diễn bày của chúng sanh.!
Ðiều cơ bản
niềm tin đó sẽ không thay đổi cho đến khi hành giả niệm Phật sanh về cõi
Phật, và chắc chắn khi sanh về đó, hành giả lại có niềm tin mãnh liệt
hơn nữa! Vì sao ! Vì hành giả sẽ phát tâm vân du cúng dường chư Phật ở
mười phương.
Bên cạnh
niềm tin mãnh liệt tuyệt đối như vậy, người tỉnh thức lại giựt mình khi
tin rằng vô số thế giới đang đau khổ cũng đã hiễn bày ra đó. Vì có thế
giới tịnh ắt có thế giới ô nhiễm; có thế giới vui như Cực Lạc, hẳn có
thế giới phiền hà đau khổ như sáu cõi luân hồi.
Ngay thế
giới Ta Bà này, kẻ tỉnh thức phải hốt hoảng, khi mục kích những loài thú
vật sống trong sự đe dọa đầy đọa của loài người, lại còn bị đe dọa với
thiên nhiên vũ trụ. Ðau khổ nầy ập lên đau khổ khác. Chúng chẳng thể nào
biết được, thế giới chúng đang ở, còn có thế giới loài người, là loài
thông minh, hạnh phúc hơn chúng gấp triệu lần; nói cả triệu lần hạnh
phúc, là ý nghĩa con người có cơ hội vươn lên những thế giới còn đẹp hơn
vô số lần cõi Ta Bà nầy.
Dù với cặp
mắt chúng, vẫn thấy loài sinh vật hai chân lạ lùng đang sai khiến mình,
nhưng cái thấy vô trí (ví con số thông minh hết sức hạn hẹp) của loài
súc sanh, chỉ biết giới hạn qua hiện tượng hình ảnh cử động mà thôi. Ôi
thật tội nghiệp!
Nhìn chung
lại, không một con vật nào mà không khổ trong cõi phiền trược nầy; dù là
con vật nuôi trong nhà được cưng chìu hay được tự do bay, lội, chạy,
nhảy giữa thiên nhiên. Nhưng có lẽ và chắc chắn, khổ đau nhất là chúng
không thể nào biết được Phật pháp!
Nếu duyên
lành nào, được chủ nuôi là người thực hành Phật pháp, rồi bố thí kinh
cho chúng nghe thì con vật này quả là đại phước. Chúng sẽ kết được duyên
đời sau; mặc dầu không hiểu lời kinh, nhưng do linh diệu, thần lực nhiệm
mầu của kinh sẽ giúp chúng ghi nhận được. Tuy nhiên số con vật được như
vậy, giống như một giọt nước nhiễu trên ngón tay so với nước đại dương.
Riêng con
người, cảnh khổ hiện ra cũng lắm đau buồn, khiếp hãi !
Nỗi đau khổ
về thân bệnh day dưa, khổ vì tật nguyền bất lực, khổ vì nghèo đói cơ
hàn, khổ vì địa vị thấp kém, khổ vì thất học dại khờ, khổ vì tình cảm
yêu thương, khổ vì tình thù dằn vặt, khổ vì ý nguyện bất thành và còn
rất nhiều nữa. Những đau khổ nầy thuộc cả hai, thể chất và tinh thần.
Ðây là cụ thể hiển hiện mà người tỉnh thức trực diện trải qua, chớ không
phải nghe ai kể lại
Như thế,
cảnh giới Ta Bà này đâu cần đức Phật Thích Ca buộc chúng ta phải tin là
khổ! Sự thật hiển nhiên này rõ ràng hiện chân ra đó! Tuy thế rõ biết
nguyên nhân và tận nguồn gốc khổ chỉ có Phật mới rõ, nên dạy cho ta.
Phật dạy rõ khổ phát xuất từ Tham, Sân Si, và cảnh giới ô nhiễm như vậy
cũng từ duyên khởi của ba độc này.
Con
người (chánh báo) thế nào hoàn cảnh (y báo) thế đó. Vì do một cộng
nghiệp vọng thức Tham, Sân, Si khổng lồ nên kết thành một thế giới to
lớn đủ chứa vô số những vọng tình ô nhiễm, rồi hình thành một thế giới
dục (dục giới), là thế giới Ta Bà chúng ta đây.
Có thể nói
bất cứ chúng sanh nào (trừ chúng sanh đã và đang chứng đạo giải thoát),
mang hình thù chi, hễ ngụ ở Ta Bà là vọng tình ô nhiễm. Nhưng hỏi tại
sao phải đủ loại hình chúng sanh?
Là vì
nghiệp thức điên đảo, vì phiền não vô minh nên tạo tác vô số NGHIỆP, để
quả báo hiện thành vô số hình tướng. Ðó là chân lý, là cảnh tượng sự
thật trước mắt, mà ta vừa là nạn nhân vừa là nhân chứng.
Thế thì sự
thật nơi đây, thế giới này ta đã tin trăm phần trăm lời Phật dạy, thì
cảnh giới Cực Lạc cũng do Phật nói ta lại há không tin!
Nếu Phật
không xuất hiện, cái khổ Ta Bà nầy ta phải mù mờ chịu đau khổ mãi, mà
chẳng bao giờ biết khổ là do đâu! Và dù biết khổ chăng nữa, ta chắc chắn
cho rằng chỉ có loài người khổ, chứ không biết còn vô số chúng sanh khác
còn khổ hơn ta - từ đó là nguyên nhân nghiệp sát chất chồng, để kết quả
không bao giờ thoát lên cảnh giới tươi sáng huy hoàng được.
Ngày nay
con người đang sống vào thời đại có thể nói hoàng kim của văn minh điện
tử, thì việc củng cố niềm tin thế giới Cực Lạc lại dễ dàng hơn! Ðây há
không phải đại duyên biết được pháp tu niệm Phật ở thời đại này!
Phải nói
rằng dù thời tượng pháp nhiều người niệm Phật vững vàng được vãng sanh,
nhưng niềm tin của họ chỉ đơn thuần tin Phật, mà khó giải thích Thế giới
Cực Lạc bằng kiến thức văn minh thời đó. Do thế chỉ lấy sự tu hành làm
chứng có thế giới Cực Lạc (tức là vãng sanh), riêng về phần lý giải khó
được người tin. Với hiện nay, vừa lấy sự niệm Phật vãng sanh làm chứng,
vừa lấy kiến thức xã hội con người ngày nay làm chứng.
Minh chứng
kiến thức ngày nay là ngành thiên văn học.
Ngày nay
nhìn lên bầu trời con người đã không thấy xa lạ như con người cách đây
một ngàn năm; ngày nay con người có thể phóng phi thuyền lơ lững ở ngoài
trái đất cả tháng trời để thám hiểm nhìn ngắm không gian vũ trụ; và ngày
nay dưới mắt các nhà khoa học thiên văn, họ xem mặt trăng cũng chẳng
khác gì một tỉnh lỵ ở không gian, có thể dụ lịch thường xuyên chẳng trở
ngại gì. Sự kiện được như vậy là do con người đã lên thăm mặt trăng từ
hơn ba thập niên qua ;
và so với kỷ thuật không gian ngày nay thì thời điểm đánh dấu vàng son
đó chỉ là một chuyến đò nhỏ vượt qua con sông thật ngắn.
Ngày xưa
con người cứ tưởng chỉ có thế giới này (trái đất) số một, còn lại tất cả
chỉ là những hộ tinh (hành tinh phụ quay quanh theo) quay chung quanh;
kể cả mặt trời cũng chẳng làm được gì!
Nhưng rồi
chẳng bao lâu các Thiên văn gia khám phá ra sự thật, thế giới chúng ta
chỉ là một trong nhiều thế giới giữa vũ trụ mênh mông nầy. Thiên văn gia
nói là nhiều chớ không nói vô số, vì có thể xấp xỉ đếm được, đó là đầu
thế kỷ 19 với viễn vọng kính (telescope) tương đối kỹ thuật cao.
Bây giờ thì
không còn đếm được nữa, khi viễn vọng kính hiện đại càng phóng xa bao
nhiêu, thế giới muôn hình hiện ra càng nhiều chừng nấy. Ấy vậy khoa học
vẫn nói là hàng tỉ; hàng tỉ cũng có thể mường tượng là trăm ngàn tỉ cũng
quá nhiều, tuy nhiên với Phật dạy, phải dùng đến "hằng hà sa số". Hằng
hà sa số là biểu tượng đến cát sông hằng (Hằng tên sông, hà nghĩa là
sông), vậy nhiều như cát sông Hằng, thế thì đếm làm sao được! Nên gọi
bất khả thuyết !
Ðó là lời
Phật dạy từ xưa (cách đây hơn 2600 năm), và thiên văn học ngày nay mới
biết, hay biết sớm nhất, cũng khoảng đầu thế kỷ 19 (đầu thế kỷ 19 mới
tạm đủ phương tiện nghiên cứu).
Ngành Thiên
văn cho biết, chỉ trong dãy ngân hà Milk Way thôi, đã có đến hàng trăm
tỉ ngôi sao mặt trời, và "mười tỉ hành tinh giống như hành tinh của
thái dương hệ ".
Trái đất chúng ta thuộc thái dương hệ nằm trong Ngân hà này. Nhưng Khoa
học lại cho biết, vũ trụ có vô số ngân hà với những dạng hình khác nhau
như: hình bánh xe, hình con bướm, hình nước xoáy, hình thai tạng, hình
đám mây, hình bông hoa, hình chim phượng, hình con cua v.v... và cứ mỗi
ngân hà (Galaxy) lại lớn nhỏ không đồng; có ngân hà đây lớn gấp trăm lần
ngân hà kia, và mỗi cái lớn nhỏ đều chứa ít nhất ngàn triệu hay trăm tỉ
ngôi sao .
Một điều
tất nhiên, các ngân hà, thiên hà lớn như vậy chúng phải cách nhau một
khoảng cách cũng khá xa!!
Nói đến
khoảng cách thật khó mường tượng nổi, bởi chúng ta chỉ quen đo lường
trên bề mặt hay bề cao của một vật trong giới hạn tương đối, đằng này là
không gian, lại vượt khỏi hành tinh mình đang sống! Tuy nhiên, văn minh
khoa học thiên văn đã tính được phần nào, và tất nhiên cũng có giới hạn.
Từ trái đất
chúng ta đến mặt trăng Khoa học tính được khoảng 384.400 cây số
(kilometre), đây thì quá gần rồi ! Từ mặt trời đến trái đất khoảng cách
tương đối là 93,000,000 dặm (mile) tương đương 150 triệu cây số, và sức
khoa học vẫn cho là gần. Nhưng từ Thái dương hệ nầy đến thái dương hệ
khác khoa học tính bằng quang niên (danh từ Ðơn vị thiên văn -
Astronomical Unit) tức theo ánh sáng đi một năm. Một quang niên
bằng 5.88 tỉ dặm.
Chẳng hạn
Thiên hà hình sông M81 cách xa trái đất 10 quang niên; đó là đại khái
thấy từ ngân hà nầy đến ngân hà kia là xa như vậy. Nhưng vũ trụ lại có
vô số ngân hà chưa biết được, vậy vũ trụ sẽ lớn chừng nào ?
Thế thì
điều ta tin, chỉ có trái đất chúng ta là có chúng sanh còn vô số hằng hà
sa thế giới khác không thể nghĩ bàn, thì sao !!
Ta sẽ như
đứa bé mẫu giáo cầm trên tay cuốn sách đại học !
Vậy kết
lại, những gì Phật dạy đã vượt xa khoa học; tuy nhiên, cũng nhờ khoa học
nhất là ngành
Thiên văn
đã chứng minh được một sự thật, có vô số thế giới trong vũ trụ mênh mông
- và thế giới Phật A Di Ðà cũng chẳng còn gì lạ, trong khi vũ trụ có
hằng xa số cõi Phật.
Thật không
thể tả được nỗi mừng khi Phật Thích Ca dạy niệm Phật nhất định sẽ sanh
về thế giới Cực Lạc.
Xác định
hiện hữu thế giới Cực Lạc chuẩn bị hành trang làm niềm tin tìm về, ta
mới có vài quan sát nhận định trên; nhưng để có một khái niệm về thế
giới thật nhỏ ta cũng cần nêu ra để thấy rằng với trí huệ của Phật,
không một thế giới nào ra ngoài huệ nhãn của Ngài. Ðiều này lại giúp ta
vững vàng thêm niềm tin Cực Lạc.
Ðúng như
vậy, nếu ta cho Phật chỉ nói những gì cao xa khó thấy, thì khi Phật nói
những gì gần gũi bên cạnh ta, và ngay cả trước mắt hay trong người chúng
ta, ta cũng chẳng thấy nốt!
Phật nói về
vi trùng, là những chúng sanh thật nhỏ, nhỏ đến nổi mắt thường không
thấy được, phải nhờ đến kính hiển vi (microscope).
Phật nói
thế nào! Phật dạy, hãy nên chú nguyện mỗi khi uống nước, phải ý thức mỗi
khi di động, tránh vô tình sát hại chúng sanh. Duyên cớ đó mà một lần
vài tháng trong mỗi năm, Ngài dạy đại chúng đệ tử nên lưu lại trú xứ,
giảm chế việc di chuyển khất thực, hoặc Phật sự bên ngoài vì thời tiết
côn trùng sinh nở. Ðó là truyền thống định kỳ an cư kiết hạ Phật chế ra.
Ly nước
sạch trong có thể uống được mà Phật còn thấy vô số vi trùng, thử hỏi sau
trận mưa dầm, đất cát sền sệch ứ đọng móc meo thì đừng nói chi vi trùng,
vô số sinh vật lớn hơn vi trùng cũng đã tràn ngập; vậy dưới huệ nhãn từ
bi của Ngài đành nào dẫm đạp, khi chứng kiến quá rõ ràng vô số chúng
sinh đang đau khổ !
Ðó là thế
giới hữu tình cực nhỏ. Ðến thế giới vô tình, thuộc vật chất cực nhỏ, lại
càng cho thấy huệ nhãn của Phật không chỗ nào giấu che được.
Trong giáo
lý giải thoát, chúng ta hẳn biết mọi vật đều do nhân duyên sinh. Nói
về vật chất, tất cả do vô số nguyên tử kết thành. Tùy vào duyên ra sao
vật chất đó sẽ tồn tại tương xứng. Nhìn cái bát bằng sành, cái ly bằng
thủy tinh sẽ biết tuổi thọ quá ít oi so với cái chuông đồng hay thanh
sắt. Tuy nhiên, những nguyên tử cấu tạo nên những vật nào, đều có thời
gian hữu hạn của nó, thành ra sau thời gian ngắn hoặc dài, chúng cũng
phải ra đi để kết vào duyên khác, tức đồng phải rỉ, và sắt cũng sét
tiêu.
Những
nguyên tử nhỏ như vậy, khoa học phải nhờ phương tiện kỹ thuật hiện đại
phân tích chứng minh và điều đó được thấy qua năng dụng của nó; lại khi
tiến đến cực nhỏ, nhỏ hơn nguyên tử nhiều nữa, bây giờ nó có tên khác;
nhưng dù đặt tên chi, cũng không làm khoa học ngỡ ngàng cho bằng, mức độ
càng quá nhỏ đó, không biết chúng có thật hay không ! Vì độ nhỏ của
chúng đến mức khó thể quan sát tin được!
Thế thì tại
ta không thấy được, chớ nào đâu không có!
Vật nhỏ thì
thuật ngữ của kinh đã nhắc qua gọi là vi trần, cực vi trần... Và nhỏ đến
nổi, mà ta há chẳng nghe "Sắc bất dị không",(sắc chẳng khác không) tức
hình sắc kia nào đâu phải thật, chúng chỉ do vô số cực vi nguyên tử kết
thành, và tự mỗi nguyên tử đó cũng phải bị hư hoại, thế cái Có như vậy
đâu khác gì Không (không thật có)!
Tóm lại, đó
là những chướng ngại của những người chưa chứng đạo như chúng ta, nên
cái thấy từ xa đến gần đều chẳng hoàn bị, và sẽ không bao giờ hoàn bị,
trừ khi ta được huệ nhãn như Phật.
Niềm tin về
thế giới Nhiễm, Tịnh đã có căn cứ, đến đây niềm tin có được sanh về thế
giới Tịnh (Cực Lạc) hay không!
Qua những
điều dẫn chứng, sự thấy biết của đấng giác ngộ, so với hiểu biết con
người phàm phu; chúng ta thấy rằng, xưa hay nay nếu chưa chứng đạo vẫn
là cái thấy phiến diện, cái biết nhị biên
,
do thế cái thấy của người chưa chứng đạo thật là mù mờ, hạn hẹp.
Tuy nhiên
con người ngày nay, dù không duyên thấy đấng giác ngộ, hay gần chư Thánh
Tăng, nhưng lòng tin Phật pháp và sự kiểm chứng theo nền văn minh tiến
bộ của loài người, khiến ta không những thoái tâm bồ đề mà còn xác định
lập trường giải thoát của giáo lý Phật đà vững chãi hơn.
Kết
lại mà nói, thế giới Tịnh và thế giới ô nhiễm thật sự đã hiện hữu.
Phật và
hàng Bồ Tát là nhân chứng thế giới Thanh tịnh, và chúng ta những người
còn ô nhiễm phiền não là chứng nhân của thế giới uế tịnh này.
Nhưng Chư
Phật, Bồ Tát là quả của nhân tu chứng từ chúng sanh; thế thì thế giới
Thanh Tịnh, tức thế giới Phật chỉ là thế giới tương lai cho chúng sanh
sinh về mà thôi. Vậy còn gì phải thắc mắc có được sanh về hay không!
Huống chi
chính kim ngôn của đấng Ðại Giác xác nhận cho ta điều này. Quả là Phật
đại từ đại bi, việc hiển nhiên như thế mà Ngài vẫn thương chúng sanh mà
nhắc nhở.
Hành
trang thứ hai
Nguyện là
khắc ghi vào tâm một tư duy, một ý tưởng, một hoài bão, một ước ao...để
rồi tha thiết chân thành, cảm kích trọn đời sự việc đeo đuổi đó.
Cuộc đời
thật rối ren, phức tạp, con người phải vất vả đương đầu vượt qua, tuy
nhiên mỗi người trong mỗi hoàn cảnh đều thao thức ưu tư nuôi dưỡng ý
niệm lẽ sống cho mình; chính nhờ như thế tạo nên thế giới biệt lập cho
riêng mình (thế giới riêng) mà ung đúc nuôi dưỡng lẽ sống năng động hơn.
Từ đây, có
một số người thao thức chung một ý tưởng, một tư duy, hóa thành dòng
sống nhịp nhàng đồng điệu làm đẹp cho đời. Ðó là sự hình thành các tổ
chức, hội đoàn, đoàn thể chuyên môn về một chức năng phục vụ đời sống,
cho đến vấn đề tinh tế như triết lý, siêu hình qua hình thức gọi là tôn
giáo đạo giáo vậy.
Lẽ đó khách
quan mà nhìn, tác dụng của ý tưởng, tư duy có một sức mạnh ảnh hưởng đến
nhân sinh vũ trụ. Và tất nhiên nhân sinh và vũ trụ quan của một số người
nào đó sẽ trở thành tốt hay xấu đều do nhận thức hiểu biết riêng của một
số người.
Hành giả tu
niệm pháp môn nào, tất phải tha thiết pháp môn đó; tha thiết bằng lời
hay hành động, tùy theo sở năng của mình. Sự tha thiết bằng lời, khiến
hành giả ca tụng tán dương, nhưng ca tụng tán dương là để phô diễn điều
ưa thích hướng đến bên ngoài, và điều mà hành giả phải ca tụng tự trong
sâu thẩm của tâm hồn đó là NGUYỆN vậy.
Hẳn nhiên
có phô diễn được bên ngoài cũng do bên trong, nhưng ở đây chưa thể gọi
là nguyện. Vì nguyện thường tự đeo đuổi mãi trong lòng, cho dù sự nguyện
đó có được phô diễn hay không phô diễn, tâm nguyện vẫn không chấm dứt,
không ngừng nghỉ, thành ra nó phải là sâu nhiệm.
Nguyện chân
thành tha thiết, là hòa nhịp vào hết cả thân tâm, không phải bị một
chướng ngại gì làm rung chuyển. Có nghĩa, thân trong tình huống hoàn
cảnh nào vẫn luôn giữ lời nguyện, không làm sai trái phản lại.
Tất nhiên
thân giữ được lời nguyện là do tâm. Nhưng nên cẫn thận vì cũng dễ thấy;
nhiều khi Tâm vẫn giữ nguyện mà thân chẳng làm! Do vậy công phu giảm sút
đạo lực yếu dần.
Tại sao Tâm
có nguyện mà thân chẳng thể hiện! Vì không tha thiết. Không tha thiết
nên chỉ có nguyện bằng âm thanh nơi khí quản, nên không khác âm thanh
đối thoại hằng ngày! Dù vẫn có tác dụng tạo ra công đức, nhưng không đủ
lực thu kết lại con đường đi tới mau hơn. Do đó người ta thường châm
biếm là nói suông chẳng làm; ở đây là nguyện rỗng chẳng có cảm ứng!
Nguyện có
tha thiết chân thành, hành động sẽ dần dần biến đổi từ thô đến tế, từ
ngoài vào trong, và từ tác động nhẹ nhàng nhưng nghiệp dụng thật vững
bền kiên cố.
Niệm Phật
hòa vào được sự gia trì của Phật lực là do Nguyện tha thiết này. Nhưng
Phật lực là gì, là Niệm Phật trong nguyện lực vậy. Niệm Phật trong
nguyện lực tha thiết là tự tánh Di Ðà hiển lộ, là phát được tánh chân
thiện, tánh giác ngộ, tánh từ bi tỏa ra chiếu đến khắp nơi.
Những tánh
chân thiện như vậy là tánh huệ là tánh Chân Như, tánh Niết Bàn hay nói
thẳng đó là tánh Phật.
Tánh huệ đó
tạo nên dòng sáng, hòa vào từ quang (dòng sáng hào quang) của đức Phật
Di Ðà, và ảnh Ngài xuất hiện. Hành giả sẽ thấy Ngài qua hai ảnh lực một
là tự tánh của hành giả chiêu cảm ra, vì tánh huệ của hành giả ứng hợp
với tánh Phật; hai là kim tướng của đức Di Ðà tỏa hiện từ những hào
quang vô lượng phóng khắp mười phương.
Ðến đây đã
tạm đầy đủ, và hẳn nhiên hành giả đã biết mình phải nguyện thế nào,
nguyện ra sao.
Hành giả
niệm Phật, duy nhất chỉ nguyện sanh về Cực Lạc, điều này không thể sai
khác.
Lại nguyện
khi chứng đạo giải thoát nơi Cực Lạc, liền quay lại cõi trược phiền để
độ chúng sanh. Phải cần nguyện độ chúng sanh tâm hành giả mới thuần với
tâm Phật, và mới mong được sanh Cực Lạc chóng được thành chánh giác.
Hành giả
lại nhớ nguyện, là kể từ đây cho đến ngày rời bỏ xác thân ngũ uẩn này,
mọi công đức gì, hành giả chỉ cầu hồi hướng sanh về Cực Lạc mà thôi.
Hành giả
cũng nguyện cho tất cả chúng sanh đủ nhân duyên gặp được pháp môn Niệm
Phật để tương lai sanh về Cực Lạc.
Ðó là một
vài điểm phát khởi Nguyện lực cầu sanh Cực Lạc trong hành trang thứ hai
vậy.
Hành
trang thứ ba
Hành trang
cuối cùng này, là những gì thành tựu của hai hành trang trên, giống như
vật dụng, lương thực, đã đủ đầy trong ba lô, người du mục chỉ còn mang
lên vai tiến bước.
Kẻ du mục
không thể ra đi khi trên ba lô chẳng có món gì; lại không thể đến nơi
nếu ba lô chưa đủ đầy phương tiện cần thiết. Như thế người du mục khôn
ngoan, không những rõ biết trong ba lô chứa đựng món gì, mà còn biết rõ
hành trang như thế sẽ mất bao ngày tới đích. Có như vậy sự lên đường mới
được phấn khởi và ngày tới điểm sẽ huy hoàng.
Tuy nhiên
hành trang thứ ba này xem ra vô cùng quan trọng, vì dù hai hành trang
đầu (tín, nguyện) có đầy đủ, hay dư thừa chăng nữa cũng thành vô dụng.
nếu đôi chân của hành giả hãy còn nằm yên một chỗ.
Hành giả
phải đứng lên bước tới, hãy vững mạnh mà đi. Nếu hành giả không thể đi
được! Vì sao? Vì hành giả chưa đủ niềm tin, chưa có lập nguyện. Chỉ có
vậy thôi, ngoài ra không gì cả. Nhưng nếu hành giả đã tin rồi, đã có lập
nguyện, sao lại không đi !
Ðó là phần
còn lại, quyết định cho người niệm Phật đi về thế giới Cực Lạc vững
vàng.
Có lẽ,
chúng ta đã biết niệm Phật không phải chỉ mới trong đời nay, mà đã từng
trong quá khứ, nhưng vì những bước niệm Phật của ta ngập ngừng do dự,
nên đã chẳng đến nơi, thành ra đời này sanh ra còn duyên niệm Phật,
nhưng lại bước đi quá khập khễnh.
Cũng không
ít người thật có tin, thật có nguyện, và còn nguyện tha thiết nữa kìa,
tuy thế vẫn hãy uể oải bước đi! Nói như thế, không phải mâu thuẩn với
hành trang thứ hai (nguyện), mà nói như thế để chúng ta biết động lực vô
hình của vô minh, sinh từ ái dục quá mạnh khiến người niệm Phật dù đủ
hành trang trên vai mà vẫn ngoái đầu tiếc thương, tiếc rẽ cuộc đời!
Tiếc thương
gì? Luyến lưu chi?
Ta dư hiểu
điều này, đó là bao việc quay bủa chung quanh đời sống. Ðó là năm món
ham muốn: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ (tài, sắc,
danh, thực, thùy) - chúng đã trì trệ bước chân của ta từ vô thỉ đến nay.
Công phu
niệm Phật chỉ được nhất tâm tinh tấn, là khi ta trực nhận sự giả dối vô
thường của chúng, tức ý thức, xem chúng là việc chẳng cần phải quan tâm;
lại xem chúng là chân lý vô thường trong dòng pháp giải thoát.
Hiểu rõ năm
món ham muốn như vậy, người niệm Phật mới đi vào sâu thẩm tự tâm, sáng
suốt phát ra danh hiệu Phật. Ðây chính là phương pháp nhận ra vọng tưởng
và xem nhẹ vọng tưởng. Xin thưa rằng tại sao chúng ta lại xem nhẹ vọng
tưởng mà không nói là diệt vọng tưởng!
Thật tình
để nói, diệt vọng tưởng là việc vô cùng khó khăn, điều này chắc chắn ai
cũng đồng ý; với căn cơ của người thời nay sống trong hoàn cảnh không
Phật, xa Thánh Tăng, cái khó chỉ có tăng không giảm!. Trong khi biết
rằng tâm chúng sanh lại vô thường, làm sao diệt hết vọng tưởng! Không
thể diệt được trong một ngày, mà chắc chắn một giờ cũng không được.
Nhưng vẫn
có người diệt được; sự diệt được này phải đòi hỏi hành giả hài hòa giữa
tâm cảnh bên trong và hoàn cảnh bên ngoài. Trước hết hành giả phải điều
thân, sống trong giới hạnh oai nghi, rồi tư duy thiền định, vậy mới sinh
ra được định tâm thanh tịnh; tuy nhiên thuận duyên để làm được thế, hành
giả phải sống trong cảnh yên tịnh, an bình tránh nơi khích động, huyên
náo. Và khi thành tựu điều thân và tâm, bấy giờ hoàn cảnh mới hài hòa
tâm cảnh hành giả; đó là lúc hành giả có thể rời nơi yên mà đến cảnh ồn
cũng vẫn an tâm.
Nơi đây, ta
là người công phu niệm Phật, và niệm Phật trong mọi hoàn cảnh, nên chẳng
giống người quán tâm thiền định; cho nên chẳng lo vọng tưởng diệt, hay
không diệt, mà chỉ tập trung vào danh hiệu Phật, thế mới nói là xem nhẹ
vọng tưởng đi.
Suy ra nữa,
nếu ta không xem nhẹ chúng, lại không diệt được chúng, ta không thể niệm
Phật nhất tâm. Thế thì không diệt được vọng tưởng lại quá quan tâm vọng
tưởng, chỉ làm phân tâm niệm Phật mà thôi.
Ðến đây
thấy rằng, bước đầu học Phật, buộc phải hiểu cơ bản giáo lý, vô thường,
vô ngã, nhân quả duyên sinh, để có thể là những tác duyên hòa thuận giúp
người vượt qua những chặng đường cám dỗ trong đời sống.
Niệm Phật
trong mọi hoàn cảnh là tạo mãi chủng tử Phật vào A Lại Da thức (thức thứ
tám theo Duy thức học), là nơi sâu thẳm của tâm, là nơi tàng chứa tích
tụ muôn duyên sự. Có thực hành như vậy ta mới bớt đi sự khuyến dụ khích
động hấp dẫn của dòng đời; mà chúng là nguyên nhân chính làm đầy vọng
tưởng trong tâm.
Ta không
quan tâm đến năm thứ dục lạc kia, nghĩa là ta sống mà không hệ lụy quá
đáng với nó, để thành thái quá sa lầy; ta vẫn sống với nó nhưng trong dè
dặt răn đe, và hưởng ứng nó bằng tâm người tỉnh thức - biết chuyển hóa
thế nào là phương tiện tùy duyên để sanh về cõi Thanh tịnh là cứu cánh.
Hành trang
người niệm Phật đã đầy đủ; hành trang thứ ba cũng đang trên đường về
đích. Người tỉnh thức không còn chút nào lo lắng, mĩm cười mời gọi mọi
người đi theo.
Những nỗi khổ căn bản nhất của con người, được nhà Phật dạy là Bát
khổ: Sanh, Lão, Bệnh, Tử, Ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất
đắc khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ.
Ngày
20 tháng 7 năm 1969, Phi hành gia Hoa Kỳ lần đần tiên đặt chân lên
mặt trăng, đánh dấu kỳ tích thành công nền văn minh nhân loại (Phi
thuyền lịch sử đó mang tên Apollo 11).
(The) Milky Way: Giải Ngân Hà. Là một tập hợp của những Hành tinh
và Thiên Hà, gồm có 400 tỉ Sao Mặt trời (Star-like planets). Và 10
tỉ Hành tinh giống như những Hành tinh của Thái Dương Hệ. Chiều dài
bằng 100,000 quang niên (một quang niên bằng 5.898 tỉ dặm)...
Ðịnh nghĩa trên được trích từ sách "Ðạo Phật Siêu Khoa Học", của
Minh Giác Nguyễn Học Tài, trang 366.
nguyên tử vẫn còn lớn hơn ba thành phần chính của nó là: Dương điện
tử (Proton), Trung hòa tử (Neutron), và Âm điện tử (Electron).
Cũng trong sách "Ðạo Phật siêu Khoa học" Tác giả có viết: "Gần
đây, Vật lý gia Murray Gell-Mann cho rằng dưới Proton và Neutron còn
có những hạt vi phân Tiềm Nguyên tử vi tế hơn mà ông đặt tên là
Quark... "trang 18 - 19.
Nhị biên: cái thấy đối đãi của Có, Không - Tịnh, Nhiễm - Thánh,
Phàm - Ðắc, Ðọa v.v...
---o0o---
Mục Lục
Chương I
|
Chương II
|
Chương III
Chương IV
|
Chương V
|
Chương VI
|
Chương VII
Chương
VIII
|
Chương IX
|
Chương X